QTKDBaoHiem Bai1

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 24

Bài 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂM

Hướng dẫn học:


- Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ, tích cực
trao đổi với giáo viên hướng dẫn và tham gia thảo luận trên diễn đàn.
- Đọc tài liệu:
+ Đọc tài liệu theo hướng dẫn cụ thể theo đề cương học phần
+ Đọc thêm các thông tin, tư liệu về thị trường bảo hiểm Việt Nam và thế giới
- Xem video bài giảng
- Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc
qua email.
- Tham khảo các thông tin từ trang Web môn học.
Nội dung bài 1:
Bài 1 trình bày các vấn đề cơ bản và chung nhất về bảo hiểm. Đây là bài nhập
môn, trình bày cơ sở của bảo hiểm, các khái niệm, các loại hình bảo hiểm và vai trò
của bảo hiểm, hỗ trợ cho việc tiếp tục nghiên cứu cụ thể và chi tiết về bảo hiểm để vận
dụng vào việc quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế. Nội
dung bài 1 tập trung vào các vấn đề sau:
- Rủi ro và quản trị rủi ro
- Khái niệm và bản chất của bảo hiểm
- Các loại bảo hiểm
- Vai trò kinh tế và xã hội của bảo hiểm
Mục tiêu bài 1:
Sau khi học xong bài này, sinh viên cần:
- Hiểu được khái niệm rủi ro và phân biệt được các loại rủi ro
- Nắm vững các công cụ quản trị rủi ro
- Hiểu được khái niệm và bản chất của bảo hiểm
- Phân biệt được các loại bảo hiểm
- Hiểu rõ vai trò kinh tế và xã hội của Bảo hiểm

Tình huống dẫn nhập: Con tàu huyền thoại Titanic


Tàu Titanic, con tàu nổi tiếng nhất trong lịch sử, rời cảng Southampton, Anh
Quốc, hướng về New York, Hoa Kỳ ngày 10/04/1912. Ngày 11/04, Sau khi đón khách
ở Cherbourg, Pháp và ở Queenstown (nay gọi là Cobh), Ai Len, tàu Titanic hướng về
Đại Tây Dương. Ngày 14/4, khoảng 11h40 tối, tàu Titanic va vào một tảng băng trôi.
Ngày 15/04, lúc 2h20 sáng, tàu Titanic chìm. Trên tàu có 16 thuyền cứu đắm và 4
thuyền gập lại được với sức chứa tối đa khoảng 1.170 người. Nhưng có khoảng
2.200 hành khách và những người làm việc trên tàu. Trong vụ đắm tàu Titanic chỉ có
705 người được cứu, khoảng 1.500 người thiệt mạng. Toàn bộ con tàu Titanic chìm
xuống đáy đại dương.
http://wol.jw.org/vi/wol/d/r47/lp-vt/102012124
Câu hỏi: Tàu Titanic có được bảo hiểm bồi thường không?
Hướng dẫn nghiên cứu giải quyết tình huống:
- Khả năng xảy ra rủi ro của tàu Titanic?
- Chủ tàu có nhu cầu mua bảo hiểm cho tàu Titanic không?
- Doanh nghiệp Bảo hiểm có sẵn sàng nhận bảo hiểm cho tàu Titanic không?

1.1. RỦI RO VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO


1.1.1. Khái niệm và phân loại rủi ro
1.1.1.1. Khái niệm rủi ro
Trong cuộc sống cũng như trong sản xuất, chúng ta luôn có thể gặp các sự kiện
nằm ngoài dự kiến. Có những sự kiện ngoài dự kiến mang lại những tốt đẹp, thuận lợi
cho cuộc sống con người. Nhưng cũng có thể là những biến cố không mong muốn với
các thiệt hại có thể là rất lớn. Các biến cố không mong đợi này được gọi là rủi ro.
Nhiều ý kiến cho rằng, rủi ro là sự cố không may bất ngờ xảy ra gây thiệt hại về người
hoặc tài sản.
Rủi ro có đặc điểm rõ nét là sự không chắc chắn, bất ngờ, ngẫu nhiên hay còn gọi
là tính bất định của một biến cố nào đó. Nghĩa là rủi ro có khả năng xảy ra hay không
xảy ra, và rủi ro có thể xảy ra ở bất kỳ thời gian và không gian nào với quy mô thiệt
hại lớn hay nhỏ mà ta không xác định trước được.
Để làm rõ khái niệm rủi ro, cần phân biệt rủi ro với nguy cơ và hiểm họa.
- Rủi ro (risk): là từ chung để chỉ một biến cố gây ra tổn thất. Ví dụ, một vụ cháy thiêu
trụi kho hàng của một doanh nghiệp kinh doanh hóa chất, gây thiệt hại về tài chính cho
chủ doanh nghiệp.
- Hiểm họa (peril): là nguyên nhân chính gây tổn thất. Trong ví dụ trên, “cháy” là hiểm
họa.
- Nguy cơ (hazard): là một hay nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tổn thất. Nguy cơ không
phải là nguyên nhân gây ra tổn thất nhưng có thể làm tăng hoặc giảm khả năng tổn thất
khi hiểm họa xảy ra. Việc “kho hàng chứa hóa chất” là một nguy cơ vì khả năng xảy ra
cháy của hóa chất cao hơn nhiều mặt hàng khác. Có 2 loại nguy cơ là nguy cơ vật chất
và nguy cơ đạo đức. Trong vụ cháy kho hóa chất nói trên, nguy cơ vật chất là loại
hàng hóa chứa trong kho hoặc kết cấu ngôi nhà, nguy cơ đạo đức là ý thức trách nhiệm
của thủ kho và các biện pháp phòng cháy chữa cháy của doanh nghiệp.
1.1.1.2. Phân loại rủi ro
Rủi ro được phân thành nhiều loại tùy theo các tiêu thức phân loại khác nhau.
- Căn cứ vào vào khả năng kiếm lời trong kết cục của rủi ro: rủi ro thuần và rủi ro đầu
cơ (rủi ro suy đoán)
+ Rủi ro thuần túy chỉ liên quan đến việc có bị tổn thất hay không. Ví dụ kho hàng
bị cháy, thiệt hại về hàng hóa là 10 tỷ đồng. Nếu không bị cháy, doanh nghiệp sẽ
không bị thiệt hại 10 tỷ đồng.
+ Rủi ro đầu cơ (rủi ro suy đoán) liên quan đến 3 kết quả có thể xảy ra: tổn thất, có
lãi hoặc không thay đổi. Ví dụ: mua cổ phiếu là rủi ro đầu cơ, người mua cổ phiếu
có thể có lãi hoặc bị thua lỗ do giá cổ phiếu tăng hoặc giảm, và cũng có thể không
được cũng như không mất gì do giá cổ phiếu đó không thay đổi.
- Căn cứ vào việc đo lường hậu quả của rủi ro: rủi ro tài chính và rủi ro phi tài chính
+ Rủi ro tài chính là rủi ro có thể xác định hậu quả bằng tiền hoặc quy được thành
tiền.
+ Rủi ro phi tài chính là những rủi ro không xác định bằng tiền mà liên quan đến
tâm sinh lý con người.
Ví dụ bị tai nạn giao thông làm tinh thần hoảng hốt, cảm giác bất an là rủi ro phi
tài chính. Chi phí y tế phải trả là rủi ro tài chính.
- Căn cứ vào cả nguyên nhân và hậu quả của rủi ro: rủi ro cơ bản và rủi ro riêng biệt
+ Rủi ro cơ bản là những rủi ro có nguyên nhân nằm ngoài tầm kiểm soát của con
người và gây ảnh hưởng đến nhiều người. Nguyên nhân dẫn đến các rủi ro cơ bản
thường do thiên nhiên, như bão lụt, động đất, hạn hán ... Hoặc do các biến động
trong môi trường kinh tế - chính trị - xã hội như thất nghiệp
+ Rủi ro riêng biệt có nguyên nhân và hậu quả mang tính cá biệt, xảy ra với một
hoặc một số ít người. Tai nạn giao thông, tai nạn lao động là những ví dụ điển hình
về rủi ro riêng biệt.
1.1.2. Quản trị rủi ro
Trong mọi hoạt động, con người luôn có nguy cơ gặp phải rủi ro vì những
nguyên nhân khác nhau, như: bão lụt, hạn hán, ốm đau, bệnh tật tai nạn... Mỗi khi gặp
phải rủi ro thường gây nên những hậu quả khó lường làm ảnh hưởng đến đời sống,
sản xuất và đến sức khoẻ của con người. Bởi vậy, ngay từ khi xã hội loài người xuất
hiện thì nhu cầu an toàn đối với con người cũng xuất hiện và nó là một trong những
nhu cầu vĩnh cửu. Lúc nào con người cũng tìm cách bảo vệ chính bản thân và tài sản
của mình trước những rủi ro trong cuộc sống cũng như trong sản xuất. Phương pháp
bảo vệ lúc đầu là rất đơn giản và đôi kho là mù quáng, bằng cách họ luôn luôn cầu xin
các đấng thần linh và chúa trời phù hộ dể được yên ổn, an toàn. Và chẳng bao lâu con
người đã tìm ra cách thức bảo vệ một cách có tổ chức. Các nhà khảo cổ học đã tìm
thấy những vết tích chứng minh sự tồn tại của các tổ chức cứu hộ tương hỗ đối với các
thợ tạc đá Ai Cập cổ đại từ 4.500 năm trước công nguyên. Hay người Ba-Bi-Lon đã
đưa ra những quy tắc trong việc tổ chức các phương tiện vận tải bằng xe kéo và đặc
biệt đã quy định phân chia các thiệt hại do mất cắp và bị cướp cho các thương gia cùng
gánh chịu. Thời La Mã cổ đại đã có những hội đoàn kết tương trợ của các tập đoàn
lính có cùng nhu cầu, bằng cách người ta đã dùng quy chế của toàn tang lễ Lanuvium
tổ chức tang lễ cho tất cả các thành viên đã có tiền đóng góp cho hội từ khi họ còn
sống. Đến thời Trung cổ, các quy tắc về bảo hiểm hàng hải đã được hình thành và phát
triển với bằng chứng là người ta đã tìm thấy các bản hợp đồng bảo hiểm cổ xưa nhất ở
các cảng biển Địa Trung Hải và Đại Tây Dương...
