Professional Documents
Culture Documents
VẤN CHUẨN
VẤN CHUẨN
Nhìn để quan sát thần, sắc, hình thái, mặt, mũi, môi, lưỡi,…. Của người bệnh,
để biết được tình hình bệnh tật bên trong cơ thể, phản ánh ra bên ngoài. Đông y
rất chú trọng xem các bộ phận ở mặt, và lưỡi vì có liên quan nhiều đến bệnh tật,
tại các tạng phủ bên trong.
1. Vọng thần.
Thần là sự hoạt động về tinh thần, và ý thức, là nơi thể hiện ra bên ngoài, sự
hoạt động của các tạng phủ, bên trong cơ thể. Khi xem thần cần xác định:
Còn thần :
Mắt sáng, tỉnh táo nên bệnh nhẹ, chính khí chưa bị tổn thương nhiều, công năng
của tạng phủ chưa bị suy yếu, tiên lượng bệnh còn tốt.
Mất thần :
Thể hiện tinh thần mệt mỏi, thờ ơ lãnh đạm, nói không có sức, (hoặc biểu hiện
của các triệu chứng trong hôn mê )… là bệnh nặng chính khí đã suy yếu, khi
điều trị bệnh rất khó khăn, và lâu dài, tiên lượng dè dặt.
Chú ý :
Hiện tượng "Hồi quang chiếu nghịch"
Một số bệnh nhân mãn tính bệnh lâu ngày, cơ thể quá suy yếu, nhưng đột nhiên
tinh thần tỉnh táo, muốn ăn uống, gò má đỏ, thích nói…. Đó là biểu hiện của
một tình trạng bệnh tiến triển xấu đi, chính khí muốn thoát. Vì thông thường
bệnh nặng mãn tính, khi phục hồi phải phục hồi từ từ, đây mới đúng quy luật
sinh lý bình thương trong bệnh tật, nên khi có hiện tượng phục hồi nhanh, là dấu
hiệu khác thường, ( bệnh lý) nên tiên lượng thường xấu.
Ngoài ra cần quan sát tổng thể của bệnh tật để có kết luận chính xác. Cần quan
sát thêm tình trạng tinh thấn như u uất, nói cười huyên thuyên, chán ăn, hoang
tưởng, mê sảng hay lơ mơ ý thức, hôn mê… để có chẩn đoán bệnh thuộc về
tạng nào trong cơ thể ( tâm, can, tỳ,…)
2. Vọng sắc.
Thường xem sắc ở mặt, người bình thường sắc mặt tươi nhuận, khi có bệnh
thường có thể biến đổi như sau:
Sắc đỏ :
Do nhiệt, cần phân biệt sắc đỏ do thực nhiệt, hay hư nhiệt:
Thực nhiệt: thì toàn mặt đỏ đều, như trong bệnh sốt nhiễm trùng, say nắng..
Hư nhiệt: thường hai gò má đỏ, sốt về chiều, gặp trong bệnh mãn tính lâu ngày,
trong các bệnh lao (lao phổi…) do âm hư sinh nội nhiệt.
Sắc vàng :
Do hư, do thấp. Nguyên do tại tỳ mất chức năng kiện vận, vậy thủy thấp không
được vận hóa, khí huyết giảm sút, da không được nuôi dưỡng , mà có triệu
chứng da màu vàng. Chứng vàng da (hoàng đản) được chia ra:
Hoàng đản mà sắc tươi sáng, là do thấp nhiệt, (hoàng đản nhiễm trùng).
Hoàng đản mà sắc vàng ám tối, là do hàn thấp, (hoàng đản do ứ mật, tan huyết).
Sắc mặt hơi vàng do tỳ hư.
Sắc trắng :
Do hư, do hàn, do mất máu.
Sắc trắng hơi phù là thận dương hư. Bệnh cấp tính, đột nhiên sắc mặt trắng
bệch, là dương khí sắp thoát ( choáng…….). Đau bụng mà sắc mặt trắng, do
hàn nhiều, ( bệnh cấp cứu ngoại khoa như thủng dạ dầy, viêm ruột thừa, túi mật,
viêm tụy cấp..)
Sắc đen :
Do hàn, do đau, do thủy, do thận hư :
Dương khí hư gây chứng hàn, hàn ứ không thông gây chứng đau. Thủy thấp
không vận hóa được. thận hư tinh khí suy kiệt, đều gây sắc mặt đen.
Sắc xanh :
Do hàn, do đau, do ứ huyết, do kinh phong.
Sắc xanh do khí huyết không thông, kinh mạch bị trở trệ mà thành. Hàn gây khí
huyết không thông, không thông thì gây đau và huyết ứ. Phong hàn gây đau
đầu, lý hàn gây đau bụng, đau nhiều sắc mặt trắng bệch mà xanh, môi miệng
xanh tím là huyết ứ ( suy tim), trẻ em sốt cao, sắc mặt xanh là sắp có kinh phong
( co giật).
