Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 31

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN MÁC – LÊNIN

Danh sách câu hỏi:

1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức


2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
3. Nguyên lý về sự phát triển
4. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
5. Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại
6. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
7. Quy luật phủ định của phủ định
8.
9. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
10. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
11. Biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
12. Vấn đề con người trong triết học Mác-Lenin

Câu 1: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp
luận.

Mối quan hệ vật chất và ý thức là nội dung cốt lõi của chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Đầu tiên chúng ta sẽ tìm hiểu các khái niệm về vật chất và ý thức sau đó
đi đến phân tích để làm rõ mối quan hệ biện chứng này.

Khái niệm:

Khái niệm vật chất: Theo Lênin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Vật
chất gồm các thuộc tính cơ bản như: Thứ nhất khái niệm vật chất theo tư cách là một
phạm trù triết học khác với khái niệm vật chất sử dụng trong các ngành khoa học
khác. Thứ hai, vật chất là thực tại khách quan, tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức, độc
lập và không phụ thuộc vào ý thức của con người dù con người có nhận thức được nó
hay không, đây là cơ sở để chống lại chủ nghĩa duy tâm. Thứ ba, vật chất được thể
hiện ở những dạng cụ thể và gây nên cảm giác ở con người khi tác động đến con
người. Phương thức tồn tại của vật chất là vận động, mỗi dạng vật chất đều không
ngừng vận động và thông qua vận động mới thể hiện sự tồn tại của mình. Không thể
có vật chất không vận động và không có vận động ở ngoài vật chất. Đồng thời, vật
chất tồn tại trong không gian và thời gian. Không gian và thời gian là hình thức tồn tại
của vật chất, là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể. là không gian và
thời gian. Mọi dạng vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính nhất
định và tồn tại trong một mối quan hệ nhất định với những dạng vật chất khác.
Ví dụ: Cái bàn, cái ghế, quần áo, không khí, cầu vồng đều thuộc về thế giới vật chất
bởi chúng đem lại cho con người cảm giác, nhận thức, chúng không phụ thuộc vào
cảm giác, chúng vận động và tồn tại trong cả không gian lẫn thời gian.

Khái niệm ý thức: Ý thức là sản phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch
sử - xã hội, là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan của bộ óc con
người. Nguồn gốc của ý thức bao gồm nguồn gốc xã hội và nguồn gốc tự nhiên. Về
nguồn gốc tự nhiên, ý thức được tạo nên nhờ bộ óc con người và nhờ mối quan hệ
giữa con người với thế giới khách quan. Bên cạnh đó, nguồn gốc xã hội thì bao gồm
lao động và ngôn ngữ. Lao động, thông qua các giác quan tác động đến bộ óc của con
người và hình thành nên ý thức, ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa thông tin
mang nội dung ý thức, nhờ ngôn ngữ mà ý thức được thể hiện. Về bản chất của ý
thức: Ý thức có tính năng động và sáng tạo, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan, ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Về kết cấu ý
thức gồm tri thức, tình cảm và ý chí.

Ví dụ: Trong tình yêu, tùy vào những đối tượng khác nhau mà có những biểu hiện,
cảm xúc, suy nghĩ khác nhau vào những giai đoạn, trường hợp khác nhau – điều đó
thể hiện tính năng động, sáng tạo của ý thức.

Tóm lại, chúng ta không thể xem xét hai phạm trù này tách rời, cứng nhắc, mà phải
đặt vật chất và ý thức vào mối quan hệ biện chứng.

Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:

     Triết học Mác – Lênin khẳng định vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng,
trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất. Vật
chất là cái có trước, vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức.

Vật chất là tiền đề, là nguồn gốc của ý thức. Ý thức gắn liền với sự xuất hiện của con
người cách đây hàng triệu năm, mà con người là kết quả của một quá trình phát triển,
tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới tự nhiên, thế giới vật chất. Con người do giới tự
nhiên, vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thức - một thuộc tính bộ phận của con
người - cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Ý thức là sản phẩm của một dạng vật
chất có tổ chức cao nhất, đó là bộ óc con người – cơ quan phản ánh thế giới xung
quanh, cùng với sự tác động của thế giới vật chất vào bộ óc con người tạo thành
nguồn gốc tự nhiên. Cùng với nguồn gốc tự nhiên thì nguồn gốc xã hội là lao động và
ngôn ngữ cũng quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức.

Ví dụ: Ở các vùng sâu vùng xa, điều kiện kinh tế các gia đình còn khó khăn, mạng
Internet ít được sử dụng, vì thế mà khả năng cập nhật tin tức mới cũng như trình độ
phát triển của người dân ở đây còn hạn chế. Chúng ta có thể thấy được điều kiện vật
chất – kinh tế quyết định đến ý thức – khả năng cập nhật tin tức mới, trình độ phát
triển của người dân.

Vật chất quyết định bản chất, nội dung của ý thức. Ý thức dưới bất kì hình thức
nào cũng đều phản ánh hiện thực khách quan và bộ óc con người một cách năng động,
sáng tạo. Nói cách khác, có thế giới hiện thực vận động, phát triển theo những quy
luật khách quan của nó, được phản ánh vào ý thức thì mới có nội dung của ý thức.

Bên cạnh đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét thế giới vật chất là thế giới
của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải
biến thế giới của con người - là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức, trong đó ý thức
của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong
phản ánh – 2 thuộc tính không thể tách rời trong bản chất của ý thức.

Ví dụ: Khi viết văn, học sinh sẽ dựa vào đề cho sẵn để tưởng tượng và viết ra những
bài văn phong phú hơn, sáng tạo hơn. Vật chất - ở đây là yêu cầu bài văn vẫn được
giữ nguyên, tuy nhiên thông qua ý thức – tức là óc sáng tạo của con người sẽ khiến
yêu cầu đó được phản ánh qua các con chữ một cách năng động, sáng tạo.

Vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức. Điều kiện sinh hoạt vật
chất thay đổi, ý thức xã hội thay đổi. Đời sống vật chất thay đổi thì sớm muộn đời
sống tinh thần cũng thay đổi theo. Con người - một sinh vật có tính xã hội ngày càng
phát triển cả thể chất và tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức - một hình thức phản ánh của óc
người cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh của nó. Đời sống xã hội
ngày càng văn minh và khoa học ngày càng phát triển đã chứng minh điều đó.

Ví dụ: Trong xã hội nguyên thủy, con người sống theo bầy đàn, chủ yếu dựa vào săn
bắt, hái lượm nên đời sống tinh thần của họ cũng đơn giản. Khi xã hội xuất hiện chế
độ tư hữu, ý thức chính trị, pháp quyền cũng dần thay thế cho ý thức quần cư, cộng
đồng thời nguyên thuỷ, đời sống con người không còn đơn giản như trước mà trở nên
phong phú hơn, con người nhận thức được các quyền lợi và nghĩa vụ của mình.

Trong mối quan hệ với vật , ý thức do vật chất sinh ra và quy định nhưng lại có
tính độc lập tương đối và tác động lại vật chất. thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Nhờ có ý thức con người nhận thức được quy luật vận động, phát triển của thế
giới khách quan. Mọi hoạt động của con người đều bị ý thức chỉ đạo, ý thức trang bị
cho vật chất các tri thức về thực tại khách quan để xác định và xây dựng kế hoạch,
phương pháp phù hợp. Hơn nữa, sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản
ánh tinh thần, phản ánh sáng tạo và chủ động chứ không thụ động, máy móc, nguyên
si thế giới vật chất, vì vậy nó có tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan,con người đề ra
mục tiêu,phương hướng,xác định phương pháp,dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy. Ý
thức tác động đến vật chất theo hai hướng chủ yếu: tích cực và tiêu cực. Nếu con
người có nhận thức đúng đắn, vận dụng tri thức khoa học, tình cảm, ý chí phù hợp với
quy luật tác động vào thế giới vật chất, làm biến đổi nó phục vụ nhu cầu con người thì
ý thức trở thành động lực phát triển của vật chất. Ngược lại nếu con người có nhận
thức, ý chí, tình cảm sai lệch, không phù hợp quy luật khách quan thì ý thức có thể là
lực cản phá vỡ hoặc kìm hãm sự phát triển tự nhiên và xã hội (vấn đề môi trường,..).
Tuy vậy, sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với một mức độ nhất định
chứ nó không thể sinh ra hoặc tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất, dù ở mức
độ nào nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh thế giới vật chất.

Ví dụ: Trong đời sống xã hội, mối quan hệ giữa vật chất và ý là quan hệ giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, đồng thời ý
thức xã hội có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội. Hay trong
phong trào cách mạng giai đoạn 1936 -1939, căn cứ vào tình hình trên thế giới, mặt
trận Nhân dân Pháp lên cầm quyền đã thi hành một số chính sách tiến bộ cho thuộc
địa. Trong thời điểm đó chủ nghĩa phát xít lộng hành, chính phủ Pháp lại đang nắm
quyền và nới lỏng một số quyền cho các nước thuộc địa nên việc chống thực dân được
tạm gác lại 1 bên, lúc này đời sống kinh tế của nhân dân vô cùng cực khổ nên Đảng ta
chú trọng đặt nhiệm vụ dân chủ, cơm áo, hoà bình trước nhiệm vụ dân tộc. Vì thế,
Đảng CS Đông Dương đã chuyển mục tiêu đấu tranh từ “Chống đế quốc đòi độc lập
dân tộc, chống phong kiến đòi ruộng đất dân cày” sang “Đòi tự do, dân sinh, dân chủ,
cơm áo và hoà bình” để phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Ở đây, ý thức
chính là việc nhận thức được tình hình thực tại, tác động đến vật chất ở đây là việc chuyển
mục tiêu từ chống thực dân sang đòi quyền lợi cho nhân dân, giúp nhân dân có cuộc sống
tốt đẹp hơn.