Khi cuộc sống và sản xuất ngày càng phát triển thì nhu cầu an toàn cũng được
con người ngày càng quan tâm nhiều hơn. Đặc biệt là khi khoa học, kỹ thuật và công
nghệ phát triển, một mặt đã làm tăng năng suất lao động và tạo điều kiện thuận lợi cho
cuộc sống của con người, nhưng mặt khác nguy cơ gặp rủi ro của con người cũng ngày
càng nghiêm trọng. Để đối phó với rủi ro và khắc phục hậu quả tổn thất, lúc này con
người đã tìm ra nhiều cách thức khác nhau để phòng vệ. Từ góc độ quản trị rủi ro, theo
mục đích và các biện pháp xử lý rủi ro, những cách thức này thể hiện chủ yếu ở hai
nhóm biện pháp là kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro.
1.1.2.1. Kiểm soát rủi ro
Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm biện pháp tránh né rủi ro, ngăn
ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro.
- Tránh né rủi ro: Đây là biện pháp được sử dụng phổ biến trong cuộc sống.
Mỗi cá nhân, mỗi tổ chức đều có thể lựa chọn những biện pháp thích hợp để né tránh
rủi ro có thể xảy ra nhằm loại trừ nguy cơ dẫn đến bị tổn thất. Chẳng hạn, để né tránh
tai nạn giao thông người ta đã hạn chế việc đi lại, hay để phòng tránh tai nạn lao động,
người ta sẽ chọn những ngành nghề ít nguy hiểm hơn... Tuy vậy, trong cuộc sống mà
nhất là cuộc sống hiện đại như ngày nay biện pháp này rất khó thực hiện và thậm chí là
không thể thực hiện được.
- Ngăn ngừa tổn thất: Đây là biện pháp khá chủ động bằng cách thực hiện các
hành vi và hành động cụ thể mà các cá nhân và tổ chức đưa ra nhằm giảm mức độ thiệt
hại khi gặp rủi ro. Chẳng hạn, để giảm bớt tai nạn lao động, các khoá học cho người
lao động về an toàn, vệ sinh lao động được tổ chức. Hay để phòng chống hoả hoạn,
người ta đã thực hiện tốt công tác phòng cháy chữa cháy...
- Giảm thiểu tổn thất. Cho dù khi đã gặp phải rủi ro, người ta vẫn có thể có các
biện pháp làm giảm thiểu tổn thất. Ví dụ, khi hoả hoạn xảy ra, để giảm thiểu tổn thất
người ta đã sử dụng biện pháp cứu hoả. Hay khi bị tai nạn, để giảm thiểu các thiệt hại
về người, người ta đã đưa những người bị thương đi cấp cứu kịp thời và điều trị...
Các biện pháp kiểm soát rủi ro nhìn chung đều mang tính chủ động và có tác dụng
trong việc ngăn chặn hoặc giảm thiểu rủi ro tổn thất nhưng vẫn không ngăn được rủi ro
xảy ra cũng như ngăn cản xảy ra thiệt hại. Hơn nữa, chi phí thực hiện các biện pháp
kiểm soát rủi ro có thể là rất lớn và nằm ngoài khả năng tài chính của các doanh
nghiệp.
1.1.2.2. Tài trợ rủi ro
Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm chấp nhận rủi ro và bảo hiểm
- Chấp nhận rủi ro: Đây là biện pháp mà con người tự chấp nhận tổn thất khi gặp
phải rủi ro, điều đó cũng có nghĩa là họ tự bảo hiểm. Chẳng hạn, người ta có thể tự lập
ra quỹ dự trữ, dự phòng và quỹ này chỉ được sử dụng để bù đắp tổn thất khi gặp phải
rủi ro. Hoặc khi rủi ro xảy ra, để khắc phục hậu quả cho người ta có thể đi vay mượn
tiền bạc để khắc phục hậu quả.
- Bảo hiểm: Đây là biện pháp chuyển giao rủi ro rất có hiệu quả. Có nghĩa là,
nhiều người cùng có khả năng gặp phải rủi ro đóng góp tiền bạc để hình thành quỹ bảo
hiểm và quỹ này được dùng chủ yếu vào mục đích bồi thường hoặc chi trả khi một hay
một số người tham gia đóng góp gặp phải rủi ro tổn thất.
Theo đà phát triển của lịch sử và của các hình thái kinh tế xã hội cho thấy, trong
số tất cả các biện pháp thuộc hai nhóm biện pháp nêu trên, biện pháp bảo hiểm mà con
người áp dụng là phổ biến và có hiệu quả nhất. Bởi lẽ, hậu quả của rủi ro thông qua
bảo hiểm sẽ được phân tán cho nhiều người cùng gánh chịu. Hơn nữa, bảo hiểm không
chỉ thuần tuý là sự chuyển giao, sự chia sẻ rủi ro, mà nó còn là sự giảm thiểu rủi ro,
giảm thiểu tổn thất, thông qua các chương trình quản lý rủi ro được phối hợp giữa các
cá nhân, các tổ chức kinh tế - xã hội với các tổ chức bảo hiểm.
Từ thực tế diễn ra nêu trên đã chứng minh rằng, bảo hiểm ra đời là mọt đòi hỏi
khách quan của cuộc sống và sản xuất. Xã hội càng phát triển và văn minh thì hoạt
động bảo hiểm cũng ngày càng phát triển và không thể thiếu được đối với mỗi cá
nhân, tổ chức và mỗi quốc gia.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM
1.2.1. Bản chất của bảo hiểm
1.2.1.1. Khái niệm bảo hiểm
Bảo hiểm là biện pháp chuyển giao rủi ro rất có hiệu quả. Có nghĩa là, nhiều
người cùng có khả năng gặp phải rủi ro đóng góp tiền bạc để hình thành quỹ bảo hiểm
và quỹ này được dùng chủ yếu vào mục đích bồi thường hoặc chi trả khi một hay một
số người tham gia đóng góp gặp phải rủi ro tổn thất.
Theo đà phát triển của lịch sử và của các hình thái kinh tế xã hội cho thấy, trong
số tất cả các biện pháp thuộc hai nhóm biện pháp nêu trên, biện pháp bảo hiểm mà con
người áp dụng là phổ biến và có hiệu quả nhất. Bởi lẽ, hậu quả của rủi ro thông qua
bảo hiểm sẽ được phân tán cho nhiều người cùng gánh chịu. Hơn nữa, bảo hiểm không
chỉ thuần tuý là sự chuyển giao, sự chia sẻ rủi ro, mà nó còn là sự giảm thiểu rủi ro,
giảm thiểu tổn thất, thông qua các chương trình quản lý rủi ro được phối hợp giữa các
cá nhân, các tổ chức kinh tế - xã hội với các tổ chức bảo hiểm.
Từ thực tế diễn ra nêu trên đã chứng minh rằng, bảo hiểm ra đời là một đòi hỏi
khách quan của cuộc sống và sản xuất. Xã hội càng phát triển và văn minh thì hoạt
động bảo hiểm cũng ngày càng phát triển và không thể thiếu được đối với mỗi cá
nhân, tổ chức và mỗi quốc gia.
1.2.1.2. Bản chất của bảo hiểm
Mục đích chủ yếu của bảo hiểm là góp phần ổn định cuộc sống và sản xuất cho
những người tham gia, và kiến tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế va xã hội của đất
nước. Chính vì vậy, bản chất của bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm
quốc nội giữa những người tham gia bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu về tài chính phát
sinh khi rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra với đối tượng bảo hiểm. Tuy nhiên, phân
phối trong bảo hiểm chủ yếu là phân phối không đều, và phần lớn không mang tính bồi
hoàn trực tiếp (loại trừ một số loại hình bảo hiểm, như: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm
tiền hưu trí).
Ngoài ra, bản chất của bảo hiểm còn được thể hiện ở các khía cạnh cụ thể sau
đây:
- Rủi ro và sự tồn tại của rủi ro là nguồn gốc của bảo hiểm. Có nhiều cách tiếp
cận khái niệm rủi ro, song theo nghĩa thông dụng nhất thì rủi ro là biến cố gây thiệt hại
và không mong đợi. Để đối phó với rủi ro, con người luôn phải tìm cách phòng vệ.
Trong bảo hiểm hiện đại, bên cạnh rủi ro còn có các sự kiện liên quan đến bảo hiểm,
như: sự kiện sinh đẻ của lao động nữ, người lao động đến tuổi nghỉ hưu hay người
được bảo hiểm còn sống đến một thời điểm xác định trên hợp đồng BHNT...
- Cơ chế chuyển giao rủi ro trong bảo hiểm được thực hiện giữa bên tham gia
bảo hiểm và bên bảo hiểm thông qua các cam kết bảo hiểm. Theo cơ chế này, bên
tham gia phải nộp phí bảo hiểm và bên bảo hiểm cam kết bồi thường hay chi trả tiền
bảo hiểm khi đối tượng bảo hiểm hay người được bảo hiểm gặp phải rủi ro hay sự kiện
bảo hiểm. Tất nhiên, rủi ro hay sự kiện bảo hiểm phải là ngẫu nhiên, khách quan mà
hai bên đã thoả thuận.
- Phí bảo hiểm mà bên tham gia nộp cho bên bảo hiểm phải được thực hiện
trước khi rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra. Ngược lại, khoản tiền mà bên bảo hiểm
trả cho bên tham gia hay cho người thứ ba chỉ được thực hiện sau khi sự kiện bảo hiểm
hay rủi ro sảy ra gây tổn thất. Khái niệm người thứ ba trong bảo hiểm thường pháp luật
quy định trong loại hình BHTM.
