Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 32

Lý luận phương pháp giáo dục thể chất

Câu 1: Anh (chị) hãy trình bày sơ lược lịch sử phát triển giáo dục thể
chất thời kỳ xã hội nguyên thủy và xã hội chiếm hữu nô lệ?
*Xh nguyên thủy:
-Lđộng là nhân tố quyết định trog quá trình tiến hóa từ vượn -> người; cơ
thể từ vượn -> người: bàn tay -> lao động,vỏ đại não -> tư duy & ngôn
ngữ -> giao tiếp..đều từ lao động mà ptrien
- Trong qtrình sx lâu dài,loài ng thời nguyên thủy chế tạo ra nhiều công
cụ lđộng & khi giải quyết vđề thiết thân về ăn,ở,mặc,.. con ng đồng thời
nâng cao trí lực & thể lực.....Khi đó điều kiện lđộng,hoàn cảnh gian
khổ,khắc nghiệt,công cụ thô sơ nên lao động thể lực cực kì nặng nhọc.
=> muốn kiếm ăn & sống an toàn,họ luôn đương đầu với thiên tai & dã
thú.Thực tế ấy khiến con người muốn sinh tồn buộc con người phải biết:
chạy; nhảy; leo trèo;ném; bơi;mang vác nặng & sức chịu đựng đk khắc
nghiệt.-> những năng lực đó + kinh n0 -> là tiêu chuẩn hàng đầu để đánh
giá trình độ uy tín.Mầm mống của bt thể chất nảy sinh từ chính thực tế
của những hđ ấy&kết hợp tự nhiên trong qtrinh lđộng
-Bản chất tnhien dc đặt lên hàng đầu bởi ko ai chú trọng đến sự thay đổi
của tgioi tự nhiên,mọi hđộng -> đối phó,khắc phục vs đk môi trg sống
hiện tại thông qa kinh nghiệm tích lũy.
- các trò chơi giải trí lúc rảnh + hoạt động rèn luyện thân thể khác để
phòng chữa một số bệnh -> quan trọng -> ptrien bt thể chất
-Mặt khác, GDTC thực sự ra dời khi cng ý thức được tác dụg & sự chuẩn
bị cho tương lai,ddbiet là thế hệ trẻ, cụ thể là sự kế thừa,truyền thụ và tiếp
thu kin no & kĩ năng vận động
từ khi ra đời, gdtc là ptien giáo dục,1 hiện tượng xã hội mà con vật k
thể có dc. Việc truyền thụ và áp dụng kinh n0 trong quá trình giao tiếp
chính là gduc (GDTC)
-Kinh no sd công cụ hàng ngay đã cho con ng nhận thấy tác dụng của
việc cbi trước thông qua luyện tập các bài tập.Từ dó các bt chuẩn bị cho
lao động dần được tác khỏi cư sở ban đầu là lao động và dc khái quát,trừu
tượng hóa thành các môn thể thao.
+ Vd: việc săn đuổi hay chạy trốn kẻ thù đã hình thành môn
chạy,nhảy,qua chướng ngai vật,ném trúng đích thành môn ném.
*Xh chiếm hữu nô lệ:
-Thị tộc là hình thức tổ hức xh đầu tiên: cng bt làm ăn chung.phối
hợp,phân công lđộng tạo ra của cải vật chất nuôi sống con người,sxuat dc
nhiều sản phẩm so vs sự cần thiết để sốn,khả năng bóc lột lđộng hình
thành.Việ bắt các tù binh thành nô lệ là có lợi.
- Xh có giai cấp & nhà nước thì chiến tranh là biện pháp vũ lực phục vụ
công cuộc bành trướng quyền lực,mở rộng lãnh thổ,tức là ctranh phục vụ
mục đích chính trị. Giai cấp Chủ nô tham lam bóc lột dân trong lãnh thổ
+ tiến hành chiến tranh cướp đất,xây dựng những đế quốc rộng lớn,thống
trị & bóc lột dtoc khác.
-Nguồn cung cấp nô lệ lớn nhất là ctranh mà hoàn cảnh đòi hỏi các binh
sĩ phải có thể lực,sức mạnh,sức bền,khéo léo cũng như kĩ năng sd vũ khí -
> xã hội hóa & xem trọng.
=> GDTC và GD quân sự,huấn luyện thể lực ra đời,mang tính giai
cấp,nghĩa là dc sử dụng cho lợi ích của giai cấp thống trị.Vậy nên các
môn bơi,chạy, cưỡi ngựa, đấu kiếm,.. -> ndung chính để rèn luyện thể lực
và kĩ thuật chiến đấu.
.Sư ptrien gdtc ở Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại
a.Hy Lạp cổ đại
+ sức mạnh,sức nhanh,bền bỉ và lòng dũng cảm được đánh giá cao. Họ
cho rằng các vị thần cũng rất thích sức mạnh thể lực và thể hiện qua đua
tài -> Thi đấu trở thành bộ phận of nghi thức tôn giáo.
+ 2 nền vh nổi bật:
 Sparta:
-là nhà nước bảo thủ,duy trì nhiều truyền thống của cđộ thị tộc như
nền kinh tế tự nhiên dựa vào lực lượng quân sự -> quy định sự
khác biệt trong hthong gduc.
- Chú ý rèn luyện thể chất cho trẻ từ thuở thơ ấu.trẻ khỏe thì
nuôi,ốm yếu thì thủ tiêu.
- con trai dc giáo dục trong gđình đến 7 tuổi rồi gửi vào các trường
nuôi dạy,14 tuổi dc sd vũ khí và làm nghĩa vụ quân sự -> trở thành
chiến binh giỏi. Phụ nữ chưa ck tập như ctrai -> khỏe mạnh và sinh
con cũng khỏe.
 Athens:
-Là nhà nước tiến bộ,nền vh-kt ptrien nhanh,công dân vừa khỏe
mạnh lại có học vấn
-Gduc thẩm mĩ ca hát âm nhạc có ý nghĩa lớn. Trẻ dưới 6t dc gduc
ở nhà,
7-14t dc học ở trường,16t trở lên dc gduc ở trường trung học,học
vh+gdtc nghiêm khắc hơn.
 Cả 2 quốc gia đều gtdc -> đào tạo thanh niên thành các chiến binh.

b.La Mã cổ đại:
 Thời ki Quốc vương TCN: Tính quân sự cao.phổ biến nhất là các
cuộc thi đấu kỵ sĩ,đua xe,phóng lao,vật,võ tay ko,...
 Thờ kì cộng hòa TCN: hthong huấn luyện các chiến binh đã hoàn
thiện.Mgoài huấn luyện các kĩ năng sd vũ khí & các động tác
thường xuyên,các môn chạy,nhảy sào, leo núi,hành quân có vũ
trang dc áp dụng -> làm quen vs sự thiếu thốn và công việc nặng
nhọc..
 Thời kì đế chế: nội chiến -> thế lực thống trị củng cố quyền lực =
cach thiết lập chế độ chuyên chính,tăng cường công tác quân sự,xd
các công trình đồ sộ -> tchuc thi đấu

Đại hội Olympic ở Hy Lạp cổ đại:


-Olympic xuất phát từ địa điểm tổ chức Đại hội thể thao - chính là thành
phố Olympia, nơi đền thờ thần Zeus, vị thần tối cao trong thần thoại Hy
Lạp
-Olympic cổ đại của Hy Lạp được tổ chức 4 năm một lần,đầu tiên vào
năm 776 TCN, kết thúc vào năm 394 khi Hoàng đế La Mã cấm đoán.
-có ý nghĩa chính trị xã hội to lớn vì trong time tiến hành đại hội Olympic
phải dừng all các cuộc chiến tranh. Các nhà lãnh đạo các thành bang phải
đến dự đại hội đồng thời ký các hiệp ước quan hệ thương mại, kinh tế,
văn hoá..
-nhiều môn thể thao thi đấu ở Đại hội Olympic là phiên bản của chiến
tranh như phóng lao, ném đá, chạy mang theo kiếm, vũ khí khác hay mặc
áo giáp.. Vđv thi đấu 2 vòng: vòng loại và chọn 2 ng vào ck,sẽ thi đấu
boxing or đấu vật.
-Để tham gia.nam giới phải khổ luyện trong suốt 10 tháng & huấn luyện
tiếp 1 tháng ở nơi thi đấu trước khi chính thức so tài. Người giành chiến
thắng trong mỗi môn thi đấu không nhận được huy chương quý giá mà là
vòng nguyệt quế ->nhân vật nổi tiếng, được xã hội nể trọng,làm tượng
trên đỉnh Olympia,tên được dùng trong lsu của ng Hy Lạp.
Câu 2: Anh (Chị) hãy trình bày sơ lược lịch sử phát triển giáo dục
thể chất thời kỳ xã hội phong kiến và thời kỳ cận đại, đương đại?
1. Thời kỳ xã hội phong kiến
Sau khi chế độ chiếm hữu nô lệ tan rã, phần lớn các nước chế độ
phong kiến đã thay đổi chế độ chiếm hữu nô lệ. Thời kỳ này được gọi
là thời kỳ trung cổ
Các nước mạnh đã bắt đầu thực hiện các cuộc xâm lược. Từ đó việc đào
tạo quân sự là việc bắt buộc đối với các chúa phong kiến.
Đối với nông dân phải chú ý đến các trò chơi giải trí và các bài tập phát
triển sức mạnh, sức bền, khéo léo, và các bài tập mang tính quân sự vì họ
phải thường xuyên chống kẻ thù để bảo vệ mình.
- Thời kỳ chủ nghĩa phong kiến phát triển:

Đến khoảng thế kỉ IV, các quan hệ phong kiến đã thiết lập hoàn toàn ở
Tây Âu. Hệ thống huấn luyện quân sự và thể lực cho các đẳng cấp quý
tộc được phát triển gọi là hệ thống giáo dục hiệp sĩ. Hệ thống này có 3
cấp:
+ Từ 7 tuổi: Tập trung tập luyện về quân sự như cưỡi ngựa, đấu kiếm,

bơi… đồng thời học các quy tắc hiệp sĩ.