3. Vọng hình thái ( hình dáng, tư thế, cử động).
Xem hình thái để biết được tình trạng khỏe hay yếu của 5 tạng.
Da lông khô là phế hư.
Cơ nhục gầy, nhẽo là tỳ hư.
Xương yếu, răng lung lay chậm biết đi, liền thóp, chậm mọc tóc là thận hư.
Chân tay run, co quắp là can hư.
Tinh thần mệt mỏi.. là tâm hư.
Người béo ăn ít, thở gấp là tỳ hư đàm thấp. người gầy mau đói là vị hỏa.
Xem tư thể cử động của bệnh nhân để biết bệnh thuộc âm hay dương.
Thích động, nằm quay ra ngoài,.... thuộc dương.
Thích tĩnh, nằm quay vào trong,... thuộc âm.
4. Vọng mũi.
Đầu mũi xanh có đau bụng.
Đầu mũi hơi đen trong ngực có đàm ẩm.
Đầu mũi sắc trắng là trong cơ thể khí hư hoặc các trường hợp mất máu.
Đầu mũi màu vàng cơ thể có chứng thấp.
Đầu mũi sắc đỏ thuộc phế nhiệt.
Cánh mũi phập phồng do phế nhiệt, (gặp trong viêm phổi, phế quản, hen
xuyễn).
Chảy nước mũi do ngoại cảm phong hàn; nước mũi đục do ngoại cảm phong
nhiệt.
5. Vọng mục,
Lòng trắng:
Đỏ bệnh ở tâm.
Trắng bệnh ở phế.
Xanh bệnh ở can.
Vàng bệnh ở tỳ.
Đen bệnh ở thận.
Mắt:
Đỏ sưng đau do can hỏa phong nhiệt.
Mi mắt (niêm mạc) nhạt màu do thiếu máu.
Mắt quầng thâm do tỳ hư.
Đỏ khóe mắt do tâm hỏa.
6. Vọng môi.
Đỏ hồng khô là nhiệt.
Trắng nhợt là huyết hư.
Xanh tím là ứ huyết.
Hồng tươi là do âm hư hỏa vượng.
Xanh đen do hàn.
Lở loét do vị nhiệt.
7. Vọng da.
Da :
Da phù thũng: ấn vào vết lõm còn là thủy thấp, ấn vào vết lõm nổi nhanh là do
khí trệ
Vàng da: có sốt kèm sắc da vàng tươi sáng, là dương hoàng, không sốt sắc da
vàng tối là âm hoàng.
Ban chẩn.
Ban là đám nhỏ nổi trên mặt da, chẩn là những mụn nổi cao trên mặt da.
Ban chẩn tươi nhuận là chính khí chưa hư.
Ban chẩn tím là nhiệt thịnh.
Ban chẩn nhạt xám là chính khí đã hư.
8. Vọng lưỡi.
Xem lưỡi để biết được tình trạng hư thực của tạng phủ, khí huyết, tân dịch trong
con người, cùng với sự nông sâu diễn biến nặng nhẹ của bệnh tật.
Xem lưỡi chính tại 2 bộ phận rêu lưỡi và chất lưỡi, chất lưỡi là tổ chức cơ, mạch
của lưỡi, rêu lưỡi là chất phủ trên bề mặt của lưỡi.
Lưỡi người bình thường: chất lưỡi mềm mại linh hoạt, hoạt động tự nhiên, màu
hơi hồng, rêu lưỡi mỏng trắng hoặc ít rêu, không khô, ướt vừa phải.
Khi có bệnh: chất lưỡi thay đổi về màu sắc, hình dáng và cử động thông qua đó
phản ánh tình trạng hư thực của tạng phủ, thịnh suy của khí huyết; rêu lưỡi thay
đổ về màu sắc và tính chất thông qua đó phản ánh vị trí nông sâu, tính chất của
bệnh tật, và sự tiêu trưởng của chính khí và tà khí.
Xem chất lưỡi :
Màu sắc,
Màu nhạt: nếu hơi trắng thuộc hàn chứng, hư chứng, dương khí suy kém, khí
huyết không đầy đủ.
Màu đỏ: Thuộc nhiệt chứng, có thể do lý thực nhiệt, hoặc do hư nhiệt ( âm hư
hỏa vượng).
Màu đỏ giáng: Do nhiệt thịnh, tà nhiệt đã vào phần dinh và huyết, đối với bệnh
nhân mãn tính do, âm hư hỏa vượng, tân dịch bị hao tổn giảm sút nhiều.
Màu xanh tím: bệnh do hàn và nhiệt, có những triệu chứng kèm theo khác nhau:
do nhiệt chất lưỡi xanh tím nhiều, lưỡi khô ít tân dịch, do hàn và ứ huyết chất
lưỡi xanh tím, ướt và nhuận, nếu ứ huyết kèm theo các nốt ban điểm ứ huyết.
Xem hình dáng của lưỡi :
Phù nề: thuộc thực chứng và nhiệt chứng; hơi nề hai bên có hằn răng thuộc hư
chứng, hư hàn hoặc do đàm thấp kết lại tràn lên.