- Việc san sẻ rủi ro, bù trừ tổn thất trong bảo hiểm được bên bảo hiểm tính toán
và quản lý dựa vào số liệu thống kê rủi ro và tình hình tổn thất, cũng như quỹ bảo hiểm
mà họ thiết lập được dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít.
- Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính chứ không phải là hoạt động sản
xuất. Chính vì vậy, lợi ích của các bên phải được luật hoá rất cụ thể và vai trò quản lý
Nhà nước trong lĩnh vực này là rất quan trọng và không thể thiếu được đối với mỗi
quốc gia.
1.2.2. Các loại hình bảo hiểm
Hiện nay trên thế giới có 4 loại hình bảo hiểm, đó là: Bảo hiểm thương mại
(BHTM); Bảo hiểm xã hội (BHXH); Bảo hiểm y tế (BHYT) và Bảo hiểm thất nghiệp
(BHTN). Tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội và mô hình tổ chức ngành bảo hiểm mà
mỗi nước có thể triển khai tất cả hoặc chỉ triển khai một số loại hình trong số 4 loại
hình bảo hiểm nói trên.
1.2.2.1. Bảo hiểm xã hội
BHXH là loại hình bảo hiểm đóng vai trò hết sức quan trọng, liên quan trực tiếp
đến người lao động và người sử dụng lao động. Hoạt động BHXH không nhằm mục
đích kiếm lời và chịu sự chi phối chủ yếu của Luật BHXH cũng như định hướng chính
sách kinh tế - xã hội của từng quốc gia. BHXH có tính cộng đồng xã hội, tính nhân
đạo, nhân văn sâu sắc và là trụ cột chính của hệ thống ASXH của mỗi nước.
BHXH ra đời từ giữa thế kỷ 19. Năm 1850 một số bang của nước Phổ (Cộng
hoà liên bang Đức ngày nay) lần đầu tiên đã thành lập quỹ trợ giúp nỗi đau. Năm
1883, họ lại tiếp tục ban hành Luật BHYT và bảo hiểm TNLĐ, sau đó là đạo luật về
hưu trí. Người khởi xướng đạo luật này là Tể tướng Bismark, với cơ chế 3 bên (nhà
nước - giới chủ - giới thợ) cùng đóng góp nhằm bảo vệ cho người lao động trong các
trường hợp gặp rủi ro. Ở Pháp, ý tưởng về bảo hiểm TNLĐ cho công nhân ngành
đường sắt đã được Klaves taing đề xuất năm 1850 nhưng đã bị giới thượng lưu từ chối,
bác bỏ. Đầu năm 1860 ông buộc phải chuyển sang Bỉ để thành lập một công ty của
mình là Dveservatrice. Nửa đầu thế kỷ 20, BHXH phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các
nước Châu Âu và cả ở Bắc Mỹ. Tại Mỹ, năm 1935 đã ban hành đạo luật về ASXH với
nội dung đều tương tự như các chế độ BHXH ngày nay. Sau chiến tranh thế giới thứ 2,
Liên Hợp quốc được thành lập (1945) và một loạt các công ước, các khuyến nghị về
BHXH đã được khuyến cáo. Ngày 04 tháng 6 năm 1952, Tổ chức lao động quốc tế
(ILO) thuộc Liên Hợp quốc đã ký công ước Giơ ne vơ (Công ước số 102) về "BHXH
cho người lao động" và khuyến nghị các nước thực hiện BHXH cho người lao động
tuỳ theo khả năng và điều kiện kinh tế - xã hội của mình. Từ đó, hầu hết các nước trên
thế giới tham gia công ước đã vận dụng và ban hành chính sách BHXH cho người lao
động và BHXH đã không ngừng phát triển cho đến ngày nay.
1.2.2.2. Bảo hiểm y tế
BHYT có thể được triển khai độc lập với các loại hình bảo hiểm khác và cũng
có thể chỉ là một chế độ trong hệ thống các chế độ BHXH. Về cơ bản, loại hình bảo
hiểm này mang đầy đủ tính chất của BHXH. Xã hội càng phát triển và văn minh thì
BHYT cũng ngày càng phát triển, bởi nhu cầu được bảo vệ, được chăm sóc sức khoẻ,
được khám chữa bệnh một cách bình đẳng là những nhu cầu chính đáng và có tính xã
hội rất cao - đối với mọi tầng lớp dân cư.
BHYT ra đời vào cuối thế kỷ 19 ở Cộng hoà liên bang Đức và một số nước
Châu Âu. Trong giai đoạn đầu của sự phát triển (1883 - 1914), BHYT chỉ được tổ
chức mang tính đơn lẻ nhằm giúp đỡ lẫn nhau khi người lao động và gia đình họ gặp
những rủi ro về sức khoẻ. Sau đó, BHYT đã được một số nước Châu Âu ban hành
những đạo luật riêng. Năm 1941, BHYT đã được luật hoá tương đối chặt chẽ ở CHLB
Đức và sau đó phát triển sang các nước Bắc Mỹ, Châu á và vùng Caribê. Từ khi có
công ước 102 về BHXH đến nay, có một số nước triển khai BHYT độc lập và cũng có
khá nhiều nước coi BHYT chỉ là chế độ chăm sóc y tế ban đầu nằm trong hệ thống các
chế độ BHXH
1.2.2.3. Bảo hiểm thất nghiệp
BHTN cũng có thể được triển khai độc lập với các loại hình bảo hiểm khác và
cũng có thể triển khai kết hợp với BHXH. Khi triển khai kết hợp, nó chỉ là một chế độ
trong hệ thống các chế độ BHXH. Vì thế, mục đích, đối tượng và tính chất của BHTN
cũng tương tự như BHXH. Có thể nói, Châu Âu là cái nôi của tất cả các loại hình bảo
hiểm, trong đó có cả BHTN. BHTN ra đời năm 1883 tại Thuỵ Sỹ và xuất phát nghề
thuỷ tinh và gốm sứ. Năm 1990 và 1910 Na Uy và Đan Mạch lần đầu tiên ban hành
các đạo luật về BHTN, tiếp đến là Anh, Mỹ và Canada. Sau chiến tranh thế giới lần
thứ 2, BHTN cũng được một số nước triển khai độc lập và khá nhiều nước coi BHTN
chỉ là một chế độ BHXH thuần tuý. Mặc dù vậy, nội dung, tính chất và cách thức quản
lý đều tương tự nhau. Theo số liệu của ILO năm 2005, trên thế giới có 72 nước triển
khai BHTN và trợ cấp thất nghiệp cho người lao động
Các nội dung chi tiết về Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất
nghiệp sẽ được trình bày chi tiết trong bài 2.
1.2.2.4. Bảo hiểm thương mại
a. Khái niệm bảo hiểm thương mại
Bảo hiểm thương mại (BHTM) còn được gọi là bảo hiểm rủi ro hay bảo hiểm
kinh doanh, được hiểu là sự kết hợp giữa hoạt động kinh doanh với việc quản lý các
rủi ro của các cá nhân và các tổ chức trong xã hội. Manh nha của hoạt động này có từ
rất lâu trong lịch sử văn minh nhân loại, từ thuở con người biết săn bắn tìm kiếm thức
ăn, đồ mặc, rồi tích trữ phòng khi không kiếm được hay khi có chiến tranh v.v... Khi
xã hội phát triển hơn, nhu cầu được bảo đảm an toàn cũng lớn hơn. Với những tác
dụng vô cùng thiết thực đối với các cá nhân, các tổ chức và toàn cộng đồng, hoạt động
BHTM càng khẳng định sự có mặt không thể thiếu được trong cuộc sống của con
người.
BHTM là loại hình bảo hiểm kinh doanh với mục tiêu chính là lợi nhuận. Hoạt
động kinh doanh BHTM chịu sự chi phối chủ yếu của Luật Kinh doanh Bảo hiểm, các
điều ước và tập quán quốc tế. Phạm vi hoạt động kinh doanh BHTM rất rộng do đối
tượng của nó chi phối. BHTM là loại hình bảo hiểm chủ yếu và rất phát triển. Đã từ
lâu, BHTM không chỉ xâm nhập vào các hoạt động kinh tế - xã hội ở phạm vi một
nước mà nó còn phát triển và mở rộng ra phạm vi thế giới thông qua hoạt động tái bảo
hiểm và đồng bảo hiểm...
Cho đến nay, câu hỏi “bảo hiểm thương mại là gì?” có thể được trả lời theo nhiều
cách tiếp cận khác nhau. Nếu xét từ góc độ pháp lý, “bảo hiểm là một thoả thuận, qua
đó bên tham gia bảo hiểm cam kết trả cho doanh nghiệp bảo hiểm một khoản tiền gọi
là phí bảo hiểm; Ngược lại, doanh nghiệp bảo hiểm cũng cam kết sẽ chi trả hoặc bồi
thường một khoản tiền khi có rủi ro được bảo hiểm xảy ra gây tổn thất”. Nhìn nhận
bảo hiểm dưới góc độ quản lý rủi ro, một tập đoàn bảo hiểm lớn của Mỹ cho rằng:
“Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này một người, một doanh nghiệp hay một tổ
chức chuyển nhượng rủi ro cho doanh nghiệp bảo hiểm, công ty đó sẽ chi trả bồi
thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia
giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm” (AIG). Dưới góc độ kỹ thuật
bảo hiểm, có thể hiểu BHTM là biện pháp chia nhỏ tổn thất của một hay một số ít
người khi gặp một loại rủi ro dựa vào một quĩ chung bằng tiền được lập bởi sự đóng
góp của nhiều người cùng có khả năng gặp rủi ro đó thông qua hoạt động của doanh
nghiệp bảo hiểm. Bằng cách chia nhỏ tổn thất như vậy, hậu quả lẽ ra rất nặng nề,
nghiêm trọng với một hoặc một số người sẽ trở nên không đáng kể có thể chấp nhận
được đối với cả cộng đồng những người tham gia bảo hiểm. BHTM, ở một phương
diện khác, chính là tổng thể các mối quan hệ kinh tế giữa các đơn vị và các cá nhân
tham gia bảo hiểm với các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm khắc phục hậu quả do thiên
tai, tai nạn bất ngờ gây ra để ổn định đời sống và khôi phục hoạt động sản xuất kinh
doanh.
b. Sơ lược lịch sử phát triển của bảo hiểm thương mại
Sự ra đời và quá trình phát triển của BHTM được thể hiện ở những loại hình
bảo hiểm chủ yếu dưới đây:
- Bảo hiểm hàng hải. Bảo hiểm mà chúng ta biết tới hôm nay bắt đầu từ loại
hình bảo hiểm hàng hải. Tại Genor và Venice tỉnh Lombardy nước Italia người ta đã
tìm thấy bản HĐBH đầu tiên ký kết giữa các thương gia, các chủ tàu với các nhà bảo
hiểm vào ngày 23/10/1347. Đến năm 1385, người ta lại tìm thấy một bản HĐBH nhằm
bảo hiểm cho những tổn thất của hàng hoá va tàu thuyền do các nguyên nhân bất khả
kháng, tai nạn trên biển, hoả hoạn, hàng hoá bị vứt bỏ xuống biển, bị chính quyền hoặc
các cá nhân tịch thu, bị trả đũa hay do gặp phải bất kỳ rủi ro nào (CLayton, Bảo hiểm
Anh 1971). Tại nước Anh, HĐBH đầu tiên được tìm thấy và còn lưu giữ đến ngày nay
được ký kết năm 1547. Đây cũng là một HĐBH hàng hải.
