Professional Documents
Culture Documents
Kehoachbadinh in
Kehoachbadinh in
MỤC LỤC
01 Tâm thư thay lời phi lộ
09 Đặt vấn đề
1
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
tịch Hồ Chí Minh đã từng nói trước khi lãnh đạo toàn
dân vào cuộc kháng chiến kéo dài 30 năm vẫn chưa
thành hiện thực. Đầu tư vào khoa học, đào tạo một thế
hệ có tri thức và tư duy khoa học là con đường duy nhất
để thoát căn bệnh trầm kha triền miên của dân tộc là
đói nghèo và lạc hậu. Thế hệ chúng ta phải trả lời cho
thế hệ đi trước là đã làm được gì và phải trả lời cho thế
hệ tương lại là sẽ phải làm gì.
Hơn 30 năm trước, tôi được mời và được tổ chức cử
đi giảng dạy và nghiên cứu ở Âu Châu và Hoa Kỳ,
trong lòng chỉ tâm niệm một câu hỏi là làm thế nào để
tôi và bạn bè có thể làm khoa học ở Việt Nam mà không
bị cuốn theo nỗi lo mưu sinh. Khi đó tôi vừa phải chua
xót chia tay vĩnh viễn người bạn vong niên thân thiết
nhất, một nhà khoa học nghiêm túc, có trí lự, chỉ vì một
thảm kịch gia đình không đáng có, bắt nguồn từ chuyện
cơm áo gạo tiền và bế tắc về đường đi. Sau hơn 15 năm
bôn ba, lắng nghe và suy tư mọi góc cạnh ở nơi khoa
học phát triển nhất, tôi trở về Việt Nam, với ước vọng
được đóng góp kinh nghiệm của mình cho Tổ quốc
Việt Nam. Lại 15 năm lăn lộn tìm tòi ở nhiều lĩnh vực,
từ quản lý nhà nước, xây dựng chính sách, quản lý và
nghiên cứu khoa học, đào tạo, phát triển sản phẩm công
nghệ, tư vấn và đến kinh doanh khoa học công nghệ,
kết hợp với kinh nghiệm quốc tế, tuy chưa phải là sâu
sắc gì, tôi cũng có được một cách nhìn tương đối khách
quan và độc lập với các định kiến hay quan điểm lợi
ích. Công việc của tôi có những thành công và cũng đã
trải qua nhiều thất bại, có những giá trị được ghi nhận
2
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
và chưa được ghi nhận, nhiều giây phút hân hoan, tràn
trề hy vọng, cũng nhiều khi phải chảy nước mắt xót xa,
tôi lại càng thấm thía việc phát triển khoa học công
nghệ và đào tạo nhân lực là hai mặt của cùng một vấn
đề có thể đưa Việt Nam thoát khỏi đói nghèo và lạc
hậu. Đó cũng là cơ may lớn nhất mà tôi phải cảm ơn
những người đã từng cộng sự, khuyến khích mình làm
những việc tưởng chừng lạc lõng và viển vông.
“Không viển vông sao dám nhận là người”, tôi
thường nói với bạn bè và các học trò như thế. Khi người
vượn quyết tâm đứng thẳng trên hai chân để giải phóng
đôi tay và phóng tầm mắt tới chân trời, chắc hẳn đó
cũng là một hành động có thể cho là viển vông. Nhưng
rồi hành động đó đã thay đổi hẳn số phận của loài
người. Đôi khi, để có thể tính tới mục tiêu tầm xa,
chúng ta phải đủ dũng khí để theo đuổi những việc bên
ngoài những toan tính đời thường. Cha ông ta tay trắng,
cầm gươm đi mở nước để lại cho chúng ta một giang
sơn như ngày nay, đâu phải chỉ để tồn tại có chút vinh
thân phì gia.
Có lẽ vấn đề đầu tiên có ảnh hưởng tới việc phát
triển khoa học công nghệ tại Việt Nam là việc lập kế
hoạch, chiến lược. Năm 2006, khi đang làm Phó Chánh
Văn phòng Ban Chỉ đạo Quốc gia về Công nghệ thông
tin, tôi được giao rà soát lại các kế hoạch, chiến lược,
đề án, dự án quốc gia về CNTT, tôi thấy có hàng chục
kế hoạch được Thủ tướng phê duyệt, đều không được
triển khai. Có lẽ các đề án chưa phản ánh được ý chí
3
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
chung của xã hội và một nhận thức sâu sắc về nhu cầu
bức thiết của xã hội. Người Việt chúng ta thường né
tránh tranh luận, dễ đồng ý với nhau những vấn đề
chung chung như khoa học công nghệ là cần thiết, giáo
dục là quốc sách, nhưng khi đi vào việc thực hiện cụ
thể lại thiếu đồng lòng, quyết tâm, đôi khi mâu thuẫn
vì những tiểu tiết. Khi cần đóng góp ý kiến không ai có
ý kiến gì, đến khi bắt đầu triển khai lại thiếu sự hiệp trợ
xã hội, một ý chí, nhiều khi là sự thờ ơ, thậm chí là
ngấm ngầm chống lại. Một đề án dù hay đến mấy vấp
phải sự bất hợp tác là sẽ mất đi sức sống và sự lan tỏa.
Quy trình xây dựng đề án quốc gia thường bắt
đầu từ chủ trương đúng, được Chính phủ giao xuống
các Bộ, từ Bộ giao xuống các Vụ, đến tay một vài
chuyên viên chấp bút, có thể không đủ kinh nghiệm và
kiến thức. Cho dù có thể có một số ý hay táo bạo, nhưng
dần cũng bị cắt xén mài mòn khi thẩm định qua nhiều
cấp, nên các kế hoạch thường na ná như sau, thiếu sắc
bén, không có gì sai, nhưng cũng chẳng thiết thực gì.
Bên cạnh đó, hiện tại xã hội ngày càng lạnh nhạt với
khoa học công nghệ, cho rằng nghiên cứu phát triển
không thiết thực, với những quan niệm ấu trĩ thiển cận
như nhà khoa học phải có trách nhiệm sửa cầu, thiết kế
cột điện, làm ốc vít, sản xuất ô tô. Nhiều nhà quản lý
lại quan niệm đơn giản rằng nghiên cứu khoa học là
việc của thế giới, công nghệ chỉ nên mua của nước
ngoài, chúng ta chỉ nên nghĩ tới khai thác, kinh doanh
hoặc làm những việc cụ thể. Bên cạnh đó, nhiều người
cho rằng việc nghĩ tới chiến lược, kế hoạch là việc quốc
4
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
gia đại sự, là việc của nhà nước, hệ thống chính trị phải
lo. Cách nghĩ thụ động như vậy làm các đề án của
chúng ta mãi mãi ở trên giấy.
Tại khuôn viên các trường đại học ở Châu Âu và
Hoa Kỳ tôi đã từng thấy các nhóm sinh viên năm dưới
tranh luận về chính sách quốc gia, chiến lược toàn cầu
và các xu thế của thời đại. Chính sách đối ngoại, chiến
lược lớn của Mỹ trong nhiều năm được xây dựng trên
cơ sở những tác phẩm của các nhà tư tưởng chiến lược
như “Va chạm giữa các nền văn minh” của Samuel
Hunttington và “Tận cùng của lịch sử” của Francis
Fukuyama. Các tư tưởng trong các bộ sách này cũng
được manh nha và đúc kết từ các thảo luận trong các
khuôn viên đại học, tranh luận trên các phương tiện
truyền thông đại chúng. Nói một cách khác, kế hoạch,
chiến lược quốc gia khi được thể hiện trên bút giấy, đều
đã từng được xã hội quan tâm, gọt giũa cùng xây dựng
các luận điểm chính và được các nhà tư tưởng đưa đến
tầm khái quát mới. Chiến lược khoa học công nghệ là
một vấn đề tinh tế, vừa đòi hỏi có tầm nhìn rộng về
khoa học công nghệ, vừa phải hiểu biết sâu sắc các nhu
cầu thực tế, lại phải nắm được xu thế thời đại, vừa cụ
thể hóa được tầm nhìn của quốc gia, có lẽ cần phải được
xây dựng theo một cách tiệm cận khác.
Chúng ta đã từng có những tham vọng và kỳ vọng
về khoa học công nghệ và đã đầu tư vào công nghệ tin
học điện tử. Chúng ta đã từng đầu tư cho ngành này các
phương tiện khác nhau, từ quyền quyết định chính
5
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
6
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
7
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
làm tôi cảm thấy mình không đơn độc, thêm dũng khí
và ý chí trong cuộc hành hương về tư duy này. Nguyên
Bộ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ Nguyễn Quân đã
khích lệ, bổ sung thông tin và kỳ công chỉnh sửa bản
thảo tới từng chi tiết với một nhiệt tình hiếm có. Tôi
thực sự xúc động với mối thâm tình này. Cuối cùng, tôi
xin cảm ơn các đồng sự, Th.S Cù Kim Long (Bộ Khoa
học Công nghệ) và Th.S Đoàn Văn Hậu
(Ernest&Young) đã giúp tôi xử lý một số tài liệu khi
bắt đầu dự án này.
8
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khi dựng nước đến nay, dân tộc Việt Nam
chúng ta đã đi hết ba phần tư quãng đường đi tới độc
lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc. Từ địa vị làm nô lệ
80 năm cho ngoại bang, vô danh trên bản đồ thế giới,
chúng ta đã tuyên bố độc lập. Bằng một khối ý chí như
kim cương, chúng ta đã vượt qua ba cuộc chiến tranh
để trở thành một dân tộc tự do, có quyền tự quyết vận
mệnh của mình. Đó là những trang sử bi hùng do các
thế hệ cha anh viết nên, mãi mãi sẽ được chúng ta và
bạn bè năm châu ngưỡng mộ. Thế giới đã biết tới và
kính trọng dân tộc ta như một dân tộc tự tôn và anh
hùng. Trong một phần tư quãng đường cuối cùng, dân
tộc ta phải tìm đến được hạnh phúc đích thực và hoàn
toàn của mình: đất nước ta phải được phồn vinh, dân
tộc ta phải được văn minh, Tổ quốc Việt Nam phải trở
nên hùng mạnh, “sánh vai cùng các cường quốc năm
châu”.
Trong lịch sử Việt Nam, đói nghèo luôn là vấn
đề thường trực. Một người bạn nước ngoài đã từng nói
“Việt Nam có ba vấn đề lớn suốt chiều dài lịch sử là
Đói nghèo, Ngoại bang và Đói nghèo”. Nhiều người
hiểu câu nói đó muốn nhấn mạnh Đói nghèo là vấn đề
quan trọng nhất, Ngoại bang là vấn đề quan trọng thứ
hai. Thực ra câu nói đó hàm nghĩa chúng ta chỉ có một
vấn đề duy nhất là Đói nghèo và chính vì thế mà Ngoại
bang luôn là nỗi ám ảnh thường trực. Đói nghèo lạc hậu
9
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
dẫn đến nhân tâm chia lìa và bị ngoại bang ức hiếp như
một quy luật tất yếu.
Đất nước ta có lợi thế về sản xuất lương thực,
sau khi có một chính sách đúng đắn, Việt Nam đã
nhanh chóng trở nên một trong những nhà xuất khẩu
gạo lớn nhất thế giới. Tuy vậy, gạo của chúng ta chưa
có chất lượng hàng đầu để có những thị trường khách
hàng cao cấp và ổn định. Chúng ta chưa tự lực được về
giống, phân bón, thuốc trừ sâu, máy móc nông nghiệp.
Bên cạnh đó, chúng ta phải đối phó với thiên tai, thay
đổi khí hậu, đất đai ngày càng thiếu màu mỡ, ô nhiễm.
Đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa lớn nhất của cả
nước, bị ngập mặn, là một trong những vấn đề kinh tế
xã hội nhức nhối mà chúng ta phải đối mặt trong những
năm tới. Trong khi đó, doanh thu đem lại do xuất khẩu
gạo, cũng chỉ vừa đủ để nhập khẩu ngô cho người và
cho gia súc. Thị trường cây công nghiệp và trái cây của
chúng ta cũng còn nhiều yếu tố bấp bênh. “Được mùa
thì mất giá, được giá mất mùa” vẫn là căn bệnh triền
miên mà nông dân phải gánh chịu. Như thế, chúng ta
chưa phải là cường quốc về nông nghiệp.
Cách mạng xanh trên thế giới đã giải quyết tận
gốc vấn đề lương thực. Nước Mỹ là một nước có truyền
thống và lợi thế sản xuất nông nghiệp cũng có chính
sách tiết chế sản xuất và bù lỗ cho nông nghiệp. Các
đồn điền sản xuất lương thực cứ hai năm nghỉ canh tác
một lần và được chính phủ trả cho một khoản tiền bằng
giá trị thu nhập của năm trước đó. Người ta tính ra nếu
10
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
hai bang Iowa và Idaho, canh tác hết diện tích, lượng
lương thực sẽ đủ nuôi cả thế giới. Bên cạnh đó, việc áp
dụng tự động hóa và các thành tựu của công nghệ sinh
học đã giúp cho một vài người có thể canh tác hàng
chục hectare với năng suất và chất lượng rất cao.
Hiện nay, tại Việt Nam, phần lớn dân số có đời
sống gắn kết với nông nghiệp, nông nghiệp phải là vấn
đề ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên, với những điều kiện
đang có, đặc biệt là diện tích canh tác bình quân trên
một lao động nông nghiệp rất thấp, chúng ta cần suy
nghĩ xem việc phát triển nông nghiệp nặng về sản xuất
lương thực có thể đưa chúng ta thoát khỏi đói nghèo.
Trừ khi trong tương lai nông nghiệp Việt Nam có thể
phát triển theo hướng công nghiệp hóa dựa vào những
thành tựu khoa học công nghệ, nông nghiệp Việt Nam
hiện nay sẽ chủ yếu chỉ có ý nghĩa là giải pháp xã hội.
Chúng ta cần phải suy nghĩ và chuẩn bị cho bước tiếp
theo để đào tạo lại, chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang sản
xuất hàng hóa và dịch vụ với quy mô lớn. Chỉ khi đó
việc áp dụng các thành tựu khoa học mới có ý nghĩa
thực tiễn.
Ngày nay, khoa học công nghệ có vai trò ngày
càng quan trọng trong việc phát triển xã hội và kinh tế.
Một mặt, khoa học công nghệ nâng cao dân trí, giải
phóng con người khỏi những tín điều ngu muội, để làm
chủ số phận của mình và làm chủ thế giới. Xã hội sẽ tốt
đẹp và văn minh hơn dưới ánh sáng của trí tuệ. Máy
hơi nước đã từng giải phóng con người khỏi lao động
11
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
12
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
13
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
14
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
15
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
16
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
17
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
18
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
19
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
được tính theo “ngày công” của các chuyên gia thực
hiện dự án. Cách tính như vậy khiến các nhà khoa học
công nghệ phải rất tốn công “trang điểm” cho các dự
án với các chuyên đề, nhân công và các khoản chi lặt
vặt hình thức để có thể nghiệm thu, đôi khi phải tốn
kém để có chứng từ hợp lệ. Nói một cách khác, cơ chế
tài chính bắt buộc các nhà khoa học phải trí trá, không
đúng bản chất của nhà khoa học chân chính.
Định mức cho nhân công thực hiện dự án cũng
tương đối thấp và không hợp lý. Chung quy cũng từ
quan điểm cho rằng, đề tài dự án khoa học công nghệ
là nguồn thu bổ sung, là tạo thêm thu nhập cho người
làm khoa học chứ chưa phải là chi phí cần trả để có một
tri thức hoặc công nghệ. Thậm chí, cơ quan tài chính
còn máy móc đến mức yêu cầu phải xây dựng định mức
kinh tế kỹ thuật cho mọi nội dung hoạt động nghiên
cứu, ứng dụng (tương tự như định mức trong xây dựng
cơ bản)- một yêu cầu bất hợp lý và ấu trĩ.
e) Vai trò của Viện nghiên cứu không rõ ràng
Hiện tại không có một văn bản hướng dẫn nào
xác định vai trò của các Viện nghiên cứu và sự khác
biệt mà chúng đem lại so với các trường một cách rõ
ràng. Mặc dù trường và viện đều có hai chức năng
nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ và đào tạo
nhân tài, nhưng mọi chức năng của viện nghiên cứu
hiện nay, trường đều có thể đảm nhận. Do đó sự cần
thiết tồn tại các viện nghiên cứu đang bị đặt dấu hỏi
20
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
lớn. Có ý kiến nên giải tán tất cả các viện nghiên cứu,
nhập vào các trường như một trung tâm phụ thuộc.