Sưng to: Màu trắng nhạt, và sưng to do tỳ thận dương hư; chất lưỡi hồng đỏ, và
sưng to do thấp nhiệt bên trong, hay nhiệt độc mạnh.
Mỏng nhỏ: chất lưỡi đậm (nhạt) nhỏ do tâm tỳ hư, khí huyết hư; chất lưỡi hồng
giáng mọng nhỏ, do âm hư nhiệt thịnh, tâm dịch hao tổn, dấu hiệu của bệnh
nặng.
Phì đại: đầu lưỡi phì đại thuộc tâm hỏa thịnh; hai bên phì đại thuộc can đởm hỏa
thịnh; giữa lưỡi phì đại là trường vị nhiệt thịnh.
Xem cử động của lưỡi,
Mềm yếu, không cử động tự do: bệnh cũ lâu ngày chất lưỡi đậm nhạt mà liệt là
khí huyết đều hư; lưỡi đỏ giáng mà liệt do âm hư cực độ; Bệnh mới mắc lưỡi
khô hồng, mà liệt là do nhiệt tổn thương đến phần âm.
Cứng không cử động co ra vào được: gặp trong các trường hợp hôn mê do các
nguyên nhân, theo y học cổ truyền thì nguyên do bệnh nhiệt, nhiệt nhập tâm bào
(bệnh truyền nhiễm sốt cao, bệnh trúng phong.
Lưỡi lệch: do trúng phong.
Lưỡi run: do tâm, tỳ, khí, huyết hư nhược.
Lưỡi rụt ngắn: là triệu chứng bệnh nguy hiểm, nếu lưỡi rút nhưng nhuận là do
hàn ngưng trệ ở cân mạch, nêu lưỡi phù to mà ngắn do đàm thấp, nếu lưỡi hồng
khô là do sốt cao tổn thương tân dịch.
Lưỡi thè: lưỡi thè ra ngoài là do tâm tỳ có nhiệt, hoặc trong các bệnh bẩm sinh
chậm phát dục ( não úng thủy, chứng đần độn) trẻ em.
Xem rêu lưỡi.
Xem mầu sắc rêu,
Rêu trắng: thuộc hàn chứng và biểu chứng; trắng mỏng do phong hàn; trắng
mỏng đầu lưỡi phớt vàng do phong nhiệt; trắng trơn do thấp hay đàm ẩm; trắng
dính do đàm trọc, thấp tà gây ra. trắng khô, nứt nẻ hoặc như phấn dày là
nhiệt tà bên trong thịnh, tân dịch bị tổn thương.
Rêu vàng: thuộc nhiệt chứng và lý chứng; vàng dính do đàm nhiệt hay thấp
nhiệt.
Rêu xám đen: bệnh nặng; xám đen mà khô là nhiệt thịnh; ướt nhuận, trơn là do
dương hư hàn thịnh, thủy ẩm ứ lại bên trong.
Xem tính chất của rêu lưỡi,
Rêu dày hay mỏng: rêu lưỡi mỏng là bệnh nhẹ còn ở biểu. Rêu lưỡi dày là tà
vào lý hoặc có tích trệ bên trong. Rêu lưỡi từ mỏng chuyển sang dày là tà từ
biểu vào lý, bệnh chuyển từ nhẹ sang nặng.
Rêu khô hay ướt,
Rêu lưỡi nhuận biểu hiện chưa bị tổn thương, nếu rêu lưỡi ướt trơn là do thủy
thấp ứ bên trong.
Rêu lưỡi khô là tân dịch hao tổn, (do thực nhiệt hoặc âm hư nội nhiệt, thấp tà tụ
lại bên trong, khí không sinh tân dịch cũng gây ra lưỡi khô.
Rêu dính và hôi: do trường vị có nhiệt hoặc thực tích ở tỳ vị.
Phát sốt :
Phát sốt có quy luật hoặc sốt ngày càng cao gọi là triều nhiệt, trong ngực phiền
nhiệt kèm thêm nóng lòng bàn tay bàn chân gọi là ngũ tâm phiền nhiệt, cảm
giác nóng nhức trong xương gọi là cốt chưng lao nhiệt.
Sốt cao, miệng khát, đại tiện táo, nước tiểu đỏ, lưỡi đỏ, biểu hiện chứng lý, thực
nhiệt. sốt bệnh cũ, triều nhiệt, lòng bàn tay bàn chân nóng, nhức trong xương,
gò má đỏ là do huyết hư, âm hư sinh nội nhiệt.
Bệnh mới mắc, vừa sợ lạnh vừa sốt là do ngoại cảm, sợ lạnh nhiều, sốt ít là biểu
hàn. Sốt nhiều, sợ lạnh ít là biểu nhiệt.
Lúc sốt lúc rét là hàn nhiệt vãng lai, rét nóng không có quy luật là chứng bán
biểu bán lý thuộc chứng thiếu dương, rét nóng có quy luật thời gian là do sốt rét.