+ Từ 14 tuổi: Được sử dụng vũ khí để làm tuỳ tùng cho lãnh chúa trong
các cuộc hành quân và tham gia thi đấu hiệp sĩ, tham gia chiến đấu.
+ 21 tuổi: Trở thành hiệp sĩ thật sự và tiếp tục tập luyện để thi đấu hiệp sĩ
và chiến đấu.
Trong thời gian này, các cuộc thi đấu có ý nghĩa lớn trong việc phát triển
TDTT. Các môn ném đá, đẩy tạ, ném búa chim, chạy vượt chướng ngại
vật hay các trò chơi đã hình thành quy tắc trong thi đấu dần dần được mọi
người thừa nhận. (Đó cũng là sự xuất hiện của luật thi đấu thể thao hiện
đại). Ở thời kỳ trung cổ, thi đấu mang tính chất thuần tuý, tham gia thi
đấu mang tính tự nguyện, thi đấu không gắn với tôn giáo, thi đấu có tính
hài hước và từ “thể thao” có lẽ ra đời từ thời gian này.
2. Thời kỳ cận đại và đương đại
Những cơ sở tư tưởng lý luận của giáo dục thể chất:

Giăng giắc rút xô (Jean Jacques Rousseau) (1712 – 1778, nhà tư tưởng vĩ
đại, nhà biện chứng lỗi lạc của triết học Khai sáng Pháp) đã phát triển tư
tưởng về vai trò quy định của môi trường bên ngoài trong việc hình thành
nhân cách con người. Ông viết “thân thể sinh ra trước tâm hồn, nên việc
quan tâm đến thân thể phải là việc trước tiên”. Bắt đầu là rèn luyện cơ thể
sau đó là các trò chơi và các BTTC.
Các nhà giáo dục Thuỵ Sĩ có công lớn trong lĩnh vực GDTC, ông đã soạn
ra phương pháp phân tích, gọi các động tác ở khớp là các động tác sơ
đẳng, là cơ sở để giảng dạy động tác phối hợp phức tạp.
Các nhà cách mạng tư sản pháp ở cuối thế kỉ XVIII có công lớn trong cơ
sở lý luận cho GDTC. Họ cho rằng cần phải đưa giáo dục thể chất vào hệ
thống giáo dục quốc dân.
Sự nảy sinh và phát triển của các hệ thống giáo dục thể chất quốc gia:

+ Hệ thống giáo dục ở Đức cho rằng phương tiện GDTC gồm: rèn luyện
chống thời tiết xấu, biết chịu đói, khát, mất ngủ. Các bài tập phát triển
giác quan, chủ yếu trong lúc tham gia trò chơi đặc biệt; các bài tập trượt
băng, mang vác vật nặng, các trò chơi giải trí, các bài tập cưỡi ngựa, đấu
kiếm, nhảy múa, trong đó các bài tập trên ngựa gỗ và một số dụng cụ
khác, các động tác đơn giản của từng bộ phận cơ thể, lao động chân tay.
+ Hệ thống GDTC của Thụy Điển là tính đối xứng và thẳng hàng. Tư thế
đúng của tay chân và mình được đặc biệt chú ý.
+ Hệ thống GDTC ở Pháp có tính chất ứng dụng quân sự đào tạo binh sĩ.
Các bài tập thể dục tốt nhất là bài tập phát triển kỹ năng cần thiết trong
đời sống, đặc biệt là trong chiến tranh như các bài tập đi, chạy, nhảy,
mang vác ở các địa hình tự nhiên. Các bài tập thăng bằng, bò, leo trèo,
bơi, lặn, vật, ném, bắn, đấu kiếm, nhào lộn hay các bài tập tay không,
múa.
+ GDTC và thể thao của các nước Đan Mạch, Anh, Mỹ và một số nước
Đông Á, Đông Nam Á đã trở thành những trung tâm chính phát triển
TDTT. Tại các trường học xuất hiện các nhóm thể thao nghiệp dư như:
chạy, đấm bốc, bơi, chèo thuyền, các môn bóng. Từ những năm 30 của
thế kỷ XI người ta tổ chức các cuộc thi thường xuyên về các môn thể thao
cho học sinh.
Câu 3: Anh (Chị) hãy trình bày hệ thống giáo dục thể chất trong
trường đại học?
Hệ thống GDTC trong trường đại học là những quan điểm, mục tiêu hệ
thống tri thức GDTC; cấu trúc, nội dung và hình thức GDTC; phương
pháp GDTC; tổ chức quản lí GDTC
1. Chủ thể và đối tượng GDTC trong trường đại học
 Chủ thể
- Nhà trường đề ra phương hướng công tác GDTC để thực
hiện chương trình giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành
- Khoa hoặc bộ môn GDTC chịu trách nhiệm giảng dạy, kiểm
tra, giám sát và đánh giá kết quả
- Phòng đào tạo, phòng y tế cùng phối hợp với bộ môn GDTC
tham gia vào quản lí, kiểm tra sức khỏe và thể lực định kì
đối với sinh viên
 Đối tượng GDTC
- Sinh viên các lớp bằng 1 chính quy tập trung bắt buộc phải
tham gia các chương trình chính khóa và ngoại khóa
- Sinh viên hệ không tập trung có thể tham gia hoạt động
phong trào TD, TT của trường
 Trách nhiệm của sinh viên
- Tham gia giờ học theo quy định
- Kiểm tra sức khỏe và thể lực định kì
- Tích cực tìm hiểu các tài liệu về TD, TT
- Có chế độ sinh hoạt, nghỉ ngơi hợp lí
- Tích cực tham gia các hoạt động TD, TT
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của GDTC trong trường đại học
 Mục đích
Thực hiện mục tiêu đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lí
kinh tế, văn hóa xã hội,.... phát triển cơ thể hài hòa, có thể
chất cường tráng nhằm đáp ứng được yêu cầu chuyên môn,
nghề nghiệp và có khả năng tiếp cận với thực tiễn lao động,
sản xuất... trong thời kì mới
 Nhiệm vụ
Giáo dục đạo đức XHCN cho sinh viên, rèn luyện tinh thần tập
thể, ý thức tổ chức kỷ luật, xây dựng cho họ niềm tin lối sống
tích cực lành mạnh, tinh thần tự giác học tập và rèn luyện thân
thể
3. Hình thức và phương pháp GDTC trong trường đại học
 Hình thức
Giảng dạy phần lý thuyết trên lớp; tập luyện thực hành kỹ thuật
ngoài sân vận động được lồng ghép với lý thuyết chuyên môn;
tổ chức các hoạt động ngoại khóa để đẩy mạnh phong trào TD,
TT của sinh viên
 Phương tiện
- Phần lý thuyết chung: phương tiện dạy học được trang bị
trong học đường
- Phần thực hành kỹ thuật: sân bãi, bãi tập, phương tiện, dụng
cụ... phục vụ cho tập luyện và thi đấu
Câu 4: Anh (Chị) hãy trình bày chức năng giáo dục và chức năng
kinh tế của thể thao?
- Chức năng giáo dục:
Tuy chế độ xã hội, quan niệm chính trị, các hình thức tôn giáo, tín
ngưỡng và nhận thức của các quốc gia trên thế giới không giống nhau,
nhưng đều rất coi trọng tác dụng của TT trong giáo dục. Chức năng giáo
dục của TT chủ yếu được biển hiện trên hai phương diện:
+ Tác dụng của TT trong xã hội:
Do TT có tính hoạt động, tính cạnh tranh, tính nghệ thuật, tính lễ
nghĩa và tính quốc tế nên có thể khêu gợi và kích thích được lòng yêu tổ
quốc, tinh thần tự hào, đoàn kết dân tộc. Đây chính là ý nghĩa của TT
trong xã hội.
+ Tác dụng giáo dục của TT trong trường học:
Để thực hiện mục tiêu của sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nước
ta là tạo nên những con người mới phát triển toàn diện về đức, trí, thể,
mỹ và lao động thì TT là một bộ phận không thể thiếu. TT giúp cho việc
nâng cao thể chất, giáo dục tinh thần đoàn kết, các phẩm chất đạo đức và
tâm lý... cho học sinh.