Về nguyên tắc, trường là tổ chức cần tập trung
vào đào tạo nhiều hơn so với nhiệm vụ nghiên cứu, còn
viện cần tập trung nghiên cứu phát triển nhiều hơn và
chỉ đào tạo sau đại học. Với mức độ phát triển và đầu
tư hiện nay, viện nghiên cứu có nhiều bất lợi trong
nghiên cứu khoa học công nghệ so với các trường. Một
mặt, chế độ đãi ngộ của các cơ sở giáo dục đã được
hình thành tốt hơn. Hai nhà khoa học có cùng năng lực
và cống hiến, người làm ở viện sẽ có đãi ngộ, thăng
tiến, vinh danh chậm hơn người làm ở trường và phải
nỗ lực nhiều gấp bội. Điều đó xảy ra ngay trong một cơ
quan như Đại học Quốc gia. Về nguyên tắc các viện
nghiên cứu được phép đào tạo sau đại học, tuy nhiên
cho đến nay nhiều nơi vẫn hạn chế đào tạo ở viện
nghiên cứu chỉ được đào tạo ở mức tiến sĩ. Một mặt
đào tạo tiến sĩ không thể đem lại nguồn thu đáng kể,
mặt khác học phí tiến sĩ nhiều khi lại thấp hơn học phí
đại học. Bên cạnh đó, do có quy mô tuyển sinh lớn, có
nguồn thu ổn định, các trường được ưu tiên đầu tư
nhiều hơn về cơ sở vật chất kỹ thuật, cũng được sử
dụng dùng nguồn vốn khoa học công nghệ. Do đó trừ
ngay cả các Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ và
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội cũng thành lập các Học
viện đào tạo và có xu hướng đang chuyển dần sang đào
tạo đại học, các viện nghiên cứu càng ngày càng teo
tóp, hoặc chạy theo kinh doanh lãng phí đầu tư về cơ
sở vật chất và đào tạo của nhiều thế hệ.
21
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
22
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
23
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
24
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
25
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
26
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
27
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
Quan điểm của chúng tôi tập trung vào các luận điểm
chính sau đây:
1) Cách xây dựng chiến lược khoa học công
nghệ nói chung và các chiến lược cần thay đổi và dựa
trên các tác phẩm có tính chiến lược của các tác giả tri
thức rộng rãi, tầm nhìn xa vừa sâu sắc về kinh nghiệm.
Mặt khác, các tác phẩm như thế chỉ có thể ra đời trên
nền tảng của một nhận thức chung của tầng lớp tinh
hoa mở rộng, cho đến mỗi sinh viên đại học, những
người nghiên cứu và triển khai, vận mệnh, chiến lược
lớn của quốc gia phải trở thành đề tài thường xuyên
trên phương tiện thông tin đại chúng, các diễn đàn,
nhóm thảo luận và mọi khuôn viên học đường. Thực tế
các nước, chính sách quốc gia được soạn thảo theo các
Think Tank, những nhà tư vấn chính sách lớn, các
Think Tank lại được thừa hưởng thành quả tư tưởng
của toàn xã hội. Cách xây dựng chiến lược như vậy
không phải là “đẽo cày giữa đường” vừa không phải
cách tư biện trong “tháp ngà”. Chúng tôi sẽ thảo luận
về các chiến lược lớn, vấn đề địa chính trị và xu hướng
thời đại, cần thiết để xây dựng chiến lược khoa học
công nghệ trong chương 1.
2) Chiến lược khoa học công nghệ cần phải tập
trung vào giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội lớn và
lâu dài, thay vì chia đều cho các chuyên ngành và phân
ngành như trước đây. Một mặt, các sản phẩm, dịch vụ
khoa học công nghệ ngày nay, không còn là sản phẩm
của một ngành hoặc ứng dụng một công nghệ duy nhất,
cần sự phối hợp của nhiều ngành. Mặt khác, việc tổng
28
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
hợp các kết quả của các đề tài hẹp để thành một giải
pháp công nghệ chưa phải là thế mạnh của các nhà
khoa học công nghệ Việt Nam. Về khía cạnh này, việc
xây dựng Lộ trình khoa học công nghệ của Trung Quốc
đến 2050 có nhiều điểm cần học tập. Mặc dù chúng tôi
đã tham khảo các chiến lược khoa học công nghệ của
Âu châu, Nhật Bản và nhiều nước khác, chúng tôi quan
tâm đặc biệt tới Lộ trình khoa học công nghệ của Trung
Quốc do có một số đặc trưng tương đồng và do phù hợp
với trình độ nhận thức. Chúng tôi sẽ thảo luận các bài
học liên quan trong chương 2.
3) Các chương trình, đề án phải đủ lớn, có tính
liên ngành, xóa bỏ sự độc quyền của từng ngành, để có
thể có được kết quả thiết thực. Bên cạnh đó, với mục
tiêu kinh tế xã hội xác định, các chương trình đề án như
vậy sẽ khắc phục điểm yếu cố hữu cúa khoa học công
nghệ Việt Nam là việc lập kế hoạch triển khai và điều
phối nhiều đơn vị. Các dự án lớn sẽ dần hình thành một
cơ chế quản lý khoa học mới, thay thế các cơ chế lạc
hậu hiện tại đang cản trở sự hình thành một nền khoa
học công nghệ tiên tiến. Dự án Manhattan của Mỹ, đã
chế tạo thành công bom nguyên tử để chạy đua với phát
xít Đức cuối chiến tranh thế giới thứ hai và đưa quốc
gia này lên vị trí số một về khoa học công nghệ trên thế
giới trong một thời gian ngắn. Bên cạnh tri thức khoa
học công nghệ, tri thức quản lý các đề án khoa học công
nghệ nhờ dự án Manhattan là sức mạnh lớn nhất của
nền khoa học công nghệ Mỹ. Theo quan điểm của
chúng tôi, kinh nghiệm triển khai Dự án Manhattan sẽ
29
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
30
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
31
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
khoa học công nghệ tiên tiến sẽ trỗi dậy, trong một
phần tư quãng đường cuối cùng đến 2045, với một
điểm đến hạnh phúc, phồn vinh như bao thế hệ đã từng
mong mỏi.
32
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
33
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
34
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
CHƯƠNG 1
ĐỊA CHÍNH TRỊ VÀ CHIẾN LƯỢC LỚN CỦA
CÁC QUỐC GIA
Điểm quan trọng khi xây dựng chiến lược là có
được một mô hình động lực, mô tả xu hướng phát triển
của thế giới dựa trên tương tác của một số yếu tố quan
trọng nhất, không phụ thuộc vào những yếu tố ngẫu
nhiên có tác dụng ngắn hạn. Ngày nay, các sự kiện trên
thế giới ngày càng có xu hướng phụ thuộc lẫn nhau. Sự
phát triển của quốc gia không thể độc lập với thế giới
xung quanh. Mặt khác cần phải chủ động tham gia vào
sự phát triển chung của nhân loại trên cơ sở nắm được
các xu hướng lớn. Ngày nay, mô hình thế giới về “ba
dòng thác cách mạng” đã không còn phù hợp. Chúng
ta cần có một bức tranh mới.
Chiến lược khoa học công nghệ cần dựa trên chiến
lược lớn quốc gia. Chiến lược lớn lại cần được xây
dựng dựa trên thế địa chính trị để nắm được các xu
hướng lâu dài. Các quốc gia đều chọn liên minh, xác
định cả thế lực chống đối trên cơ sở quyền lợi lâu dài
của quốc gia. Một quan điểm quá thực dụng, tập trung
vào quyền lợi thiển cận, rõ ràng là không thích hợp, vì
sẽ lộ liễu, bị cảnh giác và cô lập. Tuy vậy, theo đuổi
những giá trị viển vông cũng không còn thích hợp trong
thế giới biến động ngày nay. Trong hoàn cảnh hiện nay,
Chiến lược khoa học công nghệ sẽ còn phải đóng vai
trò tiên phong để định hình Chiến lược lớn quốc gia.
Trong khi ở Việt Nam lâu nay chúng ta thường làm
35
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
ngược lại, chiến lược khoa học công nghệ chỉ được xây
dựng sau khi có chiến lược quốc gia (mà chúng ta gọi
là chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, thường được
ban hành dưới dạng Văn kiện Đại hội Đảng), chiến
lược quốc gia lại bị tư duy nhiệm kỳ làm mất tầm nhìn
dài hạn và thường chỉ có tác dụng trong khoảng thời
gian 10 năm. Trong chương này, chúng tôi sẽ phác họa
một số nét lớn cần được xem xét khi xây dựng Chiến
lược khoa học công nghệ và tiến tới xây dựng Chiến
lược lớn quốc gia.
1. Địa chính trị và chiến lược lớn
Địa chính trị là khoa học nghiên cứu ảnh hưởng của
các yếu tố địa lý (tự nhiên và xã hội) đến hành vi chính
trị đối ngoại của các quốc gia. Đối tượng chính của địa
chính trị truyền thống là thế lực chính trị gắn liền với
quyền làm chủ không gian địa lý [1,2]. Thực tế cho
thấy tranh chấp về lãnh thổ, lãnh hải, nguồn tài nguyên
là động lực chính của chính trị thế giới.
Từ những năm 1960, các siêu cường quốc là Liên
Xô và Mỹ bắt đầu chạy đua trong việc làm chủ không
gian, bắt đầu việc Liên Xô đưa người lên quỹ đạo bay
xung quanh Trái Đất, Mỹ đưa người lên Mặt Trăng.
Gần đây Trung Quốc cũng tham gia cuộc đua này với
các tàu du hành Thần Châu và Hằng Nga, đánh dầu
những bước tiến mới. Cuộc cạnh tranh này là thành tựu
vĩ đại chung cho nhân loại, nhưng có động cơ thúc đẩy
từ các yếu tố địa chính trị. Bên cạnh đó, việc kiểm soát
và bảo vệ chủ quyền trong không gian số cũng đang là
36
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
điểm nóng chiến lược trong đời sống chính trị toàn cầu.
Nhiều nước đã hình thành các binh chủng đặc biệt
nhằm bảo vệ quyền lợi quốc gia liên quan tới không
gian số. Đặc biệt, đã có nhiều vũ khi tấn công và phòng
thủ đặc biệt trong không gian này. Việc cạnh tranh về
chủ quyền trong không gian vũ trụ và không gian số đã
đem lại những đặc trưng mới về địa chính trị, đồng thời
cũng thúc đẩy việc triển khai và ứng dụng các công
nghệ tiên tiến nhất. Các công nghệ mới này lại có ứng
dụng trong kinh tế xã hội và phát triển khoa học công
nghệ nói chung.
Một trong những yếu tố sẽ thách thức các đặc trưng
địa chính trị truyền thống là nạn dịch Covid 19, có quy
mô toàn cầu và ảnh hưởng lớn tới sự phát triển kinh tế,
chính trị xã hội toàn thế giới. Điều tất yếu, Covid 19,
sẽ ảnh hưởng tới định hướng phát triển khoa học công
nghệ toàn cầu, ưu tiên hơn cho vấn đề môi sinh, y tế và
bảo vệ con người [3].
Cuối cùng, trong khi vấn đề lãnh hải và quyền làm
chủ mặt nước đang là tâm điểm tranh chấp trên thế giới,
vấn đề làm chủ đáy đại dương, ở các độ sâu trên 4000
m và làm chủ các vùng đất dưới lớp băng vĩnh cửu của
Bắc cực và Nam cực đang là thách thức về khoa học
công nghệ đối với nhiều quốc gia. Lộ trình chiến lược
khoa học công nghệ Trung Quốc đặt mục tiêu đến năm
2050 sẽ làm chủ độ sâu trên 4000 m, cho phép thám
hiểm và thu thập thông tin về tất cả các vị trí dưới đáy
37
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
đại dương trên toàn thế giới. Đó là một quan điểm địa
chính trị mới về mở rộng lãnh hải.
2. Chiến lược lớn và vận mệnh quốc gia
Chiến lược lớn (Grand Strategy) là tập hợp các kế
hoạch và chính sách và bao gồm các nỗ lực của một
quốc gia trong việc phát triển và phối hợp các công cụ
chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa và kinh tế nhằm
đạt được lợi ích của quốc gia.
Do quốc gia bao giờ cũng phải đối diện với các khó
khăn và hạn chế về nguồn lực, Chiến lược lớn là nghệ
thuật dung hòa giữa phương tiện và mục đích, bao gồm
ý chí của những người có suy nghĩ tiên phong trong xã
hội, tính toán, cảm xúc của các nhà lãnh đạo và dự cảm
sâu sắc về bức tranh địa chính trị toàn cảnh thế giới.
Chiến lược lớn cần được bắt đầu bằng việc hiểu thế giới
ngày nay vận động thế nào và xác định vị thế của quốc
gia trong thế giới đó. Chiến lược lớn bao gồm chính
sách và nguyên tắc hoạt động thực tiễn, khuyến cáo các
hành động và phản ứng của chính phủ đối với những
đe dọa hoặc các cơ hội thực tế [4].
Thời cổ đại đã xuất hiện Chiến lược lớn, phối hợp
sức mạnh quân sự, tổ chức xã hội với các giá trị văn
hóa, đạo đức và sức mạnh kinh tế. Trong cuộc chiến
tranh giữa Athens và Sparta, mặc dù Athens có trình độ
phát triển văn minh, khoa học kỹ thuật, thậm chí kinh
tế mạnh hơn, nhưng đã thất bại, vì Sparta có tổ chức xã
hội, phương thức huy động sức mạnh quân sự, kinh tế
38
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
trong một tổng thể Chiến lược lớn phù hợp hơn. Sự sụp
đổ của đế chế La Mã cũng do thiếu một Chiến lược lớn
để đối phó kịp thời với những vấn đề mới nảy sinh từ
các vấn đề nội tại của đế chế, chứ không phải do thiên
tai địch họa hay thiếu thốn tài nguyên [5].
Đa số các quốc gia trên thế giới ngày nay đều có
Chiến lược lớn rõ nét để có chính sách phát triển và
phản ứng với các sự kiện quốc tế một cách nhất quán.
Từ sau Chiến tranh lạnh, các quốc gia đều đã có những
điều chỉnh về Chiến lược lớn của mình, do tương quan
và trật tự trên thế giới đã thay đổi. Đáng chú ý, là các
Think Tank của RAND Corp như Huntington và
Fukuyama đã đưa ra các kiến giải mới về trật tự thế
giới sau thời Chiến tranh lạnh. Huntington đưa ra mô
hình Va chạm giữa các nền văn minh [6], Fukuyama
thì cho rằng thời kỳ mới gọi là Kết thúc của Lịch sử sẽ
có một trật tự thế giới duy nhất [7]. Các học thuyết này
một thời làm xương sống cho chính sách đối ngoại của
Mỹ, ngày nay đã không ngừng được phát triển tiếp tục
và điều chỉnh để phù hợp với tình hình mới.
Trong khi đó, từ nhiều thập kỷ Việt Nam có vẻ lúng
túng trong việc hình thành một chiến lược lớn. Trong
giai đoạn 1990-2005, những thành công về cải cách
kinh tế và hội nhập quốc tế làm người ta tin rằng một
cách đi ngắn hạn, có tính đối phó theo thời điểm có thể
đủ để duy trì một trạng thái cân bằng và dung hòa để
phát triển. Có nhiều quan điểm cho rằng, các vấn đề xã
39
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
hội, văn hóa có thể tạm thời gác lại để phát triển kinh
tế và khoa học công nghệ.
Tuy nhiên, những diễn biến gần đây hơn, bắt đầu
hình thành một nhận thức xã hội mới, cho rằng việc bị
động trong việc hoạch định chính sách đối ngoại, có
căn nguyên trong chính sách đối nội, đã làm Việt Nam
thua thiệt trong việc nắm bắt các cơ hội phát triển, và
có thể phải trả giá bằng một giai đoạn trầm lắng trong
phát triển, thậm chí có thể tụt hậu.
Khó khăn trong việc hình thành một nhận thức
chung về tính cấp thiết của một chiến lược lớn thường
là ở trong việc cởi mở tranh luận và có tính xây dựng
trong giai tầng quyền lực cao nhất của quốc gia. Tránh
né các vấn đề có tính sống còn để bảo vệ một bề ngoài
đồng thuận hình thức đã che khuất những vấn đề trọng
đại và sự cần thiết của những cá nhân có bản lĩnh chính
trị (charisma) và năng lực quyết đoán. Khó khăn thứ
hai thường xảy ra ở các quốc gia trên các lục địa già Á-
Âu là xu hướng giữ các tranh luận này trong môi trường
quyền lực hoặc trong các salon chính trị hẹp. Trong khi
đó tại các quốc gia có tầm nhìn trẻ trung hơn và động
lực phát triển mạnh hơn như Mỹ, các vấn đề về Chiến
lược lớn đều có sự tham gia của các trí thức trẻ, thông
qua các chương trình tranh luận học đường tại các
trường đại học hàng đầu (Ivy League) [8]. Các chương
trình tranh luận đó đóng góp đã cho Chiến lược lớn của
quốc gia cả về những cách nhìn mới mẻ và đào tạo
những trí thức tinh hoa của thế hệ mới tham gia vào nội
40
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
các. Ngay tại Trung Quốc là một quốc gia còn nhiều trì
trệ và bảo thủ, các trí thức trẻ cũng chủ động quan tâm
nhiều đến những vấn đề trọng đại của đất nước và có
nhiều quan điểm mới mẻ. Điều đó thể hiện hết sức rõ
trên báo chí và các hoạt động trong đời sống văn hóa
của Trung Quốc.
Đã đến lúc Việt Nam cần có một tầm nhìn, chuẩn bị
hình thành Chiến lược lớn, để có thể chủ động hơn
trong việc quyết định tương lai của chính mình [9].
3. Bức tranh phát triển của thế giới
Thế giới ngày nay đang phát triển ở một tốc độ cao
chưa từng thấy, đầy rẫy những sự kiện bất ngờ. Một sự
kiện đơn giản cũng có thể tạo ra những dư chấn đủ sức
đảo lộn các trật tự đã được thiết lập từ lâu. Chẳng hạn
việc rút vốn của nhà đầu tư George Soros ở Đông Nam
Á có thể kéo tới sự sụp đổ hàng loạt doanh nghiệp, một
số nền công nghiệp đang phát triển và đưa cả hệ thống
tài chính thế giới vào khủng hoảng. Những hoạt động
của những nhóm khủng bố nhỏ như sự kiện 11/9 đã gây
ra những xung đột quân sự với quy mô lớn mà hậu quả
sẽ còn kéo dài trong nhiều thế hệ. Các kịch bản này có
vẻ tương tự như một "hiệu ứng cánh bướm" (butterfly
effect) trong một hệ thống đã bước vào pha phát triển
hỗn loạn (chaos). Điều đó báo hiệu cho một chu kỳ
hình thành các trật tự mới [10].
