Professional Documents
Culture Documents
Chuong Trinh Ly Thuyet
Chuong Trinh Ly Thuyet
Chuong Trinh Ly Thuyet
Phẫu thuật viên mổ nội soi cần hiểu biết một cách tường tận, sử dụng một
cách thuần thục và hiệu quả các trang thiết bị cũng như dụng cụ mổ nội soi.
Hình 1. Camera.
Đầu camera được nối bằng dây dẫn điện với hộp xử lý trung tâm, hộp này
nhận và xử lý các tín hiệu điện tử từ microchip ở trong camera truyền ra. Hộp xử lý
trung tâm cũng chứa các bộ phận chuyên dụng để kiểm soát nguồn cung cấp điện,
điều khiển cửa mở ống kính (iris) bằng tay hay tự động, chỉnh cân bằng trắng đen
và độ mịn của hình ảnh. Độ mở ống kính điều chỉnh lượng ánh sáng camera nhận
được thường được đặt ở chế độ tự động. Tuy nhiên, nếu có sự phản xạ từ dụng cụ
hoặc từ phúc mạc dẫn tới độ tối, sáng không phù hợp của trường nhìn cũng có thể
chỉnh thêm độ mở bằng tay.
2. Xử lý kỹ thuật số.
Một phương thức tinh vi hơn trong việc xử lý hình ảnh là áp dụng việc xử lý
kỹ thuật số hình ảnh được truyền từ CCD trong đầu camera. Các tín hiệu tương tự
lúc đầu được truyền dưới dạng sóng liên tục loại sóng này không ngừng bị biến
đổi. Nhược điểm của loại này là mỗi khi có biến đổi của sóng sẽ làm không thể tái
tạo lại chính xác những tín hiệu được truyền.
Một điều rất quan trọng trong thực hành là phải đảm bảo rằng màn hình và
thiết bị thu hình phải tương hợp với tín hiệu truyền đi từ hộp xử lý hình ảnh. Do
đó, các trang thiết bị cần phải đồng bộ.
3. Camera thứ hai.
Một hệ thống camera thứ hai thường được sử dụng trong khi thực hiện các
thủ thuật trong lòng một hệ thống cơ quan (ví dụ: soi ống mật chủ hoặc phẫu thuật
trong lòng dạ dày). Thường sử dụng một hệ thống camera và màn hình riêng rẽ đưa
vào phòng mổ. Tuy nhiên, cũng có thể sử dụng thiết bị trộn tín hiệu để có thể bớt
một màn hình khi cho hai hình trong cùng một màn hình (chia màn hình).
4. Màn hình.
Để sử dụng ưu điểm có độ phân giải cao của các camera thế hệ mới, phải có
màn hình có độ phân giải cao.
8. Áp lực.
Áp lực do máy đo phản ảnh sự đề kháng toàn bộ với sự bơm khí vào. Vì vậy,
ngoài áp lực trong ổ phúc mạc, chỉ số đo được còn phản ảnh trở lực với lưu lượng
trong hệ thống máy bơm khí. Áp lực đo được chỉ bằng áp lực trong ổ phúc mạc khi
lưu lượng khí bơm vào gần đạt tới 0. Ở lưu lượng bơm cao hơn, áp lực đo được
thực tế là trị số của áp lực bên trong hệ thống máy. Vì vậy, người phẫu thuật viên
phải biết rằng áp lực cao trong ổ phúc mạc đo được là không chính xác nếu có sự
cản trở cao dòng khí trong hệ thống bơm khí hay khi số liệu đó được đo ở thời
điểm lưu lượng bơm cao.
Khi đạt được áp lực đã được đặt trước, máy bơm được thiết kế dừng bơm
khí và tiếp tục bơm trở lại khi áp lực tụt xuống dưới mức đặt trước. Bằng cách đó
áp lực trong ổ phúc mạc hoặc trong ổ bụng luôn được duy trì ổn định theo mức
mong muốn trong suốt cuộc mổ.