- Chức năng kinh tế:

TT và kinh tế có mối quan hệ tương hỗ, đã có nhiều nhà kinh tế


cho rằng sức lao động và sản xuất được nâng cao là tiêu chí quan trọng
của sự phát triển kinh tế xã hội.

Trong các loại tố chất của con người thì tố chất thể lực đóng một
vai trò hết sức quan trọng.

Chính vì vậy các nước trên thế giới đã chú trọng đến tác dụng của
TT đối với việc phát triển thể lực cho người lao động, lấy việc làm giảm
thiểu tỷ lệ mắc bệnh làm thành mục tiêu thúc đẩy sức lao động sản xuất
của xã hội. Điều này thể hiện chức năng kinh tế ban đầu của TT.

TT thành tích cao và các ngành kinh tế thương mại, du lịch, … có


mối quan hệ hết sức mật thiết.

Một cuộc thi đấu TT được tổ chức ở một điểm nào đó sẽ kéo theo
hàng loạt các ngành nghề kinh tế như: Du lịch, thông tin, dịch vụ phát
triển.
Câu 5: Anh (Chị) hãy trình bày nguyên nhân và cách phòng chống
chấn thương trong thể dục thể thao?
Là các chấn thương xảy ra trong quá trình tập luyện TD, TT.
Chấn thương thể thao khác với các chấn thương trong sinh hoạt và lao
động ở chỗ nó có liên quan trực tiếp với các nhân tố và điều kiện tập luyện
TT như các môn TT, kế hoạch huấn luyện, động tác kỹ thuật, trình độ tập
luyện...
Nguyên nhân gây ra chấn thương TT có rất nhiều.
Dựa vào các tư liệu nghiên cứu, tổng hợp các nguyên nhân chấn thương
TT ở trong nước và ngoài nước hiện nay, có thể phân thành hai mặt:
Nguyên nhân cơ bản và nguyên nhân tiềm ẩn (nguyên nhân dẫn dắt).
- Nguyên nhân cơ bản (nguyên nhân trực tiếp hoặc nguyên nhân chung):
+ Tư tưởng không coi trọng hoặc thiếu tri thức đề phòng
+ Thiếu sót trong khởi động.
+ Trình độ huấn luyện kém.
+ Trạng thái cơ thể không tốt.
+ Phương pháp tổ chức không thoả đáng.
+ Vi phạm quy tắc TT.
+ Sân bãi dụng cụ, trang phục không phù hợp yêu cầu vệ sinh an toàn,
khí hậu thời tiết xấu.
- Nguyên nhân tiềm ẩn của chấn thương (Nguyên nhân dẫn dắt):
Nguyên nhân dẫn dắt của chấn thương là do hai nhân tố tiềm ẩn về sinh
lý, giải phẫu của các bộ phận cơ thể nào đó và đặc điểm kỹ thuật của bản
thân môn TT quyết định. Chỉ khi có sự tác động của nguyên nhân trực
tiếp thì những yếu tố tiềm ẩn này mới trở thành nguyên nhân dẫn tới
chấn thương.
Có rất nhiều nhân tố nội tạng khác nhau và quy luật phát sinh chấn
thương của mỗi nhân tố này cũng rất khác nhau.
+ Đặc điểm giải phẫu sinh lý.
+ Đặc điểm về lứa tuổi.
+ Đặc điểm của kỹ thuật bản thân môn TT.
Nguyên tắc đề phòng chấn thương
- Tăng cường giáo dục về mục đích của TD, TT:
+ Hiểu những kiến thức có liên quan về vấn đề chấn thương.
+ Tăng cường giáo dục tính tổ chức kỷ luật.
- Sắp xếp hợp lý quá trình tập luyện và thi đấu:
Tìm hiểu kỹ trọng tâm và những nội dung khó của buổi tập. Đối với
những nội dung khó nắm vững, những khâu mà người tập dễ mắc sai lầm
hoặc những động tác có nhiều nguy cơ xảy ra chấn thương thì phải có sự
chuẩn bị, dự phòng tốt để đảm bảo an toàn cho tập luyện.
- Phải khởi động tốt:
Mục đích của khởi động là nâng cao tính hưng phấn của hệ thống các
trung khu thần kinh, tăng cường chức năng của các hệ thống cơ quan, khắc
phục tính ý sinh lý của các chức năng, chuẩn bị tốt khả năng cơ thể cho phần
tập luyện chính.
- Tăng cường bảo hiểm và tự bảo hiểm:
+ Bảo hiểm là một biện pháp quan trọng để ngăn ngừa chấn thương.
+ Người tham gia tập luyện TD, TT cần phải học được phương pháp tự
bảo hiểm.
- Tăng cường công tác kiểm tra y học và chú ý vệ sinh sân bãi dụng cụ:
+ Cần phải định kỳ tiến hành kiểm tra thể lực, sức khoẻ...
+ Cần phải tăng cường quan sát, kiểm tra y học và kiểm tra sức khỏe
định kỳ.
Câu 6: Anh (Chị) hãy phân tích khái niệm thể thao và giáo dục thể
chất?
1. Giáo dục thể chất
- có từ lâu trong ngôn ngữ nhiều nước. ở nước ta, do bắt nguồn từ gốc
Hán - Việt nên gọi tắt GDTC là thể dục.
- dc coi là một bộ phận của TDTT, là 1 trong những hình thức hoạt
động cơ bản có định hướng rõ của TDTT trong xã hội, một quá trình
có tổ chức -> truyền thụ và tiếp thu những giá trị của TDTT trong hệ
thống giáo dục - giáo dưỡng chung (chủ yếu trong các nhà trường).
-GDTC là một loại hình gduc mà nội dung chuyên biệt là dạy học vận
động (dạy động tác) và phát triển có chủ định các tố chất vận động của
con người.
- nằm trong khái niệm giáo dục, đó là quá trình phát triển toàn diện và
hình thành nhân cách, được tổ chức một cách có mục đích, có kế
hoạch thông qua các hoạt động và các mối quan hệ giữa nhà giáo dục
và người được giáo dục  truyền đạt và chiếm lĩnh các kinh no của
xh loài người.  hiện tượng sư phạm với đầy đủ ý nghĩa
-Đđ nổi bật nhất của GDTC là 1 quá trình sư phạm nhằm tác động lên
các đối tượng giáo dục để đạt được các nhiệm vụ:
- Giáo dục các tố chất thể lực.
- Giáo dục phẩm chất ý chí, đạo đức, nhân cách.
- Giáo dưỡng.
- Trang bị kỹ năng, kỹ xảo vận động.
- Rèn luyện thói quen nếp sống lành mạnh.
=> xác định khả năng thích nghi thể lực của con người.
2 đặc trưng cơ bản:
- Đặc trưng cơ bản chuyên biệt thứ nhất của gdtc là dạy học vận động
( động tác), là sự truyền thụ và tiếp thu có hệ thống những cách thức
điều khiển hợp lý sự vận động của con người -> hình thành những kỹ
năng kỹ xảo vận động cơ bản.
- Đặc trưng thứ hai là sự tác động có chủ đích đến sự phát triển theo
định hướng các tố chất vận động -> nâng cao năng lực vận động của
con người.
GDTC có thể định nghĩa: là một hình thức giáo dục nhằm trang bị kỹ
năng, kỹ xảo vận động và những tri thức chuyên môn (giáo dưỡng).
Phát triển tố chất thể lực, tăng cường sức khỏe
-có thể coi phát triển thể chất là một phần hệ quả của GDTC. Quá
trình phát triển thể chất có thể chỉ là do bẩm sinh tự nhiên (sự phát
triển thể chất tự nhiên của trẻ khi đang lớn), hoặc còn có thêm các
động cơ, chủ đích hợp lý của GDTC đem lại. Trong hệ thống giáo dục,
nội dung đặc trưng ấy của GDTC được gắn liền với trí dục, đức dục,
mỹ dục và giáo dục lao động. Trong hệ thống giáo dục cộng sản chủ
nghĩa, GDTC có ý nghĩa như một trong những nhân tố giáo dục nhân
cách hoàn thiện.
Ngoài ra còn sd thuật ngữ chuẩn bị thể lực. Về bản chất chúng có ý
nghĩa tương tự, nhưng “chuẩn bị thể lực” thường nhấn mạnh tính thực
dụng của GDTC đối với lđộng or hoạt động khác đòi hỏi phải có trình
độ thể lực -> khả năng làm việc đạt được ở KNKX thực dụng.
Chuẩn bị thể lực có 2 loại:
+ Chuẩn bị thể lực chung: là qtrinh phát triển những năng lực thể chất
đáp ứng với nhiều đặc điểm hoạt động khác nhau.
+ Chuẩn bị thể lực chuyên môn: là sự luyện tập để phát triển một dạng
năng lực nào đó đáp ứng yêu cầu riêng của một môn thể thao hay một
lĩnh vực hoạt động nào đó.
-thực tiễn, GDTC là kỹ năng vận động và tố chất thể lực.,đều là quá
trình giáo dục, nên gdtc cũng phải theo hướng đó, dựa vào kỹ năng
vận động nếu ban đầu giảng dạy tố chất thể lực phải phụ thuộc vào lứa
tuổi giới tính.
so sánh khái niệm GDTC với khái niệm văn hoá thể chất (văn hoá thể
chất là một bộ phận hữu cơ của 27 nền xã hội và cá nhân có nội dung
đặc thù là sử dụng hợp lý hoạt động vận động như một nhân tố chuẩn
bị thể lực cho cuộc sống, hợp lý hoá trạng thái thể chất và phát triển
thể chất.Vs nghĩa rộng, văn hoá thể chất là toàn bộ thành tựu xã hội
trong sự nghiệp sáng tạo, phương tiện, phương pháp và điều kiện
nhằm phát triển khả năng thích nghi thể lực của thế hệ trẻ và người
trưởng thành. Trong điều kiện một chế độ xã hội thực sự nhân đạo,
văn hoá thể chất trở thành một trong những phương tiện có hiệu quả
để phát triển cân đối toàn diện nhân cách, là nhân tố xã hội có hiệu lực
thúc đẩy con người trên con đường hoàn thiện thể chất) => dễ dàng
kết luận rằng, chúng có mối quan hệ rất chặt chẽ nhưng ko đúng khi
coi chúng giống nhau hoàn toàn or coi khái niệm này chỉ là một phần
của khái niệm kia.
Nói một cách chặt chẽ GDTC kphai là 1 phần của văn hoá thể chất mà
là hình thức cơ bản sử dụng những giá trị văn hoá thể chất trong hệ
thống giáo dục. GDTC của xã hội có chính là con đường di truyền thụ
những giá trị văn hoá thể chất từ thế hệ trước cho thế hệ sau đồng thời
là con đường làm tăng thêm những giá trị xã hội. Vì rằng thế hệ trẻ
tiếp thu một cách đơn thuần những giáo dục đã có trước đó. Khi tiếp
thu chúng, họ sẽ phát triển chúng lên và tiến tới những thành tựu mới.