Trong những hệ thống như vậy, việc dự báo các
tương lai ngắn hạn và trung hạn là không khả thi, thậm
41
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
42
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
năm vẫn là các chu kỳ ngắn so với các chu kỳ phát triển
của địa chính trị thế giới.
George Modelski [12] là người phát triển học
thuyết Chu kỳ dài dựa trên việc phân tích các số liệu từ
thời Trung đại, và nhận thấy rằng lịch sử thế giới phát
triển theo chu kỳ gồm có 4 pha như sau: Trong pha thứ
nhất, trật tự thế giới cũ đã trở nên lạc hậu và sớm muộn
cũng bị phá hủy, các liên minh mới sẽ ra đời nhằm cạnh
tranh để giành quyền áp đặt một trật tự thế giới mới.
Trong pha này, các quốc gia sẽ tìm kiếm các liên minh
mới, tập trung và chuẩn bị lực lượng cho một cuộc
đụng độ lớn. Pha thứ hai: Là pha đụng độ giữa các liên
minh. Khi những thỏa hiệp, những biện pháp ngoại
giao của pha thứ nhất không còn hiệu lực. Các liên
minh sẽ ra mặt đối đầu quyết liệt. Những quốc gia trong
phe thắng thế sẽ hưởng mọi quyền lợi, những quốc gia
trong phe thất bại sẽ chịu mọi thiệt thòi. Trước khi đối
đầu trực tiếp, các liên minh sẽ phải thẳng tay trấn áp
các lực lượng nhỏ lừng chừng. Pha thứ ba: Thế lực
thắng thế sẽ áp đặt trật tự mới ở phạm vi toàn cầu và
chia sẻ thành quả của thắng lợi. Trật tự mới sẽ thể hiện
ở kinh tế, chính trị và văn hóa. Pha thứ tư: Khi trật tự
thế giới mới trở nên lạc hậu và ngày càng suy yếu, sẽ
hình thành thế lực đối trọng thách thức với trật tự thế
giới đang tồn tại. Dần dần, sẽ ngày càng có nhiều thế
lực trỗi dậy hơn đẩy thế giới về pha đầu của chu kỳ
mới. Sự phát triển theo các chu kỳ như vậy mở ra
những cơ hội phát triển mới cho các quốc gia. Một nhận
thức sai lầm của một quốc gia về chính sách liên minh
43
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
và chỗ đứng của mình sẽ làm đất nước tụt hậu và phải
chịu thiệt thòi.
Ở châu Á, sử gia Tư Mã Thiên [13] cũng đã có một
quan điểm về Chu kỳ lớn. Ông cho rằng triều đại nhà
Hạ, lấy "Trung thực" làm quốc sách. Khi "Trung thực"
suy thoái trở thành "thô bạo", nhà Hạ bị thay thế bởi
nhà Thương lấy quốc sách là "Lễ nghĩa" để bổ khuyết.
Khi "Lễ nghĩa" suy thoái trở thành "Mê muội", nhà Chu
phải lấy "Văn hóa" để bổ khuyết. Tư Mã Thiên cho
rằng khi "Văn hóa" suy thoái trở thành "Xảo trá", lại
phải quay lại "Trung thực", nhà Tần trái quy luật nên
nhanh chóng sụp đổ. Điều đó chứng tỏ việc sử dụng
các Chu kỳ lớn là một phương pháp khá tự nhiên và
phổ quát để hiểu sự vận động của xã hội.
Bức tranh về Chu kỳ lớn của Modelski có ích trong
việc mô tả thế giới và chứng nghiệm những gì đã xảy
ra. Tuy nhiên, để hoạch định các chính sách tương lai
để có chương trình hành động thực tiễn cần nhận thức
được các động lực thúc đẩy thế giới vận động theo các
pha nói trên. Chúng tôi đã đặt câu hỏi này cho giáo sư
Modelski: làm thế nào để tiên liệu được những động
lực nào đang thúc đẩy thế giới. Nhận thức được các
động lực này, sẽ cho phép xác định được chúng ta đang
ở thời kỳ nào, cần liên minh với ai và cần làm gì để
đảm bảo cho liên minh đó bền vững và đem lại các
quyền lợi thiết yếu cho quốc gia. Giáo sư Modelski chỉ
đưa ra một số chỉ dẫn rất tổng quát về phát triển về khoa
học công nghệ là động lực phát triển. Không thỏa mãn
44
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
với cách lý giải đơn giản đó, chúng tôi đã tự phát triển
bức tranh về ba yếu tố động lực: tài chính, thông tin và
văn hóa. Theo chúng tôi, sự phát triển của thế giới trong
thời đại này, các xung đột, liên minh đều bị chi phối
bởi ba yếu tố trên. Bức tranh về trật tự thế giới theo
cách nhìn ý thức hệ đã là quá khứ và chỉ còn là kỷ niệm
của thời kỳ trước. Phân tích rõ các yếu tố này, chúng ta
sẽ có cơ sở để tìm lời giải đúng cho một bài toán cấp
thiết: Xây dựng Chiến lược lớn và tìm đồng minh chiến
lược.
4. Dòng chảy tài chính và dòng chảy thông tin
Các chu kỳ không tự nhiên sinh ra. Đằng sau các
chu kỳ bao giờ cũng có những động lực nhất định đẩy
chúng vào vòng quay của chu kỳ. Đằng sau ngày,
tháng, mùa màng là lực hấp dẫn của Mặt Trời đối với
Trái Đất. Đằng sau các chu kỳ tuần hoàn của các
nguyên tố hóa học là tương tác lượng tử của các hạt
nhân và các điện tử quay quanh chúng. Đằng sau các
chu kỳ kinh tế là các động lực đổi mới công nghệ, thay
đổi thế hệ và các kỳ nợ đáo hạn. Tương tự như thế, ắt
phải có những động lực thúc đẩy các quốc gia vào việc
liên minh và đấu tranh với nhau.
Trong vô số các tương quan, có thể thấy hai động
lực có ảnh hưởng lớn nhất và đặc trưng cho thời đại
ngày nay là dòng chảy tài chính và dòng chảy thông
tin. Hai dòng chảy này được khơi thông bởi sự phát
triển bùng phát của công nghệ thông tin theo định luật
Moore [14]. Tuy nhiên, sẽ là đơn giản hóa vấn đề nếu
45
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
nói rằng động lực của các chu kỳ lớn chỉ thuần túy là
công nghệ thông tin. Có thể nói công nghệ thông tin
chỉ là màn dạo đầu của một kịch bản toàn cầu hóa hùng
vĩ.
Trước tiên cần phải nói về dòng chảy tài chính.
Điểm nổi bật của thời đại ngày nay là việc huy động và
rút những khối tài sản khổng lồ không phụ thuộc vào
việc vận tải nguyên vật liệu thô và hàng hóa trong kinh
tế chính trị truyền thống thời Carl Marx viết Tư bản
luận [15]. Dòng chảy vốn đầu tư có thể làm phồn thịnh
một quốc gia, một ngành công nghiệp và cũng có thể
đưa quốc gia và ngành công nghiệp đó vào khủng
hoảng. Điều đáng nói, là tốc độ giao dịch tài chính, đầu
tư và rút vốn có thể diễn ra trong một thời gian ngắn
tính bằng phút đồng hồ. Chính vì thế, tác động của các
dòng tài chính hết sức mạnh mẽ, khó lường và không
thể có biện pháp đối phó theo cách truyền thống, nếu
không có một hệ thống chính sách phù hợp để ngăn
ngừa, giảm xóc.
Một số người có thể nhìn nhận vấn đề theo quan
điểm của học thuyết âm mưu (conspiracy theory) [16],
về việc có những kịch bản toàn cầu hóa về tài chính
được đạo diễn có tổ chức. Cách nhìn nhận đó có thể
làm phức tạp hóa vấn đề và không dẫn tới hành động
có ích lợi thực tế nào. Trong thực tế, luôn luôn đã và sẽ
có những kế hoạch và hoạt động do những nhóm quyền
lợi thực hiện để lợi dụng sức mạnh của dòng lưu
chuyển tài chính. Tuy nhiên, ngày nay đang có quá
46
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
nhiều những hoạt động như vậy. Ở trong một trạng thái
hỗn loạn, mọi hành động đều có thể đem lại những tác
động lớn đến độ khó có thể nói bất cứ nhóm quyền lợi
nào có thể kiểm soát được hoàn toàn các quá trình đang
diễn ra. Chỉ có một quy luật bất biến: vốn không bao
giờ chịu đứng yên và sẽ luôn luôn chảy tới nơi nào đem
lại lợi nhuận cao nhất. Thị trường chứng khoán sau khi
đạt được các điểm kỷ lục bao giờ cũng có những làn
sóng thu hồi vốn để đầu tư vào các thị trường khác còn
tiềm năng sinh lợi nhuận lớn hơn như thị trường bất
động sản và thị trường đầu tư tài chính thứ cấp. Có lẽ
nên nhìn nhận các dòng tài chính này theo khía cạnh
tích cực. Dù sao, chính chúng đã cho phép biến các tri
thức mới thành tư liệu sản xuất vô cùng hùng hậu. Một
hướng chảy khác của dòng tài chính là hướng đến các
thị trường mới xuất hiện (emerging market) tại các
quốc gia có tiềm năng. Hướng chảy này trong quá khứ
đã tạo ra các nền kinh tế phát triển thần kỳ tại Brasil,
Hàn Quốc và một số nước ở Đông Nam Á. Nói như thế
không có nghĩa là phủ nhận năng lực nhìn xa trông rộng
của các nhà lãnh đạo tại các quốc gia này. Chính các
dòng tài chính với mục tiêu ban đầu là lợi nhuận đã
được các nhà lãnh đạo thông minh biến thành cơ hội để
làm phồn thịnh đất nước của họ. Mặt khác, cũng có thể
nói rằng các nhà đầu tư tài chính sẽ chỉ chọn điểm đầu
tư ở các quốc gia có những nhà lãnh đạo có tầm nhìn
và quyết đoán.
Sau khi thu được lợi nhuận, nhà đầu tư tài chính sẽ
luôn có nhu cầu thu hồi lợi nhuận để đầu tư vào các thị
47
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
48
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
thế cũng đã tới với Hàn Quốc ở vài thập kỷ trước khi
Brasil quyết định tiết giảm nền kinh tế trong bối cảnh
khủng hoảng. Nếu như Hàn Quốc dựa vào đà phát triển
để phát triển công nghệ cao và tìm cách len lỏi vào
ngành tài chính, để trở thành đại gia của thế giới, Trung
Quốc chọn một cách đi mới tham vọng hơn nhiều và
đỡ tốn thời gian công sức hơn, bằng cách làm ngập lụt
thị trường thế giới bởi hàng tiêu dùng giá rẻ. Cũng còn
quá sớm để nói chiến lược này là đúng hay sai. Bên
cạnh việc Trung Quốc tích lũy được một lượng vốn
khổng lồ, khái niệm "hàng Trung Quốc" cũng đã gắn
liền với hình ảnh chất lượng kém. Chưa từng có quốc
gia nào trở thành thế lực kinh tế lâu dài bằng cách như
thế. Trước mắt có thể nói Trung Quốc đã trải qua một
chu kỳ phát triển thành công, dù đang phải đối mặt với
một giai đoạn khủng hoảng trước mắt [19]. Trong
tương lai gần, mọi vấn đề xã hội và kinh tế của Trung
Quốc sẽ cùng bộc lộ cản trở sự phát triển tiếp tục, thậm
chí đe dọa sự ổn định. Đối phó được với khủng hoảng
này thành công hay không, còn phụ thuộc vào sự quyết
đoán và khả năng xử lý vấn đề của tập đoàn lãnh đạo
hiện thời. Chu kỳ tạm coi là thành công vừa qua có
được chính là nhờ Trung Quốc trở thành được điểm
đến có sức hút mạnh đối với dòng tài chính toàn cầu.
Như vậy, dòng tài chính đang thay đổi diện mạo
của thế giới, các tương quan lực lượng, có thể tạo ra
các nền kinh tế phồn thịnh và cũng có thể đưa các nền
kinh tế khác vào khủng hoảng kéo dài. Một số quốc gia
có một chiến lược lớn lành mạnh, đều có thể thoát khỏi
49
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
50
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
51
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
ứng xử phù hợp. Chiến tranh lạnh kết thúc không phải
bằng quân sự, kinh tế mà chủ yếu bằng vũ khí thông
tin. Điều này tương tự như một trận đấu võ mà đối thủ
trên cơ đã tung ra hàng loạt động tác giả, tạo ra một
luồng thông tin lớn áp chế làm đối thủ yếu hơn tê liệt
không thể có hành động đối phó.
Cơ chế già cỗi của cơ thể sống cũng bắt đầu bằng
việc rối loạn thông tin di truyền vì cơ thể tích tụ ngày
càng nhiều các phần tử gốc tự do ô xy hóa. Các phần
tử này làm rối loạn thông tin di truyền trong quá trình
sinh ra và sắp xếp các tế bào mới. Các tế bào này do
nhận thông tin sai lạc không tuân thủ theo mã di truyền,
dần sinh ra bệnh tật. Các khối ung thư, hoại tử thực chất
là sự "sáng tạo ra chính sách địa phương" phá vỡ thiết
kế tổng thể của tạo hóa. Sự sụp đổ của các doanh
nghiệp lớn tại Việt Nam và trên thế giới cũng đều có
nguyên nhân chung là sự quan liêu hóa quy trình xử lý
thông tin ra quyết định, bất kể là do sự thoái hóa của
một vài cá nhân hay của cả hệ thống, dẫn tới việc không
nhận thức được thay đổi của thế giới xung quanh, các
hiểm họa và cơ hội mới.
Chiến tranh thông tin ngày nay là sự cạnh tranh về
năng lực xử lý thông tin và tạo một luồng thông tin lớn
có áp lực vượt quá năng lực xử lý của đối phương. Ở
một tầng thấp hơn, các tin tặc cũng sử dụng ý tưởng
tương tự trong các đợt tấn công từ chối dịch vụ để đánh
sập các hệ thống thông tin [21]. Chính vì vậy, nâng cao
52
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
53
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
Trước khi xem xét các kịch bản có ảnh hưởng đến
tương lai của Việt Nam, chúng ta cần phân tích một yếu
tố quan trọng nữa là văn hóa. Các đặc trưng văn hóa
mới tuy được hình thành và thay đổi dưới ảnh hưởng
của các dòng chảy tài chính và thông tin, nhưng sẽ tác
động lâu dài trở lại các tương quan nói trên. Nói một
cách khác, tác động của các dòng chảy tài chính và
thông tin là tức thời và được lắng đọng tích tụ trong các
giá trị văn hóa, để có những tác động lâu dài đối với
diễn biến tương lai của thế giới. Bức tranh thế giới ngày
nay chính là tổng hòa của ba khối màu chủ đạo này.
5. Dòng chảy văn hóa
Các dòng chảy tài chính và thông tin làm thay đổi
cấu trúc kinh tế xã hội, tạo điều kiện cho việc hình
thành những hệ thống giá trị mới trên phạm vi toàn cầu.
Như một phản ứng tự nhiên, sẽ có những xung đột với
các hệ thống giá trị đã bắt rễ từ lâu đời. Những xung
đột như thế có thể xảy ra bằng hình thức vũ trang, bạo
lực. Trong tương lai người ta sẽ nhắc tới việc thực dân
hóa, hay sáp nhập lãnh thổ Tân Cương, Tây Tạng, Vân
Nam, Mãn Châu của Mao như một quá trình cưỡng
bách chấp nhận một hệ thống giá trị văn hoá mới, nhiều
hơn là những cuộc xâm lăng và bảo vệ chủ quyền dân
tộc. Thật khó định vị xung đột của các quốc gia Hồi
giáo với phương Tây ngày nay với tư cách là những
cuộc đấu tranh giai cấp hay giải phóng dân tộc theo học
thuyết Marx-Lenin của đầu thế kỷ 20. Chính vì vậy
Huntington đã đề xuất học thuyết về va chạm giữa các
54
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
nền văn minh như là xung đột chủ yếu của lịch sử hiện
đại. Theo Huntington, xung đột của Trung Quốc với
phương Tây cũng chỉ là sự va chạm tất yếu của văn
minh Khổng Giáo- Á Đông với văn minh Công Giáo-
Phương Tây [6]. Văn hoá có tính tự vệ rất cao, giống
như trong cơ thể sống, mọi vật thể dị tính đều bị cô lập,
bao vây và công kích để đánh bật ra, trước khi bắt buộc
phải chấp nhận.