Tứ vấn tiện.
Đại tiện táo bón, phân khô, phát sốt là nhiệt thực.
Bón uất do bệnh lâu ngày, phụ nữ sau sinh, người già là khí hư tân dịch thiếu.
Đại tiện lỏng nát và không đau bụng là tỳ vị hư hàn.
Ngũ canh tả là thận dương hư.
Đại tiện chua khẳm, loãng, nhiều bọt, đau bụng, đi ngoài bớt đau là thực trệ.
Đại tiện ra máu, đau bụng mót rặn, phát sốt là kiết lỵ thấp nhiệt.
Đại tiện phân đỏ đen như keo sơn là viễn huyết.
Đại tiện phân có vướng máu sắc đỏ tươi là cận huyết.
Tiểu tiện ngắn và vàng là nhiệt chứng.
Tiểu tiện ngắn vàng, đục, buốt, khó là chứng thấp nhiệt.
Tiểu đêm nhiều lần, đái dầm, đái són là thận hư.
Đái vặt, đái vội, đái buốt, đái khó, và ra máu, ra sỏi là chứng lâm.
Miệng khát uống nhiều, đái nhiều, gầy nhiều là chứng tiêu khát.
Bỗng sinh bí đái, đái ra lỉ rỉ, mùi khai, bọng đái đau, quặn thắt và phát sốt là
thực chứng.
Tiểu ít hoặc vô niệu, mặt xanh xao, eo lưng, háng, chân tay đều lạnh là chứng
hư.
Về đau mình:
Toàn thân đau và phát sốt sợ lạnh là ngoại cảm.
Bệnh lâu ngày và đau mình là khí huyết bất túc.
Đau âm ỉ eo lưng là thận hư.
Các khớp đau nhức tê bì hoặc sưng tấy, đau nhiều nơi không cố định là bệnh tê
thấp.
Về đau mình:
Bỗng nhiêu đau là thuộc thực.
Đau dai dẳng là thuộc hư.
Ăn vào đau là chứng thực.
Ăn vào bớt đau là chứng hư.
Đau cố định, dữ dội, sờ vào đau tăng là chứng thực.
Sờ vào dễ chịu là chứng hư.
Bát vấn khát ( phân biệt hàn nhiệt, hư thực của lý chứng).
Bên trong nóng nhiều, khát nhiều, uống lạnh thì bụng rắn, đại tiện bón, mạch
thực có lực là dương chứng.
Miệng khát ưa uống nóng là hàn ở bên trong.
Bên trong có hỏa thì ham uống mát.
Châm âm vơi kém thì khô miệng, không phải khát.
Mạch chuẩn :
Mạch bình thường 60-80 lần trên phút.
Mạch phù : mạch vị cao, khẽ sờ vào thấy rõ, hơi ấn mạnh tay thấy mạch nhảy
hơi yếu. chủ bệnh là biểu chứng, phù hữu lực là biểu thực, phù vô lực là biểu
hư.
Ví dụ : bệnh ngoại cảm, sợ lạnh, phát sốt không có mồ hôi, mạch phù khẩn là
biểu thực hàn.
Mạch trầm : mạch vị thấp, chạm nhẹ không bắt gặp, đè nặng tay mới thấy rõ.
Chủ bệnh là lý chứng, trầm mà có lực là lý thực, trầm mà vô lực là lý hư.
Ví dụ : ho không có sức, đờm loãng trắng, đoản hơi, sắc mặt trắng, ăn kém, uể
oải, mạch trầm nhược là phế khí hư.
Mạch hư : sờ vào thấy trống rỗng, mề, 3 bậc phù trung trầm đều không có lực.
chủ bệnh là khí huyết đều hư.
Mạch hoạt : mạch đi lại rất nhanh, trơn, dưới ngón tay cảm thấy có trơn tròn.
Chủ bệnh đờm thấp, thức ăn không tiêu,
Hay gặp ở bệnh ho có đờm, đàn bà có thai (khoảng 2 tháng đầu).
Biểu hiện hay gặp : ho tiếng nặng đục, đờm nhiều, trắng dễ khạc, tức ngực, ăn
ít, rêu lưỡi trắng dày.
TỨ CHUẨN.
Rêu lưỡi :
Người bình thường không có hoặc có rêu lưỡi rất mỏng.
Rêu lưỡi trắng mỏng bệnh thuộc biểu.
Rêu lưỡi vàng thuộc nhiệt, lý chứng.
Rêu lưỡi xám đen là bệnh nặng.
VẤN CHUẨN.
Hỏi về hàn nhiệt : có sợ nóng, có sốt hay không ?
Sốt nhẹ kèm nhức đầu, sổ mũi là cảm phong hàn. Cảm mạo phong hàn không có
mồ hôi dùng bài ma hoàng thang. Cảm mạo phong hàn có mồ hôi dùng bài quế
chi thang. Cảm mạo phong nhiệt nhẹ có bài tam cúc ẩm hoặc nặng ngân kiều
thang.
