Professional Documents
Culture Documents
8.Ph M Thành Trang
8.Ph M Thành Trang
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI VÀ GIẢI PHẪU LOÀI TRÚC ĐEN
(Phyllostachys nigra Munro) TẠI SA PA - LÀO CAI
Phạm Thành Trang1, Bùi Đình Đức1, Nguyễn Thị Thu1
TÓM TẮT
Trúc đen (Phyllostachys nigra Munro) có thân ngầm đơn trục, thân khí sinh mọc tản, cao 6-7 m, có khi đạt tới 9
m; đường kính của lóng dày 3-4 cm, đôi khi đạt tới 5 cm; chiều dài của lóng là 25-28 cm, đôi khi đạt 30 cm; bề
dày thành lóng là 0,2-0,4 cm. Ở cây trưởng thành (tuổi 3–6) thân khí sinh có màu tím đen, bóng, phân cành ở vị
trí 1/2 đến 1/3 độ cao thân cây (ở độ cao 2-3 m); có hai cành (một cành to và một cành nhỏ) trên một đốt, đôi khi
chỉ có một cành. Lá quang hợp hình trái xoan thuôn dài, đầu lá nhọn, đuôi lá hơi thuôn dài lá 8-12 cm, rộng 1-1,2
cm, hệ gân song song; bẹ lá dài 4-6 cm, tai lá dạng lông, thìa lìa xẻ sợi. Phiến mo Trúc đen rất mỏng, nhỏ (dài 1,5-
2,5 cm), màu nâu vàng; mo của lóng ở sát gốc ngắn hơn so với mo của lóng ở trên thân, bẹ mo lớn, hình chuông,
đáy mo rộng 6-8 cm, dài 10-15 cm, đáy trên rộng 1-2 cm, tai mo và lưỡi mo đều dạng sợi. Trúc đen có hàm lượng
diệp lục tổng số (a+b) là 3,70 mg/g lá tươi, tỷ lệ diệp lục a:b bằng 1,91. Với tỷ lệ diệp lục a:b thu được cho thấy
loài này có nhu cầu ánh sáng không cao, có thể xếp chúng vào nhóm cây chịu bóng.
Từ khóa: Giải phẫu, hình thái, Lào Cai, Sa Pa, Trúc đen.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ Tình trạng bảo tồn thuộc phân hạng VU a1a
Ở Việt Nam, tre trúc là loài cây có giá trị, cả (sẽ nguy cấp).
về kinh tế, xã hội và văn hoá. Tre trúc là nhóm Tại Sa Pa - Lào Cai, Trúc đen phân bố ở hai
lâm sản ngoài gỗ có thể xếp thứ hai sau gỗ. xã Bản Khoang và Tả Van (là vùng đệm của
Trong nhiều năm qua đã có nhiều công trình VQG Hoàng Liên), người dân địa phương đã
nghiên cứu để phát triển nguồn tài nguyên này; và đang khai thác với mục đích làm cảnh, làm
Tuy nhiên việc nghiên cứu chỉ tập trung cho thuốc và lấy măng làm thức ăn. Hiện nay diện
những loài có giá trị kinh tế cao, một số loài tích Trúc đen suy giảm mạnh cả về số lượng và
vẫn chưa được nghiên cứu, tìm hiểu sâu, đặc chất lượng (khoảng 700 m2); đặc biệt, người
biệt là những loài có phạm vi phân bố hẹp, dân chưa quan tâm đến việc gây trồng, mở
diện tích còn rất ít nhưng lại có giá trị cao về rộng diện tích phục vụ mục đích kinh tế và bảo
khoa học, bảo tồn nguồn gen, giá trị làm tồn loài. Nghiên cứu về đặc điểm hình thái,
cảnh,… Trúc đen (Phyllostachys nigra Munro) giải phẫu của loài trong tự nhiên là rất cấp
là một trong số đó. thiết; đóng góp những thông tin hữu ích trong
Trong Sách đỏ Việt Nam năm 1996 và năm việc nhận dạng và định hướng nơi trồng thích
2007 của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi hợp phục vụ công tác bảo tồn ngoại vi loài
trường: Loài Trúc đen (Phyllostachys nigra thực vật đặc hữu quý hiếm này.
