Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 2

Nam xương nữ tử truyện 

hay Nam xương nữ tử lục (chữ Hán: 南昌女子傳 hoặc 南


昌女子录)[1], được diễn Nôm thành Chuyện người con gái Nam xương[2], là nhan đề
của câu chuyện thứ 16 trong 20 truyện được chép lại trong tác phẩm Truyền kỳ mạn
lục bằng chữ Hán của danh sĩ Nguyễn Dữ sống vào cuối thời nhà lê cuối thế kỉ
XVI nhà Lê Sơ, đầu thời nhà Mạc. Dựa trên một câu chuyện dân gian về một nỗi oan
khuất của một người thiếu phụ, Nguyễn Dữ đã viết về phẩm chất và số phận của
người phụ nữ trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, đồng thời lên án, tố cáo lễ
giáo phong kiến hà khắc đã không cho người phụ nữ được bảo vệ mình. Truyện được
đánh giá là một áng "thiên cổ kì bút", phản ánh sinh động về thân phận người phụ nữ
trong xã hội phong kiến. Tác phẩm đã được đưa vào làm văn bản chính của Bài
4 Sách giáo khoa Ngữ Văn Lớp 9 (Tập 1) thuộc Bộ Sách Giáo Khoa Chính Thức của
Bộ Giáo Dục và Đào Tạo.
Tác giả
Bài chi tiết: Nguyễn Dữ
Nguyễn Dữ – có sách phiên âm là Nguyễn Tự (chưa rõ năm sinh, năm mất), là một
danh sĩ sống vào thế kỉ XVI, thời kỳ triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng, người
huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Ông là học trò của
Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm, là người học rộng, tài cao, am hiểu văn
chương. Ông làm quan được một năm sau đó về sống ẩn dật ở Thanh Hóa.
Nguồn gốc
Chuyện người con gái Nam Xương là thiên truyện thứ 16 trong tổng số 20 truyện
của Truyền kỳ mạn lục (Cùng với 11 trong 20 truyện về phụ nữ). Nguồn gốc của
truyện bắt nguồn từ một truyện cổ tích dân gian tên là Vợ chàng Trương.
Tóm tắt tác phẩm
Truyện lấy bối cảnh từ thời nhà Trần cho đến nhà Hồ. Truyện kể về người con gái có
tên là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương. Nàng là người có dung hạnh vẹn toàn. Chồng
là Trương Sinh, là con của một nhà hào phú, ít học, tính tình hay ghen, luôn đề phòng
với Vũ Nương. Vì ít học nên Trương Sinh phải đi lính, để lại mẹ già và Vũ Nương ở
nhà. Một thời gian sau, Vũ Nương sinh ra đứa con đầu lòng đặt tên là Đản. Ở nhà, Vũ
Nương chăm nom con và mẹ chồng rất mực chu đáo. Vì nhớ thương con, mẹ chồng
nàng ngày càng ốm nặng rồi mất, nàng lo tang ma chay chu đáo như với cha mẹ đẻ
mình. Để đỡ nhớ chồng và sợ con thiếu tình cha, nàng hay đùa với con bằng cách chỉ
cái bóng của mình lên vách và nói với con đó là cha Đản.
Sau cuộc chiến, Trương Sinh trở về. Chàng đau buồn ra thăm mộ mẹ, bế bé Đản theo,
ra đến đồng đứa trẻ quấy khóc vì đứa bé bảo Trương Sinh không phải là cha Đản, cha
Đản đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao
giờ bế Đản cả. Vì tính hay ghen, Trương Sinh đã đánh mắng Vũ Nương rất tàn bạo rồi
đuổi nàng đi, dù cho hàng xóm thanh minh. Không thể thanh minh được, Vũ Nương
đã nhảy xuống dòng sông Hoàng Giang tự tử, để lấy cái chết minh oan cho chính sự
trong sạch của mình.[3] Nàng được Linh Phi, vợ của vua Nam Hải cứu.
Bé Đản một buổi tối chỉ vào bóng chàng và bảo đó là cha; Trương Sinh hối hận muộn
màng. Phan Lang—một người cùng làng với nàng—một đêm nằm mộng có người
con gái áo xanh xin tha mạng. Ngày hôm sau có người mang rùa mai xanh đến, chàng
mang đi thả. Lúc này, chiến tranh Đại Ngu–Đại Minh nổ ra; quân Minh tiến đến ải
Chi Lăng, nhân dân trong nước sợ hãi, trốn ra biển, trong đó có Phan Lang, thì bị đắm
tàu, chết đuối. Xác Phan Lang trôi dạt vào một động rùa, Linh Phi thấy vậy đèm cứu
sống trả ơn nghĩa xưa. Ở dưới thủy cung, chàng gặp lại Vũ Nương; Vũ Nương nhờ
Phan Lang trở về dương thế nhắn nhủ chàng Trương Lập đàn giải oan cho mình
tại bến Hoàng Giang.
Trương bèn làm vậy, quả thấy Vũ Nương ngồi trên kiệu hoa ở giữa dòng với cờ tán,
võng lọng rực rỡ cả một đoạn sông, thoắt ẩn thoắt hiện. Nàng nói lời đa tạ và từ biệt
chàng vì "chẳng thể trở về nhân gian được nữa".
Đền Vũ Điện
Đền Vũ Điện ở xã Chân Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam là nơi thờ vợ chàng
Trương, người làng Trương Xá, cũng thuộc xã Chân Lý ngày nay. Theo truyền thuyết
của người dân địa phương thì ngôi đền này được xây dựng từ thế kỷ XV, ngay sau cái
chết oan uổng của bà Vũ. Ban đầu chỉ là ngôi miếu nhỏ nứa lá tranh tre do dân địa
phương dựng nên. Sau khi có chiếu của vua Lê Thánh Tông, ngôi miếu mới được sửa
lại thành một ngôi đền bề thế, khang trang. Ban đầu, ngôi đền được xây dựng ngoài
bãi ven sông Hồng, trên một bãi đất rộng mấy chục mẫu, dân cư sống thành làng. Sau
vì nước lũ xói mòn, bãi bị lở nên đền phải dời vào vị trí như hiện nay.[4]

You might also like