VIE PULMONARY EDEMA Final

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 4

PHÙ PHỔI

Translation by Tâm Danh Phan – Osmosis English Class

Phù phổi đề cập đến sự tích tụ dịch trong phổi bao gồm các đường dẫn khí
như phế nang, là những túi khí nhỏ, cũng như trong mô kẽ, là mô phổi xen
giữa phế nang và mao mạch.

Khoảng không gian này chủ yếu chứa đầy protein, và khi nó bắt đầu chứa
đầy dịch, có thể khiến oxy khó vượt qua phế nang vào mao mạch, khiến cơ
thể thiếu oxy. Để hiểu về phù phổi, trước tiên chúng ta hãy nói về 3 yếu tố
chính quyết định cách dịch di chuyển giữa các mao mạch và dịch kẽ, đó là
áp suất thủy tĩnh, áp suất keo và tính thấm của mao mạch.

Áp suất thủy tĩnh đề cập đến áp suất tạo ra bởi chất lỏng được chứa trong
một không gian nhất định, có xu hướng đẩy chất lỏng ra khỏi không gian
đó. Trong khoảng kẽ, nó giống như huyết áp trong mao mạch phổi, và bởi
vì tuần hoàn phổi là một hệ thống áp lực thấp, áp suất thủy tĩnh khá thấp.
Nhưng nó vẫn cao hơn áp suất thủy tĩnh do dịch kẽ phổi tạo ra, gần bằng
không.

Vì vậy, rõ ràng, nếu áp suất thủy tĩnh là yếu tố duy nhất liên quan, rất nhiều
dịch sẽ liên tục rò rỉ ra khỏi các mao mạch phổi và vào khoảng kẽ phổi.

Tuy nhiên, yếu tố tiếp theo là áp suất keo, là một loại áp suất thẩm thấu
được tạo ra bởi các tế bào và protein không thể vượt qua màng mao mạch
và do đó có xu hướng hút chất lỏng. Áp suất keo trong mao mạch phổi cao
hơn trong dịch kẽ, vì vậy nó đối nghịch với áp suất thủy tĩnh.
Cuối cùng, là tính thấm hoặc sự rò rỉ của mao mạch, ảnh hưởng đến việc
dịch thực sự có thể dễ dàng đi qua như thế nào. Khi kết hợp ba yếu tố này
với nhau, kết quả thực là một lượng rất nhỏ dịch rò rỉ vào khoảng kẽ và
lượng dịch đó thường được dẫn lưu bởi các kênh bạch huyết trong phổi,
giúp phổi không có dịch dư thừa.

Nguyên nhân cơ bản của phù phổi có thể là do tim, có nghĩa là nó tiến triển
do bệnh tim. Hoặc nó có thể không do tim, thường liên quan đến tổn
thương mao mạch phổi hoặc phế nang.

Nguyên nhân do tim phổ biến nhất là suy tim trái, và trong suy tim trái, tâm
thất trái trở nên không khỏe mạnh và không thể bơm hiệu quả, có nghĩa là
máu bắt đầu ứ ngược vào tâm nhĩ trái rồi đến các tĩnh mạch phổi và mao
mạch phổi.

Máu thừa trong mao mạch phổi gây ra tăng áp phổi, tức là tăng áp suất
thủy tĩnh của mạch máu phổi, và điều này đẩy nhiều dịch hơn vào khoảng
kẽ của phổi, dẫn đến phù phổi.

Một nguyên nhân do tim khác gây ra tăng huyết áp hệ thống nghiêm trọng,
cụ thể là huyết áp tâm thu lớn hơn 180 hoặc tâm trương lớn hơn 110.
Trong tình huống này, tâm thất trái vẫn khỏe mạnh nhưng đơn giản là
không thể bơm máu hiệu quả vào hệ thống với một lượng hậu tải cao như
vậy.