Bên cạnh số đo áp lực trong ổ phúc mạc hoặc trong ổ bụng và lưu lượng
bơm khí, máy bơm còn có chỉ số cho thấy tổng thể tích khí bơm vào và một bộ
phận chỉ lượng khí còn lại trong bình khí.
9. Kim Veress.
Kim Veress là dụng cụ được sử dụng thông dụng nhất cho việc chọc bơm
khí vào bụng lúc bắt đầu mổ. Mỗi kim Veress có một cái nòng tù đầu, nó có thể tụt
vào trong khi tiếp xúc với tổ chức chắc để lộ mũi kim nhọn ra. Có một dấu chỉ
điểm ở phần chuôi kim sẽ đẩy lên trên khi nòng bị tụt vào trong. Ngay khi đã
xuyên vào ổ phúc mạc, nòng đầu tù sẽ lập tức nhô ra che đầu sắc nhọn của kim để
tránh chọc vào các nội tạng trong ổ bụng.
Sau khi kiểm tra chắc chắn đầu kim đã nằm tự do trong ổ phúc mạc có thể
bơm khí dần qua lỗ bên của kim. Sau đó kim được rút ra và trocart được chọc vào
qua cùng vị trí. Phương pháp chọc kim bơm khí này gọi là phương pháp mù hay kỹ
thuật kín (blind or closed technique) (hình 5).
Hình 16. Các loại móc có tiếp nối với dao điện
* Dụng cụ để gạt.
Để trình bày rộng rãi phẫu trường cần sử dụng một số dụng cụ được thiết kế
riêng để vén, gạt cơ quan trong khi mổ nội soi. Yêu cầu cơ bản với dụng cụ gạt là
phải giữ cơ quan ở yên vị trí và không gây chấn thương. Để đạt được những yêu
cầu này thường que gạt có bản tiếp xúc rộng, đầu hơi cong và đôi khi có khả năng
thay đổi độ gấp góc của hàm so với thân dụng cụ. Bản rộng của các lá quạt cho
phép tiếp xúc rộng để phân bổ lực đều trên cơ quan. Ngoài ra, còn tùy vào những
trường hợp và điều kiện cụ thể có thể dùng ống dẫn lưu, penrose, dải băng hay chỉ
để kéo và trình bày phẫu trường như cách làm khi mổ mở (hình 17).
1. Trần Bình Giang, Tôn Thất Bách (2005), “Phẫu thuật cắt túi mật qua nội
soi”, Phẫu thuật nội soi ổ bụng, Nhà xuất bản Y học, 2, 105 - 129.
2. AESCULAP ACADEMY GMBH (2006), “Aesculap Endoscopic
Technology”.
3. Cadière G. B.,(2000), “General Endoscopic Rules”, European Course on
Laparoscopic Surgery, 1, 14-21.
PHẪU THUẬT NỘI SOI THĂM DÒ Ổ PHÚC MẠC
1. Đại cương
Phẫu thuật nội soi ổ bụng chẩn đoán đã được H.C. Jacobaeus thực hiện từ năm
1910. Tuy nhiên sau đó phương pháp này ít được áp dụng do những hạn chế về mặt
phương tiện kỹ thuật, dụng cụ. Với sự xuất hiện của phẫu thuật nội soi, phẫu thuật nội soi
ổ bụng chẩn đoán đã được quan tâm trở lại và được áp dụng rộng rãi trong ngoại khoa,
trong sản phụ khoa.
2. Phạm vi áp dụng phẫu thuật nội soi ổ bụng chẩn đoán
Phẫu thuật nội soi ổ bụng chẩn đoán là phương pháp điều trị xâm nhập tối thiểu
giúp chẩn đoán các bệnh lý trong ổ bụng. Phương pháp này cho phép thăm dò, đánh giá
bề mặt các cơ quan trong ổ bụng, đồng thời có thể sinh thiết thương tổn, hút dịch, cấy
dịch.
Việc phối hợp các phương tiện chẩn đoán hình ảnh như siêu âm có thể giúp đánh
giá thương tổn ở sâu.