Từ rất sớm, người ta đã biết lợi dụng tính tự vệ của
văn hoá để làm công cụ giữ trật tự hệ thống xã hội lâu
dài ổn định và đỡ tốn kém hơn nhiều so với bạo lực và
bàn tay sắt. Phong kiến Trung Hoa đã nhận thấy được
ưu thế trong việc sử dụng các giá trị văn hóa của Khổng
Giáo trong việc giữ ổn định chính trị xã hội. Các đời
hoàng đế Trung Hoa từ sau Hán Vũ Đế đã thành công
hơn nhiều trong việc giữ ổn định xã hội trên một đế chế
rộng lớn kéo dài hàng trăm năm so với việc sử dụng
các phương tiện vũ lực, luật pháp của Tần Thủy Hoàng
[13]. Các nỗ lực nhằm phá vỡ sự cân bằng của hệ thống
phong kiến được bảo vệ được văn hóa Khổng Giáo dù
có đạt được thành công tạm thời với chuyển giao quyền
lực, cuối cùng tập đoàn thắng thế từ thời Ngũ Hồ Loạn
Hoa đến các đế chế Mông Cổ, Mãn Thanh đều phải
chấp nhận hệ thống đã có mới tồn tại được. Nói một
cách khác, chính hệ thống văn hóa Khổng Giáo đã thôn
tính lại các đế quốc này và thâu nhập các quốc gia xâm
lược vào văn hoá Trung Hoa. Như vậy, theo một nghĩa
nào đó Việt Nam chúng ta đã may mắn khi chưa từng
đủ tiềm lực quân sự để xâm chiếm lãnh thổ Trung Quốc
55
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
như các bộ tộc phương Bắc và vẫn giữ được bản sắc
độc lập. Một ví dụ khác về việc thắng lợi trong sức
mạnh quân sự và chính trị chưa chắc đảm bảo nắm
được quyền lực lâu dài là xã hội Ấn Độ. Ban đầu, tầng
lớp vua chúa ở Ấn Độ, chủ yếu là các kỵ sĩ người Aria,
đã xâm chiếm Ấn Độ bằng vũ lực, chiếm giữ địa vị cao
nhất trong chính trị xã hội. Tuy nhiên, họ đã lười biếng
giao phó việc thờ cúng, giáo dục thế hệ trẻ vào tay tầng
lớp tăng lữ, vốn gồm các sắc dân bản địa bị chinh phục,
để sau nhiều thế hệ, tầng lớp tăng lữ bằng quyền lực
văn hóa đã trở thành tầng lớp cao nhất của xã hội Ấn
Độ. Văn hóa cho dù là các nghi thức tôn giáo, hoạt
động khoa học nghệ thuật hay những thói quen, tập
quán sinh hoạt, cho dù theo định nghĩa thế nào, cho dù
phục vụ lợi ích của ai, cũng đều có thể được sử dụng
như một công cụ giữ ổn định cho một hệ thống giá trị,
lâu dài và hiệu quả nhất.
Ngày nay, sự xâm nhập của các dòng tài chính và
thông tin đã mạnh đến mức không cần bắt đầu bằng can
thiệp vũ trang. Nhưng để tránh các cuộc xung đột vũ
trang tốn kém lâu dài, việc giao lưu văn hóa là cần thiết.
Trái với văn minh, văn hóa không có cấp độ so sánh.
Ngôn ngữ đời thường gây ra cảm nhận sai lầm là có
văn hóa này kém hay hơn so với văn hóa kia. Nền văn
minh đồ sắt có mức độ phát triển cao hơn hẳn nền văn
minh đồ đá, nhưng không thể so sánh về cấp độ giữa
các nền văn hóa Ai Cập, Maia, Hy Lạp, Lưỡng Hà hay
Trung Hoa cổ đại. Người ta thường ví văn minh là cơ
thể, còn văn hóa chính là linh hồn của một dân tộc [22].
56
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
57
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
58
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
hóa có thể thay đổi, thậm chí phải thay đổi. Trong
những trường hợp cải cách văn hoá thành công, điều
quan trọng nhất vẫn là đặt được văn hoá dân tộc vào
dòng chảy văn hoá toàn cầu của thời đại, mượn thế của
dòng chảy này để tự thay đổi.
Các nền văn hóa Hungari, Brasil, Nga, Nhật Bản
không vì thay đổi một số giá trị mà biến thành nền văn
hóa khác hay bị "hòa tan". Ngược lại sau khi đào thải
các giá trị cũ lạc hậu, tiếp thụ các giá trị mới tiên tiến,
các nền văn hóa này còn trở nên rực rỡ hơn. Một linh
hồn lành mạnh, chỉ có thể tồn tại trong một cơ thể lành
mạnh chính là như thế. Nếu một dân tộc cố chấp không
chấp nhận thay đổi, không có bạn bè đồng minh lâu dài,
sẽ khó lòng tồn tại yên ổn để phát triển.
Hội nhập văn hoá là một quá trình bền bỉ lâu dài,
có thể là một phong trào nhưng không ưa phương pháp
cách mạng ầm ĩ như ở Trung Quốc thời Mao Trạch
Đông. Một cuộc cách mạng như thế sẽ để lại những vết
thương lâu dài trong xã hội. Dòng chảy văn hoá ngày
nay bình lặng hơn nhiều, nhưng được hậu thuẫn bởi các
dòng chảy tài chính và thông tin nên sẽ tạo ra những xu
thế xâm thực từ từ không thế đảo ngược. Thói sống,
trang phục, ẩm thực, giải trí, tín ngưỡng ,.. đều như
đang có một hấp lực trên phạm vi toàn cầu, tuy có
những đợt sóng ngầm, xoáy nước, nhưng đều cuốn trôi
có hướng. Trong chiến lược lớn của quốc gia, văn hoá
đóng một vai trò vô cùng quan trọng.
6. Đặc trưng của giai đoạn hiện nay
59
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
Trái với dự báo của thuyết Kết thúc Lịch Sử, Mỹ chỉ
nắm được vai trò siêu cường duy nhất hơn một thập kỷ.
Nhưng rồi Mỹ đã phải sa lầy vào chiến tranh với khối
văn hóa Hồi giáo, nên dường như đã suy yếu đi, làm
tham vọng nổi lên của các trung tâm quyền lực mới trở
nên thực tế. Trở thành trung tâm quyền lực sẽ được
hưởng các đặc quyền với những lợi nhuận khổng lồ
đem lại từ các dòng chảy tài chính, thông tin và văn
hoá. Đặc biệt trong một giai đoạn hỗn loạn, một yếu tố
nhỏ nhoi, liên minh tạm thời cũng có thể có những xáo
động vượt ra khỏi tầm kiểm soát của Mỹ. Tuy vậy, do
có một thể chế chính trị, văn hoá trẻ trung, bền vững,
nền khoa học công nghệ siêu việt và có năng lực tự điều
chỉnh nhanh chóng, Mỹ vẫn nắm vị thế là trung tâm
quyền lực chủ đạo, mà mọi đối thủ cần phải thách đấu
nếu muốn trở thành siêu cường. Có thể nói hầu hết các
luồng thông tin, tiền tệ chủ yếu trên thế giới ngày nay
đều xuất phát và hội tụ ở Mỹ. Lối sống của Mỹ, văn
hoá Mỹ có một sức hấp dẫn đặc biệt với giới trẻ khắp
trên thế giới. Có thể nói, Mỹ có thể ảnh hưởng tới cả
ba yếu tố động lực lớn nhất của thời đại. Mỹ vẫn còn
nhiều nguồn dự trữ, nên sẽ không phụ thuộc vào một
cuộc khủng hoảng năng lượng trong tương lai.
60
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
61
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
62
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
63
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
buộc quyền lợi với thị trường tài chính Mỹ. Đánh sập
nền kinh tế Trung Quốc hiện tại chẳng khác nào hành
vi tự sát đối với nền tài chính của nước Mỹ. Điểm yếu
của Trung Quốc là tương lai bất định. Sự phát triển
nhanh chóng của Trung Quốc để lại nhiều lỗ hổng khó
lấp trong kinh tế và xã hội. Thể chế chính trị của Trung
Quốc dường như đã khai thác hết động lực tiềm năng,
bắt đầu trở nên lỏng lẻo với các mâu thuẫn nội bộ, ngày
sẽ trở nên độc tài hơn, khó tiến tới dân chủ hoá một
cách êm ả để tiếp tục phát triển kinh tế đến mức cao
hơn. Đặc biệt, văn hoá vốn là thế mạnh của Trung
Quốc, mặc dù được chú ý khai thác và xuất cảng mạnh
mẽ để phục vụ kinh tế, nhưng đã bị huỷ hoại thời cách
mạng văn hoá, để lại một thái độ nổi loạn và hướng về
phương Tây của lớp trẻ. Như vậy, có một khoảng cách
lớn giữa tâm thức văn hoá xã hội Trung Quốc với xu
hướng của thể chế chính trị. Đặc biệt, trên thế giới,
thậm chí trong khu vực, Trung Quốc chưa có đồng
minh chiến lược. Chính sách ngoại giao tiến vào châu
Phi, đã đặt trên vai Trung Quốc những khoản đầu tư tài
chính khổng lồ, chỉ cần bộc lộ một vài điểm yếu, sẽ dẫn
tới sụp đổ liên hoàn, sẽ trở thành thử thách lớn đối với
kinh tế Trung Quốc. Tỷ lệ thất nghiệp và khoảng cách
giữa các giai tầng xã hội của Trung Quốc đã ở một mức
cao hơn nhiều so với Liên Xô trước đây. Bên cạnh đó
mâu thuẫn nội bộ và mâu thuẫn sắc tộc đang trở nên
gay gắt. Trung Quốc không thể khai thác được mâu
thuẫn giữa khối Hồi giáo và Mỹ, bởi vì không đoàn kết
được người Hồi, với các vụ đánh bom liều chết ngày
64
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
càng gia tăng chính tại Trung Quốc, do chính sách thiếu
linh hoạt và nhân bản.Trong tương lai gần, Trung Quốc
phải lựa chọn giữa tập trung quyền lực hoặc bất ổn, cả
hai lựa chọn đều không đảm bảo tương lai phát triển
bền vững, do không được hậu thuẫn bởi nền văn hóa.
Về đối ngoại, trước hết Trung Quốc sẽ tiến hành chính
sách như Nga, đe doạ và xoa dịu các nước có văn hoá
gần, dễ rơi vào quỹ đạo của mình nhất.
Các thế lực ở tuyến hai trước mắt chỉ đóng vai trò
thứ yếu và nỗ lực để vươn lên tuyến một. Khối văn hoá
Hồi giáo, chủ yếu là ở các nước xuất khẩu dầu hoả.
Khối này có một quan hệ phức tạp với Mỹ. Một mặt,
quan hệ tài chính, kinh tế với Mỹ rất mật thiết, do Mỹ
là thị trường tiêu thụ lớn nhất. Mặt khác, sự chống đối
trở nên gay gắt, do Mỹ áp dụng một chính sách tạo sự
bất ổn tại Trung Cận Đông, để kiểm soát được nguồn
năng lượng mà chưa phải đầu tư khai thác các nguồn
dự trữ tại Alaska. Do thể chế chính trị hết sức lạc hậu
và thô sơ, tuy tiềm năng tài chính lớn nhưng không thể
đầu tư vào nhân lực, khoa học công nghệ và các thiết
chế kinh tế, tương lai phát triển của khối này gần như
mờ mịt. Tư cách là một trung tâm quyền lực của khối
này sẽ biến mất khi nguồn tài nguyên thiên nhiên cạn
kiệt, hoặc Mỹ và Nga sẽ mở các nguồn dự trữ. Để đối
lập với Mỹ, về nguyên tắc, khối Hồi giáo chỉ có một
lựa chọn duy nhất là liên minh với Trung Quốc. Tuy
nhiên, liên minh này có một rào cản không thể vượt qua
là việc Trung Quốc thẳng tay trấn áp Hồi giáo, đặc biệt
là tại Tân Cương, vốn là địa bàn của Đông Hồi.
65
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
66
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
67
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
bộ, chưa tạo ra được các giá trị mới thực sự. Đặc biệt,
Trung Quốc mạnh về sản xuất các thiết bị, nhưng công
nghệ bán dẫn, sản xuất chip của Trung Quốc vẫn nằm
trong tay Mỹ. Từ những năm 1980, Trung Quốc đã có
chính sách đưa sinh viên du học, khuyến khích ở lại sau
khi tốt nghiệp, để xâm nhập vào các ngành công nghiệp
tiên tiến trên thế giới. Ngày nay thế hệ đó đã trưởng
thành và đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển
giao tri thức về Trung Quốc trong những chương trình
có tổ chức và tầm nhìn dài hạn của chính phủ.
Vào những năm 1990, những sinh viên và quan
chức Trung Quốc, xâm nhập thị trường Mỹ thông qua
việc du học, đã thành lập các công ty tại Mỹ. Các công
ty đó tiếp thu được công nghệ Mỹ, được hậu thuẫn về
thị trường nội địa Trung Quốc, để phát triển các ứng
dụng phục vụ thị trường này. Các công ty này lại mở
các cơ sở nghiên cứu phát triển tại Trung Quốc, đào tạo
chuyển giao công nghệ và đưa các công đoạn ngày
càng cao về Trung Quốc. Do có lực lượng nhân sự tốt,
thị trường đảm bảo, sản phẩm được ứng dụng nhanh,
các công ty như vậy có khả năng hút vốn từ thị trường
chứng khoán để phát triển.
Chiến tranh thương mại do chính quyền Trump
tiến hành, nhằm ngăn cản việc “chảy máu công nghệ”
và “vi phạm bản quyền”, thực chất là việc quyết tâm
bảo vệ thế mạnh độc quyền về công nghệ lõi của Mỹ.
Bên cạnh chiến tranh thương mại là chiến tranh công
nghệ (hoặc chiến tranh công nghệ bán dẫn) giữa Mỹ và
Trung Quốc, một bên kiểm soát đầu vào là công nghệ
68
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
lõi, một bên kiểm soát đầu ra là các ứng dụng và hàng
hóa đang tràn ngập thị trường.
Ngày nay, Trung Quốc cũng nhận thức được
không thể phát triển lâu dài mà phụ thuộc về công nghệ
lõi hoặc sử dụng các hoạt động chuyển giao bất hợp
pháp, do đó họ đặt vấn đề cạnh tranh giành ưu thế trong
một số lĩnh vực mới như Trí tuệ nhân tạo, Tính toán
lượng tử, Thám hiểm đại dương và không gian, đồng
thời cố gắng giảm khoảng cách trong các công nghệ lõi
như Công nghệ vật liệu, nano, bán dẫn.
Năm 2017, Tập Cận Bình đến thăm Viện Hàn
Lâm Khoa học Trung Quốc, được báo cáo về vai trò
của Tính toán lượng tử, trong việc phát triển một thế hệ
máy tính mới, nhanh hơn máy tính truyền thống hàng
vạn lần, đã chỉ đạo đầu tư 10 tỷ đô la Mỹ, nhằm nâng
cấp Phòng Xử lý dữ liệu và thông tin lượng tử, thuộc
Viện Vật lý Hợp Phì, thành Trung tâm Quốc gia. Năm
2020, đề án này đã có những kết quả có tiếng vang
trong truyền thông thế giới. Các công ty Alibaba và
Baidu cũng cam kết số vốn khổng lồ để phát triển Tính
toán lượng tử, với tham vọng tạo ra lợi thế trong cuộc
đua về máy tính lượng tử với các công ty đa quốc gia
của Mỹ như Google, Microsoft, IBM,…
Địa chính trị thời hậu Trump và hậu Covid sẽ có
những đặc trưng mới. Tuy nhiên chiến tranh công nghệ
và chiến tranh thương mại đã bắt đầu sẽ không dừng
lại, vì nó liên quan tới những bản chất địa chính trị,
không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cá nhân.
69
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
70
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
71
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
72
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
73
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
74
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
CHƯƠNG 2
BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ LỘ TRÌNH
CHIẾN LƯỢC KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TỚI
2050 CỦA TRUNG QUỐC
1. Quan điểm xây dựng lộ trình
Cách tiếp cận mới
Lộ trình Chiến lược Khoa học Công nghệ Trung
Quốc [1] (Lộ trình 2050), do Chủ tịch Viện Hàn Lâm
Khoa học Trung Quốc, Phó Chủ tịch Quốc hội nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc Lạc Dũng Quần chủ
biên, với sự tham gia của gần 3000 nhà khoa học, hoàn
thành năm 2010, đề ra những lĩnh vực ưu tiên về Khoa
học & Công nghệ của Trung Quốc. Trước đó, năm
2007, Quốc vụ viện Trung Quốc đã có Kế hoạch trung
và dài hạn về Khoa học & Công nghệ tới năm 2020 (Kế
hoạch 2020), do Thủ tướng Ôn Gia Bảo chủ biên [2].
Về phương pháp xây dựng, Lộ trình 2050 theo một
cách tiếp cận khác. Kế hoạch 2020 vẫn phân chia Khoa
học & Công nghệ theo các ngành, phân ngành, chuyên
ngành truyền thống. Do đó, các vấn đề kinh tế xã hội
quan trọng như năng lượng, dân cư, không gian và
biển, an ninh quốc phòng, cần sự phối hợp từ hầu hết
các ngành khoa học công nghệ, chưa được tập trung
giải quyết thật sâu sắc. Bên cạnh đó, rất khó tổng hợp
từ các kết quả hoạt động nghiên cứu phát triển chuyên
ngành thành các giải pháp có giá trị đối với các vấn đề
trên.
75
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
76
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
Nhận thức về vai trò của Khoa học và Công nghệ đối
với sự phát triển của thế giới
Lộ trình 2050 dựa trên nhận thức về vai trò của
Khoa học và Công nghệ trong 250 năm trở lại đây.