2.Thể thao
- là một bộ phận chủ yếu, lớn, nổi bật trong TDTT.
- thể thao theo nghĩa hẹp:là một hoạt động mang tính trò chơi, một
hình thức thi đấu đặc biệt chủ yếu và phần nhiều bằng sự vận động thể
lực
-> phát huy những năng lực chuyên biệt, đạt thành tích cao, cao nhất
được so sánh trực tiếp và công bằng trong những điều kiện chuyên
môn như nhau. Hoạt động thi đấu được hình thành trong xã hội loài
người,thông qua thi đấu con người phô diễn so sánh khả năng về thể
chất và tinh thần. Sự luôn vươn tới những thành tích cao nhất, tính
chuyên biệt hoá, thi đấu và công diễn là những dấu hiệu cơ bản của
TT. Tuy nhiên, mục đích của nó không chỉ đơn thuần dừng lại ở
những thành tích thi đấu trực tiếp. Trong nghệ thuật cũng có lúc có
yếu tố đua tài, thi đấu (như giọng hát hay, thi tay đàn giỏi) nhưng
không phải là thường xuyên, chuyên biệt cơ bản. Mặt khác, diễn biến
và kết cục của thi đấu TT thường không biết trước được. Như vậy,
khái niệm này chỉ nêu lên những đặc điểm bên ngoài để phân biệt TT
với hiện tượng khác,không bao quát hết được những biểu hiện cụ thể,
phong phú của thể thao.Bản chất của TT không chỉ giới hạn ở thành
tích thể thao thuần tuý, là hoạt động tác động toàn diện tới con người
- TT theo nghĩa rộng: trước nhất là bao gồm hoạt động thi đấu, là sự
chuẩn bị tập luyện đặc biệt cho thi đấu. TT là mối quan hệ đặc biệt
giữa người với người trong thi đấu cùng với ý nghĩa xã hội, với thành
tích thi đấu gộp chung lại.
TT là hiện tượng xã hội: đối với cá nhân TT là khát vọng của con
người không ngừng mở rộng giới hạn khả năng của mình được thực
hiện thông qua nhiệm vụ đặc biệt, tham gia thi đấu gắn liền với khắc
phục khó khăn ngày càng tăng và TT là một thế giới cảm xúc do thắng
lợi hay thất bại đem lại, nó còn là lĩnh vực tiếp xúc độc đáo giữa người
với người.
-là một trong những hình thức vận động của xã hội thời đại là tổng
hợp phức tạp quan hệ giữa người với người, là một hình thức hoạt
động của thời đại mang tính đại chúng. Để đạt thành tích ca,o con
người phải tập luyện hệ thống thông qua lượng vận động lớn khắc
phục khó khăn về tâm lý, cho nên thể thao là một phương tiện, phương
pháp hữu hiệu nhất để phát triển thể chất, đạo đức, thẩm mỹ. TT là
một trong những phương tiện mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế và hữu
hiệu giữa các dân tộc.
a. Thể thao thành tích cao:
-Là loại hình TT đầu tư theo chiều sâu, vđv được tuyển chọn, đào tạo
có hệ thống trong điều kiện chặt chẽ,-> phát huy khả năng cao nhất
của con người, vượt qua những giới hạn năng lực thể chất nhằm nâng
cao thành tích TT. Nó như là một phòng thí nghiệm tự nhiên, qua đó
con người tìm tòi, sáng tạo nên những phương pháp, biện pháp để huy
động và nâng cao những tiềm năng vốn có, ở đó tập trung những
người có năng khiếu và tài năng đặc biệt.
-Mục tiêu “Cao hơn, nhanh hơn, mạnh hơn” vừa là đề xướng các
nguyên tắc “Thi đấu công bằng”, “tham gia thi đấu giành thắng lợi là
quan trọng”. Vì sự thi đấu trên “đấu trường TT” diễn ra hết sức khốc
liệt nên phần lớn các quốc gia đã tiến hành sử dụng các biện pháp,
phương pháp huấn luyện khoa học tiên tiến để nhằm mục đích đạt
được những kỷ lục về TT của nhân loại.
b. Thể thao quần chúng (Sports for all)
-là các hoạt động tập luyện mang tính tự nguyện tùy theo hứng thú,
nhu cầu, nguyện vọng và điều kiện của từng thành viên xã hội.
- Các hình thức tổ chức: TT quần chúng bao gồm nhiều loại hình như
TT giải trí, thẩm mỹ, thể dục thể hình, dưỡng sinh, TT trị liệu...
- Đối tượng: nhân dân, trong đó bao gồm có nam, nữ, già, trẻ, những
người thương tật. Lĩnh vực hoạt động rất rộng lớn từ gia đình cho đến
xã hội.
- Nội dung, hình thức hoạt động của thể dục thể thao quần chúng: Đa
dạng, phong phú do số lượng người tham gia cũng rất đông. Sự phát
triển có tính chất rộng rãi và mức độ xã hội hoá TT quần chúng được
quyết định bởi sự phồn vinh về kinh tế, mức độ phát triển mặt bằng
chung về cuộc sống và sự ổn định chính trị của một đất nước.
c. Thể thao trường học
-Là hoạt động tập luyện, thi đấu TT trong nhà trường; các giải TT và
đại hội TT học sinh, sinh viên trong nước và quốc tế. Đây là hoạt động
tự nguyện của học sinh, sinh viên, được tổ chức theo phương thức
ngoại khóa, câu lạc bộ TD, TT, nhóm, cá nhân phù hợp với sở thích,
giới tính, lứa tuổi và sức khỏe, nhằm hoàn thiện các kỹ năng vận động,
hỗ trợ thực hiện mục tiêu giáo dục thể chất thông qua các hình thức
luyện tập, thi đấu TT, tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên thực hiện
quyền vui chơi, giải trí, phát triển năng khiếu TT; phát hiện và bồi
dưỡng năng khiếu, tài năng TT. (Điều 2 khoản 2 Nghị định số
11/2015/NĐ-CP quy định về giáo dục thể chất và hoạt động TT
trường học).
- Hoạt động thể thao trường học: hoạt động tập luyện là nhu cầu và
ham thích trong khi nhàn rỗi của 1 bộ phận học sinh, sinh viên với
mục đích và nhiệm vụ là góp phần phát triển năng lực thể chất một
cách toàn diện, đồng thời góp phần nâng cao thành tích TT của học
sinh, sinh viên,bao gồm: Luyện tập trong các câu lạc bộ, các giải thi
đấu trong và ngoài trường được tổ chức hàng năm, các bài tập thể dục
vệ sinh chống mệt mỏi hàng ngày, cũng như giờ tự luyện tập của học
sinh sinh viên, phong trào tự tập luyện rèn luyện thân thể. Hoạt động
ngoại khóa với chức năng là động viên lôi kéo nhiều người tham gia
tập luyện các môn TT yêu thích, góp phần nâng cao sức khỏe phục vụ
học tập và sinh hoạt.