Ngoài ra, phẫu thuật nội soi ổ bụng chẩn đoán không chỉ giúp chẩn đoán mà còn
có thể can thiệp điều trị.
3. Các ưu điểm của phẫu thuật nội soi ổ bụng chẩn đoán
Phẫu thuật nội soi ổ bụng chẩn đoán có các ưu điểm:
- Cho phép trực tiếp nhìn thấy thương tổn trên màn hình có độ nét cao.
- Cho phép quan sát tổng thể toàn bộ ổ bụng, xác định chính xác vị trí thương tổn và mối
liên quan của thương tổn với các cơ quan khác trong ổ bụng.
- Cho phép sử dụng các dụng cụ phẫu thuật nội soi thăm dò, đánh giá thương tưởng thay
thế động tác sờ trong phẫu thuật mở, mang lại một phần cảm giác xúc giác góp phần đánh
giá thương tổn.
- Cho phép phát hiện được các thương tổn nhỏ < 10mm trên bề mặt các tạng hay trên
phúc mạc. Phát hiện được chính xác các thương tổn do dính, do dây chằng.
- Có thể đánh giá định tính dịch trong ổ phú mạc, hút dịch trong ổ phúc mạc để xét
nghiệm.
- Có thể sinh thiết thương tổn bằng kim xuyên qua thành bụng và dưới quan sát bằng mắt
thông qua hình ảnh trên màn hình hoặc sinh thiết bằng dụng cụ phẫu thuật nội soi, tránh
được các biến chứng của sinh thiết mù cũng như sinh thiết chính xác thương tổn.
- Có thể kết hợp các phương tiện chẩn đoán hình ảnh ngư siêu âm, Doppler để đánh giá
mạch máu, đánh giá các tạng hoặc chọc kim bơm thuốc cản quang để chụp cản quang các
tạng.
- Ngoài chẩn đoán còn cho phép xử trí điều trị thương tổn.
- Giúp giảm tỷ lệ tai biến, biến chứng và giảm thời gian nằm viện so với mổ mở thăm dò.
4. Các nhược điểm của phẫu thuật nội soi ổ bụng chẩn đoán
Ngoài các ưu điểm như kể trên, phẫu thuật nội soi ổ bụng chẩn đoán có các nhược
điểm:
- Đòi hỏi máy móc, phương tiện kỹ thuật hiện đại, đắt tiền không phải cơ sở nào cũng
trang bị được.
- Đòi hỏi phẫu thuật viên phải có kinh nghiệm, được đào tạo về phẫu thuật nội soi.
- Đây là phương pháp thăm dò gây sang chấn, có thể có những tai biến, biến chứng như
mọi trường hợp phẫu thuật nội soi ổ bụng khác.
- Đây là phương pháp cho phép đánh giá chủ yếu là các tổn thương trên bề mặt, ít cho các
thông tin về chiều sâu của thương tổn cũng như gặp khó khăn hay không thể đánh giá các
thương tổn nằm sâu trong nhu mô các cơ quan hay nằm sau phúc mạc.
- Đánh giá thương tổn chủ yếu qua hình ảnh, hạn chế về cảm giác xúc giác so với mổ mở
thăm dò.
5. Chống chỉ định phẫu thuật nội soi ổ bụng chẩn đoán
- Nhiễm trùng lan rộng trên thành bụng.
- Thoát vị thành bụng lớn.
- Có thai trong 3 tháng cuối: đây là chống chỉ định tương đối.
- Các bệnh phối hợp không cho phép bơm khí ổ bụng.
- Các bệnh lý kèm theo chống chỉ định PTNS như suy tim, rối loạn đông máu không điều
chỉnh được…
6. Kỹ thuật
6.1. Phương tiện dụng cụ
- Phương tiện, dụng cụ như phẫu thuật nội soi thông thường.
- Các máy móc kèm theo tùy trường hợp như máy siêu âm, Doppler…
6.2. Chuẩn bị bệnh nhân
Bệnh nhân được chuẩn bị như một cuộc phẫu thuật ổ bụng thông thường.
6.3. Phương pháp vô cảm
Thường tiến hành dưới gây mê nội khí quản.