- Bảo hiểm nhân thọ. Đây là loại hình bảo hiểm rất thông dụng và phát triển khá
nhanh trên thế giới. Hợp đồng BHNT đầu tiên được ký kết tại nước Anh vào năm
1583. Các công ty BHNT cũng xuất hiện lần đầu tại nước Anh vào giữa thế kỷ 17.
Ngày nay BHNT đã được triển khai ở hầu hết các nước trên thế giới.
- Bảo hiểm hoả hoạn. Các nhà bảo hiểm trên thế giới đều cho rằng, BHHH xuất
hiện lần đầu tại Hamburg (CHLB Đức). Tuy nhiên, điều làm cho BHHH phát triển
nhanh chóng cho đến ngày nay là vụ cháy lớn tại Luôn Đôn năm 1666. Sau vụ cháy
này các thương gia, các tổ chức bắt đầu quan tâm đến rủi ro bảo hiểm. Vào năm 1670,
ông Barbon người Anh đã thành lập công ty bhhh đầu tiên trên thế giới. Công ty chỉ
bảo hiểm cho các căn nhà xây bằng gạch. Tại Mỹ, Công ty BHHH đầu tiên ra đời năm
1732. Công ty này bảo hiểm cho cả nhà cửa và bất động sản trong dân chúng. Với cái
tên lúc đầu chỉ là "Tổ chức thân thiện". Năm 1752 Benjamin Franklin thành lập Công
ty BHHH với cái tên "Đóng góp bảo hiểm cho nhà cửa do hoả hoạn Philadephia".
- Bảo hiểm tai nạn. Loại hình này chính thức ra đời vào đầu thế kỷ 19. Năm
1848 tờ thời báo nước Anh đưa tin rằng, hầu như ngày nào cũng xảy ra tai nạn đường
sắt. Những tai nạn này thường dẫn đến thương tật hoặc tử vong. Năm 1849 công ty
bảo hiểm hành khách đường sắt đã được thành lập tại Anh quốc để bảo hiểm cho mọi
hành khách đi trên tàu hoả.
Bắt đầu từ cuối thế kỷ 19 cho đến nay, còn có rất nhiều loại hình BHTM khác
đã ra đời, như: bảo hiểm kỹ thuật, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm hàng không, bảo
hiểm dầu khí, bảo hiểm vệ tinh… Và cũng từ cuối thế kỷ 19 đến nay, BHTM đã thực
sự trở thành một ngành kinh doanh phát triển và không thể thiếu được đối với mỗi
quốc gia.
c. Nguyên tắc hoạt động bảo hiểm thương mại
Với tính chất của một hoạt động kinh doanh, BHTM đáp ứng cho các nhu cầu
an toàn của con người và đồng thời nhằm đạt tới mục tiêu cao nhất là lợi nhuận. Bởi
vậy, việc tiến hành hoạt động BHTM phải tuân thủ theo các nguyên tắc cơ bản sau.
- Nguyên tắc 1: Số đông bù số ít
Hoạt động BHTM chính là một hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi,
theo đó doanh nghiệp bảo hiểm nhận một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để rồi có khả
năng sẽ phải trả một khoản tiền cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được
bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Khoản tiền bồi thường hay chi trả này
thường lớn hơn gấp nhiều lần so với khoản phí mà các doanh nghiệp bảo hiểm nhận
được. Để làm được điều này, hoạt động BHTM phải dựa trên nguyên tắc số đông bù số
ít. Đây là nguyên tắc xuyên suốt, không thể thiếu được trong bất kỳ một nghiệp vụ
BHTM nào, theo đó hậu quả của rủi ro xảy ra đối với một hoặc một số ít người sẽ
được bù đắp bằng số tiền huy động được từ rất nhiều người có khả năng cùng gặp rủi
ro như vậy.
Thông qua việc huy động đủ số phí cần thiết để giải quyết chi bồi thường cho
các tổn thất có thể xảy ra trong cộng đồng những người tham gia bảo hiểm, doanh
nghiệp bảo hiểm đã thực hiện việc bù trừ rủi ro theo qui luật số lớn. Theo nguyên tắc
này, càng nhiều người tham gia bảo hiểm thì quĩ bảo hiểm tích tụ được càng lớn, việc
chi trả càng trở nên dễ dàng hơn, rủi ro được san sẻ cho nhiều người hơn. Thông
thường, một sản phẩm bảo hiểm chỉ có thể được triền khai khi có nhiều nhu cầu về
cùng một loại bảo đảm đó.
- Nguyên tắc 2: Rủi ro có thể được bảo hiểm
Hoạt động BHTM cung cấp các dịch vụ bảo hiểm cho những cá nhân và tổ chức
có nhu cầu. Tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp, doanh nghiệp bảo hiểm đều
chấp nhận các yêu cầu bảo đảm. Hiếm có doanh nghiệp bảo hiểm nào đồng ý thoả
thuận bồi thường cho các trường hợp tổn thất gây ra do sự cố ý của người được bảo
hiểm. Cũng vậy, doanh nghiệp bảo hiểm thật khó chấp nhận bảo đảm cho những thiệt
hại vật chất của một chiếc xe ôtô ở trong tình trạng không an toàn về kỹ thuật hay
không được phép lưu hành.
Đây là một nguyên tắc không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp bảo hiểm. Theo nguyên tắc này, các rủi ro đã xảy ra, chắc chắn hoặc gần
như chắc chắn sẽ xảy ra thì bị từ chối bảo hiểm: hao mòn vật chất tự nhiên, hao hụt
thương mại tự nhiên, xe vi phạm nghiêm trọng luật giao thông, cố ý tự tử... Nói cách
khác, những rủi ro có thể được bảo hiểm phải là những rủi ro bất ngờ, không lường
trước được. Với rủi ro bị chết là rủi ro chắc chắn xảy ra thì yếu tố ngẫu nhiên được
xem xét để bảo hiểm là thời điểm chết. Thêm vào đó, nguyên nhân gây ra rủi ro có thể
được bảo hiểm phải là nguyên nhân khách quan, không cố ý. Tính đồng nhất của rủi ro
là một yếu tố khác giúp doanh nghiệp bảo hiểm có thể xem xét rủi ro có thể được bảo
hiểm hay không. Trên cơ sở tính đồng nhất của rủi ro doanh nghiệp bảo hiểm có thể
tính toán được phí bảo hiểm một cách chính xác và khoa học dựa vào các phương pháp
toán học.
Để bảo đảm nguyên tắc này, trong đơn bảo hiểm luôn có các rủi ro loại trừ tuỳ
thuộc vào từng nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau. Đối với các rủi ro được nhận bảo hiểm
lại có thể xem xét để phân loại, sắp xếp theo từng mức độ khác nhau (nếu cần thiết) và
áp dụng các mức phí thích hợp. Đối với các rủi ro có xác suất xảy ra lớn hơn thì mức
phí phải nộp cao hơn. Chẳng hạn trong bảo hiểm nhân thọ (BHNT), những người
không ở cùng độ tuổi sẽ có xác suất tử vong khác nhau do đó phải đóng mức phí khác
nhau. Chính vì vậy, một yêu cầu đặt ra đối với người tham gia bảo hiểm là phải trung
thực tuyệt đối khi khai báo rủi ro để doanh nghiệp bảo hiểm có thể xác định chính xác
rằng rủi ro đó có thể chấp nhận bảo hiểm hay không, nếu có thì với mức phí như thế
nào.
Nguyên tắc rủi ro có thể bảo hiểm nhằm tránh cho doanh nghiệp bảo hiểm phải
bồi thường cho những tổn thất thấy trước mà với nhiều trường hợp như vậy chắc chắn
sẽ dẫn đến phá sản. Đồng thời nguyên tắc này cũng giúp các doanh nghiệp bảo hiểm
có thể tính được các mức phí chính xác, lập nên được một quĩ bảo hiểm đầy đủ để bảo
đảm cho công tác bồi thường. Không chỉ bảo đảm quyền lợi cho các doanh nghiệp bảo
hiểm mà ngay chính những người tham gia bảo hiểm cũng thấy công bằng hơn khi
nguyên tắc này được áp dụng.