   Ý nghĩa của phương pháp luận:

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khằng định, vật chất là nguồn gốc và là cái quyết
định đối với ý thức, cho nên để nhận thức cái đúng đắn sự vật, hiện tượng, trước hết
phải xem xét nguyên nhân vật chất, tồn tại xã hội để giải quyết tận gốc vấn đề chứ
không phải tìm nguồn gốc, nguyên nhân từ những nguyên nhân tinh thần nào.“Tính
khách quan của sự xem xét” chính là ở chỗ đó. Con người phải tôn trọng tính khách
quan, xuất phát từ thực tế khách quan đồng thời phát huy tính năng động, chủ quan
của mình. Mặt khác, ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất,
cho nên trong nhận thức phải có tính toàn diện, phải xem xét đến vai trò của nhân tố
tinh thần. Trong hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ những điều kiện khách quan và
giải quyết những nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng sự thật. Đồng thời
cũng phải nâng cao nhận thức, sử dụng và phát huy vai trò năng động của các nhân tố
tinh thần, tạo thành sức mạnh tổng hợp giúp cho hoạt động của con người đạt năng
suất. Không chỉ thế phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức đồng thời khắc
phục bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, chờ đợi, ỷ lại hay trốn tránh vấn
đề, hoặc chủ quan, duy ý chí. 
Câu 2: Phân tích nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật. Ý
nghĩa phương pháp luận

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong những nguyên lý quan trọng
của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nguyên lý thể hiện nội dung các cơ bản như: các
sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy luôn có mối liên hệ với
nhau, không tồn tại riêng lẻ như quan điểm của chủ nghĩa siêu hình.

Khái niệm mối liên hệ:

Mối liên hệ là phạm trù triết học chỉ sự quy định, tác động, ảnh hưởng và chuyển hóa lẫn
nhau giữa các mặt bên trong sự vật và giữa các sự vật với nhau trong thế giới. Trong phép
biện chứng duy vật, mối liên hệ phổ biến dùng để khái quát sự quy định, tác động qua lại,
chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, hiện
tượng trong thế giới.

Tính chất mối liên hệ: Mối liên hệ phố biến có 3 tính chất: tính khách quan, tính phổ
biến và tính đa dạng phong phú.

Tính khách quan: Sự quy định, tác động, chuyển hóa lẫn nhau là cái vốn có sự vật, không
phụ thuộc vào ý chí của con người, con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối
liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.

Ví dụ: Con người và động vật luôn hô hấp bằng cách hít vào khí O2 và thở ra khí CO2,
đó là quy luật bất biến, hiển nhiên, là quy luật vốn có từ xa xưa đến nay, không phụ thuộc
vào bất kì điều gì, và con người dựa vào quy luật đó để thực hiện hoạt động hô hấp, hay
để nghiên cứu về hoạt động sống của con người.

Tính phổ biến: mối liên hệ có ở mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi quá trình, mọi lĩnh vực
(tự nhiên, xã hội,….).

Ví dụ: Khi giải một bài tập vật lí, thỉnh thoảng sẽ có những dạng bài tập áp dụng công
thức từ toán học (tính góc, vector….). Ta có thể thấy vật lí và toán thuộc 2 phạm trù khác
nhau nhưng vẫn có tính liên hệ với nhau, được vận dụng một cách linh hoạt, tương tác,
bổ trợ lẫn nhau, đây là mối liên hệ trong cùng một lĩnh vực (khoa học tự nhiên). Hoặc khi
trình bày một bài toán theo hình thức tự luận, chúng ta cần phải áp dụng kiến thức văn
học để câu từ được sử dụng sao cho hợp lí, dễ hiểu, rõ ràng, đây là mối liên hệ giữa 2 lĩnh
vực khác nhau (khoa học tự nhiên với khoa học xã hội).

Tính đa dạng, phong phú: Mỗi sự vật, hiện tượng đều có nhiều mối liên hệ khác nhau
(bên trong và bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp, cơ bản và không cơ bản...) chúng giữ vị
trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật đó; đồng thời, mỗi mối liên
hệ đó lại có những biểu hiện phong phú khác nhau trong những điều kiện cụ thể khác
nhau...

Ví dụ: Ở con người và động vật, hô hấp là quá trình hấp thụ O2 và thải ra CO2 nhưng ở
thực vật thì ngược lại, hô hấp ở thực vật là hấp thụ CO2 và thải ra O2. Cũng đều là hô
hấp nhưng tùy thuộc vào đối tượng khác nhau nên biểu hiện khác nhau.

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: Không có sự vật, hiện tượng, quá trình nào tồn tại
biệt lập, tách rời khỏi sự vật, hiện tượng, quá trình khác. Bất kỳ sự vật nào cũng tồn tại
trong một hệ thống với những mối liên hệ tương tác với nhau, góp phần quy định sự tồn
tại và phát triển của nhau.

Ví dụ: Khi trồng lúa, để tăng năng suất và chất lượng của lúa thì con người sẽ bón phân
cho chúng. Nhờ phân bón mà cây lúa phát triển tốt, mùa vụ bội thu. Ngược lại, nếu không
bón phân cho lúa, thành phẩm thu được sẽ không chất lượng bằng. Bên cạnh phân bón,
chất lượng của lúa còn phụ thuộc vào đất đai, khí hậu, lượng nước hấp thụ,… Ta thấy
được lúa, đất đai, khí hậu, lượng nước, phân bón có mối liên hệ tương tác với nhau,
những yếu tố đất đai, khí hậu, ,lượng nước, phân bón góp phần tạo nên sự tồn tại và phát
triển của lúa, và cũng nhờ sự tồn tại đó của lúa mà những yếu tố kia được phát huy công
dụng của chúng khi con người áp dụng vào trồng trọt, ở đây cụ thể là lúa. Các yếu tố
không tồn tại độc lập, tách biệt mà cùng nằm trong một hệ thống, liên hệ tương tác lẫn
nhau, góp phần quy định sự tồn tại và phát triển của nhau.

Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:

Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, rút ra nguyên tắc
toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc này yêu cầu xem
xét sự vật, hiện tượng trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu
tố, các thuộc tính cùng các mối liên hệ của chúng, trong mối liên hệ giữa sự vật, hiện
tượng này với sự vật, hiện tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả các mặt của
các mối liên hệ trung gian, gián tiếp, trong không gian, thời gian nhất định, nghĩa là phải
nghiên cứu quá trình vận động của sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và phán
đoán cả tương lai của nó. Nguyên tắc toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện chỉ thấy
mặt này mà không thấy các mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn
lan, dàn đều, không thấy được mặt bản chất của sự vật, hiện tượng rơi vào thuật nguỵ
biện và chủ nghĩa chiết trung.
Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại, vận động, phát triển trong một không
gian – thời gian nhất định gọi là mối liên hệ lịch sử cụ thể. Chính vì vậy, cùng với quan
điểm toàn diện chúng ta phải quán triệt sâu sắc quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét sự
vật hiện tượng.

Quan điểm lịch sử cụ thể yêu cầu phải chú ý đúng mức đến hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà
trong đó sự vật sinh ra, vận động, biến đổi và phát triển. Mỗi luận điểm chân lý có thể trở
thành sai lầm nếu chúng ta đẩy nó ra ngoài giới hạn và bối cảnh tồn tại của nó.

Ví dụ: Trong Cách mạng tháng 8, vào năm 1945 Nhật hất cẳng Pháp để lên nắm toàn
quyền ở Đông Dương, nhưng không lâu sau đội quân của Nhật đã bị Hồng quân Liên Xô
đánh bại, Nhật hoàng cũng chấp nhận đầu hàng đầu minh vô điều kiện. Dựa vào tình hình
trên thế giới mà Đảng ta đã phát động từ “Khởi nghĩa từng phần” tiến lên “Tổng khởi
nghĩa”. Chủ tịch HCM đã biết tận dụng thời cơ ngàn năm có một, đó là sau khi Nhật đầu
hàng đồng mình vô điều kiện và trước khi quân đồng minh vào Đông Dương để giải giáp
quân Nhật để phát động cuộc tổng khởi nghĩa diễn ra nhanh chóng và ít đổ máu.

Câu 3: Phân tích nguyên lý về sự phát triển

Phép biện chứng duy vật trở thành một khoa học. Phép biện chứng duy vật được
xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những
quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó, có hai nguyên
lý cơ bản nhất, một trong số đó là nguyên lý về sự phát triển. Nó khái quát một
trong những thuộc tính phổ biến nhất của thế giới vật chất là vật chất luôn vận
động, phát triển.

Khái niệm:

Xem xét về sự phát triển cũng có những quan điểm khác nhau, đối lập với nhau: quan
điểm siêu hình và quan điểm biện chứng:
Quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay sự giảm đi đơn thuần về mặt
lượng, không có sự thay đổi gì về mặt chất của sự vật; hoặc nếu có sự thay đổi nhất định
về chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo một vòng khép kín, chứ không có sự sinh
thành ra cái mới với những chất mới. Những người theo quan điểm siêu hình xem sự phát
triển như là một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co, thăng trầm,
phức tạp.
Ngược lại, quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp
đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời của cái mới
thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay trong tư duy, sự phát triển diễn ra
không phải lúc nào cũng theo đường thẳng, mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có thể có
những bước lùi tạm thời.
Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện thực, quan
điểm duy vật biện chứng khẳng định, phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá
trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn của sự vật, trong đó cái mới ra đời thay thế cái cũ.

Ví dụ: Trong thời nguyên thủy, các hình thức tổ chức xã hội dần phát triển và thay thế
lẫn nhau: Cuộc đời của con người là một quá trình phát triển. Từ khi mới chào đời, chưa
nhận thức được cho đến những năm 4,5 tuổi có nhận thức cơ bản về thế giới, ký ức bắt
đầu hình thành, được gia đình dạy dỗ cho đến những năm đi học được tiếp nhận nguồn tri
thức ở trường, lớp rồi đến lúc trưởng thành khi bước vào đời, được mở mang tầm bắt bởi
xã hội. Con người phát triển dần theo thời gian, ngày càng hoàn thiện về mặt thể chất lẫn
tâm hồn, tư duy, nhận thức.