Sốt cao về sáng và trưa, mồ hôi nhiều kèm khát nước, thích uống nước mát gọi
là thực nhiệt.
Sốt nhẹ, thường về chiều và đêm kèm mồ hôi đêm khi ngủ là âm hư.
Lúc sốt, lúc rét là chứng bán biểu bán lý, bệnh sốt rét, hoặc kinh thiếu dương
chứng. bệnh này rất khó chữa mình phải hòa giải bằng bài tiểu sài hồ thang.
Có sợ lạnh không.
Mới phát sốt sợ lạnh, chân tay lạnh là dương hư.
Bệnh lâu ngày, sợ lạnh, chân tay lạnh là dương hư.
Lạnh vùng thắt lưng kèm tiểu đêm nhiều là thận dương hư.
Bụng đầy ấm ách kèm chân tay lạnh, ỉa lỏng, hoặc phân nát sống là tỳ dương
hư.
Hỏi về mồ hôi.
Sốt không ra mồ hôi là biểu thực, có mồ hôi là biểu hư.
Sốt cao ra nhiều mồ hôi khát nước là thực nhiệt.
Tự ra mồ hôi không do lao động hoặc thời tiết nóng là dương hư.
Ra mồ hôi ban đêm khi đang ngủ là âm hư, là đạo hãn. Âm hư do hỏa bốc lên
trên nên vùng đầu mặt hay có mồ hôi, âm hư sinh nội nhiệt.
Khí hư lâu ngày dẫn đến dương hư, dương hư thì đã bao gồm cả khí hư, vậy
dương hư và khí hư là tự hãn, hàn tà dễ sâm nhập.
Hỏi về đau.
Lúc đau lúc không, vị trí đau không rõ rệt là do khí trệ.
Đau nhiều, trị trí cố định là do huyết ứ.
Đau kèm theo co cứng, lạnh đau tăng, chườm nóng đỡ đau là do hàn tà, ( hàn
ngưng khí trệ).
Đau kèm sưng nóng đỏ là do nhiệt tà.
Đau đầu vùng đỉnh, hoa mắt chóng mặt, liên quan đến kinh can, cho cúc hoa đỡ
ngay ( tất cả các dạng đau đầu).
VĂN CHUẨN.
TIẾNG NÓI.
Tiếng nhỏ, đứt quãng là hư chứng, phế khí hư.
Tiếng nói to, rõ là thực chứng.
Nói mê sảng là nhiệt nhập tâm bào.
TIẾNG HO.
Tiếng ho khô, thành cơn, không có đờm thành tiếng là phế âm hư.
Tiếng ho ông ổng, không đờm là phong hàn thực phế.
Tiếng ho ướt, lọc xọc, ho cơn dài là đàm trọc.
TIẾNG NẤC.
Nấc mạnh, liên tục là thực nhiệt.
Tiếng nấc yếu, đứt quãng là hư hàn.
Bệnh nặng mà nấc là nguy kịch.
NGỬI.
Nước tiểu mùi rất khai là ăn nhiều thịt hoặc thực nhiệt.
Mùi phân ít thối mà tanh nồng là hư hàn.
Mùi phân chua hoặc thối khắm là thực tích, thực nhiệt.
CÓ MÙI KHÍ BỆNH, NẶNG MÙI LÀ HƯ CHỨNG.
KHÔNG CÓ MÙI LÀ THỰC CHỨNG.
MẠCH CHUẨN.
Tay phải thuộc khí, tay trái thuộc huyết.
Tay phải quan hệ : phế đại trường, tỳ vị, thận dương.
Tay trái quan hệ : tâm tiểu trường, can đởm ( mật), thận âm.
BIỂU LÝ:
HƯ THỰC: hư thì bổ, thực thì tả. chính khí hư là sức đề kháng của cơ thể yếu,
thường gặp ở người bệnh lâu ngày biểu hiện hư chứng, tà khí mạnh và sức đề
kháng của cơ thể còn mạnh thì biểu hiện thực chứng.
HƯ : là thiếu hụt, nói nhỏ, người gầy, sắc xanh xao.
THỰC : là dư thừa, nói to, người mập, sắc hồng đỏ, tức giận, ngực sườn đầy
tức, mặt đỏ bừng bừng.
Hư chứng là cơ thể suy yếu, chức năng tạng giảm sút, mạch vô lực.
Biểu hiện : mệt mỏi lười hoạt động, tinh thần ủ rũ, ít nói, tiếng nói nhỏ, hơi thở
ngắn, ra mồ hôi nhiều, sắc mặt tái xanh, chất lưỡi nhạt, lưỡi thon hoặc bệu,
mạch nhỏ yếu, thường gặp sau khi mắc bệnh nặng, bệnh kéo dài, hoặc người già
yếu.
Thực chứng : sức tấn công của tà khí mạnh, bệnh mới mắc, thời gian ngắn, cơ
thể còn khỏe, phản ứng mạnh.