- Nguyên tắc 3: Phân tán rủi ro
Là người nhận các rủi ro được chuyển giao từ người tham gia bảo hiểm, nhà bảo
hiểm lúc này sẽ là người phải đối mặt với những tổn thất có thể rất lớn nếu rủi ro xảy
ra. Mặc dù quĩ bảo hiểm là một quĩ tài chính lớn, được lập ra bởi sự đóng góp của
nhiều người theo nguyên tắc số đông và như vậy, với tư cách là người huy động và
quản lý quĩ, các doanh nghiệp bảo hiểm có khả năng thực hiện nhiệm vụ chi trả bảo
hiểm. Nhưng trên thực tế, không phải lúc nào doanh nghiệp bảo hiểm cũng luôn đảm
bảo được khả năng này. Điều này có thể thấy rất rõ với những trường hợp quĩ bảo
hiểm huy động được còn chưa nhiều (doanh nghiệp bảo hiểm mới thành lập hoặc
doanh nghiệp bảo hiểm có qui mô nhỏ) trong khi đó giá trị bảo hiểm (GTBH) lại rất
lớn hoặc với những trường hợp có rủi ro liên tiếp xảy ra gây tổn thất lớn.
Một kinh nghiệm trong hoạt động của các nhà BHTM là không nhận những rủi ro
quá lớn, vượt quá khả năng tài chính của công ty. Tuy nhiên, để tránh được điều tối kị
là phải từ chối bảo hiểm đồng thời vẫn bảo đảm được hoạt động kinh doanh, các doanh
nghiệp bảo hiểm áp dụng nguyên tắc phân tán rủi ro. Có hai phương thức phân tán rủi
ro được sử dụng: đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm. Nếu trong đồng bảo hiểm, nhiều nhà
bảo hiểm cùng nhận bảo đảm cho một rủi ro lớn thì tái bảo hiểm lại là phương thức
trong đó, một nhà bảo hiểm nhận bảo đảm cho một rủi ro lớn, sau đó nhượng bớt một
phần rủi ro cho một hoặc nhiều nhà bảo hiểm khác.
- Nguyên tắc 4: Trung thực tuyệt đối
Nguyên tắc này được thể hiện ngay từ khi doanh nghiệp bảo hiểm nghiên cứu để
soạn thảo một HĐBHđến khi phát hành, khai thác bảo hiểm và thực hiện giao dịch
kinh doanh với khách hàng (người tham gia bảo hiểm ).
Trước hết, nguyên tắc trung thực tuyệt đối đòi hỏi doanh nghiệp bảo hiểm phải có
trách nhiệm cân nhắc các điều kiện, điều khoản để soạn thảo hợp đồng bảo đảm cho
quyền lợi của hai bên. Sản phẩm cung cấp của nhà bảo hiểm là sản phẩm dịch vụ nên
khi mua, người tham gia bảo hiểm khômg thể cầm nắm nó trong tay như các sản phẩm
vật chất khác để đánh giá chất lượng và giá cả... mà chỉ có thể có được một hợp đồng
hứa sẽ bảo đảm. Chất lượng sản phẩm bảo hiểm có bảo đảm hay không, giá cả (phí
bảo hiểm) có hợp lý hay không, quyền lợi của người được bảo hiểm có đảm bảo đầy
đủ, công bằng hay không... đều chủ yếu dựa vào sự trung thực của phía doanh nghiệp
bảo hiểm .
Ngược lại, nguyên tắc này cũng đặt ra một yêu cầu với người tham gia bảo
hiểm là phải trung thực khi khai báo rủi ro khi tham gia bảo hiểm để giúp doanh
nghiệp bảo hiểm xác định mức phí phù hợp với rủi ro mà họ đảm nhận. Thêm vào đó,
các hành vi gian lận nhằm trục lợi bảo hiểm khi thông báo, khai báo các thiệt hại để
đòi bồi thường (khai báo lớn hơn thiệt hại thực tế; sửa chữa ngày tháng của HĐBH...)
sẽ được xử lý theo pháp luật.
- Nguyên tắc 5: Quyền lợi có thể được bảo hiểm
Nguyên tắc này yêu cầu người tham gia bảo hiểm phải có lợi ích tài chính bị tổn
thất nếu đối tượng được bảo hiểm gặp rủi ro. Nói cách khác, người tham gia bảo hiểm
phải có một số quan hệ với đối tượng được bảo hiểm và được pháp luật công nhận.
Mối quan hệ có thể biểu hiện qua quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng,
quyền tài sản, quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo
hiểm. Cần chú ý rằng khi quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tài sản được bảo
hiểm thuộc hai chủ thể khác nhau thì vấn dề sẽ phức tạp hơn. Trong trường hợp này,
cả chủ sở hữu và chủ sử dụng đều có quyền lợi được bảo hiểm. Chẳng hạn, chủ xưởng
sửa chữa ôtô có quyền hợp pháp khi tham gia bảo hiểm cho chiếc xe ôtô mà anh ta
đang đảm nhận sửa chữa. Đó là quyền chiếm hữu. Đồng thời chủ xe ôtô cũng có thể
tham gia bảo hiểm cho chiếc xe này.
Nguyên tắc về quyền lợi có thể được bảo hiểm nhằm loại bỏ khả năng bảo hiểm
cho tài sản của người khác, hoặc cố tình gây thiệt hại hoặc tổn thất để thu lợi từ một
đơn bảo hiểm.
Ngoài các nguyên tắc cơ bản trên, trong mỗi một loại hình BHTM sẽ có thêm
các nguyên tắc khác phù hợp với đặc điểm của từng loại như guyên tắc bồi thường,
nguyên tắc khoán ...
d. Phân loại bảo hiểm thương mại
Trên thị trường bảo hiểm thế giới cũng như ở Việt nam hiện nay có rất nhiều sản
phẩm bảo hiểm khác nhau. Dựa vào các tiêu thức khác nhau các sản phẩm bảo hiểm
được phân loại thành từng nhóm có cùng đặc trưng. Việc phân loại như vậy trước hết
sẽ thuận lợi hơn cho công tác nghiên cứu và phát triển các sản phẩm bảo hiểm khác
nhau. Mặt khác, phân loại bảo hiểm giúp các doanh nghiệp bảo hiểm quản lý tốt
nghiệp vụ, tổ chức hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
Phân loại BHTM thường căn cứ vào ba tiêu thức chủ yếu sau:
- Theo phương thức quản lý: BHTM có thể phânloại thành bảo hiểm tự nguyện và
bảo hiểm bắt buộc. Phần lớn các sản phẩm BHTM đều là bảo hiểm tự nguyện. Việc
tham gia bảo hiểm hay phụ thuộc vào nhận thức và nhu cầu của người tham gia bảo
hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm có đáp ứng được hay không cũng tuỳ thuộc vào khả
năng tài chính, trình độ kỹ thuật nghiệp vụ của công ty đó. Trong khi đó, bảo hiểm bắt
buộc bao gồm các sản phẩm bảo hiểm mà luật pháp có những qui định về điều kiện
bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền tối thiểu mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm
và các doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ phải thực hiện. Bảo hiểm bắt buộc thường
gắn với các rủi ro có hậu quả tổn thất không chỉ ảnh hưởng đến một đối tượng hay một
chủ thể mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của toàn xã hội. Ví dụ như bảo hiểm trách
nhiệm dân sự (BHTNDS) chủ xe cơ giới, BHTNDS của chủ lao động đối với người
lao động,...
- Theo kỹ thuật bảo hiểm: Các đặc trưng kỹ thuật được dùng làm căn cứ để phân
loại BHTM thành bảo hiểm theo kỹ thuật phân chia và bảo hiểm theo kỹ thuật tồn tích.
Bảo hiểm theo kỹ thuật phân chia là các bảo hiểm có thời hạn ngắn (thường là một
năm) bảo đảm cho các rủi ro có tính chất tương đối ổn định và độc lập với tuổi thọ con
người. Khi có rủi ro được bảo hiểm phát sinh trong thời hạn hợp đồng thì quĩ bảo hiểm
được sử dụng để chi trả luôn. Bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm các bảo hiểm về tài sản,
về trách nhiệm dân sự và các bảo hiểm con người phi nhân thọ khác chính là loại bảo
hiểm theo kỹ thuật phân chia. Kết quả thu- chi của các bảo hiểm này được phân bổ hết
hàng năm.
Bảo hiểm theo kỹ thuật tổn tích có đặc trưng là thời hạn dài, quĩ được tích tụ qua
nhiều năm mới được sử dụng để chi trả. Bảo hiểm theo kỹ thuật tổn tích thường bảo
đảm cho các rủi ro có tính chất thay đổi rõ rệt theo thời gian và đối tượng, và thường
gắn liển với tuổi thọ con người. BHNT thuộc loại bảo hiểm có kỹ thuật tổn tích.
- Theo đối tượng được bảo hiểm: Tiêu thức này cho phép phân chia BHTM
thành ba loại chủ yếu: bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, và bảo hiểm con
người. Cũng căn cứ vào đối tượng được bảo hiểm, nhưng nếu phân loại một cách chi
tiết hơn, BHTM có thể được phân chia thành: bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm phi hàng
hải, bảo hiểm trách nhiệm pháp lý, bảo hiểm xe cơ giới...
Sau đây là ba loại bảo hiểm được phân chia theo đối tượng đưọc bảo hiểm: bảo
hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bảo hiểm con người.
d1. Bảo hiểm tài sản
Đây là loại bảo hiểm mà đối tượng là tài sản của người được bảo hiểm. Ví dụ: bảo
hiểm cho thiệt hại vật chất xe cơ giới, bảo hiểm hàng hoá của các chủ hàng trong bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm tài sản của ông chủ nhà trong bảo hiểm trộm
cắp.
Một số vấn đề liên quan đến BHTS:
* Áp dụng nguyên tắc bồi thường khi thanh toán chi trả bảo hiểm. Số tiền bồi
thường (STBT) mà người được bảo hiểm nhận được trong mọi trường hợp không vượt
quá thiệt hại thực tế trong sự cố bảo hiểm. Ví dụ, một chủ xe máy tham gia bảo hiểm
cho toàn bộ chiếc xe của mình trị giá 20 triệu đồng. Trong một vụ tai nạn, xe bị hư
hỏng giá trị thiệt hại là 8 triệu đồng, STBT mà chủ xe nhận được trong bất kỳ trường
hợp nào cũng chỉ là 8 triệu đồng.