- Thi đấu thể thao gồm: Các đại hội TT học sinh, sinh viên trong nước
và quốc tế; Các giải thi đấu TT học sinh, sinh viên trong nước và quốc
tế -> trở thành giao điểm của sự kết hợp giữa giáo dục và thể thao,
trọng điểm của sự phát triển thể thao.
Chức năng của thể thao
- Chức năng rèn luyện sức khỏe: Trong quá trình học tập đòi hỏi đại
não phải hoạt động tư duy căng thẳng cao độ và liên tục.Nếu làm việc
trong thời gian quá dài các tổ chức não sẽ sản sinh ra ra tác dụng ức
chế để bảo vệ và lúc này hiệu suất làm việc sẽ giảm xuống,đòi hỏi cơ
thể cần phải nghỉ ngơi: đó là nghỉ ngơi tiêu cực (đi ngủ) và nghỉ ngơi
tích cực (tập luyện TT).
-Khi tập luyện TT các tế bào thần kinh vận động sẽ được hưng phấn
cao, mặt khác làm gia tăng thêm sự ức chế các tế bào ghi nhớ và tư
duy từ đó làm cho sự mệt mỏi mất đi. Do vận động làm cho hệ tuần
hoàn hoạt động tích cực dẫn đến các tế bào được cung cấp được cung
cấp dinh dưỡng và Oxi đầy đủ hơn. Làm thúc đẩy mạnh mẽ hơn việc
đào thải sản phẩm thừa của quá trình trao đổi chất, điều này rất có lợi
cho chức năng hồi phục của cơ thể.
-> Chức năng rèn luyện sức khoẻ của TT đó là thông qua các hoạt
động vận động khoa học, hợp lý, thông qua cơ chế sinh vật học, y học
để cải thiện và nâng cao hiệu quả quá trình trao đổi chất, năng lực tổng
hợp và phân giải các chất dinh dưỡng trong cơ thể, nâng cao sức khoẻ
và tăng cường thể chất, làm cho cơ thể và bản thân người tập có được
sự phát triển có hiệu quả. Khi tiến hành tập luyện TT một cách khoa
học không những có tác dụng rèn luyện thể chất và thể lực cho cơ thể,
mà còn có tác dụng rất lớn đối với việc thúc tiến và nâng cao hoạt
động của não.
- Chức năng giáo dục: Tuy chế độ xã hội, quan niệm chính trị, các
hình thức tôn giáo, tín ngưỡng và nhận thức của các quốc gia trên thế
giới không giống nhau, nhưng đều rất coi trọng tác dụng của TT trong
giáo dục.
biển hiện trên 2 phương diện:
+ Tác dụng của TT trong xã hội: Do TT có tính hoạt động, tính cạnh
tranh, tính nghệ thuật, tính lễ nghĩa và tính quốc tế nên có thể khêu gợi
và kích thích được lòng yêu tổ quốc, tinh thần tự hào, đoàn kết dân
tộc.
+ Tác dụng giáo dục của TT trong trường học: Để thực hiện mục tiêu
của sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nước ta là tạo nên những con
người mới phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ và lao động thì TT
là một bộ phận không thể thiếu. TT giúp cho việc nâng cao thể chất,
giáo dục tinh thần đoàn kết, các phẩm chất đạo đức và tâm lý... cho
học sinh.
- Chức năng giải trí: được sử dụng như món ăn tinh thần. TT giải trí
là một dạng thể thao nhằm thỏa mãn nhu cầu giải trí vui chơi của bản
thân, tập thể hoặc cộng đồng.Nó không đòi hỏi sự đầu tư quá lớn về
trang thiết bị, hoặc yêu cầu trình độ chuyên môn tới mức phải chuyên
nghiệp, nhưng vẫn đảm bảo tính cạnh tranh đặc trưng của thi đấu TT
và quan trọng là rèn luyện sức khỏe, tăng thể lực. Xuất phát từ đặc thù
này, thể thao giải trí nhanh chóng có bước phát triển mạnh mẽ và trên
thực tế, không chỉ dừng ở mức "giải trí" đơn thuần mang tính tự phát,
loại hình TT này đã trở thành bộ phận quan trọng trong đời sống thể
thao hiện đại tồn tại song song với các môn TT chuyên nghiệp.Cùng
với sự phát triển này, nhiều môn TT mang tính giải trí đã xuất hiện
như: khiêu vũ thể thao; bowling; thể thao biển, leo núi... hoặc môn thể
thao câu cá, các trò chơi vận động, các hình thức biểu diễn thể thao.
- Chức năng quân sự: Từ xưa, trong đấu tranh sinh tồn và bảo vệ
quyền lợi của của các bộ lạc, bộ tộc, quốc gia... TT đã trở thành những
bộ phận không thể thiếu trong việc huấn luyện thể lực, kỹ năng chiến
đấu cho các binh sĩ. Muốn thắng lợi () các cuộc chiến tranh, các binh
sĩ buộc phải được huấn luyện thành thục các kỹ năng như chạy, nhảy,
bơi lội.... đòi hỏi các chiến sĩ phải có thể lực và tinh thần thật
tốt,TTđóng vai trò ý nghĩa đặc biệt
- Chức năng kinh tế: TT và kinh tế có mối quan hệ tương hỗ, nhiều
nhà kinh tế cho rằng sức lao động và sản xuất được nâng cao là tiêu
chí quan trọng của sự phát triển kinh tế xã hội.Tố chất thể lực rất
qtrong, vì vậy các nước trên thế giới đã chú trọng đến tác dụng của TT
đối với việc phát triển thể lực cho người lao động, lấy việc làm giảm
thiểu tỷ lệ mắc bệnh làm thành mục tiêu thúc đẩy sức lao động sản
xuất của xã hội. TT thành tích cao và các ngành kinh tế thương mại,
du lịch, … có mối quan hệ hết sức mật thiết. Một cuộc thi đấu TT
được tổ chức ở một điểm nào đó sẽ kéo theo hàng loạt các ngành nghề
kinh tế như: Du lịch, thông tin, dịch vụ phát triển.
- Chức năng chính trị: qtrong trong vc đặt nền móng cho các mối quan
hệ chính trị giữa các quốc gia, thông qua việc tiến hành thi đấu giao
hữu các môn thể thao làm tiền đề cho các đoàn ngoại giao làm việc và
hợp tác. Trong các cuộc thi đấu quốc tế, khi VĐV của nước nào giành
được chức vô địch thì lá cờ của quốc gia đó được kéo lên cao nhất và
quốc ca của nước đó được cử hành. Vinh quang và ý nghĩa về mặt
chính trị này chỉ có thể có được khi các VĐV thi đấu hết mình vì màu
cờ sắc áo của dân tộc.
Câu 7: Anh (Chị) hãy phân tích cấu trúc một buổi tập thể dục, thể
thao. Theo Anh (chị) để một buổi tập có hiệu quả cần lưu ý đến yếu
tố nào? Tại sao?
Một buổi tập được chia làm 3 phần, yêu cầu người tập phải tuân theo để
bảo đảm luyện tập có khoa học, có hệ thống và để thể lực cùng thành tích
thể thao được nâng cao dần, đồng thời giảm tối đa các phản ứng xấu,
chấn thương có thể xảy ra cho người tập.