6.4. Tiến hành thủ thuật
- Thành bụng được sát trùng và trải khăn mổ rộng để có thể chuyển sang mổ mở khi cần.
Bệnh nhân được đặt ống thông dạ dày, đặt ống thông tiểu.
- Đặt trocar đầu tiên: thường đặt cạnh rốn theo kỹ thuật Hasson hay kỹ thuật bơm hơi
bằng kim Veress. Trong trường hợp bệnh nhân có sẹo mổ cũ đi qua vùng rốn thì có thể
đặt trocar đầu tiên ở vùng mà thành bụng không có sẹo.
- Bơm CO2 ổ phúc mạc tới áp lực 12 - 14mmHg. Đưa ống soi vào đánh giá sơ bộ ổ phúc
mạc. Các trocar tiếp theo được đặt dưới quan sát trực tiếp qua màn hình. Vị trí và số
lượng trocar đặt tùy theo bệnh lý và tùy theo đặc điểm bệnh nhân.
- Quan sát, đánh giá ổ bụng một cách toàn diện và có phương pháp để tránh bỏ sót
thương tổn. Tùy theo vùng thăm dò mà thay đổi tư thế bệnh nhân tạo điều kiện bộc lộ tốt
phẫu trường cũng như thao tác. Ví dụ khi thăm dò vùng hạ sườn trái nên cho bệnh nhân ở
tư thế đầu cao và nghiêng trái giúp các tạng đổ xuống dưới, sang trái từ đó vùng hạ sườn
phải, vòm hoành dễ dàng bộc lộ, đánh giá. Khi thăm dò tiểu khung cần đặt bệnh nhân ở
tư thế Trendelenbourg.
- Sinh thiết trong ổ bụng là một động tác quan trọng trong phẫu thuật nội soi ổ bụng chẩn
đoán. Có thể sinh thiết bằng kim chọc qua da dưới huống dẫn và nhìn trực tiếp trên màn
hình để xác định đúng thương tổn. Có thể sinh thiết bằng dụng cụ phẫu thuật nội soi như
kéo… cho phép lấy được các bệnh phẩm kích thước lớn hơn. Có thể kết hợp làm giải
phẫu bệnh tức thì.
- Nếu cần xét nghiệm tế bào có thể tiến hành rửa ổ phúc mạc với khoảng 500ml nước
muối sinh lý, xoay tư thế để dịch chảy khắp ổ phúc mạc sau đó hút dịch ra làm xet
nghiệm.
- Có thể lấy dịch đọng, mủ, giả mạc… trong ổ phúc mạc để soi tươi hoặc cấy vi khuẩn.
* Thăm dò vùng hạ sườn phải:
Bệnh nhân được nằm tư thế đầu cao, nghiêng trái giúp các tạng đổ xuống dưới,
sang trái giúp bộc lộ vùng hạ sườn phải dễ dàng.
Cần có ống soi nghiêng.
Chủ yết thăm dò gan, đường mật, vòm hoành phải.
* Thăm dò vùng hạ sườn trái:
Bệnh nhân được nằm tư thế đầu cao, nghiêng phải giúp các tạng đổ xuống dưới,
sang phải giúp bộc lộ vùng hạ sườn trái dễ dàng.
Cần có ống soi nghiêng.
Chủ yếu thăm dò lách, tâm vị, đáy vị, vòm hoành trái; thận và thượng thận trái
phía sau. Cần cẩn thận tránh vớ lách
* Thăm dò hai hố chậu:
Bệnh nhân được nằm tư thế đầu thấp, nghiêng sang bên đối diện. Vùng hố chậu
trái có đại tràng xích ma, niệu quản trái. Vùng hố chậu phải có manh tràng, ruột thừa, đại
tràng lên, đoạn cuối hồi tràng và niệu quản phải.
* Thăm dò vùng hạ vị và tiểu khung:
Bệnh nhân được nằm tư thế đầu thấp, nghiêng sang bên đối diện. Đánh giá các
tạng trong tiểu khung như tử cung, phần phụ, bàng quang…
Thăm dò vùng này áp dụng nhiều trong phụ khoa cũng như ngoại khoa.