* Áp dụng “nguyên tắc thế quyền hợp pháp “ khi xuất hiện người thứ ba có lỗi và
do đó có trách nhiệm đối với thiệt hại của người được bảo hiểm. Theo nguyên tắc này,
sau khi trả tiền bồi thường, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ được thay quyền của người
được bảo hiểm để thực hiện việc truy đòi trách nhiệm của người thứ ba có lỗi. Nguyên
tắc thế quyền hợp pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của người được bảo hiểm, chống lại
hành vi rũ bỏ trách nhiệm của người thứ ba có lỗi, đồng thời đảm bảo cả nguyên tắc
bồi thường .
Lấy lại ví dụ trên, trong vụ tai nạn này, lỗi một phần là của một xe ô tô đi ngược
chiều (70%). Lúc này, với thiệt hại 8 triệu đồng của chủ xe máy, trách nhiệm của ông
chủ xe ô tô sẽ là: 70% x 8 triệu đồng = 5,6 triệu đồng. Sau khi bồi thường 8 triệu đồng
theo HĐBH vật chất xe cho chủ xe máy, doanh nghiệp bảo hiểm được thay quyền của
chủ xe máy này truy đòi trách nhiệm 5,6 triệu từ chủ xe ô tô. Nguyên tắc thế quyền
được áp dụng. Và người được bảo hiểm trong ví dụ này (chủ xe máy) cũng không thể
nhận STBT vượt quá thiệt hại 8 triệu đồng, như vậy nguyên tắc bồi thường được đảm
bảo.
Tuy nhiên, có một số ngoại lệ khi áp dụng nguyên tắc thế quyền hợp pháp. Đó là
khi người thứ ba gây lỗi là trẻ em, hoặc là con cái, vợ chồng, cha mẹ... của người được
bảo hiểm .
* Bảo hiểm trùng: Trong BHTS, nếu một đối tượng bảo hiểm đồng thời được bảo
đảm bằng nhiều HĐBH cho cùng một rủi ro với những doanh nghiệp bảo hiểm khác
nhau, những HĐBH này có điều kiện bảo hiểm giống nhau, thời hạn bảo hiểm trùng
nhau, và tổng STBH từ tất cả những hợp đồng này lớn hơn giá trị của đối tượng bảo
hiểm đó thì gọi là bảo hiểm trùng.
Trong trường hợp có bảo hiểm trùng, tuỳ thuộc vào nguyên nhân xảy ra để giải
quyết. Thông thường, bảo hiểm trùng liên quan đến sự gian lận của người tham gia
bảo hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm. Do đó, về nguyên tắc, doanh nghiệp bảo hiểm có thể
huỷ bỏ HĐBH nếu phát hiện thấy bảo hiểm trung có gian lận. Nếu các doanh nghiệp
bảo hiểm chấp nhận bồi thường thì lúc này, trách nhiệm của mỗi công ty đối với tổn
thất sẽ được phân chia theo tỷ lệ trách nhiệm mà họ đảm nhận. Cụ thể:
STBHcñaH§ BH A
STBTcñaH§ BH A = Gi˙ trÝthiÖt h−ithùctà x
å STBH
Trên thực tế, một trong số các doanh nghiệp bảo hiểm đã cấp hợp đồng cho đối
tượng được bảo hiểm trùng này có thể sẽ đứng ra bồi thường theo số thiệt hại thực tế,
sau đó sẽ đòi lại các doanh nghiệp bảo hiểm khác phần trách nhiệm của họ.
* Chế độ bồi thường bảo hiểm
- Chế độ bảo hiểm theo mức miễn thường
Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm đối với những tổn thất mà giá trị
thiệt hại thực tế vượt quá một mức đã thoả thuận gọi là mức miễn thường. Việc áp
dụng bảo hiểm theo mức miễn thường thể là tự nguyện hoặc bắt buộc. Nếu giữa doanh
nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm thoả thuận sẽ không bồi thường đối với
những tổn thất nhỏ hơn mức miễn thường trên cơ sở tự nguyện thì phí bảo hiểm sẽ
được giảm bớt phụ thuộc vào mức miễn thường cụ thể. Trong trường hợp miễn thường
bắt buộc, phí bảo hiểm vẫn giữ nguyên. Bảo hiểm theo mức miễn thường không chỉ
tránh cho doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường những tổn thất quá nhỏ so với
GTBH mà còn có ý nghĩa trong việc nâng cao ý thức và trách nhiệm đề phòng hạn chế
rủi ro của người được bảo hiểm.
Có hai loại miễn thường: Miễn thường không khấu trừ và miễn thường có khấu
trừ. Chế độ bảo hiểm miễn thường không khấu trừ bảo đảm chi trả cho những thiệt hại
thực tế vượt quá mức miễn thường nhưng STBT sẽ không bị khấu trừ theo mức miễn
thường.
STBT = Giá trị thiệt hại thực tế
Trong chế độ bảo hiểm miễn thường có khấu trừ, thiệt hại thực tế phải lớn hơn
mức miễn thường quy định mới được bồi thường nhưng STBT sẽ bị khấu trừ theo mức
miễn thường này.
STBT = Giá trị thiệt hại thực tế - Mức miễn thường
- Chế độ bảo hiểm theo tỷ lệ
Có hai loại tỷ lệ được áp dụng: Tỷ lệ Số tiền bảo hiểm/Giá trị bảo hiểm
(STBH/GTBH) và tỷ lệ Số phí đã nộp/Số phí lẽ ra phải nộp.
Tỷ lệ STBH/GTBH được áp dụng trong các trường hợp bảo hiểm dưới giá trị:
STBH
STBT= Gi˙ trÝthiÖt h−ithùc tà x
GTBH
Còn trong trường hợp có sự khai báo không chính xác rủi ro, bên bảo hiẻm
thường áp dụng tỷ lệ “Số phí bảo hiểm đã nộp/ Số phí bảo hiểm lẽ ra phải nộp” để
thanh toán nếu chấp nhận bồi thường:
PhÐb¶o hiÌ mdđnép
STBT= Gi˙ trÝthiÖt h−ithùc tà x
PhÐb¶o hiÌ mlÎ ra ph¶i nép
- Chế độ bảo hiểm theo rủi ro đầu tiên:
Theo chế độ bồi thường này, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả STBT theo một giới
hạn đã thoả thuận. Các tổn thất của người được bảo hiểm nằm trong giới hạn này được
gọi là tổn thất thuộc rủi ro đầu tiên hoặc tổn thất đầu tiên. Còn tổn thất vượt quá giới
hạn thoả thuận này có thể sẽ được bảo hiểm bằng một đơn bảo hiểm Vượt quá. Chế độ
bồi thường này thường được áp dụng trong bảo hiểm trộm cắp. Người ta lý luận rằng,
ít khi toàn bộ tài sản bị mất trộm, do vậy chủ tài sản thường chỉ muốn bảo hiểm cho
phần tổn thất có thể nhất, và đó được gọi là tổn thất đầu tiên.
d2. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự (BHTNDS) có đối tượng được bảo hiểm là trách
nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với người thứ ba theo luật định. Ví dụ:
BHTNDS của chủ xe cơ giới, BHTNDS của chủ lao động, Bảo hiểm trách nhiệm sản
phẩm, Bảo hiểm trách nhiệm công cộng...
Theo luật dân sự, trách nhiệm dân sự của một chủ thể (như chủ tài sản, chủ doanh
nghiệp,...) được hiểu là trách nhiệm phải bồi thường các thiệt hại về tài sản, về con
người... gây ra cho người khác do lỗi của người chủ đó. Trách nhiệm dân sự có thể là
trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Thông
thường các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp sự bảo đảm cho các trách nhiệm dân sự
ngoài hợp đồng.
Vì đối tượng được bảo hiểm là phần trách nhiệm dân sự phát sinh của người được
bảo hiểm đối với người bị thiệt hại (một người thứ ba khác) nên trong loại bảo hiểm
này người được bảo hiểm là người có trách nhiệm dân sự cần được bảo đảm thường
chính là người tham gia bảo hiểm. Còn người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm lại là
những người thứ ba khác. Người thứ ba trong BHTNDS là những người có tính mạng,
tài sản bị thiệt hại trong sự cố bảo hiểm và được quyền nhận bồi thường từ doanh
nghiệp bảo hiểm với tư cách là người thụ hưởng. Người thứ ba có quan hệ về mặt
trách nhiệm dân sự với người được bảo hiểm nhưng chỉ có mối quan hệ gián tiếp với
doanh nghiệp bảo hiểm.
BHTNDS và BHTS đều được xếp vào loại bảo hiểm thiệt hại, là loại bảo hiểm bảo
đảm cho các thiệt hại phát sinh. Do vậy, BH TNDS cũng áp dụng nguyên tắc bồi
thường khi giải quyết bồi thường bảo hiểm.
d3. Bảo hiểm con người
Bảo hiểm con người (BHCN) có đối tượng được bảo hiểm là tuổi thọ, tính mạng,
tình trạng sức khoẻ con người hoặc các sự kiện liên quan tới cuộc sống và có ảnh
hưởng tới cuộc sống con người.
Nếu như trong bảo hiểm thiệt hại, việc thanh toán bồi thường bảo hiểm được dựa
vào nguyên tắc bồi thường thì trong BHCN, nguyên tắc chi phối việc giải quyết thanh
toán tiền bảo hiểm là “nguyên tắc khoán”. Khi có sự kiện được bảo hiểm xảy ra, doanh
nghiệp bảo hiểm sẽ thực hiện chi trả một khoản tiền dựa vào STBH đã được thoả
thuận lựa chọn khi ký kết hợp đồng bảo hiểm chứ không dựa vào thiệt hại thực tế.
Việc thanh toán chi trả tiền bảo hiểm trong BHCN chỉ mang tính trợ giúp về tài chính
cho người được bảo hiểm và thân nhân (bảo hiểm con người phi nhân thọ) hoặc “hoàn
lại” khoản tiền tích luỹ được của người được bảo hiểm (bảo hiểm nhân thọ) khi xảy ra
các sự kiện được bảo hiểm. Điều này đơn giản là vì tính mạng và tình trạng sức khoẻ
của con người là vô giá nên không thể xác định được bằng một khoản tiền nào đấy.