Biểu hiện : thể trạng tốt, tinh thần lanh lợi, tiếng nói to, thở thô, sốt cao, mặt đỏ,
đau, cự án, rêu lưỡi vàng, mạch có lực, thường gặp trong hội chứng đàm ẩm,
thủy thũng, khí trệ huyết ứ, thực tích, trùng tích, bệnh cấp tính.
Chân hư giả thực : bệnh nhân nói nhiều nhưng hơi thở ngắn, bụng đầy đau
nhưng có lúc không đầy, ấn xoa giảm đau, lưỡi bệu, mạch vô lực.
Chân thực giả hư : bệnh nhân ít nói, nhưng nói to, ăn không ngon miệng nhưng
vẫn ăn được nhiều, đau bụng ỉa chảy nhưng đại tiện xong thì dễ chịu, mạch có
lực.
Hư thực tác tạp : thường gặp các hội chứng thượng thực hạ hư, hoặc trong thực
có hư, trong hư có thực. chứng thực và chứng hư cùng tồn tại. ví dụ : bệnh xơ
gan cổ trướng, người bệnh gầy, sắc da xanh vàng, nhợt nhạt, mệt mỏi ít ăn,
mạch trầm tế vô lực ( chứng hư), nhưng bụng to đầy nước, ngực sườn đầy tức (
thực chứng), phép chữa phải vừa công vừa bổ, hoặc trước bổ sau công.
Cảm mạo thuộc kinh thiếu dương,( bán biểu bán lý, hàn nhiệt vãng lai, miệng
đắng, ngực sườn đầy tức, đau đầu chóng mặt, rêu lưỡi trắng lẫn vàng), dùng bài
tiểu sài hồ thang.
Cảm mạo liên quan đến phong hàn, thể biểu thực, ta dùng bài ma hoàng thang.
Cảm mạo phong hàn thể biểu hư ta dùng bài quế chi thang.
Cảm mạo phong nhiệt ở thể nhẹ ta có bài tam cúc ẩm, thể nặng ta có bài ngân
kiều thang.
LÝ HÀN : người mát, chân tay lạnh, không khát nước, thích đắp chăn, đau
bụng, thích chườm nóng, ỉa lỏng, rêu lưỡi trắng, mạch trầm trì.
LÝ NHIỆT : sốt cao, chân tay nóng, khát nước, bứt rứt, táo bón, tiểu vàng, lưỡi
đỏ, rêu vàng, mạch trầm sác, có lực, hoặc rêu lưỡi dày, mạch trầm có lực.
LÝ HƯ : người mệt mỏi, ăn ít, giọng nói nhỏ yếu, hồi hộp, mất ngủ, lưỡi thon
hoặc bệu, mạch trầm vô lực.
LÝ THỰC: bụng đầy, ấn đau, táo bón, sốt cao, mê sảng, hoặc phát cuồng rêu
lưỡi vàng.
LÝ HÀN: sợ lạnh, thích ấm, chân tay lạnh, miệng nhạt không khát, sắc mặt
xanh tái, tiểu nhiều và trong, đại tiện lỏng, phân không thối, lưỡi bệu, rêu bóng
ướt, mạch trầm trì.
BIỂU HÀN : sợ lạnh, sợ gió, hát hơi, sổ mũi, chảy nước mũi trong, mạch phù.
HÀN VÀ NHIỆT. hàn thì dùng thuốc nhiệt, nhiệt thì dùng thuốc hàn, hàn ngộ
hàn tắc tử, nhiệt ngộ nhiệt điên cuồng.
HÀN : do cảm nhiễm hàn tà, hoặc do dương hư, hoặc do ăn uống quá nhiều thứ
sống lạnh.
Biểu hiện : sợ lạnh, thích ấm, chân tay lạnh, miệng nhạt không khát, sắc mặt
xanh tái, tiểu nhiều và trong, đại tiện lỏng, phân không thối, lưỡi bệu, rêu bóng
ướt, mạch trầm trì.
Cảm mạo phong hàn biểu hiện : sợ lạnh, sợ gió, thích chườm ấm, cạo gió, ( vì ở
ngoài biểu), đại tiện bình thường, vì ở phần biểu thôi.
Hàn chứng thuộc dương hư : người lạnh, chân tay lạnh, đại tiện lỏng hoặc nát,
thích ăn đồ ấm nóng, lưỡi rêu trắng lưỡi màu nhạt.
NHIỆT: do cảm nhiễm nhiệt tà hoặc do dương thịnh, hoặc ăn uống nhiều thức
ăn cay nóng, hoặc dùng nhiều thuốc ôn nhiệt.
Biểu hiện : sốt, thích mát, mặt đỏ, chân tay nóng, tiểu ít và sẫm, táo bón, rêu
lưỡi vàng khô, mạch sác.
Cảm mạo phong nhiệt có biểu hiện: sốt, sợ gió, không sợ lạnh, mạch phù xác,
rêu lưỡi vàng mỏng, đang ở phần biểu, phần cửa ngõ của phế, nên hát hơi sổ
mũi, có thể có nước mũi vàng, và có ho, kèm theo thấp nên có thể đau đầu, đau
mình mẩy.