6.5. Các chỉ định chính
6.5.1. Chẩn đoán giai đoạn trong ung thư
Đối với ung thư, phẫu thuật nội soi ổ bụng chẩn đoán giúp:
- Chẩn đoán và sinh thiết khối u.
- Đánh giá khả năng mổ xẻ.
- Đánh giá mức độ di căn trong ổ bụng.
- Phát hiện các khối u chưa chẩn đoán được trước mổ.
Chỉ định trong các bệnh lý:
- Ung thư thực quản
- Ung thư dạ dày
- Ung thư tụy và ung thư quanh bóng Vater
- Ung thư gan
- Ung thư đường mật
- Ung thư đại - trực tràng
- Lymphoma
6.5.2. Phẫu thuật nội soi ổ bụng chẩn đoán trong cấp cứu ngoại khoa
Phẫu thuật nội soi ổ bụng chẩn đoán không những giúp có chẩn đoán chính xác
các trường hợp nghi ngờ bệnh lý ngoại khoa cấp cứu mà còn cho phép điều trị nguyên
nhân trong nhiều trường hợp. Giúp giảm tỷ lệ biến chứng và tử vong do chẩn đoán muộn,
chẩn đoán sai.
Chỉ định chung:
- Đau bụng cấp
- Các trường hợp chấn thương bụng kín
- Các trường hợp ở ICU nghi ngờ
6.5.3. Phẫu thuật nội soi ổ bụng chẩn đoán trong các bệnh lý mạn tính
- Đau mạn tính vùng chậu và lạc nội mạc tử cung
- Bệnh gan mạn (bao gồm cả xơ gan)
- Vô sinh
- Tinh hoàn ẩn trong ổ bụng
- Các bệnh lý khác
6.5.4. Các chỉ định khác (thăm dò biến chứng sau mổ, …)
Tóm lại: phẫu thuật nội soi ổ bụng chẩn đoán ngày càng được áp dụng rộng rãi
giúp chẩn đoán chính xác, giảm tỷ lệ chẩn đoán muộn và các trường hợp mở bụng không
cần thiết. Tuy nhiên là một phương pháp xâm nhập có nguy cơ gây tai biến, biến chứng
cũng như đòi hỏi trang thiết bị đắt tiền, phẫu thuật viên phải được đào tạo và có kinh
nghiệm.
1. Trần Bình Giang, Tôn Thất Bách (2005), "Nội soi ổ bụng chẩn đoán", Phẫu thuật
nội soi ổ bụng, NXB Y học, 12, 289-302.
2. Decadt B, Sussman L, Lewis MP, Secker A, Cohen L, Rogers C, Patel A, Rhodes
M Randomized clinical trial of early laparoscopy in the management of acute non-
specific abdominal pain. Br J Surg 1999; 86(11):1383-6
3. Gaitan H, Angel E, Sanchez J, Gomez I, Sanchez L, Agudelo C. Laparoscopic
diagnosis of acute lower abdominal pain in women of reproductive age. Int J Gyn
Obstr 2002; 76(2):149-58.
4. Majewski, W. Diagnostic Laparoscopy for the Acute Abdomen and Trauma.
Surgical Endoscopy 2000;14(10):930-7.