STBH trong các HĐBH con người hoàn toàn không phải là sự biểu hiện giá trị của bản
thân người được bảo hiểm mà về cơ bản chỉ có ý nghĩa là một số tiền mà người tham
gia bảo hiểm “khoán” cho doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chi trả khi sự kiện bảo hiểm xảy
ra. Trong các HĐBH con người, do vậy cũng không tồn tại điều khoản giá trị bảo
hiểm. Thuật ngữ “chi trả bảo hiểm” hoặc “thanh toán bảo hiểm” được sử dụng để thay
thế cho “bồi thường bảo hiểm” trong bảo hiểm thiệt hại. Số tiền này do các bên tham
gia hợp đồng thoả thuận, tuỳ theo khả năng tài chính cũng như nhu cầu của người
tham gia bảo hiểm.
Ở các nước kinh tế phát triển như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức và Nhật, dịch vụ BHCN
rất phát triển. Khi người dân tham gia các dịch vụ bảo hiểm này, họ thường lập nên
một kế hoạch tài chính trong gia đình mình để xác định số tiền bảo hiểm cần chọn lựa.
Bằng việc sử dụng một hệ thống máy tính cá nhân và các thiết bị điện tử rộng khắp, họ
có thể đánh giá chính xác nhu cầu về lượng tiền trong tương lai. Bao gồm cả việc đánh
giá trạng thái biến động của lạm phát, số con tình hình tăng trưởng.v.v. vì thế STBH
trong BHCN, nhất là trong BHNT được họ lựa chọn rất phù hợp. Phần lớn STBH khi
lựa chọn, đều dựa vào một số nhu cầu tài chính trong tương lai đã được đánh giá cụ
thể. Các nhu cầu này thường bao gồm:
- Nhu cầu bù đắp chi phí lúc bị chết.
- Nhu cầu tạo lập quỹ đào tạo, giáo dục con cái
- Nhu cầu chi dùng hàng ngày, nếu không may người trụ cột trong gia đình bị
chết, mà những người sống phụ thuộc lại chủ yếu nhờ cậy vào tiền lương của anh ta.
- Nhu cầu chi trả những khoản nợ nần còn tồn đọng.
- Nhu cầu chi phí bảo dưỡng tài sản .vv...
Căn cứ vào tổng các nhu cầu nêu trên, người tham gia bảo hiểm lựa chọn STBH
để mua. Số tiền này chính là mức chênh lệch giữa tổng giá trị các nhu cầu trong tương
lai để hoàn thiện kế hoạch tài chính so với tổng giá trị tài sản hiện có để đáp ứng nhu
cầu.
Số tiền bảo hiểm Tổng giá trị các Tổng giá trị
= -
lựa chọn để mua nhu cầu trong tương lai tài sản hiện có
Kế hoạch trên được lập với giả định rằng, người tham gia bảo hiểm bị chết, sau
cái chết, tổng giá trị các nhu cầu trong tương lai cần phải được đáp ứng bằng cách lựa
chọn một STBH thích hợp để mua. Nhưng đó mới chỉ là một nửa của kế hoạch tài
chính được lập, còn nửa kia họ phải tính đến mức phí bảo hiểm phải nộp và phương
thức nộp phí (nộp một lần hay nhiều lần .v.v...). Phần này hoàn toàn phải dựa vào mức
thu nhập hiện tại để cân đối và có tính đến mức độ ổn định nơi làm việc, khả năng tăng
lương v.v.. Nếu mức thu nhập thấp, khả năng nộp phí bảo hiểm bị hạn chế, thì STBH
sẽ phải được điều chỉnh giảm đi và ngược lại. Điều đó có nghĩa là STBH mà người
tham gia bảo hiểm sẽ được công ty bảo hiểm thanh toán luôn tỷ lệ thuận với số phí bảo
hiểm phải nộp. Phần lý giải này sẽ làm rõ thêm số tiền mà người bảo hiểm chi trả thực
chất là một số tiền đã được “ khoán ” tương ứng với một mức phí phải nộp và phương
thức nộp phí. Tất cả đều được thể hiện rõ trong bản hợp đồng.
Khác với các BHTS, trong BHCN mỗi đối tượng bảo hiểm có thể đồng thời được
bảo hiểm bằng nhiều hợp đồng với một hoặc nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau.
Khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, việc trả tiền bảo hiểm của từng hợp đồng độc lập
nhau. Chẳng hạn, ngày 10/5/2007 anh A ký kết HĐBH sinh mạng cá nhân với doanh
nghiệp bảo hiểm X có STBH: 10 triệu đồng, và ký kết với doanh nghiệp bảo hiểm Y
một HĐBH trợ cấp nằm viện phẫu thuật có STBH là 5 triệu đồng. Ngày 22/9/2007,
trong một vụ tai nạn, anh A bị thương nặng phải vào viện phẫu thuật nhưng sau đó bị
tử vong. Trong trường hợp này, người thừa kế hợp pháp của anh A sẽ nhận được
khoản tiền cao nhất bằng tổng STBH từ hai hợp đồng: 10 triệu đồng + 5 triệu đồng =
15 triệu đồng.
Trong BHCN, không có sự thế quyền hợp pháp của người bảo hiểm. Điều đó có
nghĩa là người bảo hiểm sau khi đã thanh toán, chi trả STBH, không được phép thế
quyền người tham gia bảo hiểm hay người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để khiếu nại
người thứ ba truy đòi số tiền bồi thường tương ứng. Nói cách khác, một người có thể
đồng thời nhận được khoản thanh toán chi trả của công ty bảo hiểm và những khoản
thanh toán bồi thường của người thứ 3 gây ra tai nạn, thiệt hại.
Mặc dù vậy, thực tế hiện nay, phạm vi bảo hiểm của một số nghiệp vụ bảo hiểm
con người phi nhân thọ bảo đảm cho cả các chi phí y tế thực tế phát sinh. Do vậy, bên
cạnh nguyên tắc khoán, các doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng kết hợp nguyên tắc bồi
thường để giải quyết chi trả cho các khoản thiệt hại chi phí y tế khi có sự kiện bảo
hiểm xảy ra.
1.2.3. Vai trò kinh tế và xã hội của bảo hiểm
1.2.3.1. Vai trò kinh tế
Bảo hiểm nói chung và từng loại hình bảo hiểm nói riêng đều mang lại những
lợi ích kinh tế - xã hội thiết thực. Xét về mặt kinh tế, bảo hiểm có những vai trò rất to
lớn sau đây:
- Góp phần ổn định tài chính và đảm bảo cho các khoản đầu tư.
Từ khi các loại hình bảo hiểm ra đời cho đến nay đã chứng minh bảo hiểm góp
phần rất to lớn trong việc ổn định tài chính cho các cá nhân và các tổ chức tham gia
bảo hiểm. Có thể là ổn định về thu nhập nếu tham gia BHXH hay BHTN. Cũng có thể
là ổn định về tài chính nếu tham gia BHYT hay BHTN. Bởi lẽ, khi rủi ro hay sự kiện
bảo hiểm xảy ra với đối tượng bảo hiểm, nếu bị tổn thất, các cơ quan hay DNBH sẽ trợ
cấp hoặc bồi thường kịp thời để người tham gia nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn
định cuộc sống và sản xuất, làm cho sản xuất kinh doanh phát triển bình thường. Vai
trò này đáp ứng được mục tiêu kinh tế của người tham gia nên đối tượng tham gia bảo
hiểm ngày càng đông đảo. Trong các nền kinh tế hiện đại, bảo hiểm đã trực tiếp đảm
bảo cho các khoản đầu tư. Nhà kinh tế học người Pháp Jerome Yeatman đã viết:
"Không phải các kiến trúc sư mà là các nhà bảo hiểm đã xây nên New York, chính là
vì không một nhà đầu tư nào dám mạo hiểm hàng tỷ đô la cần thiết để xây dựng những
toà nhà chọc trời ở Manhattan mà lại không có đảm bảo được bồi thường nếu hoả hoạn
hoặc sai phạm về xây dựng xảy ra. Chỉ có các nhà bảo hiểm mới dám đảm bảo điều đó
nhờ cơ chế bảo hiểm". Điều này đúng với hầu hết các loại đầu tư, như: đầu tư xây
dựng các giàn khoan dầu khí, đầu tư thiết kế và sản xuất các loại vệ tinh; đầu tư xây
dựng siêu thị v.v... Chủ đầu tư không thể mạo hiểm ngồi nhìn số tiền đầu tư của mình
"tan thành mây khói" một khi không có bảo hiểm. Hầu hết các dự án đầu tư hiện nay
đã đòi hỏi phải có bảo hiểm. Không có sự đảm bảo của bảo hiểm thì các chủ đầu tư,
mà nhất là các ngân hàng liên quan sẽ không dám mạo hiểm đầu tư vốn cho dự án. Bởi
vậy, bảo hiểm là một hoạt động kích thích đầu tư.
- Bảo hiểm là một trong những kênh huy động vốn rất hữu hiệu để đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội.
Các cơ quan và DNBH thu phí bảo hiểm trước khi rủi ro và sự kiện bảo hiểm
xảy ra với đối tượng bảo hiểm. Điều đó cho phép họ có một số tiền rất lớn và cần phải
quản lý chặt chẽ để đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, giữa
thời điểm xảy ra rủi ro do tổn thất và thời điểm chi trả hoặc bồi thường luôn có một
khoảng cách. Khoảng thời gian này có thể kéo dài nhiều năm, nhất là trong BHTN và
BHXH. Bởi vậy, số phí thu được phải dựa vào dự trữ, dự phòng và phải đem đầu tư để
thu lãi. Thêm vào đó là các loại hình BHTN và BHXH lại ngày phát triển nhanh chóng
và số phí được tồn tích lại ngày càng lớn. Điều đó càng khẳng định thêm vai trò huy
động vốn để đầu tư của toàn ngành bảo hiểm là vô cùng quan trọng đối với các nền
kinh tế. Theo số liệu thống kê năm 2005, số tiền do các DNBH thương mại đang quản
lý và đầu tư là rất lớn, ở Mỹ là 2.500 tỷ đô la, ở Anh là 1119 tỷ bảng Anh còn ở Pháp
là 630 tỷ Ero v.v... Ở Anh, các DNBH đầu tư chủ yếu vào cổ phiếu nhờ quỹ hưu trí,
còn ở Mỹ và Pháp danh mục đầu tư đa dạng hơn và cũng chủ yếu vào quỹ dự phòng từ
BHTN và BHXH.