2.3.1. Phần chuẩn bị

- Khởi động chung: Nhằm đưa cơ thể từ trạng thái bình


thường sang trạng thái vận động và vận động cường độ cao. Gồm các bài
tập thể dục tay không chạy, nhảy, các khớp…

- Khởi động chuyên môn: Gồm những bài tập chuẩn bị cho
phần chính (Cơ bản), những bài tập này gần giống hoặc là phân đoạn của
nội dung chính, có khi là những kỹ năng vận động.
Mục đích: Bổ trợ cho nội dung chính trong phần cơ bản và ôn tập những
nội dung hoàn thiện.
2.3.2. Phần cơ bản

Phần cơ bản là phần chính của buổi tập, gồm những bài tập mới (động tác
mới) nên tập đầu tiên sau đó là những bài tập đang hoàn thiện để trở
thành KNKX vận động. Cuối cùng giành 10-15 phút tập thể lực. Các bài
tập nâng cao sức bền sắp xếp vào cuối buổi tập, không tập tăng tốc độ và
các bài tập khéo léo khi cơ thể mệt mỏi.
Trong phần cơ bản, LVĐ là vấn đề người tập phải lưu ý. Hai yếu tố
cường độ vận động và khối lượng vận động liên quan với nhau quyết định
LVĐ lớn hay nhỏ. LVĐ phải phù hợp với sức khỏe từng người. Nếu LVĐ
nhỏ thì buổi tập ít tác dụng. LVĐ hợp lý, vừa với sức chịu đựng, người
tập không phải gắng sức tối đa, tác dụng buổi tập có kết quả tốt. LVĐ quá
cao gây mệt mỏi quá sức chịu đựng, nếu kéo dài nhiều buổi tập có thể gây
ra chấn thương, mệt mỏi quá độ, sức khỏe giảm sút dẫn tới không tập
luyện tiếp tục được, có khi phải nghỉ dài, điều trị an dưỡng.
2.3.3. Phần kết thúc

Sử dụng các bài tập thả lỏng cơ bắp, hồi tĩnh, tập thở, trò chơi làm giảm
căng thẳng, xoa bóp, tắm nước nóng, tắm hơi...

Mục đích: Đưa cơ thể dần chuyển về trạng thái bình thường để hồi phục
thể lực chuẩn bị cho ngày học tập và làm việc tiếp theo.
Câu 8: Anh (Chị) hãy phân tích kỹ năng vận động, các quá trình
hình thành kỹ năng vận động?
1. Kỹ năng vận động
- Là tất cả các hoạt động của con người, bao gồm cả hoạt động
vận động đều gọi là phản xạ
- Các phản xạ được di truyền, có sẵn trong cơ thể con người từ
khi mới sinh ra đời được gọi là phản xạ không điều kiện.
Chúng có tính bẩm sinh và là cơ sở của các hành vi bản năng
- Trong quá trình sống và rèn luyện cơ sở những phản xạ
không điều kiện, có thể hình thành những phản xạ mới để
thích nghi với điều kiện sống, những phản xạ này được gọi
là phản xạ có điều kiện.
Ví dụ: trước khi đưa thức ăn vào miệng con chó, kết hợp với
chuông reo và lặp đi lặp lại nhiều lần, thì về sau chỉ cần
nghe tiếng chuông reo con chó đã có phản ứng tiết nước bọt
với tiếng chuông
 Như vậy, phản xạ có điều kiện được hình thành trong tập
luyện => xây dựng phản xạ
- Hoạt động của con người liên quan chặt chẽ với việc hình
thành các phản xạ có điều kiện rất phức tạp: phản xạ này dựa
trên phản xạ kia. Đặc biệt có thể xây dựng các phản xạ có
điều kiện ở con người dựa trên các tín hiệu đặc biệt như: lời
nói và chữ viết. Các cử động, động tác, hoạt động vận động
cũng là các phản xạ. Khi con người sinh ra với một số phản
xạ vận động bẩm sinh rất hạn chế. Phần lớn các động tác vận
động là phản xạ có điều kiện. Tức là được hình thành trong
quá trình sống hoặc do tập luyện
- Do yêu cầu của mục đích vận động và để thích nghi với điều
kiện sống các phản xạ vận động được phối hợp lại với nhau
thành một tổ hợp các động tác có ý nghĩa và trở thành kỹ
năng vận động
Kỹ năng vận động là một hình thức hành động, được hình
thành theo cơ chế phản xạ có điều kiện, nhờ quá trình tập
luyện thường xuyên
- Nói một cách đơn giản, kỹ năng vận động là các động tác
được thực hiện một cách tự động do đã trở thành thói quen.
Đi, đứng, ngồi, chạy,... là các kỹ năng vận động cơ bản. Tất
cả các kỹ thuật thể thao cũng là kỹ năng vận động
2. Quá trình hình thành kỹ năng vận động
Kỹ năng vận động được hình thành dần dần theo 3 giai đoạn: lan
tỏa, tập trung và tự động hóa
- Trong giai đoạn lan tỏa, hưng phấn lan rộng trên vỏ đại não
vì chưa hình thành được tổ hợp vận động tối ưu. Nhiều
nhóm cơ vận động cần thiết cũng tham gia vào vận động.
Động tác vì vậy không chính xác, nhiều cử động thừa, không
tinh tế
- Sau một thời gian lặp lại, giai đoạn lan tỏa chuyển sang giai
đoạn tập trung. Trong giai đoạn này hưng phấn tập trung ở
những vùng nhất định trên vỏ não, cần thiết cho vận động
Các động tác thừa mất đi, cơ căng và cơ bóp ở mức độ hợp
lí, động tác trở nên nhịp nhàng, chính xác và thoải mái hơn.
Kỹ năng vận động đã được hình thành tương đối ổn định
Trong giai đoạn tự động hóa (kỹ xảo vận động), kỹ năng vận động được
củng cố đến mức được thực hiện hầu như tự động, không cần sự chú ý
của ý thức. Kỹ năng vận động cho phép thực hiện nhiều động
Câu 9: Anh (Chị) hãy phân tích sự ảnh hưởng của tập luyện thể dục,
thể thao đối với chức tuần hoàn và hô hấp của con người?

- Vòng tuần hoàn:

Sự tuần hoàn máu diễn ra theo 2 vòng tuần hoàn: Vòng tuần hoàn
lớn và vòng tuần hoàn nhỏ.

+ Vòng tuần hoàn lớn: Bắt đầu từ tâm thất trái, máu chảy qua tất cả
các cơ quan sau đó trở về tâm nhĩ phải. Từ tâm nhĩ phải máu chảy xuống
tâm thất phải bắt đầu vòng tuần hoàn nhỏ.

+ Vòng tuần hoàn nhỏ: Máu từ tâm thất phải đi lên phổi, ở phổi
máu được trao đổi O2 và CO2 để trở thành máu động mạch rồi chảy về
tâm nhĩ trái.