Tính chất của sự phát triển: Phát triển có ba tính chất: khách quan, phổ biến và đa
dạng, phong phú.
Tính khách quan: nguồn gốc của nó nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng, chứ
không phải do tác động từ bên ngoài và đặc biệt không phụ thuộc vào ý thích, ý muốn
chủ quan của con người.

Ví dụ: Khi trồng cây lúa, dù cho con người không bón phân thì lúa vẫn phát triển (không
nói đến chất lượng), điều đó cho thấy sự phát triển của cây lúa nằm trong chính bản thân
nó chứ không phụ thuộc vào tác động, ý muốn chủ quan của con người. Bên cạnh đó, hô
hấp và quan hợp là 2 mặt đối lập nhau, nhưng nhờ đó mà cây phát triển được. Nếu cây
không thể quang hợp hoặc không thể hô hấp thì đều sẽ chết. Cây cần cả hô hấp lẫn quang
hợp để tồn tại và phát triển, chứ không cần sự tham gia của con người. Ta thấy được
nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân cây lúa, không phụ thuộc vào con
người.
Tính phổ biến: sự phát triển có mặt ở khắp mọi nơi trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và
tư duy, trong tất cả mọi sự vật và hiện tượng trong quá trình, mọi giai đoạn của sự vật
hiện tượng đó. Trong mỗi quá trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra
đời phù hợp với quy luật khách quan.

Đối với tự nhiên: sự phát triển thể hiện ở khả năng thích nghi của cơ thể, khả năng tiến
hóa của cơ thể, khả năng hoàn thiện quá trình trao đổi vật chất giữa cơ thể và môi trường.
Từ vô sinh đến hữu sinh.
Ví dụ: Một người dân gốc Bình Định di cư lên vùng Tây Nguyên sinh sống vào mùa
đông, thời gian ban đầu sẽ cảm thấy khó chịu. Vì khí hậu ở Bình Định có tính chất của
khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa, nhiệt độ trung bình tương đối cao quanh năm, còn vùng
Tây Nguyên vì chịu ảnh hưởng của khí hậu cận xích đạo, nhiệt độ trung bình chỉ tầm 20
độ C vì thế mà quanh năm mát mẻ, mùa đông thì lạnh. Thế nhưng theo thời gian, khi đã
quen dần với khí hậu, thời tiết ở đây thì người đó sẽ cảm thấy bình thường, ổn định, thích
nghi được với hoàn cảnh.

Đối với xã hội: Sự phát triển thể hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội, nâng
cao đời sống mọi mặt của con người giải phóng con người và tạo điều kiện thuận lợi cho
con người phát triển toàn diện, hoàn thiện nhân cách của bản thân.

Ví dụ: Xã hội ngày càng phát triển nên mức sống của người dân ngày càng cao. Mức
sống của người dân trong xã hội hiện đại cao hơn xã hội chiếm hữu nô lệ, mức sống của
người dân trong xã hội chiếm hữu nô lệ cao hơn xã hội nguyên thủy.

Đối với tư duy: Sự phát triển thể hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ,
đúng đắn hơn đối với hiện thực.

Ví dụ: Con người phát triển qua các lứa tuổi khác nhau theo tính tăng dần. Mỗi độ tuổi
như một nút thắt, càng lên cao, trình độ hiểu biết của con người càng nâng cao, càng phát
triển.
Tính đa dạng, phong phú: tuy sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và
tư duy, nhưng mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau. Tính
đa dạng và phong phú của sự phát triển còn phụ thuộc vào không gian và thời gian, vào
các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó...

Ví dụ: Trong quá trình phát triển của một con người, giai đoạn mới sinh ra sẽ khác với
khi 5,6 tuổi, khi 5,6 tuổi sẽ phát triển khác với 15, 20 tuổi. Đồng thời, sự phát triển của
giới sinh vật sẽ khác với con người. Sự phát triển ở loài người mang tính tự giác, có sự
tham gia của nhân tố ý thức, còn sự phát triển của giới sinh vật diễn ra một các tự phát,
thuận theo tự nhiên.

Nguyên lý về sự phát triển:

Các sự vật, hiện tượng của thế giới tồn tại trong sự vận động, phát triển và chuyển hóa
không ngừng.

Ví dụ: xã hội loài người đều phát triển theo thời gian: Xã hội nguyên thủy – Xã hội chiếm
hữu nô lệ – Xã hội phong kiến – Xã hội hiện đại.
Nguồn gốc của sự phát triển: là sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và mâu
thuẫn giữa các mặt đối lập trong mỗi sự vật, hiện tượng.

Ví dụ: trong phong kiến, giai cấp thống trị và bị trị sống trong cùng một xã hội, tuy cùng
tồn tại nhưng không ngừng xảy ra xung đột, mâu thuẫn, xảy ra các phong trào đấu tranh,
chính sự đối lập và mâu thuẫn đó là tiền đề cho sự phát triển của xã hội.

Phương thức của sự phát triển: lượng đổi trước rồi đến chất đổi.

Ví dụ: con người trong quá trình phát triển thì cơ thể, cân nặng, chiều cao sẽ phát triển
trước rồi mới đến trí tuệ, óc sáng tạo, suy nghĩ, ý thức.

Khuynh hướng của sự phát triển: quanh co phức tạp, phủ định của phủ định (kế thừa những
đặc trưng cơ bản và lấy những cái mới tiến bộ hơn để phát triển).

Ví dụ: Xe máy ra đời thay thế xe đạp, xe oto ra đời thay thế xe máy, những phương tiện
giao thông về sau đều kế thừa những đặc trưng cơ bản và lấy những cái mới, tiến bộ hơn để
phát triển, Do vậy, quan điểm này được xây dựng thành khoa học nhằm phát hiện ra các
quy luật, bản chất và tính phổ biến của vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế
giới.

Ý nghĩa phương pháp luận:


Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển giúp nhận thức được rằng, muốn nắm được bản
chất, nắm được khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng thì phải tự giác tuân thủ
nguyên tắc phát triển, tránh tư tưởng bảo thủ, trì trệ. Nguyên tắc này yêu cầu:
Thứ nhất, khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện xu hướng biến
đổi của nó để không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được khuynh
hướng phát triển của nó trong tương lai.
Thứ hai, cần nhận thức được rằng, phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, mỗi
giai đoạn có đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức, phương
pháp tác động phù hợp để hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
Thứ ba, phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó
phát triển; chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến.
Thứ tư, trong quá trình thay thế đối tượng cũ bằng đối tượng mới phải biết kế thừa các
yếu tố tích cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới. Tóm lại,
muốn nắm được bản chất, khuynh hướng phát triển của đối tượng nghiên cứu cần “phải
xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động... trong sự biến đổi của nó”.

Câu 4: Phân tích quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập
Đây là 1 trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng, nói lên nguồn gốc động lực
của sự phát triển. Lê nin gọi quy luật này là hạt nhân của phép biệt chứng. nghĩa là
nắm bắt được quy luật này sẽ là cơ sở để hiểu các quy luật khác và hiểu được nguồn
gốc vận động, phát triển của mọi hiện tượng. Nội dung ý nghĩa của quy luật thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập như thế nào, ta cùng nhau nghiên cứu:

Khái niệm:

Khái niệm thống nhất giữa các mặt đối lập: Những mặt, những thuộc tính, khuynh
hướng vận động trái ngược nhau nhưng là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau. Theo Lênin:
“Sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều
kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập, bài trừ lẫn nhau
là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”.

Ví dụ: Đồng hóa và dị hóa trong sinh học: đồng hóa là quá trình tổng hợp chất sống đặc
trưng của cơ thể từ những chất đơn giản, tích lũy năng lượng (quá trình làm mới lại, tái
tạo lại các loại tế bào và mô của cơ thể đã bị phá hủy trong quá trình sống), dị hóa là quá
trình phân hủy một phần các chất sống phức tạp trong cơ thể thành các chất đơn giản,
đồng thời giải phóng năng lượng (quá trình oxi hóa, chuyển hóa các hợp chất hữu cơ
phức tạp để sản sinh ra năng lượng cung cấp cho tất cả các hoạt động sống của cơ thể),
đồng hóa. Đồng hóa và dị hóa có khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng là điều
kiện, tiền đề tồn tại cho nhau. Sự thống nhất này là Tương đối (đứng im, ổn định tạm
thời). Theo Lênin: “Sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các
mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối
lập, bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”.

Khái niệm sự đấu tranh giữa các mặt đối lập: Các mặt đối lập tác động qua lại, bài trừ,
phủ định lẫn nhau. Sự trái ngược hay sự khác biệt dần dần dẫn tới sự đối lập, mâu thuẫn.
Những mâu thuẫn đó được giải quyết bằng cách phủ định lẫn nhau làm cho sự vật luôn
vận động và phát triển. Sự đấu tranh này là Tuyệt đối (mâu thuẫn luôn xuất hiện trong đời
sống, nhờ có mâu thuẫn mà mới có đấu tranh, có đấu tranh thì mới có phát triển, tùy vào
hoàn cảnh và điều kiện mà đấu tranh theo hướng tích cực hay tiêu cực). Từ đó rút ra
được, mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.