Nói cách khác, dưới tình trạng có áp lực hệ thống cao như vậy, một lần
nữa, máu lại bắt đầu ứ ngược vào tâm nhĩ trái, tĩnh mạch phổi và mao
mạch phổi, cuối cùng dẫn đến tăng áp phổi và phù phổi.
Các nguyên nhân không do tim của phù phổi bao gồm nhiễm trùng phổi, hít
phải chất độc và chấn thương ở ngực. Tất cả những điều này có thể gây ra
tổn thương trực tiếp phế nang và khi điều này xảy ra, thường có một quá
trình viêm làm cho các mao mạch lân cận dễ thấm hơn. Kết quả là, các
protein trong dịch xâm nhập vào khoảng kẽ.

Một nguyên nhân khác là nhiễm trùng huyết, và sự khác biệt chính là trong
nhiễm trùng huyết, quá trình viêm xảy ra khắp cơ thể chứ không chỉ ở phổi.
Vì vậy, ngoài phù phổi, nhiễm trùng huyết có thể gây thừa dịch trong
khoảng kẽ của các mô khắp cơ thể.

Một nhóm nguyên nhân không do tim mạch khác là áp suất keo thấp và
điều này có thể là do không tạo đủ protein như albumin do suy dinh dưỡng
hoặc do suy gan. Ngoài ra, nó có thể là do mất protein quá nhanh, như
trong hội chứng thận hư.

Bất kể nguyên nhân là gì, áp suất keo thấp dẫn đến dịch dễ di chuyển từ
mao mạch vào khoảng kẽ khắp cơ thể và trong phổi. Điều đó dẫn đến phù
phổi.

Phù phổi có thể tiến triển theo một số cách và thường tiến triển thông qua
sự kết hợp của nhiều cơ chế. Phù phổi làm cho sự trao đổi khí khó khăn
do oxy và carbon dioxide phải khuếch tán qua một lớp dịch kẽ dày hơn để
từ phế nang đến mao mạch phổi và ngược lại. Quá trình đó có thể mất quá
nhiều thời gian so với máu di chuyển nhanh chóng qua phổi và điều đó
khiến khó oxy hóa máu một cách đầy đủ.
Phù phổi có thể dẫn đến khó thở nghiêm trọng, và trong suy tim trái, nó có
thể dẫn đến chứng khó thở khi nằm nghĩa là có khó thở trong khi nằm
thẳng. Điều này xảy ra do tình trạng sung huyết phổi tăng lên khi nằm và
trong suy tim trái, tuần hoàn phổi vốn đã quá tải. Do đó, lượng máu thừa
không thể được bơm ra ngoài một cách hiệu quả và gây ra tình trạng khó
thở. Tình trạng sung huyết phổi và khó thở này giảm khi ngồi dậy.

Chẩn đoán phù phổi thường được thực hiện bằng Xquang phổi hoặc CT
ngực cho thấy dịch trong khoảng kẽ. Điều trị phù phổi thường bao gồm
cung cấp oxy bổ sung. Các phương pháp điều trị khác phụ thuộc vào
nguyên nhân nền.

Nếu nguyên nhân do tim, thì các loại thuốc nhằm mục đích tăng cường
hoạt động của tim hoặc giảm huyết áp có thể hữu ích. Nếu tổn thương liên
quan đến tình trạng viêm hoặc áp suất keo thấp, thì việc quản lý bệnh đó
sẽ giúp giải quyết phù phổi.

Được rồi. Tóm tắt nhanh, phù phổi đề cập đến sự tích tụ dịch trong khoảng
kẽ của phổi, có thể thấy trên phim X-quang phổi hoặc CT ngực. Các
nguyên nhân do tim phổ biến bao gồm suy tim trái và tăng huyết áp, cả hai
đều dẫn đến tăng áp suất thủy tĩnh trong mao mạch phổi.

Các nguyên nhân phổ biến không do tim bao gồm viêm phổi hoặc viêm
toàn thân, làm tăng tính thấm các mao mạch phổi. Các nguyên nhân khác
bao gồm áp suất keo thấp, có thể do suy dinh dưỡng, suy gan và hội
chứng thận hư. Bất kể nguyên nhân nào, phù phổi đều cản trở quá trình
trao đổi khí và dẫn đến khó thở.

You might also like