- Bảo hiểm góp phần ổn định và tăng thu cho ngân sách đồng thời thúc đẩy phát
triển quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các nước.
Với các loại quỹ bảo hiểm ngày càng tăng do người tham gia đóng góp, các cơ
quan, DNBH sẽ trợ cấp hoặc bồi thường kịp thời cho họ để ổn định đời sống và sản
xuất, nếu như đối tượng bảo hiểm gặp phải rủi ro hay sự kiện bảo hiểm. Vì vậy, ngân
sách Nhà nước không phải chi tiền để trợ cấp cho các thành viên, các doanh nghiệp khi
gặp rủi ro, (trừ những trường hợp tổn thất mang tính xã hội rộng lớn). Mặt khác, hoạt
động kinh doanh trong lĩnh vực bhtm còn có trách nhiệm đóng góp vào ngân sách
thông qua các loại thuế mà các DNBH phải nộp. Và cũng trong hoạt động này, mối
quan hệ quốc tế giữa các DNBH ngày càng được mở rộng thông qua tái bảo hiểm hoặc
đồng bảo hiểm để phân tán rủi ro. Điều đó cho thấy, vai trò ổn định và tăng thu cho
ngân sách, đồng thời phát triển được các mối quan hệ quốc tế của hoạt động bảo hiểm
là rất đáng kể trong điều kiện thế giới ngày nay.
1.2.3.2. Vai trò xã hội
Bên cạnh vai trò về kinh tế, vai trò xã hội của bảo hiểm cũng không hề thu kém.
Điều này thể hiện ở chỗ:
- Bảo hiểm góp phần ngăn ngừa, đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cho cuộc
sống của con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn.
Trong quá trình tham gia bảo hiểm, các cơ quan, DNBH sẽ cùng với người
tham gia bảo hiểm phối hợp để thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất
thông qua một loạt các hoạt động như:
+ Tuyên truyền, hướng dẫn các biện pháp phòng tránh tai nạn, vệ sinh, an toàn
lao động;
+ Xây dựng thêm các biển báo và các con đường lánh nạn để giảm bớt tai nạn
giao thông;
+ Tư vấn và hỗ trợ tài chính để xây dựng và thực hiện các phương án phòng
cháy, chữa cháy;
+ Tiêm chủng và chăm sóc y tế cộng đồng v.v...
Tất cả những hoạt động nói trên của bảo hiểm đều nhằm mục đích góp phần ổn
định cuộc sống, sản xuất và từ đó góp phần đảm bảo ASXH.
- Các loại hình bảo hiểm phát triển đã tạo thêm công ăn việc làm cho người lao
động, đồng thời còn tạo nên một nếp sống tiết kiệm trên phạm vi toàn xã hội.
Tiết kiêm trong bảo hiểm thường là tiết kiệm một cách có kế hoạch từ nội bộ
mỗi gia đình, mỗi cơ quan, doanh nghiệp. Với những khoản tiền rất nhỏ, các cá nhân,
các hộ gia đình vẫn có thể tiết kiệm được thông qua loại hình BHTN. Hay trong
BHXH, thì tiết kiệm hôm nay là để bảo đảm cuộc sống cho ngày mai khi người lao
động về hưu v.v... Có thể nói, vai trò xã hội của bảo hiểm ở đây đã góp phần làm giảm
tình trạng thất nghiệp cho người lao động và tạo dựng một nếp sống đẹp trên phạm vi
xã hội.
- Bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người dân, mọi tổ chức kinh tế - xã
hội. Thật vậy, chỉ với một mức phí bảo hiểm rất khiêm tốn mà các cơ quan, các DNBH
thu được, họ vẫn có thể giúp đỡ cho các cá nhân, các gia đình, các cơ quan doanh
nghiệp khắc phục được hậu quả rủi ro, cho dù đó là những rủi ro khôn lường trong
cuộc sống và sản xuất. Đó cũng chính là chỗ dựa để họ yên tâm hơn, tin tưởng hơn vào
cuộc sống tương lai. Chính vì thế, ông Wisston Clurcholl - một chính khách đã nói:
"Nếu có thể, tôi sẽ viết từ "bảo hiểm" trong mỗi nhà và trên trán mỗi người. Càng ngày
tôi càng tin chắc rằng, với một giá khiêm tốn, bảo hiểm có thể giải phóng các gia đình
ra khỏi thảm hoạ không lường trước được".

Tóm lược bài 1


1. Rủi ro là sự cố không may bất ngờ xảy ra gây thiệt hại về người hoặc tài sản.
Rủi ro có đặc điểm rõ nét là sự không chắc chắn, bất ngờ, ngẫu nhiên hay còn gọi là
tính bất định của một biến cố nào đó. Cần phân biệt rủi ro với nguy cơ là nguyên nhân
chính gây tổn thất và hiểm họa là nhân tố ảnh hưởng đến hậu quả tổn thất. Có nhiều
loại rủi ro, bao gồm rủi ro thuần và rủi ro đầu cơ; rủi ro tài chính và rủi ro phi tài
chính; rủi ro cơ bản và rủi ro riêng biệt.
2. Để đối phó với những thiệt hại do rủi ro gây ra, có hai nhóm biện pháp là
kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro. Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm biện
pháp tránh né rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Nhóm các biện pháp tài trợ
rủi ro bao gồm chấp nhận rủi ro và bảo hiểm.
3. Bảo hiểm là một công cụ quản trị rủi ro hiệu quả. Hiện nay trên thế giới có 4
loại hình bảo hiểm, đó là: Bảo hiểm thương mại (BHTM); Bảo hiểm xã hội (BHXH);
Bảo hiểm y tế (BHYT) và Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN). Mỗi loại hình ra đời trong
những hoàn cảnh, thời gian và điều kiện khác nhau. Bảo hiểm có quan hệ chặt chẽ và
biện chứng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
4. BHTM là hoạt động kinh doanh bảo biểm nên có các nguyên tắc hoạt động
riêng và có nhiều loại BHTM. Hiện nay phổ biến là phân loại BHTM thành bảo hiểm
tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, và bảo hiểm con người. Các loại BHTM có đối
tượng bảo hiểm, nguyên tắc tham gia bảo hiểm và nguyên tắc bồi thường không giống
nhau.
5. Bảo hiểm có vai trò kinh tế và xã hội to lớn, góp phần mang lại những lợi ích
kinh tế - xã hội thiết thực cho cá nhân, cho tổ chức, cho các doanh nghiệp và cho toàn
xã hội.

Câu hỏi ôn tập


1. Anh/chị hiểu rủi ro là gì?
2. Phân loại rủi ro?
3. Doanh nghiệp có thể áp dụng những công cụ quản trị rủi ro nào?
4. Có những loại hình bảo hiểm nào?
5. Các nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm thương mại?
6. Vai trò của bảo hiểm?
Gợi ý trả lời:
Câu 1: Anh/chị hiểu rủi ro là gì?
Trả lời:
• Rủi ro là sự cố không may bất ngờ xảy ra gây thiệt hại về người hoặc tài sản.
• Đặc điểm: sự không chắc chắn, bất ngờ, ngẫu nhiên hay còn gọi là tính bất định
của một biến cố nào đó.
• Phân biệt rủi ro với nguy cơ và hiểm họa.
Câu 2. Phân loại rủi ro?
Trả lời:
• Căn cứ vào vào khả năng kiếm lời trong kết cục của rủi ro: rủi ro thuần và rủi ro
đầu cơ (rủi ro suy đoán)
• Căn cứ vào việc đo lường hậu quả của rủi ro: rủi ro tài chính và rủi ro phi tài
chính
• Căn cứ vào cả nguyên nhân và hậu quả của rủi ro: rủi ro cơ bản và rủi ro riêng
biệt
Câu 3. Doanh nghiệp có thể áp dụng những công cụ quản trị rủi ro nào?
Trả lời:
• Kiểm soát rủi ro:
- Tránh né rủi ro
- Ngăn ngừa tổn thất
- Giảm thiểu rủi ro.
• Tài trợ rủi ro:
- Chấp nhận rủi ro
- Bảo hiểm
Câu 4. Có những loại hình bảo hiểm nào?
Trả lời:
• Bảo hiểm xã hội
• Bảo hiểm y tế
• Bảo hiểm thất nghiệp
• Bảo hiểm thương mại
Câu 5. Các nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm thương mại?
Trả lời:
• Nguyên tắc 1: Số đông bù số ít
• Nguyên tắc 2: Rủi ro có thể được bảo hiểm
• Nguyên tắc 3: Phân tán rủi ro
• Nguyên tắc 4: Trung thực tuyệt đối
• Nguyên tắc 5: Quyền lợi có thể được bảo hiểm
Câu 6. Vai trò của bảo hiểm?
Trả lời:
• Vai trò kinh tế
- Góp phần ổn định tài chính và đảm bảo cho các khoản đầu tư.
- Là một trong những kênh huy động vốn rất hữu hiệu để đầu tư phát triển kinh
tế - xã hội.
- Góp phần ổn định và tăng thu cho ngân sách và thúc đẩy phát triển quan hệ
kinh tế đối ngoại giữa các nước.
• Vai trò xã hội
- Góp phần ngăn ngừa, đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cho cuộc sống an
toàn hơn, xã hội trật tự hơn.
- Tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và tạo nên một nếp sống tiết
kiệm
- Là chỗ dựa tinh thần cho mọi người dân, mọi tổ chức kinh tế - xã hội.

You might also like