Ví dụ: Giai cấp thống trị và bị trị tác động qua lại, trái ngược lẫn nhau. Lâu dần, sự trái
ngược đó ngày càng lớn dẫn đến sự đối lập, mâu thuẫn. Cách giải quyết của sự mâu thuẫn
này là các phong trào đấu tranh xuất hiện ở khắp nơi (phủ định lẫn nhau), nhưng cũng
nhờ vậy và xã hội ngày càng vận động và phát triển.
Tính chất của mâu thuẫn: Mâu thuẫn không chỉ có tính khách quan mà còn có tính phổ
biến

Tính khác quan: Mâu thuẫn có tính chất khách quan vì nó là cái vốn có trong sự vật, hiện
tượng, là bản chất chung của mọi sự vật, hiện tượng

Tính phổ biến: Mâu thuẫn có tính phổ biến vì nó tồn tại trong tất cả mọi sự vật hiện
tượng, mọi giai đoạn, mọi quá trình, tồn tại trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.

Phân loại một số mâu thuẫn : Thông thường phân mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên
trong và bên ngoài, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và không chủ yếu. Riêng trong lĩnh
vực xã hội ngoài các mâu thuẫn trên còn có thêm mâu thuẫn đối kháng và không đối
kháng.

Mâu thuẫn bên trong (giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật): Là sự tác
động lẫn nhau giữa các mặt đối lập bên trong một sự vật, hiện tượng).

Mâu thuẫn bên ngoài (Có vai trò quan trọng trong sự vận động, phát triển của sự vật): Là
sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập thuộc các sự vật khác nhau.

Mâu thuẫn cơ bản: Là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở
tất cả các giai đoạn phát triển của sự vật, nó quyết định sự nảy sinh của các mâu thuẫn
khác.

Mâu thuẫn không cơ bản: Là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự
vật, nó quy định sự vận động và phát triển của một mặt nào đó của sự vật.

Mâu thuẫn chủ yếu: Là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu của một giai đoạn phát triển nhất
định của sự vật, nó chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó.

Mẫu thuẫn thứ yếu: Là mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào đó
của sự vật, nhưng không đóng vai trò chi phối sự vật. Giải quyết mâu thuẫn thứ yếu góp
phần vào việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.

Mâu thuẫn đối kháng: Là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người có lợi
ích cơ bản trái ngược nhau.

Mâu thuẫn không đối kháng: Là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp có lợi ích cơ bản
không đối lập nhau.

Ví dụ: Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản là mâu thuẫn đối kháng vì lợi
ích 2 bên trái ngược nhau.
Ví dụ: Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn cơ bản vì sự
mâu thuẫn này có tác động lớn đến các mâu thuẫn khác.

Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:

Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành
mâu thuẫn trong bản thân mình. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau
gay gắt và trong những điều kiện nhất định, mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ
mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành, và quá trình tác động, chuyển hóa giữa hai mặt
đối lập lại tiếp diễn, làm cho sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động và phát triển.

Ví dụ: Ở các nước phương Tây, trong xã hội phong kiến luôn tồn tại những mặt đối lập,
những mâu thuẫn từ mặt đối lập, mà ở đây là giữa giai cấp thống trị và bị trị. 2 giai cấp
tuy cùng tồn tại trong một xã hội nhưng xung đột với nhau, điều đó thể hiện qua các cuộc
đấu tranh giai đòi quyền lợi, quyền tự do, hạnh phúc. Khi các phong trào đấu tranh diễn
ra thành công, một xã hội mới tốt đẹp hơn được tạo dựng. Thế nhưng, không chỉ dừng ở
đó, mâu thuẫn cũ mất đi thì mâu thuẫn mới lại xuất hiện. Về sau, trong xã hội tư bản lại
xuất hiện mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Các cuộc đấu tranh đòi
quyền lợi từ giai cấp tư sản: việc làm tốt hơn, lương cao hơn, môi trường làm việc ổn
định hơn tiếp tục diễn ra. Nhờ sự đấu tranh đó dẫn đến xã hội tư bản ngày càng tốt đẹp
hơn, những cái phiến diện bị bài trừ, cái tích cực được thay thế vào vị trí đó. Ta thấy
được, những mâu thuẫn, đấu tranh không ngừng diễn ra làm cho sự vật, hiện tượng luôn
luôn vận động và phát triển.

Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật:

Thứ nhất, thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng; từ đó giải
quyết mâu thuẫn phải tuân theo quy luật, điều kiện khách quan. Muốn phát hiện mâu
thuẫn, cần tìm ra thể thống nhất của các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng; từ đó tìm ra
phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn. Thứ hai, phân tích
mâu thuẫn cần bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng loại mâu
thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ giữa các mâu thuẫn và điều kiện chuyển hóa
giữa chúng. Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và đề ra được phương pháp
giải quyết mâu thuẫn đó. Thứ ba, phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng
đấu tranh giữa các mặt đối lập, không điều hoà mâu thuẫn cũng không nóng vội hay bảo
thủ, bởi giải quyết mâu thuẫn còn phụ thuộc vào điều kiện đã đủ và chín muồi hay chưa.
Câu 5: Phân tích quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất và ngược lại

Quy luật lượng - chất hay còn gọi là quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là một trong ba quy luật cơ bản của phép
biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin, chỉ cách thức của sự vận động, phát triển.
Theo quan điểm của Triết học Mác - Lenin, bất cứ một sự vật, hiện tượng nào cũng bao
gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện
tượng.

Khái niệm:
Khái niệm về chất: Chất là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố tạo nên sự vật, hiện
tượng làm cho sự vật, hiện tượng là nó mà không phải là sự vật, hiện tượng khác.

Ví dụ: Nguyên tố đồng có nguyên tử lượng là 63,54đvC, nhiệt độ nóng chảy là 1083,
nhiệt độ sôi là 2880 độ C, đồng mang tính dẫn điện => những thuộc tính nói lên chất
riêng của đồng, dùng để phân biệt đồng với các nguyên tử khác.

Chất có tính khách quan, là cái vốn có của sự vật, hiện tượng, do những thuộc tính,
những yếu tố cấu thành quy định. Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những trạng
thái, những yếu tố cấu thành sự vật. Đó là những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được
sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận động và phát triển của nó. Tuy nhiên những
thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra thông qua sự tác động qua lại
với các sự vật, hiện tượng khác.

Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính trong đó mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất của sự
vật. Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau. Trong hiện thực khách
quan không thể tồn tại sự vật không có chất và không thể có chất nằm ngoài sự vật. Chất
của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính của nó. Nhưng không phải bất kỳ thuộc
tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật.

Khái niệm về lượng: Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật,
hiện tượng về mặt quy mô, trình độ phát triển, các yếu tố biểu hiện ở số lượng các thuộc
tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại lượng, ở tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển của
sự vật, hiện tượng. Lượng còn biểu hiện ở kích thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ,
tổng số ít hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động nhanh hay chậm, màu sắc
đậm hay nhạt...

Ví dụ: Phân tử NaCl được tạo thành từ 2 nguyên tử Na và Cl, có cấu trúc lập phương =>
số nguyên tử tạo thành và cấu trúc của NaCl được gọi là lượng

Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng:

Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất bao gồm chất và lượng nhất định, trong đó
chất tương đối ổn định còn lượng thường xuyên biến đổi. Sự biến đổi này tạo ra mâu
thuẫn giữa lượng và chất. Quá trình tác động lẫn nhau giữa hai mặt chất và lượng tạo nên
sự vận động liên tục, khi lượng tích lũy đủ sẽ đạt tới điểm nút. Tại điểm nút, diễn ra sự
nhảy vọt tạo nên biến đổi về chất, chất mới ra đời thay thế cho cái cũ.

Độ: là phạm trù triết học dung để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của
sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật.

Ví dụ: Khi đun nước, trong khoảng 0< t <100 độ C nước vẫn ở trạng thái lỏng, đó gọi là
độ

Điểm nút: là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng
đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.

Ví dụ: Đá sẽ tan ở 0 độ C và nước sôi ở 100 độ C, 0 độ C và 100 độ C lúc này sẽ được


gọi là điểm nút.

Bước nhảy: là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay
đổi về lượng của sự vật trước gây nên.

Các loại bước nhảy: Bước nhảy đột biến/tức thời: chất biến đổi nhanh chóng ở tất cả yếu
tố cấu thành nó (tăng khối lượng Uranium đến giới hạn nhất định - vụ nổ nguyên tử).
Bước nhảy dần dần: thay đổi về chất diễn ra bằng cách tích lũy dần dần những yếu tố của
chất mới và loại bỏ dần các yếu tố của chất cũ. Bước nhảy cục bộ: thay đổi một số mặt,
một số yếu tố. Bước nhảy toàn bộ: thay đổi tất cả các yếu tố, các mặt cấu thành sự vật,...

Ví dụ: Nước nằm ngoài khoảng giới hạn 0 – 100 độ sẽ xảy ra quá trình biến đổi trạng
thái từ rắn sang lỏng, lỏng sang khí, đây được gọi là các bước nhảy.

Ví dụ tổng quát: Phong trào đấu tranh của dân tộc giai đoạn 1930 – 1945. Trong đó:

Lượng: quy mô, lực lượng tham gia, số phong trào, số chiến thắng.
Chất: ý thức, kết quả, hệ quả của các chiến dịch.
Độ: Các giai đoạn của cuộc kháng chiến: 1930-1931, 1936-1939, 1939-1941, 1941-1945.
Trong từng giai đoạn, chẳng hạn như năm 1930 đến 1931 đã có sự thay đổi về lượng (lực
lượng tham gia đông hơn, quy mô rộng hơn,…) nhưng chất vẫn chưa thay đổi (chưa có
những ý thức, nhận thức, kết quả vì chưa kết thúc chiến dịch, phong trào).
Điểm nút: Năm 1930, năm 1931, năm 1936, năm 1939, năm 1941, năm 1945. Các năm
này đánh dấu cho sự chuyển tiếp của các chiến dịch, ta thấy được sự thay đổi về lượng đã
đủ làm thay đổi về chất.
Bước nhảy: Chuyển từ đấu tranh bí mật, bất hợp pháp (30-31) sang công khai, nửa bí
mật, hợp pháp, bất hợp pháp (36-39); từ khởi nghĩa vũ trang (39-41) sang khởi nghĩa
từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa (41-45).