Trong 20 năm 1953-1973, sản xuất công nghiệp của thể
giới bằng toàn bộ sản xuất trước đó. Sự phát triển của
nhân loại theo quy luật cấp số nhân là nhờ các cuộc
cách mạng Khoa học và cách mạng Công nghệ.
Theo quan điểm của Lộ trình 2050, nhân loại đã trải
qua hai cuộc cách mạng khoa học và 3 cuộc cách mạng
Công nghệ. Các cuộc cách mạng này đã dẫn tới các
cuộc cách mạng công nghiệp và hiện đại hóa đem lại
77
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
cuộc sống tốt đẹp hơn cho gần 1 tỷ người ở các nước
phát triển.
Lộ trình 2050, cho thấy có 24 nước, với 930 triệu
dân, đã hoàn thành giai đoạn hiện đại hóa lần thứ nhất
bao gồm công nghiệp hóa, đô thị hóa, thị trường hóa và
dân chủ hóa, chuyển kinh tế xã hội từ nông nghiệp sang
công nghiệp. Giai đoạn hiện đại hóa thứ hai sẽ chuyển
kinh tế xã hội sang tri thức bao gồm tin học hóa, toàn
cầu hóa và sinh thái hóa.
Hiện nay có nhiều dấu hiệu cho thấy, Khoa học và
Công nghệ đang đứng trước một giai đoạn phát triển
mới. Giai đoạn này sẽ đem lại tiến bộ vượt bậc cho
nhân loại, hứa hẹn đem lại hiện đại hóa và cuộc sống
tốt đẹp hơn cho toàn thể nhân loại.
78
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
79
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
80
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
81
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
Việc chia các lĩnh vực khoa học công nghệ theo
các hệ thống chiến lược, khác với cách phân chia
truyền thống theo ngành, phân ngành và chuyên ngành
nhằm phối hợp liên ngành để giải quyết những vấn đề
kinh tế xã hội nhất định tương ứng.
Các hệ thống chiến lược được phân thành các
hệ thống con, có mục tiêu phát triển các công nghệ
nhằm thực hiện các chỉ tiêu cụ thể cho từng giai đoạn.
Chúng tôi chia các hệ thống khoa học công
nghệ chiến lược theo ba nhóm, là ba khía cạnh của
82
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
83
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
84
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
3. 22 sáng kiến
Các sáng kiến là các điểm đột phá cho việc triển
khai các hệ thống chiến lược. Mỗi sáng kiến không nhất
thiết thuộc về hệ thống chiến lược nào, mà có thể là
85
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
điểm giao kết phối hợp các hệ thống chiến lược. Các
hệ thống chiến lược, ngược lại, sẽ hỗ trợ cho việc thực
hiện triển khai các sáng kiến
Đột phá
CÁC HỆ
CÁC
THỐNG
SÁNG
CHIẾN
KIẾN
LƯỢC
Hỗ trợ
Dựa trên nội dung các sáng kiến, các nhà khoa học có
thể đề xuất các chương trình, dự án và các đề tài nghiên
cứu. Trong phần này, bên cạnh việc tổng thuật phân
tích nội dung các sáng kiến, chúng tôi cũng tham chiếu
các tài liệu mới nhất về tình hình thực hiện các sáng
kiến này. Các sáng kiến được phân chia theo các nhóm
với các mục tiêu chiến lược.
a) Sáng kiến cạnh tranh quốc tế
Các sáng kiến cạnh tranh quốc tế là một số lĩnh
vực Trung Quốc đã sẵn sàng cạnh tranh và có thể đầu
tư mạnh để giành vị trí dẫn đầu trên thế giới. Đây cũng
những lĩnh vực có tầm quan trọng chiến lược, có ảnh
hưởng tới sự phát triển chung của khoa học công nghệ.
Chúng ta có thể thấy rằng Trung Quốc, với tư cách là
nhà sản xuất lớn nhất thế giới, đang đặt trọng tâm phát
triển khoa học công nghệ đột phá hàng đầu vào công
86
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
nghiệp sản xuất, lấy đó làm thế mạnh cạnh tranh quốc
tế. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng nhận thức được xu
hướng của sản xuất sẽ dựa vào trao đổi và xử lý dữ liệu,
do đó trọng tâm thứ hai được đặt vào công nghệ mạng
và công nghệ tính toán. Trọng tâm thứ ba liên quan tới
giống cây trồng và động vật nuôi phục vụ cho nông
nghiệp.
- Mạng sau IP: Mạng Internet đã trở thành hạ
tầng không thể thiếu được trong cuộc sống và hoạt
động sản xuất. Hiện tại, mạng Internet dựa trên giao
thức TCP/IP có điểm yếu về an toàn, chất lượng dịch
vụ và khả năng mở rộng, khó có thể đáp ứng được yêu
cầu về Kết nối vạn vật (IoT) và Tính toán đám mây.
Mạng sau IP, sẽ tạo ra được hạ tầng Internet giá thành
hạ và hiện diện khắp nơi. Nhiều nước trên thế giới như
Mỹ, Âu Châu, Nhật, Hàn Quốc đều đẩy mạnh nghiên
cứu về mạng Internet sau IP. Trung Quốc tuy đi sau
trong lĩnh vực này, nhưng đã có kinh nghiệm phát triển
mạng Internet và được thúc đẩy bởi yêu cầu thị trường
của 1.2 tỷ người dùng, đặt mục tiêu trở thành các quốc
gia đi đầu trong lĩnh vực này để có một mạng Internet
tiên tiến nhất thế giới. Mặt khác, đột phá về công nghệ
mạng sau IP, cùng với thị trường lớn nhất thế giới sẽ
đem lại ưu thế cho Trung Quốc trong việc định ra tiêu
chuẩn chung mới cho mạng Internet toàn cầu, dẫn đầu
sự phát triển của công nghệ mạng và sản xuất thiết bị
mạng trong tương lai [8-9]
- Sản xuất xanh các nguyên liệu chất lượng
cao
87
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
88
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
89
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
nâng vị thế của Trung Quốc trong công nghệ tính toán.
Năm 2001, trong 500 siêu máy tính lớn nhất thế giới,
Trung Quốc không có máy nào. Năm 2019, trong 500
siêu máy tính lớn nhất thế giới Trung Quốc đã có 219
chiếc, Mỹ có 116 chiếc. Mỹ vẫn chiếm vị thế số 1 thế
giới về năng lực tính toán (38% nguồn lực tính toán
hiệu năng cao so với 30% của Trung Quốc). Tuy nhiên,
số lượng siêu máy tính lớn nhất thế giới cũng phản ánh
năng lực tính toán của Trung Quốc đã có những thành
tựu lớn.
Năm 2018, chủ tịch Tập Cận Bình, đến thăm
Viện Hàn Lâm Khoa học Trung Quốc đã quyết định
đầu tư 10 tỷ đô la, nâng cấp phòng Xử lý dữ liệu và
thông tin lượng tử, thuộc Viện Vật lý Hợp Phì thành
Trung tâm Quốc gia. Tháng 12/2020, các nhà công
nghệ Trung Quốc đã có thành công đột phá trong lĩnh
vực tính toán lượng tử [12-14].
- Thiết kế động vật và giống cây ở mức phân tử
Để tạo ra các giống động vật và cây trồng có
chất lượng và năng suất cao, xu hướng thiết kế phân tử
đang thay thế các công nghệ lai ghép sinh học truyền
thống. Trung Quốc đặt mục tiêu dẫn đầu trong lĩnh vực
này để làm chủ về giống cho nông nghiệp.
90
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
các sáng kiến này đều hướng tới việc tạo cho Trung
Quốc vị thế dẫn đầu trong các lĩnh vực liên quan. Có 3
sáng kiến này liên quan đến vấn đề năng lượng là vấn
đề Trung Quốc quan tâm hàng đầu với tư cách đang là
nhà tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới. Có 2 sáng
kiến liên quan tới chăm sóc sức khỏe cho người dân.
Có 2 sáng kiến về thám hiểm và khai thác lòng đất và
biển, nhằm tìm các nguồn tài nguyên mới.
- Chinh phục độ sâu 4000 m
Lòng đất là nguồn khoáng sản, nguyên liệu vô
tận. Nhiều quốc gia đã đạt tới độ sâu 2500-4000m.
Nam Phi đã đạt tới độ sâu 4000 m và đang tiến tới độ
sâu 6000m. Úc đặt mục tiêu khai thác toàn bộ độ sâu
1000m trong lục địa Úc. Canada cũng có chương trình
với mục tiêu khai thác độ sâu 3000m. Hiện tại trình độ
khoa học Trung Quốc chủ yếu khai thác chỉ tới độ sâu
500m. Trung Quốc đặt mục tiêu nghiên cứu khoa học
và phát triển công nghệ nhằm chinh phục độ sâu 4000
m vào năm 2040. Chương trình này có triển vọng sẽ
tìm ra các nguồn tài nguyên mới. Trong giai đoạn
2010-2015, Phòng thí nghiệm ngầm Cẩm Bình đã có
những thành tựu quan trọng về khoa học và công nghệ
hướng tới thám hiểm và khai thác độ sâu 4000m trong
lòng đất [15-16].
- Hệ thống năng lượng tái tạo
Hiện tại Trung Quốc đang tiêu thụ 3.3 tỷ tấn dầu
hàng năm. Từ năm 2011, Trung Quốc sử dụng số than
nhiều hơn toàn thế giới cộng lại và xả ra khoảng 25%
lượng khí thải toàn cầu. Chính vì thế Trung Quốc đặt
91
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
mục tiêu phát triển hệ thống phát điện tái tạo, bao gồm
các công nghệ kết nối mạng điện tái tạo và các hệ thống
lưu trữ năng lượng tiên tiến.
Thách thức quan trọng của việc xây dựng hệ
thống năng lượng tái tạo là việc chuyển năng lượng này
từ những vùng sinh năng lượng tái tạo lớn ở Tây Bắc
Trung Quốc về những thành phố lớn như Bắc Kinh hay
Thượng Hải, do công nghệ chưa cho phép hòa mạng
các nguồn điện tái tạo. Vấn đề thứ hai là việc lưu trữ
năng lượng tái tạo bằng cách phát triển các công nghệ
pin thế hệ mới. Năm 2017, Trung Quốc đã ban hành
chính sách ưu tiên phát triển công nghệ lưu trữ năng
lượng tiên tiến có giá thành hạ, tích hợp với các nguồn
phát điện tái tạo.
Hiện tại Trung Quốc là nhà sản xuất điện gió lớn
nhất thế giới với sản lượng gấp hai nhà sản xuất lớn thứ
hai là Mỹ. Trung Quốc cũng chiếm một phần ba sản
lượng điện mặt trời toàn cầu. Trung Quốc đầu tư 0.9%
GDP vào nghiên cứu năng lượng tái tạo, đứng thứ ba
thế giới sau Chile và Nam Phi với mức đầu tư cùng là
1.4% GDP [17]. Chính nhờ vậy, việc đưa các kết quả
nghiên cứu ra thị trường rất nhanh chóng.
- Năng lượng địa nhiệt
Năng lượng địa nhiệt chủ yếu sẽ là đá khô nóng
và sử dụng nước nóng từ lòng đất. Theo đánh giá của
Bộ Năng lượng Hoa Kỳ vào năm 2007, nếu sử dụng
được 2% trữ lượng đá khô nóng ở độ sâu khoảng 3-10
km, sẽ đủ tạo ra năng lượng gấp 2800 lần lượng điện
đang tiêu thụ hàng năm hiện nay của nước này. Mỹ và
Úc đã đầu tư lớn vào việc nghiên cứu công nghệ khai
thác địa nhiệt.
92
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
93
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
94
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
nhận thức được tầm quan trọng của can thiệp sớm bệnh
mãn tính.
Trung Quốc đặt mục tiêu tập trung vào nghiên
cứu các đặc trưng của người Trung Quốc liên quan tới
bệnh mãn tính.
Năm 2017, Trung Quốc đã ban hành Kế hoạch
trung và dài hạn (2017-2025) về phòng và chống bệnh
mãn tính [22].
c) Sáng kiến an ninh quốc phòng
Một điểm đặc biệt là Lộ trình 2050 chỉ có 2 sáng
kiến về an ninh quốc phòng và đều là sáng kiến ứng
dụng công nghệ thông tin. Có thể các dự án nghiên cứu
về hệ thống phòng thủ, vũ khí tấn công nằm trong một
chương trình riêng, ngắn hạn với yêu cầu thay đổi
nhanh.
- Mạng theo dõi không gian
Mạng theo dõi không gian dựa trên các công
nghệ xử lý thông tin trong mọi thời tiết, thời điểm, tốc
độ truyền và xử lý đều đòi hỏi cao hơn nhiều so với
ứng dụng dân sự. Mạng lưới cảnh báo về tình hình
không gian tích hợp các công nghệ cảm biến, theo dõi,
phân tích, nhận dạng. Mạng này có tầm quan trọng
trong việc bảo vệ quốc phòng. Các công nghệ phát triển
trong sáng kiến này đều có thể ứng dụng và có tầm
quan trọng trong tác chiến hiện đại.
Trung Quốc đặt mục tiêu tới năm 2020 sẽ có đột
phá trong tất cả các công nghệ nói trên, năm 2030 sẽ
có một hệ thống mạng cảnh báo về tình hình không
95
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
gian trong mọi điều kiện thời tiết, mọi lúc, ứng dụng
thời gian thực và có độ phân giải cao.
Mạng theo dõi không gian có thể kết nối với các
chương trình thám hiểm không gian của Trung Quốc.
Các trạm vũ trụ như Thần Châu 9, Thiên Cung 2, Hằng
Nga 5 đều có kết nối, trao đổi thông tin và dữ liệu với
mạng theo dõi không gian. Trung Quốc không tham gia
hiệp ước về Mặt Trăng và bị cấm vận bởi cơ quan
nghiên cứu không gian của Mỹ NASA.
- Mạng theo dõi xã hội
Theo quan điểm của Trung Quốc, việc phát triển
mạng Internet và mạng xã hội toàn cầu đang là thách
thức đối với an ninh và chủ quyền quốc gia. Năm 2008,
chính phủ Mỹ triển khai dự án NCR, được mệnh danh
là “Dự án Manhattan điện tử” do quân đội triển khai
với đầu tư 30 tỷ đô la, nhằm mục tiêu chiến thắng trong
chạy đua trong không gian Internet. Cùng với sự phát
triển “Xã hội Internet Trung Quốc”, Trung Quốc đặt
mục tiêu phát triển Tính toán xã hội sử dụng Trí tuệ
nhân tạo mở để thực hiện các thí nghiệm về các vấn đề
xã hội, giúp đánh giá các chính sách và các sự kiện
thảm họa. Trung Quốc đặt mục tiêu nhanh chóng xây
dựng cơ sở khoa học cho Tính toán xã hội và áp dụng
cho an ninh quốc phòng, sau đó tiến tới ứng dụng rộng
rãi vào năm 2025.
d) Sáng kiến khoa học cơ bản có khả năng đột
phá
Sáng kiến khoa học cơ bản có khả năng đột phá là
các lĩnh vực mới. Trung Quốc có thể có những thành
96
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
tựu trong những lĩnh vực này. Mục tiêu của các sáng
kiến này là tập trung nguồn lực tạo ra các đóng góp có
thể nâng cao uy tín về khoa học công nghệ của Trung
Quốc trên thế giới. Các sáng kiến này thuộc lĩnh vực
khoa học cơ bản nên có tác dụng dài hạn và tạo điều
kiện hợp tác quốc tế.
- Năng lượng và vật chất tốt
Các quan sát về vũ trụ học cho thấy rằng vật chất
mà chúng ta biết chỉ chiếm khoảng 4% lượng vật chất
trong vũ trụ, 22% là vật chất tối và 74% là năng lượng
tối là dạng vật chất-năng lượng mà chúng ta chưa từng
biết. Khám phá ra bí mật về dạng vật chất và năng
lượng này có thể dẫn tới cách mạng trong vật lý và hiểu
về Vũ trụ. Trung Quốc coi đây là cơ hội để tham gia
vào cuộc cách mạng khoa học sắp tới. Trung Quốc đã
xây dựng các phòng thí nghiệm, trạm quan sát về vật
chất và năng lượng tối.
- Điều khiển cấu trúc vật chất
Cơ học lượng tử, một trong hai khám phá quan
trọng của thế kỷ 20 đã cho phép chúng ta tìm hiểu về
cấu trúc vật chất, từ đó đóng góp cho sự phát triển công
nghệ cao của thế kỷ 20. Tuy nhiên cho đến nay, con
người vẫn mới chỉ quan sát và giải thích các hiện tượng
có trong tự nhiên. Chúng ta đang đứng trước một giai
đoạn phát triển mới, điều khiển, thiết kế vật chất.
Chúng ta có thể xây dựng các mạng tinh thể mới với
từng nguyên tử, phân tử, electron, photon. Như vậy,
chúng ta có thể thiết kế và chế tạo ra các vật liệu mới
97
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
có những tính chất điện, từ, quang học đặc biệt có thể
sử dụng để phát triển các công nghệ mới. Đây là điểm
kết hợp vật lý lượng tử và công nghệ thống tin.
Tập trung ưu tiên vào lĩnh vực này, Trung Quốc
đặt mục tiêu trở thành quốc gia đi đầu trong 10 năm, và
có vị thế để dẫn đầu cách mạng công nghệ mới.