Munro, 1868) mới được phát hiện và đem II. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
trồng làm cảnh ở Việt Nam trong một số năm
1. Nội dung nghiên cứu
gần đây. Trúc đen có dáng, màu sắc đẹp, lạ
nên đã và đang trở thành một cây cảnh triển - Nghiên cứu đặc điểm hình thái loài Trúc
vọng. Trúc đen là loài hiếm, số lượng cây ít, đen (thân ngầm, thân khí sinh, lá quang hợp, lá
vùng phân bố hẹp (chỉ tập trung ở độ cao mo nang).
khoảng 1.200 m trở lên ở Sa Pa (tỉnh Lào Cai) - Nghiên cứu đặc điểm giải phẫu loài Trúc đen.
và huyện Mèo Vạc, huyện Hoàng Su Phì (tỉnh 2. Phương pháp nghiên cứu
Hà Giang), là loài cây, cần được bảo tồn nguồn gen. a. Phương pháp kế thừa
1
ThS, ThS, KS. Trường Đại học Lâm nghiệp Các tài liệu liên quan đến tre nứa nói chung
Hình 6. Cấu tạo bó dẫn phân hóa nhất của thân Trúc đen
b. Đặc điểm cấu tạo giải phẫu lá Trúc đen Nhu mô đồng hóa: Đối với họ Hòa thảo,
Biểu bì trên: Gồm một hàng tế bào có kích nhu mô đồng hóa thường đồng nhất, không
thước không đều nhau, thỉnh thoảng trong hàng phân hóa thành mô dậu, mô khuyết. Nhưng khi
biểu bì có xen một đám tế bào dị hình gồm 3 tế quan sát nhu mô đồng hóa của Trúc đen nhóm
bào mọng nước, tế bào ở giữa to nhất, đó là nghiên cứu nhận thấy chúng phân hóa rất rõ
nhóm tế bào trương nước hay còn gọi là tế bào thành mô dậu và mô khuyết. Mô dậu thường
vận động, chúng xếp thành hình quạt. Tế bào gồm một hàng tế bào có hình trụ xếp ngay dưới
trương nước có thể gặp ở các đại diện thuộc họ lớp biểu bì trên. Nằm giữa mô dậu và biểu bì
Hòa thảo, chúng có tác dụng trải rộng mặt lá dưới là mô khuyết. Đặc biệt những vị trí mà
khi có đủ nước. Tại những thời điểm nắng biểu bì có tế bào trương nước (tế bào vận
nóng, lá mất nước, các tế bào này xẹp xuống động), bề dày lớp mô dậu và mô khuyết xấp xỉ
kéo mép lá cuộn lại, giúp lá giảm tiết diện tiếp nhau. Mặt khác, ở một số lá chúng tôi còn
xúc với ánh sáng mặt trời, kết quả làm giảm sự quan sát thấy, nhu mô đồng hóa có vách xếp
thoát hơi nước. Biểu bì trên được phủ một lớp nếp. Đặc điểm này sẽ làm tăng bề mặt tế bào
cutin có độ dày trung bình 3,78m, lớp cutin chứa lục lạp, tăng khả năng hấp thu ánh sáng
này có chức năng bảo vệ, làm giảm sự thoát hơi cho quá trình quang hợp. Trong phần thịt lá
nước qua bề mặt lá và hạn chế sự xâm nhiễm cây họ Hòa thảo chúng ta bắt gặp các khoảng
của vi sinh vật gây bệnh. khuyết chứa khí do nhu mô đồng hóa tiêu biến
Bảng 01. Kết quả phân tích giải phẫu lá Trúc đen
Trong điều kiện ánh sáng khác nhau, đặc cây ưa sáng phần mô dậu thường phát triển
điểm hình thái và giải phẫu lá rất khác nhau. mạnh, có thể có 2-3 hoặc hơn nhiều số lớp tế
Những lá sống trong môi trường ánh sáng yếu bào. Chúng là những tế bào có hình trụ xếp
(chịu bóng) lá thường mỏng, mềm, có màu vuông góc với biểu bì trên, bên trong tế bào
xanh sẫm. Ngược lại, lá được chiếu sáng đầy chứa nhiều lục lạp. Vì vậy mô dậu là mô quang
đủ (ưa sáng), thường dày, tiết diện thu nhỏ, có hợp chính cho cây. Ở những cây chịu bóng, tỷ
màu xanh lục nhạt,…. Về mặt hình thái, lá lệ mô dậu/mô khuyết thường nhỏ hơn 1. Với
Trúc đen có màu xanh sẫm, mềm và mỏng (bề Trúc đen tỷ lệ mô dậu/mô khuyết bằng 0,72.
dày lá trung bình khoảng 89,92 m). Điều này Dựa vào chỉ tiêu giải phẫu lá và đặc điểm hình
phản ánh nhu cầu ánh sáng không cao của Trúc thái của lá ta có thể sơ bộ nhận xét Trúc đen là
đen. Mặt khác, tỷ lệ mô dậu/ mô khuyết phản loài chịu bóng.