Ý nghĩa phương pháp luận:


Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay
đổi về chất và ngược lại có thể rút ra các kết luận có ý nghĩa phương pháp luận sau đây:
Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần dần về
lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất. Do đó, trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải biết từng bước tích luỹ về
lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Trong hoạt động của mình, ông cha ta đã rút
ra những tư tưởng sâu sắc như “tích tiểu thành đại”, “năng nhặt, chặt bị”, “góp gió thành
bão”,… Phương pháp này giúp cho chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan, duy ý chí,
nôn nóng, “đốt cháy giai đoạn” muốn thực hiện những bước nhảy liên tục.
Quy luật của tự nhiên và quy luật của xã hội đều có tính khách quan. Song quy luật của tự
nhiên diễn ra một cách tự phát, còn quy luật của xã hội chỉ được thực hiện thông qua hoạt
động có ý thức của con người. Do đó, khi đã tích luỹ đủ về số lượng phải có quyết tâm để
tiến hành bước nhảy, phải kịp thời chuyển những sự thay đổi về lượng thành những thay
đổi về chất. Chỉ có như vậy mới khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, “hữu khuynh”
thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng.
Trong hoạt động con người còn phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của bước
nhảy. Sự vận dụng này tùy thuộc vào việc phân tích đúng đắn những điều kiện khách
quan và những nhân tố chủ quan, tùy theo từng trường hợp cụ thể, từng điều kiện cụ thể
hay quan hệ cụ thể. Do đó để thực hiện được bước nhảy toàn bộ, trước hết, phải thực hiện
những bước nhảy cục bộ làm thay đổi về chất của từng yếu tố.

Câu 6: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

Khái niệm thực tiễn:

Thực tiễn là một trong những vấn đề trung tâm của triết học. Có rất nhiều khái niệm về
thực tiễn được đưa ra. Theo chủ nghĩa duy tâm, thực tiễn là hoạt động của tinh thần nói
chung. Triết học tôn giáo thì cho hoạt động sáng tạo ra vũ trụ của thượng đế là hoạt động
thực tiễn. Còn theo quan điểm của Mác, thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất, cảm
tính có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã
hội. Việc đưa thực tiễn vào triết học với tính cách là nền tảng của toàn bộ đời sống xã
hội, là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý; các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác đã làm cuộc cách mạng trong lý luận nhận thức.

Ví dụ: Các nhà khảo cổ học tìm hiểu, khám phá, nghiên cứu, phân tích sáng tỏ và bảo vệ
những bằng chứng vật chất cho nền văn hóa nhân loại có từ thời tiền sử kéo dài tới hiện
tại.

Đặc trưng của thực tiễn:

Từ quan niệm trên về thực tiễn, có thể thấy thực tiễn gồm những đặc trưng sau:

Thứ nhất, thực tiễn không phải toàn bộ hoạt động của con người mà chỉ là những hoạt
động vật chất – cảm tính. Hoạt động vật chất – cảm tính là những hoạt động mà con
người phải sử dụng lực lượng vật chất, công cụ vật chất tác động vào các đối tượng vật
chất để làm biến đổi chúng.

Thứ hai, hoạt động thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử - xã hội của con
người. Nghĩa là, thực tiễn là hoạt động chỉ diễn ra trong xã hội, với sự tham gia của đông
đảo người trong xã hội. Trong hoạt động thực tiễn con người truyền lại cho nhau những
kinh nghiệm từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ
con người. Khác với hoạt động có tính bản năng, tự phát của động vật nhằm thích nghi
thụ động với thế giới, con người bằng và thông qua hoạt động thực tiễn, chủ động tác
động cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động, tích
cực với thế giới.

Các hình thức của thực tiễn: Thực tiễn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, ở những
lĩnh vực khác nhau, nhưng gồm những hình thức cơ bản: Hoạt động sản xuất vật chất;
hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.

Hoạt động sản xuất vật chất: là quá trình con người dùng công cụ tác động vào giới tự
nhiên tạo ra của cải vật chất để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nó không chỉ tạo ra của cải
vật chất, những công cụ và phương tiện lao động, mà còn làm biến đổi con người (phát
triển cơ thể, các giác quan, bộ óc,…), làm xuất hiện những nhu cầu mới về nhận thức
(giải thích những hiện tượng trong thế giới và chính bản thân con người, nghiên cứu khoa
học,…), đồng thời làm thay đổi quan hệ giữa con người với thế giới và giữa con người
với con người. Đó cũng chính là hình thức thực tiễn có sớm nhất, cơ bản nhất, quan trọng
nhất.

Ví dụ: trồng rau, nuôi cá, dệt vải, sản xuất lương thực, thực phẩm, oto, xe máy đều là các
hoạt động sản xuất vật chất vì do con người tạo thành, sử dụng công cụ lao động để tác
động vào giới tự nhiên nhằm phục vụ nhu cầu của mình, vừa tạo ra của cải vật chất, vừa
biến đổi con người (nhờ lao động mà tích lũy được kinh nghiệm, tăng cường độ khỏe,
nhờ nguồn thức ăn mà hấp thụ được các chất dinh dưỡng,…).

Hoạt động chính trị - xã hội: Là những cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân
tộc, đấu tranh bảo vệ hòa bình, bảo vệ môi trường sinh thái, những cuộc cải cách,…Tất
cả những hoạt động này làm biến đổi quan hệ xã hội và mọi mặt khác nhau của đời sống
xã hội.

Ví dụ: Các chiến dịch gây quỹ có sự tham gia của tình nguyện viên. Hoạt động tình
nguyện giúp biến đổi quan hệ xã hội (theo chiều hướng tích cực), thay đổi điều kiện sống
và đem lại lợi ích cho những đối tượng cần sự giúp đỡ.

Hoạt động thực nghiệm khoa học: Là hình thức hoạt động vật chất đặc biệt, nó bao gồm:
thực nghiệm sản xuất, thực nghiệm xã hội và thực nghiệm khoa học. Đó là hoạt động
nhằm nhận thức hiện thực, xác nhận hay bác bỏ tri thức của chúng ta về đối tượng.

Ví dụ: Các nhà khoa học tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra các loại vật liệu mới để tạo ra các
thiết bị, máy móc ngày càng hiện đại, phục vụ lợi ích cho người dân.

Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:

Như đã nhận xét, thực tiễn không chỉ là nền tảng của toàn bộ đời sống xã hội mà còn là
cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý. Vì vậy, vai trò của
thực tiễn đối với nhận thức được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:

Thực tiễn là cơ sở, động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức. Bằng và thông qua hoạt
động thực tiễn, con người tác động vào thế giới khách quan, buộc chúng phải bộc lộ
những thuộc tính, những quy luật để con người nhận thức. Chính thực tiễn cung cấp
những tài liệu, vật liệu cho nhận thức của con người. Không có thực tiễn thì không có
nhận thức, không có khoa học, không có lý luận, bởi lẽ tri thức của con người xét đến
cùng đều được nảy sinh từ thực tiễn.

Thực tiễn luôn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức, vì thế
nó luôn thúc đẩy cho sự ra đời của các ngành khoa học. Thực tiễn có tác dụng rèn luyện
các giác quan của con người, làm cho chúng phát triển tinh tế hơn, hoàn thiện hơn, trên
cơ sở đó giúp quá trình nhận thức của con người hiệu quả hơn, đúng đắn hơn. Hoạt động
thực tiễn còn là cơ sở chế tạo ra các công cụ, phương tiện, máy móc mới hỗ trợ con người
trong quá trình nhận thức, chẳng hạn như kính hiển vi, kính thiên văn, hàn thử biểu, máy
vi tính, v.v.. đã mở rộng khả năng của các khí quan nhận thức của con người.

Ví dụ: Trong tình hình dịch bệnh hiện nay, việc phòng ngừa và hạn chế tình trạng lây
nhiễm là vô cùng quan trọng, vì thế mà con người tìm tòi, nghiên cứu và tạo ra vaccine
nhằm đáp ứng nhu cầu về sức khỏe của con người. Nhờ quá trình nghiên cứu vaccine đó
mà con người tích lũy được thêm nhiều kiến thức về khoa học, y dược, tạo ra được nhiều
thể loại vaccine hơn và góp phần đưa nền y khoa phát triển hơn nữa.

Hai là, thực tiễn là mục đích của nhận thức. Nhận thức không phải là hoạt động tự thân
vì nhận thức, mà vì thực tiễn, vì cuộc sống của con người. Chính vì vậy, những tri thức
đạt được phải được thực hiện trong thực tiễn, phải hướng dẫn, điều chỉnh và chỉ đạo thực
tiễn.

Ví dụ: Khi con người tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu về cây lúa để tích lũy tri thức kinh
nghiệm và đi đến mục đích cuối cùng chính là phục vụ cho việc trồng lúa sao cho năng
suất cao, hiệu quả tốt, đem đến 1 mùa bội thu cho nhà nông.

Ba là, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Bởi chỉ có qua thực nghiệm mới có thể xác
định tính đúng đắn của một tri thức .

Tri thức là kết quả của quá trình nhận thức, tri thức đó có thể phản ánh đúng hoặc không
đúng hiện thực nên phải được kiểm tra trong thực tiễn. Thực tiễn có nhiều hình thức nên
khi kiểm tra chân lý có thể bằng thực nghiệm khoa học hay bằng vận dụng lý luận xã hội
vào quá trình cải biến xã hội.

Chân lý vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối được thể hiện ở chỗ,
thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm tra, khẳng định chân lý, bác bỏ sai
lầm. Còn tính tương đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn có quá trình vận động, biến đổi, phát
triển, do đó “không bao giờ có thể xác nhận hoặc bác bỏ một cách hoàn toàn một biểu
tượng nào đó của con người, dù biểu tượng ấy là thế nào chăng nữa”. Vì vậy, khi xem xét
thực tiễn phải xét trong không gian rộng và thời gian dài để làm rõ đâu là chân lý, đâu là
sai lầm.