- Sinh học tổng hợp và sự sống nhân tạo
Tìm hiểu bản chất và nguồn gốc sự sống là vấn
đề quan trọng của khoa học. Gần đây khái niệm sự sống
nhân tạo hứa hẹn sẽ đem lại đột phá trong khoa học về
sự sống. Trung Quốc đặt mục tiêu trở thành một trong
các quốc gia đi đầu về vấn đề này trong vòng 10 năm.
- Cơ chế quang hợp
Quang hợp là quá trình sử dụng ánh sáng mặt trời
để tổng hợp chất hữu cơ, tạo ra oxygen. Đột phá trong
việc tìm hiểu quá trình quang hợp sẽ cải thiện hiệu quả
chuyển hóa năng lượng ánh sáng, tăng năng suất cây
trồng, sản xuất nhiên liệu xanh. Nghiên cứu về quang
hợp của Trung Quốc đi sau thế giới khá xa. Trung Quốc
đặt mục tiêu tập trung nguồn lực để phát triển đột phá
lĩnh vực này.
e) Sáng kiến liên ngành
Sáng kiến liên ngành nhằm mục tiêu kết nối
khoa học với công nghệ hoặc với ứng dụng thực tế.
- Công nghệ và khoa học nano
Khoa học và công nghệ nano là lĩnh vực tiên tiến
và có tầm quan trọng trong công nghệ cao. Đây là lĩnh
vực liên ngành gồm các hiện tượng vật lý, hóa học, sinh
98
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
99
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
Trung Quốc sẽ trở thành quốc gia đổi mới sáng tạo
nhằm giải quyết những vấn đề của Trung Quốc và phục
vụ cho Trung Quốc.
Phát triển khoa học công nghệ trước hết là đổi
mới tư duy, xây dựng một hệ thống giá trị mới, khuyến
khích và tôn vinh tinh thần đổi mới sáng tạo. Đổi mới
sáng tạo phải trở thành thói quen, văn hóa của quốc gia,
để huy động tối đa mọi nguồn lực tạo ra những giá trị
mới để hiện đại hóa và phát triển đất nước. Lịch sử phát
triển trên thế giới đã chứng kiến có nhiều nước phát
triển khoa học công nghệ, nhưng đa số bắt chước khoa
học công nghệ, chỉ có một số ít thực sự có năng lực đổi
mới sáng tạo.
Trung quốc xác định năng lực đổi mới sáng tạo
quốc gia dựa trên 4 điểm sau đây:
- Có năng lực đổi mới sáng tạo khoa học công
nghệ
Trước hết các nhà khoa học, công nghệ phải có
năng lực đổi mới sáng tạo thực sự ở tầm cỡ thế giới,
tạo ra các tri thức có giá trị, được quốc tế thừa nhận.
Bên cạnh năng lực sáng tạo ra tri thức, cần có tư duy
đổi mới, không làm theo lối mòn, kinh viện hay học
phiệt.
- Có sức cạnh tranh về các công nghệ lõi trọng
yếu
Năng lực đổi mới sáng tạo chỉ là điều kiện cần
đối với cá nhân nhà khoa học công nghệ, đối với một
quốc gia năng lực đổi mới sáng tạo phải thể hiện ở
những công nghệ lõi trọng yếu. Trung Quốc nhận thức
100
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
được còn yếu kém và phụ thuộc vào công nghệ lõi
trọng yếu của nước ngoài. Do đó Lộ trình 2050 đặt mục
tiêu phải có được sức cạnh tranh về công nghệ lõi trọng
yếu.
- Năng lực tích hợp đổi mới sáng tạo
Tri thức sáng tạo ra, nếu không được tích hợp
để trở thành các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ hoặc
các tri thức mới, sẽ manh mún, không tạo được sự phát
triển. Năng lực tích hợp đổi mới sáng tạo chỉ xuất hiện
khi năng lực đổi mới sáng tạo đã đạt trình độ cao. Tuy
nhiên, ngay từ đầu phải chú trọng nâng đỡ năng lực
này.
- Hiểu sâu sắc các vấn đề của đất nước
Trong khoa học công nghệ, chuyên môn hóa là
quan trọng. Tuy nhiên, các nhà khoa học công nghệ cần
quan tâm và nắm được các vấn đề quan trọng của đất
nước để định hướng cho nghiên cứu phát triển của
mình. Việc phát hiện ra những vấn đề mà đất nước
đang cần và tìm giải pháp khoa học công nghệ để giải
quyết cũng là một năng lực cần được rèn luyện trong
các chương trình giáo dục, đào tạo và tuyển chọn nhân
tài.
b) Hòa nhập với cộng đồng quốc tế dựa
trên nội lực
Điều kiện cần để đánh giá trình độ phát triển của
khoa học công nghệ là năng lực hòa nhập với cộng
đồng quốc tế. Trong giai đoạn đầu tiên, yêu cầu đánh
giá đối với nhà khoa học là uy tín khoa học trên thế giới
và các bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế. Tuy vậy
101
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
trong thời gian gần đây, các nhà khoa học Trung Quốc
đã có nhiều công trình được công bố tương đối dễ dàng.
Một số nhà khoa học bắt đầu lạm dụng việc công bố
khoa học quốc tế. Trung Quốc bắt đầu chuyển sang giai
đoạn mới, yêu cầu nâng cao nội lực, các nhà khoa học
công nghệ Trung Quốc bắt đầu tham gia lãnh đạo các
dự án quốc tế do Trung Quốc đề xuất. Bên cạnh đó, các
dự án nghiên cứu thực hiện tại Trung Quốc bắt đầu thu
hút các nhà khoa học công nghệ trên thế giới. Qua đó
Trung Quốc bắt đầu hình thành được các nhóm nghiên
cứu phát triển có thể cạnh tranh với thế giới.
Chính sách của Trung Quốc về mặt này gồm 3
điểm chính:
- Cởi mở với việc tiếp thu và sử dụng tri thức
của thế giới. Cảnh giác với việc tự đóng cửa ngăn cách
mình với thế giới.
- Thúc đẩy hợp tác song phương và đa phương.
Trung Quốc tích cực tham gia các dự án đa phương và
dần dần có vai trò ngày càng lớn trong việc đề xuất và
quản trị dự án. Trung Quốc đầu tư rộng rãi vào các dự
án song phương, nhằm học hỏi, đào tạo chuyên gia và
chuyển giao công nghệ.
- Nhận thức được vai trò của sáng tạo gốc và
các công nghệ cốt lõi có tính chiến lược không thể mua.
Trung Quốc chú trọng tới việc bằng mọi cách, đặc biệt
là xây dựng nội lực để có được công nghệ gốc.
c) Đào tạo nhân tài, bồi dưỡng nguồn
nhân lực
102
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
103
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
104
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
chính phủ lấn át cơ chế thị trường, cản trở các ý tưởng
mới, tri thức mang tính hàn lâm, không khuyến khích
ứng dụng thực tế, dần hình thành các nhóm học phiệt,
độc quyền tri thức, có xu hướng đóng cửa, sử dụng kinh
phí không hiệu quả. Tuy nhiên, việc chạy theo thị
trường, lợi ích trước mắt và xem nhẹ sự điều tiết vĩ mô
cũng không tạo ra các giá trị dài hạn, có vai trò tác động
lan tỏa, coi thường nghiên cứu cơ bản, công nghệ lõi,
không đem lại doanh thu ngay. Việc tích hợp thị trường
với điều tiết của chính phủ được tiến hành thông qua
các bước sau:
- Xác định chuỗi giá trị trong hoạt động khoa
học công nghệ: Bắt đầu từ khâu đổi mới sáng tạo tri
thức đến khâu tạo giá trị của cải xã hội, chuỗi giá trị lần
lượt là các nghiên cứu do tò mò, nghiên cứu cơ bản có
định hướng, nghiên cứu cơ bản hướng ứng dụng. phát
triển công nghệ cao, đổi mới sáng tạo sản phẩm, đổi
mới sáng tạo quy trình, tiếp thị và quản trị vốn đầu tư.
Trong chuỗi giá trị trên, vai trò của chính phủ ngày
càng giảm và vai trò của cơ chế thị trường ngày càng
tăng. Trước đây do không nhận thức được chuỗi giá trị
nên việc đầu tư và điều tiết của chính phủ cũng như áp
dụng cơ chế thị trường không thích đáng và không hiệu
quả.
- Nâng mức đầu tư của chính phủ cho khoa học
công nghệ: Quan điểm của Lộ trình 2050 là đầu tư cho
khoa học công nghệ phải ở mức trên 2% GDP (không
phải 2% ngân sách) mới bắt đầu có tác dụng tạo ra hiệu
quả. Nói một cách khác đầu tư cho khoa học công nghệ
105
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
106
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
107
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
trí tuệ, nhập khẩu công nghệ và mua sắm của chính
phủ, nhằm khuyến khích phát triển công nghệ mới.
- Củng cố hợp tác trường đại học, công nghiệp
và viện nghiên cứu
Một mặt trường và viện nghiên cứu cần tiếp tục
phát triển và tích hợp hệ thống các công nghệ ứng
dụng, ươm tạo doanh nghiệp theo yêu cầu của công
nghiệp. Cần thiết lập các liên kết bên ngoài phòng thí
nghiệp để sử dụng nguồn lực xã hội chuyển giao công
nghệ. Các doanh nghiệp, trường, viện nghiên cứu được
khuyến khích xây dựng các trung tâm công nghệ. Hệ
thống các cơ quan cung cấp dịch vụ khoa học công
nghệ sẽ giúp đẩy mạnh việc chuyển giao công nghệ và
tích hợp các chủ thể đối mới sáng tạo.
- Hệ thống đổi mới sáng tạo tri thức cần dựa
trên nghiên cứu khoa học và đào tạo đại học cao đẳng.
Hệ thống các viện nghiên cứu quốc gia cần trở
thành xương sống, các trường đại học cần đóng vai trò
là tài nguyên và nơi tạo ra tri thức. Trường và viện cùng
có vai trò đổi mới sáng tạo và đào tạo nhân tài khoa học
công nghệ. Trường cần tập trung vào đào tạo nhân tài,
các viện nghiên cứu quốc gia cần tập trung vào đổi mới
sáng tạo.
Các viện nghiên cứu quốc gia được khuyến
khích nghiên cứu cơ bản, phát triển công nghệ cao
chiến lược, tích hợp hệ thống, thực hiện các dự án phát
triển kinh tế xã hội và các nhiệm vụ khoa học công
nghệ nhà nước. Các viện cần ươm tạo các nhân tài đổi
mới sáng tạo chất lượng cao, hỗ trợ và hướng dẫn các
108
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
trường đại học định hướng đào tạo, đồng thời cung cấp
các dịch vụ khoa học công nghệ cho xã hội.
Hợp tác giữa trường và viện thông qua việc đưa
các chương trình đào tạo đại học tại các viện nghiên
cứu vào chương trình đào tạo quốc gia và đưa việc
nghiên cứu khoa học công nghệ tại các trường đại học
vào hệ thống khoa học công nghệ quốc gia. Khuyến
khích mở và chia sẻ hạ tầng nghiên cứu cho mục đích
nghiên cứu và đào tạo đồng thời tạo điều kiện để các
nhà nghiên cứu hàng đầu tham gia giảng dạy.
f) Đổi mới quản lý vĩ mô
Lộ trình 2050 đưa ra các biện pháp khắc phục
các điểm yếu cố hữu sau của hệ thống quản lý vĩ mô về
khoa học công nghệ:
- Chưa chú trọng tới chất lượng của công tác lập
kế hoạch và hoạch định chính sách.
- Phân công công việc giữa các cơ quan quản lý
khoa học công nghệ chưa rõ ràng.
- Trùng lặp về nội dung giữa các chương trình
khoa học công nghệ.
- Nguồn lực hạn chế bị phân chia manh mún
- Các đề tài khoa học công nghệ cá nhân không
đủ kinh phí
- Người thực hiện đề tài dự án khoa học công
nghệ không có quyền tự quyết về kinh phí và quy trình
thực hiện.
- Hệ thống tư vấn, đánh giá, thẩm định và phê
duyệt không có hiệu quả.
5. Bài học kinh nghiệm
109
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
110
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
Cách phân chia như vậy cũng gắn kết các lĩnh vực khoa
học công nghệ chuyên sâu để cùng giải quyết các vấn
đề do cuộc sống đặt ra, khắc phục tình trạng tạo thành
những “tháp ngà” hoặc cách giải quyết các vấn đề thực
tế theo cách phân chia “nội khoa và ngoại khoa”.
c) Xây dựng các sáng kiến theo các mục tiêu đặc
thù của Trung Quốc và kiên quyết thực hiện
Các sáng kiến được phân loại theo các mục tiêu
thực tế dựa trên việc thấy được thế mạnh và nhìn thẳng
vào tồn tại trong thực tế của Trung Quốc: cạnh tranh
quốc tế, phát triển đất nước bền vững, đột phá về khoa
học cơ bản, phối hợp liên ngành, ứng dụng công nghệ
thông tin trong an ninh quốc phòng. Các sáng kiến này
vừa thể hiện tầm nhìn xa vừa thực tế.
d) Mục tiêu xây dựng đất nước có tinh thần đổi
mới sáng tạo toàn diện
Mục tiêu hàng đầu và quan trọng nhất của việc
phát triển khoa học công nghệ là xây dựng một văn
hóa đổi mới sáng tạo, được sự đồng thuận của toàn xã
hội. Không có một tinh thần quốc gia như vậy, không
thể đưa các tri thức khoa học công nghệ vào đời sống
tinh thần và đời sống vật chất của xã hội.
e) Điểm nổi bật và đột phá của chính sách là cơ
chế kết hợp trường viện với doanh nghiệp
Doanh nghiệp là chủ thể quan trọng để đưa khoa
học công nghệ vào đời sống. Tuy nhiên nếu không có
những cơ chế cụ thể việc đưa doanh nghiệp vào các
hoạt động khoa học công nghệ sẽ chỉ có hô hào hình
111
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
thức. Trước hết, Lộ trình 2050 dựa trên chuỗi giá trị để
phân tích vai trò của các chủ thể trong từng lĩnh vực để
có thể đề ra các cơ chế phù hợp.
f) Học tập kinh nghiệm thế giới và dựa trên các
vấn đề đặc thù của đất nước
Lộ trình 2050 tham khảo rất nhiều kinh nghiệm
quốc tế, nhưng vẫn có những phân tích độc lập dựa trên
các yêu cầu đặc thù của Trung Quốc. Lộ trình 2050 có
rất nhiều điểm phù hợp có thể áp dụng cho Việt Nam.
Tuy nhiên Trung Quốc có những đặc điểm khác Việt
Nam. Do đó, Việt Nam cần nắm tư tưởng cốt lõi và
những xu thế lớn, không nên sao chép những chi tiết cụ
thể.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Viện Hàn Lâm Khoa học Trung Quốc, Khoa học và
Công nghệ ở Trung Quốc: Lộ trình tới năm 2050, Chủ
biên Lạc Dũng Quần, Springer (2010). [2] Quốc vụ
viện Trung Quốc, Kế hoạch Khoa học và Công nghệ
trung hạn và dài hạn Quốc gia tới năm 2020, Chủ biên
Thủ tướng Ôn Gia Bảo (2007).
[3] Innovate America: Thriving in a World of
Challenge and Change, Rising above the Gathering
Storm: Energizing and Employing America for a
Brighter Economic Future and American
Competitiveness Initiative (2006). [4] Japan,
Innovation 2025: Long-term Strategic Guidelines and
Technology Strategy Roadmap (2007)
112
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
113
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
114
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
CHƯƠNG 3
KINH NGHIỆM TRIỂN KHAI DỰ ÁN
MANHATTAN 1939-1946 CỦA MỸ
1. Tổng quan
Dự án Manhattan là dự án nghiên cứu và phát
triển, sản xuất vũ khí hạt nhân trong Chiến tranh thế
giới thứ hai. Dự án này tạo ra hình mẫu đỉnh cao về tổ
chức triển khai hoạt động khoa học công nghệ quy mô
lớn. Khi bắt đầu dự án, trình độ khoa học công nghệ
của nước Mỹ còn thua kém so với nhiều nước trên thế
giới như Đức, Anh, Pháp, Liên Xô. Dự án đã thúc đẩy,
đưa khoa học công nghệ của nước Mỹ cả về năng lực
nghiên cứu phát triển và trình độ quản lý lên vị trí số
một thế giới cho đến ngày nay. Ảnh hưởng của Dự án
tới phát triển công nghiệp và nhận thức của xã hội về
khoa học công nghệ của Mỹ là lâu dài và không thể
đánh giá hết được.
Ước tính, có chừng hơn 500 nghìn người đã
từng tham gia dự án, tuy chỉ có khoảng hơn 10 người
biết về cấu trúc tổng thể của dự án. Dự án được triển
khai tại hơn 30 địa điểm, bao gồm cả ở Mỹ, Anh và
Canada. Tổng kinh phí của dự án là gần 2 tỷ đô la,
tương đương với 23 tỷ đô la ngày nay. Từ năm 1942
đến 1946, Dự án được chỉ huy bởi Trung tướng
L.Groves, thuộc Quân chủng Công Binh Mỹ. Nhà vật
lý R.Oppenheimer là giám đốc Phòng thí nghiệm Los
Alamos chịu trách nhiệm thiết kế bom. Trên 90% chi
phí dự án là để xây các công xưởng và sản xuất vật liệu
115
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
phân hạch. Phát triển và sản xuất vũ khí chưa tới 10%
tổng cho phí dự án.