ánh khá rõ nhu cầu ánh sáng của cây. Ở những
Bảng 02. Kết quả phân tích hàm lượng diệp lục (a+b) và tỷ lệ diệp lục a:b
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ chiếu mọc ra những thân ngầm khác và sinh măng
sáng khác nhau đến thuộc tính quang học của phát triển thành thân khí sinh nhô lên khỏi mặt
cây, nhiều tác giả trên thế giới đã chứng minh đất. Tất cả các mắt trên thân ngầm và các mắt
được rằng: Thực vật hoặc cây lá trong điều ở các đốt gốc của thân khí sinh đều có khả
kiện ánh sáng đầy đủ có hàm lượng diệp lục năng sinh măng. Tại khu vực nghiên cứu thân
tổng số thấp hơn và tỷ lệ diệp lục a: b cao hơn ngầm nằm trong đất ở độ sâu 5-10 cm, cá biệt,
thực vật hoặc những lá sinh trưởng trong bóng. có chỗ thân ngầm lộ hẳn lên khỏi mặt đất.
Thực vật có mạch ưa sáng thường có tỷ lệ diệp Thân khí sinh Trúc đen là thân rỗng, hình
lục a:b (C3 = 3:1; C4 = 4:1). Theo một số tác trụ, thẳng, mọc tản, cao 6-7 m (đôi khi có cây
giả, thực vật ưa bóng hoặc chịu bóng có tỷ lệ cao tới 9 m). Đường kính bình quân của thân
diệp lục a:b thấp hơn thường nhỏ hơn 2,3. khí sinh từ 3-5 cm. Lóng Trúc đen hơi dẹt và
Điều này được lý giải: Trong môi trường ánh có 2 rãnh dọc 2 bên (phía mọc của cành). Điểm
sáng yếu chúng phải tăng lượng diệp lục, đặc nổi bật nhất phân biệt loài Trúc đen với những
biệt là diệp lục b để tăng cường hấp thu ánh loài trúc khác là ở cây trưởng thành toàn bộ
sáng vì diệp lục b có khả năng hấp thu dải ánh thân khí sinh có màu tím đến tím đen, bóng. Ở
sáng bước sóng rộng hơn mà diệp lục a không cây non thân khí sinh có màu xanh nhạt, phía
hấp thu được, rồi chuyển sang cho diệp lục a, ngoài có nhiều lông màu trắng, ở các đốt có
đảm bảo nhu cầu ánh sáng cho quang hợp. màu tím nhạt. Ở những cây già thân khí sinh
Từ bảng 02 cho thấy, Trúc đen có hàm màu đen xám, có địa y bám vào. Thân khí sinh
lượng diệp lục tổng số (a+b) là 3,70 mg/g lá bổ dọc, phía trong mầu trắng, có màng ở phần
tươi, tỷ lệ diệp lục a:b bằng 1.91. Với tỷ lệ khoang ruột, bề dày thành lóng từ 0,2-0,4 cm.
diệp lục a:b thu được cho thấy Trúc đen thuộc Trúc đen phân cành vào vị trí từ 1/2 đến 1/3
nhóm cây chịu bóng. thân, ở độ cao 2-3 m. Mỗi mắt trên đốt mang 2
Như vậy, kết hợp đặc điểm hình thái lá, tỷ cành (một cành to, một cành nhỏ), cá biệt có
lệ mô dậu/mô khuyết và tỷ lệ diệp lục a:b thu cây tiêu giảm chỉ còn 1 cành. Phần gốc cành
được trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá sát với thân hơi dẹt, tạo với thân một góc 45o.
nhu cầu ánh sáng của Trúc đen tại Lào Cai Lá quang hợp của cây có hình trái xoan
được xếp chúng vào nhóm cây chịu bóng. thuôn dài, đầu lá nhọn, đuôi lá hơi thuôn, chiều
IV. KẾT LUẬN dài lá 8-12 cm, rộng 1-1,2 cm. Lá có màu xanh
lục thẫm, 2 mặt đều nhẵn, hệ gân song song có
Trúc đen là loài có thân ngầm đơn trục, thân 4-6 gân bên. Bẹ lá dài 4-6 cm, mép lá có răng
khí sinh mọc tản. Đốt thân ngầm dài trung bình cưa nhỏ. Tai lá dạng lông, có 10-15 lông dài
2–4 cm, đường kính thân ngầm bình quân 1,5 khoảng 0,5 cm. Thìa lìa xẻ sợi.
cm, màu tím hoặc màu trắng ngà. Thân ngầm
Mo Trúc đen rất mỏng, khi khô có màu nâu
có xu hướng bò lan theo hướng từ vị trí cao
vàng, mặt ngoài có nhiều lông thô cứng màu
đến vị trí thấp hơn. Từ thân ngầm chính lại
đen, mặt trong của mo nhẵn bóng. Mo của lóng