Tập luyện TDTT là thay đổi huyết áp. Do mạng lưới mạch máu dày
đặc hơn và độ đàn hồi của thành mạch tốt hơn. Do đó huyết áp tối đa
giảm hơn so với người không tập luyện.
Hô hấp
Hô hấp là tổ hợp quá trình sinh lý bảo đảm cho việc cung cấp oxy
cho cơ thể và đào thải khí CO2 do bộ máy hô hấp và tuần hoàn đảm
nhiệm.
Bộ máy hô hấp có phổi là chủ yếu. Phổi được cấu tạo từ các phế
nang, thành phế nang mỏng, phía ngoài là các mau mạch dày đặc. Điều
đó là cho sự trao đổi khí giữa phổi và máu xảy ra thuận lợi.
Khi hít vào cơ hoành hạ xuống, các cơ liên sườn ngoài căng ra,
lồng ngực được dãn rộng. Phổi đàn hồi cũng căng ra và hút khí vào tận
những phế nang nhỏ nhất. Khi thở ra cơ hoành nâng lên, các cơ hô hấp
co vào và đẩy không khí ra.
Tập luyện TDTT là tăng cường hô hấp, vì vậy cũng làm tăng cường
thể tích lồng ngực.
Câu 10: Anh (Chị) hãy phân tích cơ sở sinh lý để phát triển các tố
chất vận động?
* Kỹ năng vận động
Là tất cả các hoạt động của con người, bao gồm cả hoạt động vận động
đều gọi là phản xạ.
Các phản xạ được di truyền, có sẵn trong cơ thể con người từ khi mới ra
đời được gọi là phản xạ không điều kiện. Chúng có tính bẩm sinh và là cơ
sở của các hành vi bản năng.
Trong quá trình sống và rèn luyện trên cơ sở những phản xạ không điều
kiện, có thể hình thành những phản xạ mới để thích nghi với điều kiện
sống, những phản xạ này được gọi là phản xạ có điều kiện.
Ví dụ: Trước khi đưa thức ăn vào miệng con chó, kết hợp với chuông reo
và lặp đi lặp lại nhiều lần, thì về sau chỉ cần nghe tiếng chuông reo con
chó đã có phản ứng tiết nước bọt với tiếng chuông.
=> Như vậy phản xạ có điều kiện được hình thành trong tập luyện ->
xây dựng phản xạ.
Hoạt động của con người liên quan chặt chẽ với việc hình thành các phản
xạ có điều kiện. Ở con người có thể hình thành những phản xạ có điều
kiện rất phức tạp: phản xạ này dựa trên phản xạ kia. Đặc biệt có thể xây
dựng các phản xạ có điều kiện ở con người dựa trên các tín hiệu đặc biệt
như: Lời nói và chữ viết. Các cử động, động tác, hoạt động vận động
cũng là các phản xạ. Khi con người sinh ra với một số phản xạ vận động
bẩm sinh rất hạn chế. Phần lớn các động tác vận động là phản xạ có điều
kiện. Tức là được hình thành trong quá trình sống, hoặc do tập luyện.
Do yêu cầu của mục đích vận động và để thích nghi với điều kiện sống
các phản xạ vận động được phối hợp lại với nhau thành một tổ hợp các
động tác có ý nghĩa và trở thành kỹ năng vận động.
Kỹ năng vận động là một hình thức hành động, được hình thành theo cơ
chế phản xạ có điều kiện, nhờ quá trình tập luyện thường xuyên.
Nói một cách đơn giản, kỹ năng vận động là các động tác được thực hiện
một cách tự động do đã trở thành thói quen. Đi, đứng, ngồi, chạy, nhảy,...
là các kỹ năng vận động cơ bản. Tất cả các kỹ thuật thể thao cũng đều là
các kỹ năng vận động.
- Kỹ năng vận động được hình thành dần dần, theo 3 giai đoạn: Lan tỏa,
tập trung và tự động hóa.
+ Trong giai đoạn lan tỏa, hưng phấn lan rộng trên vỏ đại não vì chưa
hình thành được tổ hợp vận động tối ưu. Nhiều nhóm cơ vận động cần
thiết cũng tham gia vào vận động. Động tác vì vậy không chính xác,
nhiều cử động thừa, không tinh tế.
+ Sau một thời gian lặp lại, giai đoạn lan tỏa chuyển sang giai đoạn tập
trung. Trong giai đoạn này hưng phấn tập trung ở những vùng nhất định
trên vỏ não, cần thiết cho vận động.
Các động tác thừa mất đi, cơ căng và co bóp ở mức độ hợp lý, động tác
trở nên nhịp nhàng, chính xác và thoải mái hơn. Kỹ năng vận động đã
được hình thành tương đối ổn định.
+ Trong giai đoạn tự động hóa (Kỹ xảo vận động), kỹ năng vận động
được củng cố đến mức được thực hiện hầu như tự động, không cần sự
chú ý của ý thức. Kỹ năng vận động cho phép thực hiện nhiều động tác
khác nhau cùng một lúc.
*Các tố chất vận động
Trong sinh hoạt, lao động, cũng như tập luyện TD, TT, con người có lúc
phải vận động rất nhanh, có lúc cần phải làm việc lâu dài với lực tương
đối nhỏ, có lúc phải thực hiện các động tác mang vác rất nặng, tức là
phải thực hiện các mặt khác nhau của khả năng vận động. Các mặt khác
nhau của khả năng vận động được gọi là các tố chất vận động hay tố chất
thể lực.
Khả năng vận động của con người có thể hiện 4 loại tố chất: Sức nhanh,
sức mạnh, sức bền và khéo léo.
Trong bất kỳ hoạt động thể lực nào, các tố chất vận động không thể hiện
riêng lẻ, mà luôn kết hợp hữu cơ với nhau. Đồng thời trong các hoạt động
thể lực cụ thể, bao giờ cũng có một hoặc vài tố chất thể lực thể hiện rõ
hơn, quyết định thành tích của toàn bộ hoạt động.
VD: Cử tạ là sức mạnh, chạy việt dã (marathon) là sức bền
Các tố chất vận động được phát triển thống nhất với kỹ năng vận động.
Sự hình thành kỹ năng vận động bao giờ cũng phụ thuộc vào mức độ phát
triển của các tố chất vận động. Và ngược lại kỹ năng vận động góp phần
làm cho các tố chất vận động được hoàn thiện dần và thể hiện có hiệu quả
hơn.
a, Sức mạnh
Là khả năng khắc phục lực cản bên ngoài của cơ bắp.
Sức mạnh cơ bắp phụ thuộc vào đặc tính của quá trình thần kinh điều
khiển sự co cơ và vào số lượng các đơn vị chứa trong cơ. Để phát huy
được sức mạnh tối đa, cần phải huy động được số lượng tối đa các đơn vị
vận động tham gia vào hoạt động.
Cơ sở sinh lý để phát triển sức mạnh: cần phải có số lượng lớn cơ tham
gia co một lúc, thả lỏng lực đối kháng và kéo căng các cơ cùng phía (cơ
hưởng ứng), tăng cường sự phối hợp đồng bộ hoạt động của nhóm cơ đối
kháng.
b, Sức nhanh (tốc độ)
Là khả năng thực hiện động tác với thời gian ngắn nhất.
- Hình thức biểu hiện của sức nhanh:
+ Hình thức biểu hiện đơn giản của sức nhanh bao gồm: (1) Thời gian
tiềm tàng của phản ứng. Đó là thời gian từ khi kích thích đến khi có phản
ứng trả lời. (2) Thời gian của động tác lẻ. (3) Tần số động tác.
+ Hình thức biểu hiện phức tạp của sức nhanh là kết quả của các thử
nghiệm vận động và bài tập thể thao tốc độ như: chạy ngắn, tần số đánh
bóng, tốc độ đập bóng,…
Để hình thành tất cả các hình thức sức nhanh nêu trên, các quá trình hưng
phấn và các phản ứng sinh hóa trong thần kinh và cơ phải xảy ra thật nhanh,
các trung tâm thần kinh phải có tính linh hoạt cao.
Các cơ sở sinh lý để phát triển tốc độ là: tăng cường độ linh hoạt và tốc
độ lan tỏa hưng phấn ở trung tâm thần kinh, tăng cường tốc độ co cơ,
tăng cường tính đồng bộ trong hoạt động của các cơ khác nhau, tăng tốc
độ thả lỏng cơ
Trong quá trình tập luyện sức nhanh phát triển tương đối chậm so với
sức mạnh và sức bền. Lứa tuổi tốt nhất là tuổi thanh thiếu niên.
c,Sức bền
Là khả năng thực hiện hoạt động trong thời gian dài. Nó thể hiện khả
năng chống đỡ của cơ thể với những biến đổi bên trong, xảy ra do hoạt
động cơ bắp kéo dài.
Các cơ sở sinh lý chủ yếu để phát triển sức bền là: mức độ phát triển của
tim mạch và hô hấp. Đó là trạng thái máu; dự trữ chất dinh dưỡng trong
cơ thể và khả năng sử dụng chúng; công suất của các quá trình trao đổi
năng lượng có và không có oxi; đặc điểm của quá trình điều nhiệt, trạng
thái của các tuyến nội tiết.
d, Khéo léo
Là khả năng thực hiện những động tác về phối hợp vận động trong điều
kiện môi trường thay đổi.
Cơ sở sinh lý của tố chất này là: phản xạ phối hợp phức tạp. Vì vậy, mức
độ phát triển khéo léo phụ thuộc vào trạng thái hệ thần kinh trung ương,
tốc độ xử lý thông tin và hình thành các chương trình hành động.
Tố chất khéo léo phụ thuộc tất chặt chẽ với mức độ phát triển của các tố
chất khác như: Sức mạnh, sức nhanh, sức bền và kỹ năng vận động.
Tập luyện TD, TT có hệ thống phát triển tất cả các tố chất vận động. Các
tố chất vận động có nhiều điểm giống nhau về cơ chế phát triển. Vì vậy