Còn có những tranh cãi trong việc Mỹ ném bom
nguyên tử xuống Hiroshima, Nagasaki và về những
phiên tòa kết án các nhà khoa học tham gia dự án phản
đối việc sử dụng bom nguyên tử. Tuy nhiên, ở đây
chúng tôi chỉ phân tích kinh nghiệm triển khai Dự án
với tư cách là một dự án phát triển khoa học công nghệ
lớn và thành công.
2. Đề xuất dự án và nghiên cứu khả thi
Vào những năm 1920, sau chiến tranh thế giới
thứ nhất, một số nhà vật lý hàng đầu như N.Bohr,
W.Heisenberg, E.Schrodinger, P.Dirac, W.Pauli,
M.Born, L. de Broglie,…ở Châu Âu đã tìm ra cơ học
lượng tử, quy luật của thế giới vi mô. Cơ học lượng tử
dựa trên giả thuyết về lượng tử của M.Planck (1900),
hiệu ứng quang điện của A.Einstein (1917), những
phương pháp toán học và khái niệm vật lý mới.
Nước Đức là trung tâm phát triển của cơ học
lượng tử và ứng dụng để tìm hiểu bí mật của việc khai
thác năng lượng hạt nhân. Năm 1938, các nhà khoa học
Đức, O.Hahn, F.Strassman, L.Meitner và O.Frisch đã
phát hiện và giải thích được phản ứng phân hạch. Hạt
nhân Uranium 235 khi bị bắn phá bởi các neutron chậm
sẽ vỡ thành các hạt nhân nhẹ hơn, bức xạ 3 neutron và
một năng lượng lớn. Như vậy nếu có một khối lượng
uranium 235 nhất định, gọi là khối lượng tới hạn, sẽ có
khả năng tạo ra phản ứng dây chuyển, ngày càng có
nhiều neutron tiếp tục phân hạch tất cả các hạt nhân
116
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
117
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
118
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
quả đột phá về khối lượng tới hạn Uranium 235, có thể
tạo ra phản ứng dây chuyển. Hai ông đã thực hiện các
tính toán, đánh giá được khối lượng này nằm trong
khoảng 10 kilograms, đủ để các máy bay oanh tạc thời
đó có thể mang theo. Tháng Ba năm 1940, Frisch và
Peierls đã viết một bản ghi nhớ gửi Chính phủ Anh để
khởi động dự án phát triển bom nguyên tử và thành lập
Tiểu ban MAUD nghiên cứu khả thi về vũ khí nguyên
tử.
Chủ tịch của Tiểu ban MAUD là nhà vật lý
G.Thomson. Tiểu ban bao gồm 4 nhóm nghiên cứu tại
các trường đại học Birmingham, Cambridge, Oxford
và Liverpool. Trong vòng 15 tháng nghiên cứu, Tiểu
ban đã có các kết quả được trình bày trong hai báo cáo
lịch sử “Sử dụng Uranium làm bom” và “Sử dụng
Uranium làm nguồn năng lượng”. Các báo cáo MAUD
đã phân tích tính khả thi và sự cần thiết của việc chế
tạo bom nguyên tử, cũng như việc sử dụng nguồn năng
lượng nguyên tử thay thế dầu và than đá. Đáp ứng các
báo cáo này, Chính phủ Anh đã thành lập dự án Tube
Alloys với sự tham gia của Canada. Dự án này sau đó
cũng được sáp nhập và xem như là một phần của dự án
Manhattan. Các bản báo các này được gửi cho Mỹ và
là cơ sở để thành lập dự án Manhattan. Các tình báo
Liên Xô cũng lấy được các báo cáo này chuyển cho
Stalin, và là cơ sở cho chương trình phát triển vũ khí
hạt nhân của Liên Xô.
Chính phủ Anh, với sự tư vấn của các nhà khoa
học trong và ngoài nước, đã sớm nhận thức được việc
119
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
cần thiết phải hợp tác với Mỹ. Tháng Bảy 1940, Anh
đã cho phép Mỹ có thể truy cập tới các thông tin khoa
học của mình. Đoàn công tác của nhà vật lý J.Cockrolf
đã thông báo tới các nhà khoa học Mỹ về tình hình phát
triển bom nguyên tử ở nước Anh. Cockrolf cũng phát
hiện được rằng trình độ khoa học công nghệ của Mỹ
còn kém xa Anh. Thậm chí, đến Tháng Tám 1941, nhà
vật lý M.Oliphant khi tới Mỹ đã phát hiện ra rằng các
dữ liệu, thông tin được Tiểu ban MAUD cung cấp cho
phía Mỹ trong chương trình hợp tác không đến được
tay các nhà vật lý trọng yếu của Mỹ. Nhờ vậy, ông đã
kịp thời tháo gỡ ách tắc thông tin, để các thông tin quan
trọng đến được với những nhà khoa học Mỹ đang cần
nó.
3. Tổ chức triển khai
Nhà vật lý Niels Bohr đã từng nói việc chế tạo
bom nguyên tử trong một thời gian ngắn như vậy
“không bao giờ có thể thực hiện, trừ phi người ta biến
nước Mỹ thành một công xưởng khổng lồ”. Trong thực
tế, cuối cùng dự án cũng đã triển khai với quy mô tương
tự như một ngành công nghiệp.
Tháng Chín, năm 1941, sau khi họp kín với Chánh
Văn phòng OSRD V.Bush và Phó Tổng thống
H.Wallace, Tổng thống Rousevelt đã phê duyệt
chương trình nguyên tử. Để chỉ đạo chương trình này,
ông thành lập Tổ Chính sách Tối cao, bao gồm Tổng
thống, Phó Tổng thống, Chủ tịch Ủy ban nghiên cứu
Quốc phòng NDRC, Chánh Văn phòng Nghiên cứu
khoa học OSRD, Bộ trưởng Quốc phòng và Tham mưu
120
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
trưởng Liên quân. Như vậy, OSRD trực tiếp đặt mục
tiêu, lập kế hoạch nghiên cứu và triển khai phát triển
vũ khi hạt nhất, để thông qua Tổ chức Chính sách tối
cao trước khi trực tiếp trình Tổng thống. Tiểu ban S1
là bộ phận đặc trách lĩnh vực này của OSRD. Dựa trên
kế hoạch này, Dự án Manhattan toàn quyền đặt hàng
triển khai, đặc biệt là các hạng mục xây dựng hạ tầng,
tổ chức sản xuất uranium 235 và plutonium.
Như vậy sơ đồ tổ chức liên quan tới Dự án
Manhattan như trong hình sau đây
121
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
122
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
123
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
thí nghiệm, tài liệu, thiết bị và vật liệu bom nguyên tử.
Nhóm này cũng vây bắt các nhà khoa học Đức đang
nghiên cứu vũ khí nguyên tử như K.Diebner, O.Hahn,
W.Gerlach, W.Heisenberg và C.F.von Weizsäcker đưa
về Anh.
4. Thử nghiệm và kết thúc chiến tranh
5g30 ngày 16 Tháng Bảy 1945, vụ nổ bom
nguyên tử đầu tiên đã xảy ra tại một địa điểm thử
nghiệm ở bang New Mexico, Mỹ. Vụ nổ này đã có
đương lượng nổ tương đương 20 nghìn tấn thuốc nổ
TNT. Khi đó Truman đang hội đàm với Stalin ở
Potsdam, cố gắng thuyết phục Liên Xô sớm tuyên
chiến với Nhật Bản. Theo tính toán từ phía Đồng Minh,
quân đội Nhật sẽ quyết tâm tử thủ, bảo vệ từng thành
phố. Vì vậy kế hoạch đổ bộ sẽ kéo theo thương vong
lớn cho cả quân đội Đồng minh, quân đội và thường
dân Nhật Bản. Tin tức về thử nghiệm bom nguyên tử
thành công đã làm Tổng thống thay đổi quyết định, ông
muốn Nhật đầu hàng trước khi Liên Xô quyết định
tham chiến.
Tháng Bảy năm 1945, L.Szilard và A.Einstein,
cũng là những người đã đề xuất Dự án Manhattan đã
cùng 70 nhà khoa học đã gửi cho Tổng thống Truman
một bản Kiến nghị, yêu cầu Tổng thống thông báo cho
Nhật Bản về hệ quả của việc sử dụng vũ khí nguyên tử
và yêu cầu Nhật đầu hàng. Tuy nhiên, bản Kiến nghị
này đã không thể đến được tay Tổng thống.
Ngày 6 Tháng Tám năm 1945, một chiếc Pháo
đài bay B-29 đã ném bom nguyên tử mang tên Little
124
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
125
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
126
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
127
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
THAM KHẢO
[1] B.C.Reed, The history and science of the
Manhattan Project, 2nd Edition, Springer, (2019) ISSN
2192-4791, https://doi.org/10.1007/978-3-662-58175-
9
[2] S. Groueff, Manhattan Project: The Untold Story
of the Making of the Atomic Bomb, Little, Brown and
Company, New York (1967)
[3] R. Rhodes, The Making of the Atomic Bomb,
Simon and Schuster, New York, (1986)
[4] H.D. Smyth, Atomic Energy for Military Purposes:
The Official Report on the Development of the Atomic
Bomb Under the Auspices of the United States
Government, 1940–1945, Princeton University Press,
Princeton (1945).
128
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
CHƯƠNG 4
CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ XÃ HỘI VÀ CHIẾN
LƯỢC KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
1. Xác định mục tiêu cho khoa học công nghệ Việt
Nam
129
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
đến vận mệnh của đất nước. Chẳng hạn một nghiên cứu
toán học trừu tượng có trình độ cao ở tầm quốc tế sẽ có
giá trị quảng bá cho đất nước hiệu quả hơn hàng tỷ đô
la quảng cáo suông. Mặt khác giá trị lan tỏa của nó sẽ
vô cùng lớn, qua ảnh hưởng tới tư duy tầm nhìn của
nhiều người. Bên cạnh đó không thể tiên đoán trước
được hiệu quả thực tế tiết kiệm năng lượng điện ngày
nay của nghiên cứu chuyên sâu về đèn LED xanh khi
nó còn ở dạng các công thức, thiết bị đo trong phòng
thí nghiệm.
Chúng ta thường bàng quan và thờ ơ coi những
vấn đề kinh tế xã hội không phải là trách nhiệm của
mình. Nếu khoa học công nghệ không có giải pháp cho
các vấn đề sau đây, ai là người chịu trách nhiệm giải
quyết?
- Đồng bằng Sông Cửu Long ngập mặn do các
nước trên thượng nguồn ngăn nước. VN có nguy cơ
mất đi vựa lúa lớn nhất
- Biến đổi khí hậu, ô nhiễm không khí và môi
trường (bụi mịn tại Hà Nội).
- Nông nghiệp: lúa xuất khẩu chưa đủ mua ngô
nuôi gia súc. Không tự chủ được về giống, phân và
thuốc trừ sâu. Nạn thực phẩm bẩn. Công nghiệp chế
biến chưa đủ sức ổn định thị trường nông phẩm.
- Năng lượng: Thủy điện cạn kiệt tiềm năng.
Điện than ô nhiễm nghiêm trọng. Điện hạt nhân chưa
phổ biến và chưa được sự đồng thuận của xã hội do
truyền thông còn sơ sài dẫn tới nhận thức chung chưa
130
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
chính xác. Năng lượng tái tạo bù lỗ. Việt Nam đang
phải mua điện của Trung Quốc và Lào.
Chúng tôi sẽ trở lại với các vấn đề này trong nội
dung của chiến lược khoa học công nghệ.
b) Tạo lập một nền văn hóa đổi mới sáng tạo
Để giải quyết các vấn đề khoa học công nghệ cụ
thể trước mắt, chúng ta có thể du nhập tri thức hoặc
mua công nghệ. Tuy nhiên, về lâu dài chúng ta cần có
khả năng làm chủ tri thức và công nghệ. Mặt khác, cho
dù có khoa học công nghệ, có tiền, đất nước vẫn không
thể chuyển mình trở nên cường thịnh, mỗi người vẫn
không thể tìm thấy hạnh phúc đích thực, nếu như tư
duy không thay đổi.
Quá trình thay đổi đương nhiên là khó khăn và
có nhiều trở lực, đôi khi đau đớn. Khoa học công nghệ
sẽ khuyến khích thói quen đổi mới sáng tạo. Nếu khoa
học Việt Nam không thổi được sinh khí nhiệt tình đổi
mới sáng tạo vào đời sống xã hội, thì đó sẽ là thất bại.
Mọi thành công trước mắt đều có thể bị đảo ngược dễ
dàng.
c) Xây dựng được hạ tầng khoa học công
nghệ tiên tiến
Hạ tầng khoa học công nghệ bao gồm các viện
nghiên cứu, các nhóm nghiên cứu mạnh ở các trường
đại học và cao đẳng, các cơ chế, chính sách phối hợp
hàn lâm với doanh nghiệp, dân sự và quốc phòng và
các cơ chế thúc đẩy hoạt động để tiến tới có những
thành tựu có giá trị, sản sinh ra được các công nghệ cốt
lõi chiến lược.
131
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
132
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
nguyên tắc cung cấp dịch vụ. Các phòng thí nghiệm
quốc gia sẽ hoạt động theo cơ chế mở, dùng chung,
khuyến khích thu hút đầu tư từ doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp sẽ được khuyến khích sử dụng các phòng
thí nghiệm quốc gia để nhận chuyển giao, hoàn thiện,
thích nghi hóa và thương mại hóa công nghệ theo yêu
cầu của mình với khoản kinh phí theo quy định. Các
doanh nghiệp cũng có thể đầu tư vào các phòng thí
nghiệm. Các trường cũng có thể sử dụng phòng thí
nghiệm quốc gia với chi phí hợp lý phục vụ mục tiêu
đào tạo hoặc thực hiện các dự án kinh tế xã hội.
Có chính sách chia sẻ quyền sở hữu công bằng
và hợp lý đối với kết quả nghiên cứu tại phòng thí
nghiệm, sử dụng vốn ngân sách và sử dụng hỗn hợp
ngân sách cùng với vốn đầu tư từ doanh nghiệp. Các
phòng thí nghiệm được bố trí đủ vốn vận hành hàng
năm bao gồm chi phí điện nước, mặt bằng, nguyên vật
liệu, kỹ thuật viên và linh kiện thay thế. Kinh phí nâng
cấp mở rộng được khuyến khích lấy từ nguồn thu dịch
vụ, đầu tư của doanh nghiệp và phí sử dụng công nghệ.
b) Thay đổi phương thức quản lý chương
trình, đề án, dự án và đề tài (gọi chung là nhiệm vụ)
khoa học công nghệ
Hội đồng đặt đề bài, xét duyệt, nghiệm thu
nhiệm vụ gồm các chuyên gia có năng lực, có uy tín,
trung thực, có dũng khí và chí công vô tư được bổ
nhiệm cố định theo từng chương trình, với sự tham gia
hoặc cố vấn của ban chủ nhiệm chương trình. Nội dung
134
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
135
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
136
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
137
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
Tài trợ để các tài năng trẻ sau tiến sĩ có thể tham gia
các hội nghị hội thảo quốc tế.
Chương trình đào tạo tài năng trẻ ở trình độ đại
học đến sau đại học bao gồm việc tài trợ học bổng theo
yêu cầu đối với các sinh viên có tài và có thành tích
nghiên cứu khoa học công nghệ. Bên cạnh đó, các sinh
viên này cũng được cấp kinh phí thực tập nghiên cứu
ngắn hạn tại các phòng thí nghiệm quốc gia và trao đổi
nghiên cứu với các trường viện tiên tiến trên thế giới,
tham gia các lớp học chuyên đề hoặc tài trợ các đề tài
nghiên cứu ngoại khóa.
Chương trình đào tạo nhân tài ở trình độ phổ
thông nhằm tài trợ cho các cuộc thi nghiên cứu dài ngày
theo nhóm bổ sung cho các cuộc thi giải các bài tập
hiện nay. Tổ chức các trại hè nghiên cứu khoa học công
nghệ với sự tham gia của học sinh quốc tế.
e) Các dự án Manhattan về khoa học công
nghệ
Việt Nam cần triển khai một số dự án quy mô
lớn, phối hợp nhiều đơn vị, với mục tiêu kinh tế xã hội
cụ thể, có tác động mạnh đến sự phát triển của khoa
học công nghệ tương tự như dự án Manhattan của Mỹ
trong chiến tranh thế giới thứ hai, mỗi dự án thực hiện
trong khoảng 5-10 năm. Chọn các nhà khoa học có
năng lực và uy tín đứng đầu các dự án lớn, giao quyền
tối đa cho họ (như vai trò Tổng công trình sư) trong
việc điều hành dự án, bao gồm điều động nhân sự từ
các cơ quan nhà nước và dân sự phục vụ dự án, báo cáo
138
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
trực tiếp với lãnh đạo Chính phủ, sử dụng ngân sách và
hợp tác quốc tế.
Các dự án này không những sẽ đem lại các công
nghệ mới, tạo ra sản phẩm chủ lực mang thương hiệu
Việt Nam, giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội mà còn
khắc phục điểm yếu về năng lực phối hợp, tổ chức hợp
tác của các nhà khoa học công nghệ Việt Nam. Các dự
án này có thể được ưu tiên giao cho quân đội quản lý
thực hiện để tạo đà cho việc phối hợp dân sự với quốc
phòng.
f) Phối hợp dân sự với quốc phòng
Xây dựng khung luật pháp quy định về việc bắt
buộc phối hợp dân sự với quốc phòng trong lĩnh vực
nghiên cứu khoa học công nghệ, ưu tiên ứng dụng công
nghệ mới, công nghệ cao trước hết cho lĩnh vực quốc
phòng. Cần phân định minh bạch những vấn đề cần giữ
bí mật quân sự tuyệt đối và các thủ tục bảo vệ bí quyết
công nghiệp và việc cần công khai tiến độ cũng như
hiệu quả triển khai các dự án khoa học công nghệ. Các
dự án nghiên cứu quốc phòng cũng cần kiểm soát tiến
độ và đảm bảo hiệu quả đầu tư.