https://www.sages.org/publications/guidelines/guidelines-for-diagnostic-laparoscopy/
CẮT RUỘT THỪA BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI
Năm 1848 ở Anh, Henri Hancok là người đầu tiên thực hiện mổ thành công
trường hợp viêm ruột thừa. Đến năm 1889, Charles MacBurney đưa ra tiêu chuẩn
chẩn đoán và điều trị phẫu thuật trong bệnh lý viêm ruột thừa. Kể từ đó, hầu như
không có sự thay đổi kỹ thuật mổ trong điều trị viêm ruột thừa, có chăng chỉ thay
đổi một ít về đường mổ để phù hợp với tính thẩm mỹ. Tuy nhiên, khi áp dụng mổ
nội soi trong bệnh lý đường mật như sỏi túi mật và trào ngược thực quản đã đem
đến kết quả rất mỹ mãn so với mổ mở. Mổ nội soi có những ưu điểm như: ít đau
sau mổ, thời gian phục hồi sau mổ nhanh, giảm tỉ lệ nhiễm trùng vết mổ, thời gian
nằm viện được rút ngắn, sớm trả bệnh nhân về lao động... Với những ưu điểm trên
mổ nội soi đã dần được áp dụng rộng rãi sang các lĩnh vực khác như mổ : cắt ruột
thừa, cắt kết tràng, cắt lách, cắt thực quản , cắt gan, thoát vị bẹn, nối mật ruột, nối
dạ dày hổng tràng... Chưa dừng lại ở đó, hiện nay mổ nội soi không những áp dụng
mổ các tạng trong ổ bụng mà còn được áp dụng ở các lĩnh vực khác trong tiết niệu,
chấn thương-chỉnh hình, phụ khoa, thần kinh...
Ở Việt Nam, mặc dù phẫu thuật nội soi ổ phúc mạc được du nhập từ những
năm đầu thập niên 90 nhưng đến nay hầu như các phẫu thuật viên đã và đang dần
dần làm chủ với loại phẫu thuật này, bởi lẽ hiện nay phẫu thuật nội soi không
những chỉ đơn thuần được tiến hành ở các Bệnh viện lớn cũng như các trung tâm
lớn, bệnh viện tuyến Tỉnh mà dần dần đã được tiến hành ở các cơ sở như tuyến
Quận, tuyến Huyện...
Những ưu thế của phương pháp mổ cắt ruột thừa qua nội soi ổ phúc mạc.
- Quan sát được toàn bộ ổ phúc mạc.
- Chẩn đoán và xử trí các thương tổn không phải là viêm ruột thừa (chẩn
đoán nhầm trước mổ)
- Ít làm sang chấn tổ chức, nhanh chóng tái lập lưu thông tiêu hóa.
- Ít đau sau mổ, rút ngắn ngày nằm viện, nhanh chóng trở lại cuộc sống bình
thường.
- Giảm tỉ lệ nhiễm trùng thành bụng sau mổ nhất là ở bệnh nhân béo phì và ở
bệnh nhân đái tháo đường...
1. Chỉ định
- Viêm ruột thừa cấp tính và mãn tính.
- Viêm phúc mạc khu trú hoặc toàn thể.
- U nhầy ruột thừa.
- Nghi ngờ ruột thừa viêm cấp (nội soi chẩn đoán)
2. Chống chỉ định.
- Đám quánh ruột thừa.
- Áp-xe ruột thừa.
- Rối loạn huyết động (tuyệt đối). Đường mổ cũ nhiều lần, ổ phúc mạc dính
nhiều hoặc ở bệnh nhân có kèm theo các bệnh lý nội khoa nặng như trong các bệnh
lý về: hô hấp, tim mạch, suy gan, rối loạn chức năng đông máu... là những chống
chỉ định tương đối.
3. Chuẩn bị bệnh nhân trước mổ.
- Xem xét lại các xét nghiệm cơ bản như điện tim, x quang phổi...
- Giải thích tình trạng bệnh và phương pháp mổ cho bệnh nhân và thân nhân
bệnh nhân.
- Nên tiêm kháng sinh trước khi mổ 30 phút.
- Đặt sonde mũi dạ dày với những bệnh nhân có tình trạng chướng bụng,
viêm phúc mạc, nôn mửa.
- Bàng quang cần được làm xẹp bằng cách cho bệnh nhân đi tiểu trước mổ
hoặc đặt sonde niệu đạo - bàng quang.
- Đặt bệnh nhân tư thế nằm ngữa (thay đổi tư thế Trendelenburg sau khi đã
bơm hơi ổ phúc mạc và đặt các trocarts), tay phải dạng 90 độ so với thân mình, tay
trái khép theo trục của cơ thể.
- Sát trùng thành bụng trước bên và trải khăn mổ để hở vùng bụng dưới.