khi hoàn thiện một tố chất thì các tố chất khác ở một mức độ nhất định
cũng biến đổi theo. Ảnh hưởng hỗ trợ đó thể hiện rất rõ khi mới bắt đầu
tập luyện thường xuyên.
Tuy nhiên, một số bài tập thể lực có thể gây ảnh hưởng xấu đối với việc
phát triển một tố chất vận động.
VD: Tập tạ để phát triển sức mạnh lâu dài có thể ảnh hưởng đến sức bền
trong chạy cự ly.
Câu 12: Anh (Chị) hãy áp dụng phương pháp tập luyện vòng tròn
nhằm giáo dục tố chất sức bền trong thực tiễn tập luyện thể dục, thể
thao? Cho ví dụ?
Trong lý luận và phương pháp giáo dục thể chất, tố chất thể lực (tố chất
vận động) là những đặc điểm, mặt, phần tương đối riêng biệt trong thể lực
của con người và thường được chia thành năm loại cơ bản: Sức mạnh,
sức nhanh, sức bền, khả năng phối hợp động tác và độ dẻo
Sức bền là chỉ năng lực của cơ thế khắc phục mệt mỏi sản sinh trong quá
trình hoạt động. Sự mệt mỏi về thể xác được tạo ra bởi sự hoạt động của
cơ bắp có một ý nghĩa trong quá trình huấn luyện thể thao. Tố chất sức
bền chủ yếu nói lên khả năng khắc phục sự mệt mỏi của cơ thể trong quá
trình hoạt động thể thao.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên cho thấy việc ứng dụng phương pháp
tập luyện vòng tròn để hoàn thiện thể chất, từ đó nâng cao thành tích chạy
VD: để lựa chọn phương pháp luyện tập phù hợp cho các vận động viên
điền kinh nhằm phát triển sức bền tốc độ thì
Câu 13: Anh (Chị) hãy vận dụng nguyên tắc tăng tiến vào thực tiễn
tập luyện thể dục, thể thao? Cho ví dụ?
- Thực hiện theo ưu thế chung là tăng lượng vận động, tiêu
biểu là tăng độ phức tạp, cường độ và số thời gian tác động
của các bài tập đó
- Nếu không đổi mới các bài tập sẽ không thể tạo được một
“vốn” rộng rãi các kỹ năng và kỹ xảo quan trọng trong cuộc
sống. Đồng thời, việc đó cũng cần như 1 điều kiện để tiếp
tục hoàn thiện. Tùy theo mức độ đổi mới các bài tập mà các
kỹ năng và kỹ xảo đã có. Một điều cũng không kém phần
quan trọng khác trong quá trình tiếp thu các liên hợp động
tác khác nhau, nhờ khắc phục được các khó khăn của “nhiệm
vụ vận động” nảy sinh lúc tiếp thu đó mà phát triển, cải tạo
và hoàn thiện không ngừng hoạt động vận động.
Cùng với việc phức tạp hóa các hình thức hoạt động vận
động trong quá trình giáo dục thể chất, cần phải tăng thêm
tất cả các yếu tố hợp thành lượng vận động theo các quy luật
phát triển những tố chất thể lực, như sức mạnh, sức nhanh,
sức bền
- Những biến đổi tốt xảy ra trong cơ thể dưới tác động của các
bài tập thể lực là tỷ lệ thuận với khối lượng và cường độ vận
động
- Các phản ứng đáp lại của cơ thể đối với cùng một lượng vận
động cũng luôn thay đổi. Tùy theo mức thích nghi với một
lượng vận động cụ thể mà những biến chuyển sinh học do
lượng vận động đó gây ra sẽ trở nên ít, nhẹ hơn. Sự tiêu hao
năng lượng đối với một đơn vị công bên ngoài sẽ giảm
xuống, thông khí phổi, thể tích phút của tim cũng hạ đi =>
xảy ra sự tiết kiệm hóa các chức năng
- Nhưng, khi lượng vận động vừa trở thành quen thuộc và
không còn gây nên "thích nghi thừa ra nữa” thì nó sẽ không
còn là nhân tố cơ bản gây nên những thay đổi tốt trong cơ
thể. Để bảo đảm tiếp tục nâng cao các khả năng chức phận
của cơ thể, cần phải đổi mới có hệ thống lượng vận động,
đồng thời tăng thích hợp cả khối lượng và cường độ vận
động. Đấy là một trong những quy luật căn bản của quá trình
giáo dục thể chất. Khi giáo dục các tố chất thể lực khác
nhau, quy luật đó biểu hiện ở sự thay đổi theo chiều hướng
tăng tiến các thông số khác nhau của lượng vận động: tốc độ
động tác, trọng lượng, số lần lặp lại, tổng số thời gian hoạt
động,...
- lúc. Cần phải có một thời gian nhất định để cho kịp xảy ra
các biến đổi thích nghi, để từ đó cho phép nâng trình độ tập
luyện lên một trình độ mới cao hơn. Ở đây, đối với 13 những
biến đổi chức năng và cấu trúc khác nhau đòi hỏi những thời
hạn không giống nhau. Các khoảng thời hạn thích nghi phụ
thuộc vào độ lớn của lượng vận động. Nếu các điều kiện
khác như nhau thì lượng vận động càng lớn thì thời hạn đó
càng dài. Như vậy có thể kết luận rằng, đặc điểm tiêu biểu
của sự diễn biến lượng vận động hợp lý phải là tính tuần tự.
Ở đây có thể có các hình thức khác nhau để nâng dần: lên
thẳng, bậc thang và làn sóng
Ví dụ: một người ban đầu khi mới bắt đầu tập gym sẽ được bắt đầu với
những bài tập cơ bản, khi đã quen dần với việc tập luyện thì sẽ được nâng
dần các bài tập lên cả về mức độ và cường độ để dần đạt được những kết
quả cao hơn cũng như cơ thể cũng dần được thử thách với những mức độ
khác nhau, khó hơn so với những lần trước đó. Được tập luyện trong môi
trường mới khó hơn thì người tập mới có thể phát huy được những điểm
mạnh của b
Câu 14: Anh (Chị) hãy áp dụng các biện pháp khắc phục hiện tượng
chuột rút và say nắng trong tập luyện thể dục, thể thao?
Cách khắc phục chuột rút khi chơi thể thao
- Dừng vận động ngay;
- Nếu đang chơi thể thao trong thời tiết nóng thì cần vào nghỉ ở khu
vực thoáng mát;
- Nhẹ nhàng xoa bóp vùng cơ bị đau. Thực hiện động tác kéo giãn
cơ bị rút và giữ ở tư thế đến khi hết bị co rút. Tránh làm những
động tác gây đau và co rút cơ;
- Bị chuột rút khi chơi thể thao có thể chườm nóng vùng cơ đang bị
co rút trước, sau đó chườm lạnh vùng cơ đau;
- Uống bù nước và chất điện giải cho cơ thể;
- Nếu bị chuột rút khi chơi thể thao nhiều lần, hoặc bị chuột rút kéo
dài, không cải thiện khi đã xử trí bằng các biện pháp trên, nên gọi
cấp cứu hoặc được đưa đến khám bác sĩ chuyên khoa y học thể
thao.
Cách khắc phục say nắng khi tập luyện thể dục, thể thao
Trước một trường hợp say nắng, say nóng cần nhanh chóng tiến
hành những biện pháp sơ cứu ngay lập tức khi chưa có sự hỗ trợ của nhân
viên y tế hay phương tiện y tế:
Nhanh chóng tiến hành giảm thân nhiệt cho nạn nhân: Chuyển
ngay nạn nhân vào chỗ mát, thoáng gió, cởi bỏ bớt quần áo, cho uống
nước mát có pha muối, chườm lạnh bằng khăn mát hoặc nước đá ở những
vị trí có động mạch lớn đi gần ngoài da như nách, bẹn, cổ.
Nếu nạn nhân hôn mê không uống được nước hoặc nôn liên tục, sốt
tăng liên tục, kèm các triệu chứng đau bụng, đau ngực, khó thở thì phải
nhanh chóng chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế gần nhất. Trong quá trình
vận chuyển vẫn thường xuyên chườm mát cho nạn nhân.
Tại các trung tâm y tế, nạn nhân sẽ được truyền bù nước và điện
giải cũng như các biện pháp hỗ trợ khác. Trong trường hợp nạn nhân sốt
cao có thể dùng paracetamol để hỗ trợ hạ sốt. Nếu có co giật phải dùng
các thuốc chống co giật cho bệnh nhân. Trường hợp nạn nhân hôn mê có
thể phải đặt ống nội khí quản thở máy.
Câu 15: Anh (Chị) hãy dựa vào nguyên tắc vệ sinh cá nhân để xây
dựng một thời gian biểu phù hợp cho bản thân?
Các nguyên tắc vệ sinh cơ bản của thời gian biểu hàng ngày phải được đảm
bảo đầy đủ. Đó là những nguyên tắc sau:
+ Hàng ngày ngủ dậy một giờ nhất định; Có tập thể dục buổi sáng và làm
vệ sinh cá nhân (Rửa mặt, đánh răng, tắm rửa,..)
+ Ăn vào một giờ nhất định, không ít hơn 3 bữa 1 ngày.
+ Học tập và làm việc hàng ngày vào những giờ nhất định.
+ Tập luyện TD, TT hợp lý, ít nhất 2 lần mỗi tuần, mỗi lần 2 tiếng.
+ Hàng ngày ngủ ít nhất 8 tiếng, đi ngủ vào một giờ nhất định
Thời gian biểu em xây dựng để phù hợp với bản thân:
Sáng: 5h30-6h30 - Thức dậy, vệ sinh cá nhân, thay quần áo, tập thể dục
6h30-7h30 - Ăn sáng
8h-11h - Học tập và làm việc ( nghỉ giải lao giữa giờ 15p)
11h-12h - Nấu cơm trưa
12h-13h30 - Ăn trưa và nghỉ trưa
14h-16h30 - Học và làm việc ( nghỉ giải lao giữa giờ 15p)
16h30-18h30 - Tập TD,TT
18h30-19h30 - Nấu cơm tối
19h30-20h30 - Ăn tối và nghỉ ngơi
20h30-21h - Vệ sinh cá nhân buổi tối
21h-21h30 - Nghỉ ngơi, giải trí
Sau 21h30 - Ngủ

You might also like