Cho phép các doanh nghiệp, viện trường tham
gia phát triển công nghệ cho quốc phòng. Các công
nghệ được phát triển trong các dự án quốc phòng bắt
buộc phải chuyển giao cho sử dụng dân sự sau một thời
hạn do luật quy định hoặc do một ủy ban đánh giá đặc
biệt của Quốc hội.
139
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
140
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
Các Các
Vấn đề Các dự án
chương chương Đề xuất về
kinh tế xã Manhattan
trình chiến trình hỗ trợ chính sách
hội Việt Nam
lược
141
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
142
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
143
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
144
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
người dân sống ở nông thôn, khoa học công nghệ phải
giúp tăng giá trị kinh tế nông nghiệp, gìn giữ môi
trường, tái cấu trúc nông nghiệp, chuyển hướng sang
nuôi trồng cao sản và đào tạo nghề cho nông dân.
- Xây dựng đô thị thông minh
Cần xây dựng và bảo vệ quy hoạch đô thị thông
minh, kế hoạch hóa đô thị, bảo vệ môi trường, giải
quyết vấn đề giao thông, cung ứng, rác thải, an ninh xã
hội,… cần các giải pháp cảm biến, theo dõi, tối ưu, dự
báo, xử lý dữ liệu, cảnh báo sớm,…
- Chăm sóc sức khỏe và đời sống tinh thần
Ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ
mới trong phương pháp chữa bệnh, sản xuất thuốc và
thiết bị y tế, bảo vệ di sản, công nghiệp giải trí và truyền
thông. Văn hóa của xã hội cần phát triển theo hướng
đổi mới sáng tạo nhờ phổ cập và ứng dụng khoa học
công nghệ.
e) An ninh quốc phòng
Hiện đại hóa quân đội và công an là nhu cầu
cấp bách của xã hội. Một mặt việc giảm quân số thường
trực sẽ giảm chi phí cho an ninh quốc phòng. Mặt khác
trong an ninh quốc phòng hiện đại, do ứng dụng các
công nghệ và vũ khí hiện đại công nghệ thông tin, tự
động hóa, chiến tranh sinh học, công nghệ người máy
nên quân số không phải là ưu thế so với tri thức khoa
học công nghệ.
145
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
146
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
147
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
Phát triển
nông thôn
Chăm sóc
Khoa học
sự khỏe
cơ bản
cộng đồng
Tin học
cộng đồng
148
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
Nguyên liệu
Cây và vật Chế biến
dược mỹ
nuôi cao sản nông sản
phẩm
149
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
xuất nam dược ứng dụng công nghệ sinh học, công
nghệ thông tin.
Phát triển công nghệ tế bào gốc, dược phẩm tự
sinh, chăm sóc sức khỏe người già, chữa bệnh mãn
tính. Phát triển các mô hình dự báo và vacxin, phòng
chống dịch bệnh.
Nghiên cứu khoa học thần kinh, ứng dụng sóng
não, tác động của các yếu tố vật lý, như sóng điện từ,
bức xạ hạt nhân, ánh sáng lên cơ thể con người, ứng
dụng công nghệ trong huấn luyện thể thao, nâng cao
thể chất.
150
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
Thiết bị giá rẻ
151
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
TOÁN HỌC
152
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
Các công
nghệ tiên
tiến
Vật liệu
Hệ sinh
và thiết bị
thái công
thông
nghệ
minh
Tiết kiệm
năng
lượng và
tái chế
153
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
Vật liệu
và quang
học
Sinh hóa Năng
và dược lượng
CNTT
154
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
155
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
dệt may và công nghệ sản xuất giấy bảo vệ môi trường.
Vật Thiết
liệu bị
156
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
157
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
Thị trường sở
hữu trí tuệ
Khoa học
công nghệ
chiến lược
quốc gia
Hệ thống
thông tin Công nghệ
quốc người máy
phòng
158
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
159
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
phát triển đột phá và hứa hẹn. Tri thức trong lĩnh vực
này có thể phát hiện ra những tiềm năng của con người,
những phương pháp chữa bệnh mới và là cơ sở để phát
triển những công nghệ ứng dụng mới, trước hết là máy
tính thế hệ mới. Nghiên cứu tác động của sóng điện từ
đến cơ thể sống, cơ chế điều khiển tâm lý và các ứng
dụng của sóng não để phòng chống các hiểm họa chống
con người và nâng cao khả năng học tập, năng lực trí
tuệ của con người.
Phòng chống chiến tranh sinh học, chủ yếu tập
trung vào các công nghệ phòng chống dịch bệnh lây lan
do virus, vi trùng và siêu vi trùng, bao gồm cả các công
nghệ dự báo, cảnh báo sớm.
160
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
hết hướng tới các ứng dụng quân sự. Công nghệ người
máy cũng phải kết hợp với trí tuệ thông minh, học máy,
khoa học thần kinh, máy tính tương lai.
Quân đội được giao nhiệm vụ xây dựng hạ
tầng phát triển công nghệ và phát triển công nghiệp
người máy sử dụng cho cả mục tiêu dân sự và quân sự
với nghĩa vụ phải hợp tác và chuyển giao cho dân sự
để sản xuất đại trà.
- Các công nghệ phục vụ hệ thống thông tin
quốc phòng
Hệ thống thông tin quốc phòng bao gồm hệ
thống chỉ huy, hệ thống thông tin chiến lược, hệ thống
cảnh báo nguy cơ không gian, biển, không gian số, vũ
khí mới. Các hệ thống này được giữ bí mật. Tuy nhiên,
việc nghiên cứu phát triển các công nghệ liên quan
như công nghệ thông tin, xử lý dữ liệu, cảm biến, sinh
học, cần phải công khai, phối hợp với dân sự để
chuyển giao các tri thức tiên tiến nhất một cách hiệu
quả.
3.3 Các dự án Manhattan Việt Nam
Dự án 2
Dự án 3
161
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
162
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
duyên hải, biển đảo có thể được khai thác cho nguồn
năng lượng và vật liệu mới này. Nghiên cứu làm mưa
nhân tạo (cloud seeding) [2] là một ví dụ khác. Công
nghệ này đã và đang được phát triển nhiều nơi trên thế
giới. Đối với Việt Nam công nghệ này có thể trở thành
chiến lược để xây dựng một giải pháp giải quyết vấn
đề nhiễm mặn của đồng bằng sông Cửu Long, vấn đề
bụi mịn tại Hà Nội cũng như bổ sung cho nguồn dự trữ
nước ngọt.
Các công nghệ cho phép sinh sống trên biển
nhằm mở rộng không gian sống của người Việt, phát
triển các khu dân cư trên biển đảo, góp phần khẳng định
và gìn giữ chủ quyền quốc gia. Các công nghệ này bao
gồm lọc nước biển [3], vật liệu xây dựng nhẹ và có độ
bền cao, nuôi trồng cây xanh thủy sinh, …
Các công nghệ cho phép phát triển các ngành
công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ trên biển như sản
xuất năng lượng tái tạo, đánh bắt và nuôi thủy sản, khai
thác băng cháy, vật liệu trong nước biển, dưới đáy biển
và du lịch biển,
Dự án Manhattan Việt nam về khai thác biển và
khắc phục khí hậu có mục tiêu trong vòng 10 năm tạo
điều kiện cho người dân có thể sinh sống, làm giàu trên
biển, Việt Nam có thế mạnh trên bàn đàm phán về biến
đổi khí hậu trong khu vực.
163
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
164
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
165
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
166
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
167
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
168
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
169
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
- Phân chia việc sở hữu tài sản trí tuệ cũng như
vật chất của các dự án với tỷ lệ thích đáng, tạo động lực
cho các nhà khoa học và xác định đó là tưởng thưởng
vật chất chủ yếu cho những người tham gia các dự án
khoa học công nghệ. Giao quyền cho ban chủ nhiệm
dự án và chủ trì đề tài xác định phần sở hữu theo đóng
góp thực sự của những người tham gia.
- Cho phép các dự án, đề tài dùng ngân sách gọi
thêm vốn đầu tư từ các nguồn đầu tư tư nhân và chia sẻ
quyền sở hữu hợp lý theo thị trường.
b) Cơ chế dùng chung hạ tầng
- Các phòng thí nghiệm, cơ sở vật chất kỹ thuật
của các viện, trường đều được khuyến khích chia sẻ,
dùng chung với mức phí hợp lý, giảm đầu tư lãng phí,
trùng lặp không cần thiết, tăng hệ số sử dụng và trên cơ
sở ưu tiên các nhiệm vụ chính.
- Cho phép các doanh nghiệp đầu tư các phòng
thí nghiệm nhỏ, và tham gia đầu tư các phòng thí
nghiệm quốc gia đặc biệt là đầu tư nâng cấp mở rộng,
vận hành, đào tạo kỹ thuật viên để nâng cao ưu tiên sử
dụng và chia sở hữu kết quả.
- Có cơ chế phân chia sở hữu và nguồn thu từ
kết quả các hoạt động tại các phòng thí nghiệm gồm
đơn vị chủ quản-người thực hiện-nhà đầu tư.
c) Cơ chế hợp tác phối hợp
- Hợp tác hàn lâm-công nghiệp: Phân loại và
quy định phòng thí nghiệm quốc gia và phòng thí
nghiệm nhỏ. Có quy định hợp lý hơn về chi phí sử dụng
phòng thí nghiệm và phương tiện kỹ thuật trong các đề
170
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
tài, dự án. Tháo gỡ các khó khăn đối với việc thương
mại hóa sản phẩm hợp tác, đặc biệt là phân chia lợi
nhuận và tưởng thưởng vật chất, để khuyến khích việc
hợp tác. Các nhà khoa học công nghệ từ viện trường sẽ
không có động lực và lãng phí thời gian cho các công
ty “sân sau”.
- Hợp tác dân sự-quốc phòng: Phân loại và quy
định rạch ròi về bí mật quân sự. Những đơn vị thực
hiện các hoạt động nghiên cứu phát triển trong thời hạn
giữ bí mật tuyệt đối không tham gia kinh doanh dưới
bất cứ hình thức nào. Khuyến khích liên doanh hoặc
chuyển giao trọn gói công nghệ để tạo nguồn thu cho
những công nghệ đã hết thời hạn. Có hướng dẫn và quy
định công khai về thời hạn chuyển giao cho dân sự các
công nghệ phát triển trong các dự án khoa học công
nghệ quốc phòng. Khuyến khích các đơn vị an ninh
quốc phòng sử dụng các đối tác hàn lâm và doanh
nghiệp để hợp tác quốc tế và chuyển giao công nghệ.
- Hợp tác quốc tế: Bố trí kinh phí thích hợp để
Việt Nam tham gia các tổ chức khoa học công nghệ
quốc tế, các dự án song phương và đa phương. Có các
chương trình thu hút các nhà khoa học công nghệ giỏi,
đặc biệt các nhà khoa học công nghệ gốc Việt và yêu
Việt Nam, về Việt Nam làm việc thường xuyên tương
tương tự như Fulbright hay Tokten. Tài trợ cho các hội
nghị hội thảo quốc tế có danh tiếng tại Việt Nam. Tài
trợ cho các nhà khoa học hàng đầu của Việt Nam xuất
bản các ấn phẩm tại các nhà xuất bản danh tiếng trên
171
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
thế giới. Có các quỹ học bổng đưa các tài năng trẻ đi
làm việc tại các trường và viện danh tiếng trên thế giới.
d) Cơ chế chia sẻ sở hữu trí tuệ
- Chính sách chia sẻ: Có quy chế minh bạch và
tạo động lực cho việc chia sẻ sở hữu trí tuệ cho người
thực hiện-nhà đầu tư-cơ quan sự nghiệp chủ quản cho
các dự án, đề tài sử dụng một phần hay toàn bộ ngân
sách. Nhà nước giao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu
có nguồn gốc ngân sách cho nhà khoa học và cơ quan
chủ trì để tham gia thị trường công nghệ.
- Thị trường mua bán sở hữu trí tuệ: Cho phép
và khuyến khích mua bán toàn bộ hoặc một phần quyền
sở hữu trí tuệ để tạo điều kiện hình thành thị trường.
Cho phép góp vốn bằng tài sản trí tuệ vào doanh
nghiệp. Khuyến khích tư nhân xây dựng các sàn giao
dịch sở hữu trí tuệ đã xác lập và ý tưởng khoa học công
nghệ mới manh nha.
e) Cơ chế công khai trách nhiệm
- Kết quả khoa học công nghệ sử dụng ngân
sách: Tóm tắt nội dung, các kết quả mới về lý thuyết,
phương pháp, ý nghĩa ứng dụng thực tiễn, quy mô đầu
tư đều phải công khai.
- Phê duyệt,thẩm định và đánh giá: Hội đồng
đánh giá cho mỗi chương trình, đề án, dự án được bổ
nhiệm chính thức. Danh sách và các ý kiến đều được
công bố công khai để tăng trách nhiệm. Duyệt các đề
xuất phải có tối thiểu hai ủy viên hội đồng tình nguyện
nhận trách nhiệm trình bày bảo vệ đề xuất trước hội
đồng. Bố trí lương, phụ cấp thích đáng phù hợp hơn
172
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
173
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
174
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
LỜI BẠT
Những ý tưởng trình bày trong Phần 4 của cuốn
sách này là những nét chấm phá đầu tiên để minh họa
cho một cách tiếp cận mới về chiến lược. Tất nhiên,
những phác thảo như vậy, sẽ cần được giải thích rõ một
cách chi tiết. Tuy nhiên, những khái niệm về Chiến
lược lớn, những bài học kinh nghiệm về xây dựng Lộ
trình Chiến lược của Trung Quốc và về triển khai Dự
án Manhattan của Mỹ, đã chứa đựng chìa khóa cho
những giải thích cần thiết mà kết luận cuối cùng chỉ có
thể kết tinh thông qua sự tham gia, xây dựng và tranh
luận của toàn xã hội.
Xã hội quan tâm tới chiến lược khoa học công
nghệ trước hết là các hạn chế, trở lực trước mắt, các
mục tiêu lâu dài và các giải pháp khắc phục. Chúng tôi
đưa ra 8 hạn chế liên quan tới: nạn lãng phí nguồn lực,
quy trình đánh giá không hiệu quả, chế độ tưởng
thưởng không thích đáng, cơ chế tài chính không phù
hợp, nhận thức sai về vai trò của các viện nghiên cứu,
chương trình đào tạo lạc hậu, không có hệ sinh thái hỗ
trợ phát triển khoa học công nghệ và chiến lược phát
triển không sắc nét. Về mục tiêu, chúng tôi đề xuất 4
nhóm mục tiêu: đối phó với thách thức xã hội, phát
triển năng lực dẫn đầu công nghiệp, hình thành văn hóa
đổi mới sáng tạo và xây dựng hạ tầng khoa học công
nghệ tiên tiến. Từ đó chúng tôi đề xuất 7 giải pháp: liên
kết trường-viện-doanh nghiệp, đổi mới phương thức
quản lý khoa học công nghệ, chủ động hợp tác quốc tế,
175
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
chú trọng bồi dưỡng nhân tài, triển khai các dự án quốc
gia theo mô hình dự án Manhattan, có cơ chế phối hợp
dân sự quốc phòng và xây dựng hạ tầng tri thức và xử
lý dữ liệu.
Nội dung của chiến lược khoa học công nghệ sẽ
được các nhà khoa học, các doanh nghiệp, các kỹ sư,
sinh viên khoa học công nghệ quan tâm. Để xác định
nội dung, chúng tôi đề nghị thay đổi cách tiệm cận hiện
nay theo ngành, phân ngành và lĩnh vực, Theo quan
điểm của chúng tôi, cách phân chia cũ sẽ tạo ra các kết
quả manh mún, sẽ đòi hỏi nỗ lực khổng lồ và năng lực
tổng hợp không thực tế để đưa khoa học công nghệ vào
cuộc sống. Chúng tôi sẽ xuất phát từ 6 nhóm vấn đề
kinh tế xã hội: môi trường sống, lợi ích công cộng, giáo
dục văn hóa, năng lượng và tài nguyên, phát triển công
nghiệp và an ninh quốc phòng. Từ đó chúng tôi đề xuất
3 chương trình chiến lược, 3 dự án Manhattan Việt
Nam và 4 chương trình hỗ trợ. Các chương trình này
đều giao cho các đơn vị có năng lực triển khai phù hợp
và các bộ hỗ trợ về chính sách.
Các nhà quản lý chính sách sẽ quan tâm đến các
giải pháp chính sách. Chúng tôi đề xuất 7 giải pháp
chính sách: cơ chế tài chính và đầu tư, cơ chế dùng
chung hạ tầng, cơ chế hợp tác (bao gồm hợp tác dân sự
-quốc phòng, hợp tác hàn lâm-công nghiệp và hợp tác
quốc tế), cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, cơ chế
lồng ghép khoa học học công nghệ vào các chương
176
KẾ HOẠCH BA ĐÌNH
177
LỜI TỰA