Ví dụ: Khi nghiên cứu về tháp nghiêng Pisa, Aistot cho rằng “Vật thể khác nhau về trọng
lượng thì sẽ khác nhau về tốc độ rơi”. Trong khi đó theo Galile “Vật thể khác nhau về
trọng lượng nhưng cùng tốc độ khi rơi xuống”. Chỉ có thực nghiệm mới biết được rằng tri
thức nào là đúng. Và cuối cùng, thông qua thực nghiệm, Galile đã đúng.
Ý nghĩa phương pháp luận:

Như vậy, vì thực tiễn là nguồn gốc, là cơ sở để kiểm tra nhận thức, nên con người cần
phải xuất phát từ thực tiễn để tổng kết kinh nghiệm và làm phong phú thêm nhận thức.
Bên cạnh đó, khi xem xét một vấn đề cần phải luôn lấy thực tiễn làm thước đo cho nhận
thức “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý
luận về nhận thức" (V.I.Lenin). Và nếu nhận thức trở nên xa rời thực tiễn thì sẽ dẫn đến
nhận thức “suông”.

Thêm vào đó, vì thực tiễn là động lực, là mục đích của nhận thức nên con người cần
không ngừng nâng cao nhận thức, nhất là nhận thức lý luận và nhận thức khoa học để vận
dụng vào thực tiễn, thúc đẩy thực tiễn phát triển. Thực tiễn mà không có nhận thức thì sẽ
dẫn đến thực tiễn mù quáng.

Câu 7: Phân tích quy luật phủ định của phủ định

a) Khái niệm
Phủ định là khái niệm chỉ sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận
động và phát triển.

Phủ định siêu hình là sự phủ định sạch trơn, sự phủ định không tạo tiền đề cho sự phát
triển tiếp theo, không tạo cho cái mới ra đời, lực lượng phủ định là ở bên ngoài sự vật.

Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tự phủ định, sự phủ định tạo
tiền đề cho sự phát triển tiếp theo của sự vật, sự phủ định tạo tiền đề cho cái mới ra đời
thay thế cái cũ, lực lượng phủ định ở ngay trong bản thân sự vật.

* Phủ định biện chứng có đặc điểm:


– Khách quan, tự thân sự vật phủ định, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người. Đó là kết quả giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật quy định.
– Có tính phổ biến, nghĩa là phủ định biện chứng cả trong tự nhiên, xã hội và trong tư
duy của con người.
– Có tính kế thừa (có sự liên hệ giữa cái cũ và cái mới), không phủ định sạch trơn hoàn
toàn cái cũ, mà kế thừa có lọc bỏ những cái cũ không còn phù hợp.

b) Nội dung của quy luật


Phủ định của phủ định là khái niệm nói lên rằng, sự vận động, phát triển của sự vật thông
qua hai lần phủ định biện chứng, dường như quay trở lại điểm xuất phát ban đầu nhưng
cao hơn. Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng phát triển của sự vật. Phủ
định biện chứng là quá trình khách quan, tự thân, là quá trình kế thừa cái tích cực đã đạt
được từ cái cũ, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới
cao hơn, tiến bộ hơn.

Trong hoạt động lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần tin rằng cái
mới nhất định sẽ thay thế cái cũ, cái tiến bộ nhất định sẽ chiến thắng cái lạc hậu. Trong sự
phát triển của xã hội loài người ở giai đoạn hiện nay của thời đại, chủ nghĩa xã hội với
tính cách một chế độ xã hội là cái mới.

Phủ định lần thứ nhất làm cho sự vật cũ trở thành cái đối lập của mình. Sau những lần
phủ định tiếp theo, đến một lúc nào đó sẽ ra đời sự vật mới mang nhiều đặc trưng giống
với sự vật ban đầu (xuất phát). Như vậy, về hình thức là trở lại cái ban đầu song không
phải giống nguyên như cũ, dường như lặp lại cái cũ nhưng cao hơn. Ví dụ, hạt ngô (cái
ban đầu khẳng định) – cây ngô (phủ định lần 1 – đối lập với hạt ngô – cái xuất phát) –
bắp ngô (phủ định lần 2 – phủ định của phủ định).

Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là
điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo, tạo ra đường xoáy ốc của sự phát
triển. Mỗi đường mới của đường xoáy ốc thể hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển.
Sự nối tiếp nhau của các vòng xoáy ốc thể hiện tính vô tận của sự phát triển.

c) Ý nghĩa phương pháp luận


Quy luật phủ định của phủ định cho ta cơ sở để hiểu sự ra đời của cái mới, mối liên hệ
giữa cái cũ và cái mới. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần chống thái độ phủ
định sạch trơn; đồng thời, phải biết sàng lọc những gì tích cực của cái cũ.

Chống thái độ hư vô chủ nghĩa; đồng thời, chống bảo thủ khư khư ôm lấy những gì đã lạc
hậu lỗi thời, không chịu đổi mới.

Phải hiểu phát triển không phải là đường thẳng mà theo đường xoáy ốc đi lên. Nghĩa là,
có nhiều khó khăn, phức tạp trong quá trình vận động, phát triển. Phát triển không phải là
đường thẳng.
Câu 9: Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

a) Khái niệm:

Ở mỗi giai đoạn lịch sử con người tiến hành sản xuất theo một cách thức nhất định, tức là
có một cách sinh sống, cách sản xuất riêng của mình, đó là phương thức sản xuất.
Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với một trình độ nhất định
và quan hệ sản xuất tương ứng.

Lực lượng sản xuất là toàn bộ lực lượng vật chất mà con người dùng để sản xuất ra của
cải vật chất. Nó không chỉ biểu hiện quan hệ của con người với tự nhiên, mà còn là thước
đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là mặt tự nhiên của phương thức sản xuất.
Lực lượng sản xuất gồm 2 yếu tố cơ bản là người lao động và tư liệu sản xuất.

Trong đó yếu tố người lao động lại bao gồm 2 phẩm chất chính là thể lực (sức khỏe) và
trí lực (trí tuệ).

Về yếu tố tư liệu sản xuất, nó bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong đối
tượng lao động bao gồm có sẵn trong tự nhiên và đã qua chế biến.

Còn trong tư liệu lao động có công cụ lao động (là những phương tiện vật chất mà con
người trực tiếp sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng và tạo
ra của cải vật chất) và phương tiện lao động.

Trong 2 yếu tố người lao động và tư liệu sản xuất thì yếu tố người lao động là cơ bản
nhất, quan trọng và quyết định nhất. Bởi lẽ, con người với những phẩm chất nhất định
không chỉ sáng tạo ra công cụ và phương tiện lao động mà còn trực tiếp sử dụng chúng
để tạo ra sản phẩm. V.I.Lenin đã nhiều lần nhấn mạnh lực lượng sản xuất hàng đầu của
nhân loại là người công nhân, là người lao động. Bên cạnh đó, công cụ lao động sẽ giữ
vai trò quyết định đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.

Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân
phối, lưu thông và tiêu dùng sản phẩm. Nói một cách ngắn gọn, quan hệ sản xuất là quan
hệ giữa người với người trong toàn bộ các hoạt động kinh tế. Nó bao gồm 3 yếu tố cơ
bản: thứ nhất, quan hệ sở hữu đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội; thứ hai,
quan hệ tổ chức, điều hành và quản lý nền sản xuất xã hội; thứ ba, quan hệ phân phối sản
phẩm của xã hội. Trong đó, quan hệ sở hữu đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã
hội là cơ bản nhất, quan trọng nhất và quyết định nhất. Bởi lẽ, xét về mặt pháp lý cũng
như về mặt thực tiễn, trong xã hội, lực lượng, giai cấp nào nắm những tư liệu sản xuất
chủ yếu của xã hội, thì họ có vai trò tổ chức, quản lý, điều hành nền sản xuất; và do đó,
họ có quyền đưa ra và thực hiện phương thức phân phối sản phẩm.

b) Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được thể hiện thành
một quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội loài người. Lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt hợp thành của phương thức sản xuất xã hội. Trong đó,
lực lượng sản xuất là nội dung của nền sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thức của nó
(nội dung luôn quy định những hình thức của chúng; tuy nhiên, hình thức không đóng vai
trò thụ động, mà nó luôn tác động đến nội dung, thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của
nó.

Nên nhớ là, trong phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố cách mạng, năng
động nhất. Bởi lẽ, trong sản xuất con người luôn chú ý cải tiến công cụ, sáng tạo ra công
cụ mới, tích lũy kinh nghiệm, áp dụng kỹ thuật…để nâng cao năng suất lao động.

Tuy nhiên như đã nhận xét, nếu lực lượng sản xuất là nội dung của nền sản xuất xã hội,
thì quan hệ sản xuất là hình thức biểu hiện của nó. Vì vậy, quan hệ sản xuất không phải là
yếu tố thụ động, mà trái lại, nó tác động đến lực lượng sản xuất theo hai chiều hướng trái
ngược nhau: Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực
lượng sản xuất, thì nó tạo điều kiện thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; còn nếu quan
hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó hạn chế,
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Trạng thái vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất diễn ra là từ phù hợp đến không phù hợp, rồi đến sự phù hợp mới ở trình độ cao hơn.
Con người bằng năng lực nhận thức và thực tiễn, phát hiện và giải quyết mâu thuẫn, thiết
lập sự phù hợp mới làm cho quá trình sản xuất phát triển đạt tới một nấc thang cao hơn.
Bởi lẽ suy đến cùng thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, nó quyết định một trật
tự xã hội (V.I.Lenin). Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.