Chân hàn giả nhiệt : bản chất bệnh tính hàn nhưng thể hiện ra ngoài lại là nhiệt,
nguyên nhân do âm quá mạnh, bức dương phải ra ngoài, hoặc hàn cực sinh
nhiệt. ví dụ : người bệnh thích uống nước nóng, thích đắp chăn, ăn chất sống
lạnh dễ tiêu chảy, nước tiểu trong, chân hàn nhưng người gầy da nóng, má đỏ
môi khô, bứt rứt có khi rêu lưỡi vàng, mạch hoạt sác ( giả nhiệt), thường gặp ở
bệnh nhân cơ thể suy nhược.
Chân nhiệt giả hàn : thực chất là bệnh nhiệt nhưng biểu hiện lâm sàng có những
triệu chứng thuộc hàn. Ví dụ : bệnh nhân sốt cao, khát nước, tiểu vàng, táo bón,
mạch trầm sác, ( thực nhiệt), nhưng chân tay lạnh, rét run ( giả hàn). Thường
gặp ở bệnh nhân sốt nhiễm khuẩn, đây là tình trạng, nhiệt cực sinh hàn, nhiệt
quyết.
ÂM DƯƠNG. Đánh giá xu hướng tổng quát của bệnh, thiên thịnh hay thiên suy
của âm dương trong cơ thể. Tuy nhiên khi viết bát cương không ghi 2 cương
này. Ví dụ : lý thực nhiệt, biểu hư hàn,
Âm bao gồm chứng hư, chứng hàn, biểu hiện sợ lạnh, chân tay lạnh, thần sắc
kém, thở yếu, ngắn, thích ấm, không khát, nằm co, quay mặt vào tối, mặt tái
nhợt, lưỡi nhạt bệu, mạch trầm nhược.
Dương chứng bao gồm chứng thực, chứng nhiệt, biểu hiện chân tay ấm nóng,
tiếng thở và tiếng nói to, sợ nóng, khát, tiểu đậm, táo bón, nằm ruỗi chân, quay
mặt ra sáng, mặt đỏ, lưỡi đỏ, mạch phù sác có lực.
ÂM HƯ SINH NỘI NHIỆT, DƯƠNG HƯ SINH NGOẠI HÀN.
ÂM HƯ LÀ PHẦN DƯƠNG NÓ LẤN, DƯƠNG HƯ LÀ PHẦN ÂM LẤN.
Chứng âm hư biểu hiện người gầy, nóng,ngũ tâm phiền nhiệt, cốt chưng lao
nhiệt, triều nhiệt, hai gò má đỏ, có cơn bốc hỏa, ra mồ hôi trộm, da khô, lòng
bàn tay bàn chân nóng, người gầy, sốt nhiều, táo bón, tiểu sẫm, sẻn ( ít) chất
lưỡi đỏ, thon, ít rêu, mạch trầm tế sác.
Chứng dương hư biểu hiện : mệt mỏi, sợ lạnh, chân tay lạnh, sắc mặt xanh tái,
ỉa chảy, nước tiểu trong, lưỡi nhạt bệu, rêu trắng, mạch trầm tế nhược, thường
gặp ở bệnh mãn tính, cơ thể suy nhược.
VONG ÂM, VONG DƯƠNG LÀ TRỤY MẠCH, CẦN CẤP CỨU TÂY Y.
Vong âm thì dùng thuốc mát ngọt và không cứu ngải.
Vong âm là tình trạng mất nước, mất máu do ỉa chảy, mất nhiều mồ hôi, nôn.
Biểu hiện : da khô, môi miệng khô, khát nước, lưỡi thon đỏ, mạch tế sác.
Vong dương phải dùng thuốc ấm nóng và cứu ngải để hồi dương cứu nghịch.
Vong dương là tình trạng dương khí thoát, trụy tim mạch, thường do vong âm,
trúng hàn, do sốt cao quá.
Biểu hiện : mặt môi tái nhợt, chân tay lạnh, thở yếu, mạch vi tế, khó bắt ( muốn
tuyệt).
Hội chứng bệnh về khí : khí là các dạng năng lương giúp cho tạng phủ hoạt
động. tạng tỳ, thận, và tạng phế, phế chủ khí, tỳ sinh khí, Thận chủ nạp khí, tỳ
chủ cơ nhục. phế chủ bì mao, thận chủ cốt tủy.
Trong mạch có khí và có huyết, nên khí thiếu thì thường cũng thiếu theo nên
mạch tạng không đầy, thấy yếu, mạch hư, mạch nhược.
Khí hư tự hãn, khí hư hạ hãm ( xa xuống), mạch nhược, hư,
Khí hư : là tình trạng thiếu năng lương hoạt động, thiếu lực, thường gặp ở thời
kỳ khỏi bện, ở người bệnh mãn tính, ở người già yếu.
Triệu chứng : thở ngắn, đoản hơi, yếu sức, cơ bắp teo nhẽo, tiêu hóa kém, tự ra
mồ hôi, lưỡi bệu, mạch hư.
Phép chữa : bổ khí, ích khí.
Thuốc : hoàng kỳ, nhân sâm, đảng sâm, bạch truật…
Khí trệ, khí uất : do chấn thương tinh thần ( strees), căng thẳng kéo dài, hoặc do
ăn uống không điều độ, ngoại cảm. ngực sườn đầy tức tinh thần uất ức. mạch
hữu lực.
Chuẩn đoán bát cương là lý thực, khi nào bộc phát mới chuẩn đoán là thực,
UẤT LÂU NGÀY HÓA HỎA.
CHUẨN ĐOÁN BÁT CƯƠNG CHỈ CẦN 2 CƯƠNG THÔI VẪN ĐƯỢC.
Ví dụ : đau dạ giày thể can khí uất, chuẩn đoán bát cương là lý thực, khi nào có
nhiệt thì mới chuẩn đoán là lý thực nhiệt.
Triệu chứng : đau tức, đầy trướng, vị trí đau không cố định rõ rệt. tính tình dễ
bực tức cáu gắt, ợ hơi, trung tiện thì dễ chịu, vú căng tức, mót rặn, bế kinh,
thống kinh.
Phép chữa : hành khí, sơ can lý khí, TÂM LÝ LIỆU PHÁP.
THỐNG BẤT THÔNG THÔNG BẤT THỐNG.
Thuốc : hương phụ, trần bì, chỉ thực, chỉ xác, hậu phác, mộc hương, sa nhân, to
ngạch… châm tả các huyệt theo bộ vị, tạng phủ.
KHÍ NGHỊCH : nguyên nhân thường do khí uất trệ mà sinh nghịch, hoặc do
ngoại cảm, thường gặp ở phế, can, vị.
Phế khí nghịch : ho, khó thở.
Vị khí nghịch : nôn, nấc, ợ hơi.
Can khí nghịch : đau tức ngực sườn, đau vùng thượng vị.
Phép chữa : thuận khí, giáng khí nghịch.
Thuốc : thị đế, đinh hương, sinh khương, mộc hương, ô dược, thanh bì, chỉ sác.
Thị đế, tai quả hồng giúp trung tiện tốt hơn.
Châm tả các huyệt tùy chứng bệnh.
Phế khí nghịch : thiên đột, khí xá, đản trung.
Vị khí nghịch : trung quản, cách du.
Can khí nghịch : thái xung, bách hội.
Triệu chứng : da xanh tái, môi nhạt, lưỡi nhạt, hay hoa mắt, chóng măt ( khi
đứng lên ngồi xuống), trống ngực, nhức đầu, mất ngủ, mạch tế nhược. phép
chữa : bổ huyết, dưỡng huyết. phải bổ tỳ vị đầu tiên. Sau đó phải bổ thêm thận
vì, thận sinh tinh, tinh sinh tủy, tủy sinh huyết. một giọt máu 6 bát cơm. Phải
tẩm bổ ăn uống có thịt và tiêm b 12.
Huyết ứ :
Thường do chấn thương ( đau 1 chỗ), ngoại cảm, và do khí trệ ( đau di chuyển),
triệu chứng : đau sưng, điểm đau cố định, ấn vào đau ( cự án), lưỡi có điểm
xanh tím, nơi đau thường sưng, nóng đỏ, mạch huyền sáp.
Phép chữa : hoạt huyết, tiêu ứ ( thường kèm theo hành khí). Sau khi chữa hành
khí hoạt huyết về mặt thể chất, về tinh thần chúng ta cũng phải giải uất về tinh
thần…
Khí hành thì huyết mới hành, huyết hành thì phong tất diệt.
Hoạt huyết : ích mẫu, ngưu tất, đan sâm, xích thược, huyết đằng, hồng hoa, đào
nhân, tạo giác thích.
Tiêu ứ : uất kim, tam lăng, nga truật, tô mộc, huyết giác.
Châm cứu : châm tả các huyệt a thị tại chỗ.
HUYẾT NHIỆT :
Do cảm mạo nhiệt tà, vào huyết và lưu tại đó, hoặc do bẩm tố cơ địa dị ứng.
Triệu chứng.
Với các bệnh nhiễm khuẩn : miệng khô, khát, sốt nhiều về đêm, vật vã, mê
sảng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch sác.
Với bẩm tố cơ địa dị ứng : dị ứng ngoài da, mẩn ngứa, mề đay, mụn nhọt.
Phép chữa : lương huyết hoạt huyết. chuẩn đoán bát cương lý thực nhiệt.
Thuốc : huyền sâm, sinh địa, rau má, lá cối xay, đan bì, cỏ mần trầu, dừa nước,
mướp đắng. sinh địa và huyền sâm chữa huyết nhiệt rất hay.
Châm bình bổ, bình tả các huyệt huyết hải, khúc trì, hợp cốc, đại trùy.