Ở đây cần nhận thức một cách thức sâu sắc rằng: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
là hai mặt đối lập biện chứng cùng trong một bản chất – phương thức sản xuất. Vì vậy
chúng luôn liên hệ, quy định, ràng buộc và thích ứng với nhau. Nếu trong một điều kiện
nào đó và vì lý do nào đó, mà quan hệ sản xuất thấp hơn so với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; hoặc là nó “vượt trước”, “quá cao”, “quá xa” thì đều dẫn sự không phù
hợp giữa chúng và tất yếu là cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất.
c) Ý nghĩa phương pháp luận:

Vì thế để xác lập, hoàn thiện hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội, cần phải căn cứ vào
thực trạng (tình hình thực tế) phát triển của lực lượng sản xuất hiện có để xác lập nó cho
phù hợp chứ không phải căn cứ vào ý muốn chủ quan. Thêm vào đó là phải ứng dụng
những công cụ lao động tiên tiến vào sản xuất và không ngừng nâng cao trình độ. Chỉ có
như vậy mới có thể tạo ra được hình thức kinh tế thích hợp cho việc bảo tồn, khai thác -
sử dụng, tái tạo và phát triển lực lượng sản xuất của xã hội.
Khi đã xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với quan hệ
sản xuất đang kìm hãm sự phát triển đó thì cần phải có những cuộc cải biến (cải cách, đổi
mới,...) mà cao hơn là một cuộc cách mạng chính trị để có thể giải quyết được mâu thuẫn
này.
Ví dụ, trong quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa vào trước những năm 80 của thế
kỷ XX, nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí, chưa tuân theo
thật đúng yêu cầu của quy luật này. Do đó đã dẫn đến tình trạng lực lượng sản xuất hiện
có không được bảo tồn, tái tạo và phát triển tốt. Thực tế đó là nguyên nhân căn bản và sâu
xa dẫn tới sự khủng hoảng kinh tế lớn, buộc các nước này phải tiến hành những cuộc cải
ách, đổi mới theo hướng tạo lập sự phù hợp của quan hệ sản xuất với thực tế trình độ phát
triển lực lượng sản xuất, nhờ đó lực lượng sản xuất của xã hội từng bước được phục hồi
và phát triển.
Câu 10: Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã
hội
a) Khái niệm:

Sự liên hệ và tác động lẫn nhau giữa những quan hệ vật chất với các quan hệ tinh thần
của xã hội được phản ánh trong quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng của xã hội. Đây là quy luật cơ bản tác động ở mọi hình thái kinh tế
- xã hội trong lịch sử.

Cơ sở hạ tầng của xã hội là tổng hợp toàn bộ những quan hệ sản xuất hiện có hợp thành
kết cấu kinh tế, mà trên đó xây dựng nên kiến trúc thượng tầng của xã hội.

Cơ sở hạ tầng được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất của
xã hội. Đây là toàn bộ các quan hệ sản xuất tồn tại trên thực tế mà trong quá trình vận
động của nó hợp thành một cơ cấu kinh tế hiện thực. C.Mác chỉ rõ: “Toàn bộ những quan
hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó
dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội
nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó" . Các quan hệ sản xuất là các quan hệ cơ
bản, đầu tiên, chủ yếu, quyết định mọi quan hệ xã hội khác.
Cấu trúc của cơ sở hạ tầng bao gồm: Quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư,
quan hệ sản xuất mầm mống. Mỗi quan hệ sản xuất có một vị trí, vai trò khác nhau.
Trong đó quan hệ sản xuất thống trị đặc trưng cho cơ sở hạ tầng của xã hội đó.

Còn kiến trúc thượng tầng được hiểu là tổng hợp toàn bộ những quan niệm và tư tưởng
về chính trị, pháp quyền, đạo đức, khoa học, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,…và
những thể chế tương ứng của chúng (đảng phái, nhà nước, tòa án, quân đội, cảnh sát,…)

Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những quan điểm tư tưởng về chính
trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học…cùng những thiết chế xã hội
tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể và tổ chức xã hội khác. Các
yếu tố về quan điểm tư tưởng và thiết chế xã hội có quan hệ với nhau, cùng với những
quan hệ nội tại trong các yếu tố đó hợp thành kiến trúc thượng tầng của xã hội. Trong
kiến trúc thượng tầng, quan điểm chính trị và hệ tư tưởng của giai cấp thống trị cùng
những thể chế của chúng giữ vai trò thống trị đối với toàn bộ đời sống xã hội.

b) Nội dung quy luật:

Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một quy luật cơ
bản của sự vận động phát triển lịch sử xã hội. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là
hai mặt cơ bản của xã hội gắn bó hữu cơ, có quan hệ biện chứng, trong đó cơ sở hạ tầng
quyết định kiến trúc thượng tầng, còn kiến trúc thượng tầng tác động trở lại to lớn, mạnh
mẽ đối với cơ sở hạ tầng. Bởi vì, quan hệ vật chất quyết định quan hệ tinh thần; tính tất
yếu kinh tế xét đến cùng quyết định tính tất yếu chính trị - xã hội.

Bất kỳ một hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng tầng, như chính trị, pháp luật, đảng
phái, triết học, đạo đức,v.v. đều không thể giải thích được từ chính bản thân nó mà tất cả
xét đến cùng phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định. Bởi vậy, vai trò
quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện trước hết ở chỗ, cơ sở
hạ tầng với tính cách là cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội sẽ quyết định kiểu kiến trúc
thượng tầng của xã hội ấy. Cơ sở hạ tầng không chỉ sản sinh ra một kiểu kiến trúc thượng
tầng tương ứng - tức là quyết định nguồn gốc, mà còn quyết định đến cơ cấu, tính chất và
sự vận động, phát triển của kiến trúc thượng tầng.

Những biến đổi căn bản của cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi căn bản
trong kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong từng hình thái kinh tế - xã hội,
cũng như khi chuyển từ một hình thái kinh tế - xã hội này sang một hình thái kinh tế - xã
hội khác. Nhưng sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp, có những bộ
phận của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi của cơ sở hạ
tầng như chính trị, luật pháp,v.v.. Có những nhân tố riêng lẻ của kiến trúc thượng tầng
thay đổi chậm hơn như tôn giáo, nghệ thuật,v.v.. Cũng có những nhân tố nào đó của kiến
trúc thượng tầng cũ vẫn được kế thừa để xây dựng kiến trúc thượng tầng mới.

*Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

Kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định nhưng có
sự tác động trở lại to lớn đối với kiến trúc thượng tầng. Bởi vì kiến trúc thượng tầng có
tính độc lập tương đối so với cơ sở hạ tầng.

Kiến trúc thượng tầng củng cố, hoàn thiện và bảo vệ cơ sở hạ tầng sinh ra nó; ngăn chặn
cơ sở hạ tầng mới, đấu tranh xoá bỏ tàn dư cơ sở hạ tầng cũ; định hướng, tổ chức, xây
dựng chế độ kinh tế của kiến trúc thượng tầng. Thực chất vai trò kiến trúc thượng tầng là
vai trò bảo vệ duy trì, củng cố lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị xã hội. Mặt khác, kiến
trúc thượng tầng trong các xã hội có giai cấp còn đảm bảo sự thống trị về chính trị và tư
tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị về kinh tế. Nếu giai cấp thống trị không xác lập
được sự thống trị về chính trị và tư tưởng, cơ sở kinh tế của nó không thể đứng vững
được.

Tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều hướng.
Kiến trúc thượng tầng tác động cùng chiều với sự phát triển của cơ sở hạ tầng sẽ thúc đẩy
cơ sở hạ tầng phát triển và nếu tác động ngược chiều với sự phát triển của cơ sở hạ tầng,
của cơ cấu kinh tế nó sẽ kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng, của kinh tế.

Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng thì kiến trúc thượng tầng về chính trị có vai
trò quan trọng nhất, trong đó nhà nước có vai trò tác động to lớn đối với cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên, trong thực tiễn của đời sống xã hội, không phải chỉ có quyền lực nhà nước
mới có sự tác động to lớn đến cơ sở hạ tầng, mà các bộ phận khác của kiến trúc thượng
tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, … cũng đều tác động mạnh mẽ đến cơ
sở hạ tầng bằng những hình thức khác nhau, với các cơ chế khác nhau.

c) Ý nghĩa phương pháp luận:

Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là cơ sở
khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
Trong nhận thức và thực tiễn, nếu tách rời hoặc tuyệt đối hoá một yếu tố nào giữa kinh tế
và chính trị đều là sai lầm. Tuyệt đối hoá kinh tế, hạ thấp hoặc phủ nhận yếu tố chính trị
là rơi vào quan điểm duy vật tầm thường, duy vật kinh tế sẽ dẫn đến vô chính phủ, bất
chấp kỷ cương, pháp luật và không tránh khỏi thất bại, đổ vỡ. Nếu tuyết đối hoá về chính
trị, hạ thấp hoặc phủ định vai trò của kinh tế sẽ dẫn đến duy tâm, duy ý chí, nôn nóng,
chủ quan, đốt cháy giai đoạn và cũng không tránh khỏi thất bại.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất quan tâm đến nhận
thức và vận dụng quy luật này. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt
Nam chủ trương đổi mới toàn diện cả kinh tế và chính trị, trong đó đổi mới kinh tế là
trung tâm, đồng thời đổi mới chính trị từng bước thận trọng vững chắc bằng những hình
thức, bước đi thích hợp; giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định - phát triển,
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.

Câu 11: Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội

a) Khái niệm:

Đời sống xã hội có hai lĩnh vực quan trọng là lĩnh vực vật chất và lĩnh vực tinh thần, đó
cũng chính là hai lĩnh vực tồn tại xã hội và ý thức xã hội.

Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã
hội. Tồn tại xã hội của con người là thực tại xã hội khách quan, là một kiểu vật chất xã
hội, là các quan hệ xã hội vật chất được ý thức xã hội phản ánh. Trong các quan hệ xã hội
vật chất ấy thì quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và quan hệ giữa con người với
con người là những quan hệ cơ bản nhất.

Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố cơ bản là phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự
nhiên, hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số. Trong đó phương thức sản xuất là yếu
tố cơ bản nhất, có ý nghĩa quyết định nhất đối với toàn bộ tồn tại xã hội và sự phát triển
của ý thức xã hội.

Ý thức xã hội là phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Nó
bao gồm những quan điểm, tư tưởng, lý luận cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền
thống, thói quen, sở thích của con người…phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn
lịch sử nhất định.

Với tính cách là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, ý thức xã hội được thể hiện ở
những bộ phận, những hình thái ý thức khác nhau phản ánh tồn tại bằng những phương
thức không giống nhau. Tùy thuộc vào đối tượng, phạm vi và trình độ phản ánh mà ta có
thể chia ý thức xã hội thành các cấp độ: ý thức xã hội thông thường, ý thức lý luận, tâm lý
xã hội và hệ tư tưởng.

b) Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội

Tồn tại xã hội không chỉ là nguồn gốc của ý thức xã hội, mà còn quyết định ý thức xã hội,
và xét đến cùng nó quy định cả khuynh hướng vận động và phát triển của xã hội. C.Mác
cho rằng “tư tưởng không có lịch sử riêng của mình”, bởi vì tư tưởng chỉ là sự phản ánh
trong ý thức xã hội sự vận động và phát triển của tồn tại xã hội. Do đó chúng ta không thể
tìm nguồn gốc của tư tưởng xã hội và tâm lý xã hội trong bản thân chúng, và mỗi sự biến
đổi lịch sử cũng sẽ không giải thích đúng được nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại ấy.

Mỗi khi tồn tại xã hội thay đổi (nhất là phương thức sản xuất thay đổi) thì ý thức xã hội
(những quan điểm về chính trị, đạo đức, pháp quyền, triết học, nghệ thuật,…) sớm muộn
cũng thay đổi theo. Vì vậy, ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau thường có những quan niệm,
tư tưởng khác nhau – đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết
định.

Chẳng hạn, khi con người, loài người còn sống trong trạng thái mông muội, công cụ sản
xuất thô sơ, thì ý thức xã hội của họ “cũng mang tính động vật như chính đời sống xã hội
ở giai đoạn ấy; đó là ý thức quần cư đơn thuần”. Ở Việt Nam, khi công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước được triển khai, từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với cơ chế bao cấp
chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước “mở cửa” chủ
động hội nhập quốc tế…thì trong xã hội đã xuất hiện và phát triển ý thức đổi mới, tinh
thần hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, tính năng động sáng tạo, ý chí quyết tâm làm giàu
cho mình và cho đất nước.

Tất cả những điều trên cho thấy rằng: “không phải ý thức của con người quyết định sự
tồn tại của họ; trái lại tồn tại xã hội quyết định ý thức của họ”.

c) Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

Trong khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, ý thức xã
hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, chủ nghĩa duy vật Macxit đồng thời nhấn mạnh tính độc
lập tương đối của ý thức xã hội trong quan hệ với tồn tại xã hội, nhấn mạnh vai trò tích
cực và sức mạnh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.

Theo đó, ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Lịch sử xã hội đã cho
thấy rằng, khi xã hội cũ đã không còn tồn tại nữa, nhưng ý thức xã hội do nó sinh ra vẫn
còn tồn tại dai dẳng với thời gian khá lâu, nhất là những truyền thống, tập quán, thói quen
của con người. Và khi xã hội mới đã ra đời, nhưng ý thức xã hội về xã hội đó chưa nảy
sinh ngay lập tức, mà phải một thời gian sau đó mới xuất hiện. Nguyên nhân của tình
trạng này được xuất phát từ chỗ:

Thứ nhất, vì ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nó thường xuất hiện sau tồn
tại xã hội. Hơn nữa, xu hướng chủ đạo của tồn tại xã hội là vận động, biến đổi thường
xuyên, liên tục, mạnh mẽ và nhanh chóng, trong khi đó ý thức xã hội không phản ánh kịp
thời sự vận động, biến đổi đó của tồn tại xã hội.
Thứ hai, do sức mạnh bảo thủ trì trệ của thói quen, tập quán, truyền thống có hàng ngàn
năm nay đã ăn sâu bám rễ vào con người và cộng đồng xã hội. Mặt khác, còn do sự lạc
hậu của một số hình thái ý thức xã hội (như hình thái ý thức tôn giáo).

Thứ ba, ý thức xã hội thường gắn bó và bảo vệ lợi ích của những tập đoàn người, những
giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, những truyền thống lạc hậu
thường được các giai cấp lỗi thời, phản động duy trì để bảo vệ lợi ích của giai cấp đó,
đồng thời đấu tranh chống lại những lực lượng xã hội tiến bộ.

Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người, đặc biệt là những tư tưởng
khoa học tiên tiến có thể vượt trước dự báo sự phát triển của trật tự xã hội, có tác dụng tổ
chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là ý thức xã hội đã
thoát ra khỏi sự quy định, chi phối của tồn tại xã hội, mà chứng tỏ rằng, tính tích cực sáng
tạo của ý thức xã hội đã phản ánh được cái logic nội tại khách quan trong sự phát triển
của tồn tại xã hội.

d) Ý nghĩa phương pháp luận:

Tồn tại xã hội có mối quan hệ biện chứng với ý thức xã hội. Trong đó, ý thức xã hội bị
chi phối bởi tồn tại xã hội. Vì vậy muốn thay đổi ý thức xã hội trước hết cần phải thay đổi
tồn tại xã hội bao gồm phương thức sản xuất và môi trường xã hội (nhà trường, nhà nước,
gia đình). Ngược lại, vì ý thức xã hội rất quan trọng, do đó cần phải chăm lo, xây dựng ý
thức xã hội tiến bộ để làm động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

Câu 12: Khái niệm về con người và bản chất con người

a) Khái niệm về con người:

*Con người là một thực thể “sinh vật – xã hội – tinh thần”

Theo C.Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển cao nhất của
giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả các thành
tựu của văn minh và văn hóa. Về phương diện sinh học, con người là một thực thể sinh
vật, là sản phẩm của giới tự nhiên, là một động vật xã hội. “Bản thân cái sự kiện là con
người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định việc con người không bao giờ hoàn toàn
thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật”. Điều đó có nghĩa rằng con người cũng
như mọi động vật khác phải tìm kiếm thức ăn, nước uống, phải “đấu tranh sinh tồn” để ăn
uống, sinh đẻ con cái, tồn tại và phát triển.

Không chỉ là một thực thể sinh học, mà con người cũng còn là một phận của giới tự
nhiên. Con người phải phục tùng các quy luật của giới tự nhiên, các quy luật sinh học
như di truyền, tiến hóa sinh học và các quá trình sinh học của giới tự nhiên. Con người là
một bộ phận đặc biệt, quan trọng của giới tự nhiên, nhưng lại có thể biến đổi giới tự
nhiên và chính bản thân mình, dựa trên các quy luật khách quan. Bằng hoạt động thực
tiễn, con người trở thành một bộ phận của giới tự nhiên có quan hệ với giới tự nhiên,
thống nhất với giới tự nhiên, bởi giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”. Vì thế
con người phải dựa vào giới tự nhiên, gắn bó với giới tự nhiên, hòa hợp với giới tự nhiên
mới có thể tồn tại và phát triển.

Con người còn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội quan
trọng nhất của con người là lao động sản xuất. Nhờ có lao động sản xuất mà con người về
mặt sinh học có thể trở thành thực thể xã hội, thành chủ thể của “lịch sử có tính tự nhiên”,
có lý tính, có “bản năng xã hội”. Lao động đã góp phần cải tạo bản năng sinh học của con
người, làm cho con người trở thành con người đúng nghĩa của nó. Lao động là điều kiện
kiên quyết, cần thiết và chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển của con người cả
về phương diện sinh học lẫn phương diện xã hội.

b) Bản chất con người là tổng hòa tất cả các quan hệ xã hội:

Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở những điều kiện lịch sử nhất định, con người có
quan hệ với nhau để tồn tại và phát triển. Bản chất của con người luôn được hình thành
và thể hiện ở những con người hiện thực, cụ thể trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Các
quan hệ xã hội tạo nên bản chất của con người, nhưng không phải là sự kết hợp đơn giản
hoặc tổng cộng chúng lại với nhau mà là sự tổng hòa của chúng. Mối quan hệ xã hội có
vị trí, vai trò khác nhau, có tác động qua lại, không tách rời nhau.

Khi các quan hệ xã hội thay đổi dù ít hoặc nhiều, sớm hoặc muộn thì bản chất con người
cũng sẽ thay đổi theo. Trong các quan hệ xã hội cụ thể, xác định, con người mới có thể
bộc lộ được bản chất thực sự của mình, và cũng trong những quan hệ xã hội đó thì bản
chất người của con người mới được phát triển. Các quan hệ xã hội khi đã hình thành thì
có vai trò chi phối và quyết định các phương diện khác của đời sống con người khiến cho
con người không còn thuần túy là một động vật mà là một động vật xã hội.

c) Ý nghĩa phương pháp luận:

Bàn về khái niệm con người và bản chất con người để chúng ta hiểu rằng: con người là
sản phẩm của môi trường sống nên cần phải luôn xây dựng môi trường bao gồm gia đình,
nhà trường, xã hội lành mạnh để điều kiện phát triển cho con người. Hơn nữa, vì con
người là chủ thể của xã hội nên cần phải luôn chú ý giáo dục, đào tạo con người phát
triển toàn diện để tạo động lực cho sự phát triển. Chúng ta cần phải biết sử dụng hợp lý
nguồn lực con người và quan trọng hơn hết là luôn coi con người là mục tiêu của sự phát
triển.

You might also like