4. Phương pháp gây mê.
Gây mê nội khí quản.
Tê tủy sống (một số trường hợp đặc biệt)
5. Vị trí nhóm mổ và phương tiện.
Thông thường cho một phẫu thuật cắt ruột thừa nội soi, nhóm mổ gồm 3
người: (Hình 1)
Phẫu thuật viên, bác sỹ phụ I (cầm Camera) và dụng cụ viên.
- Phẫu thuật viên (Số 1) đứng bên trái mức gai chậu trước trên.
- Bác sỹ phụ I (số 2) đứng ngang gần ngang mức vai của bệnh nhân, cùng
bên với phẫu thuật viên.
- Dụng cụ viên đứng bên phải, đối bên phẫu thuật viên. Bàn dụng cụ để cùng
bên với người đưa dụng cụ.
- Màn hình đặt bên phải ngang mức của phẫu thuật viên.
Hình 1: Tư thế bệnh nhân, nhóm mổ và phương tiện trong cắt ruột thừa nội soi.
Hình 2: Kẹp vào mạc treo ruột thừa, phẫu tích mạc treo ruột thừa bằng dao điện
Mạch máu mạc treo ruột thừa được cắt bằng dao điện đơn cực hoặc lưỡng
cực. Nên đốt sát vào chỗ bám của mạc treo với ruột thừa vì ở đây các mạch máu đã
chia thành những nhánh nhỏ vả lại tránh được làm tổn thương manh tràng trong
quá trình đốt điện, tiếp tục giải phóng mạc treo ruột thừa cho đến gốc ruột thừa
(Hình 2). Có thể sử dụng Endoclips, chỉ thắt, kẹp ghim cắt thẳng 30mm (Endo
TA30) (Hình 3).
Hình 4: Treo ruột thừa bằng vòng chỉ, cắt mạc treo ruột thừa bằng ghim thẳng.
Xử lý gốc ruột thừa có nhiều phương pháp. Thông thường dùng một sợi chỉ
đã tạo thòng lọng sẳn (endoloop) hoặc dùng một sợi chỉ có thòng lọng tự tạo cho
vào để thắt gốc ruột thừa. Cũng có thể dùng kim chỉ khâu qua gốc ruột thừa và làm
nút thắt trong ổ phúc mạc hoặc dùng dụng cụ khâu thắt tự động (Endo TA) để cặp
cắt ruột thừa (hình 5).
Cuộc mổ kết thúc khi rút các trocarts, khâu đóng các lỗ trocarts 10mm hai
lớp, lỗ trocart 5mm một lớp.
Ngoài ra, một số tác giả áp dụng phương pháp cắt ruột thừa ngoài ổ phúc
mạc hoặc cắt ruột thừa bằng 2 trocarts với 1 thòng lọng treo ruột thừa vào thành
bụng trước bên, hoặc cắt ruột thừa bằng 1 trocart đa chức năng (single port).
1. Nguyễn Văn Liễu (2005), Đánh giá kết quả điều trị ruột thừa viêm bằng
phương pháp phẫu thuật nội soi tại bệnh viện Trường Đại học Y khoa Huế,
Y học thực hành, 521, trang 697-701.
2. Nguyễn Văn Liễu, Nguyễn Hữu Trí, Nguyễn Đoàn Văn Phú, (2008),
“Nghiên cứu ứng dụng điều trị ruột thừa viêm bằng phương pháp phẫu thuật
nội soi tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế (qua 2139 trường hợp)”,
Y học Thành phố Hồ Chí Minh, tập 12, số 4, trang 215-219.
3. Bailey R. W., Flowers J. L., (1995), “Appendectomy”, Complication of
Laparoscopic Surgery, 6, pp. 161 - 183.
4. Fitzgibbons R. I., Ulualp K. M., (1997), “Laparoscopic Appendectomy”,
Mastery of Surgery, 130, 1412 - 1419.
5. Kacarian K. K., Roeder W. J., Mershheimer W. L., (1970), “Decreasing
mortality and Increasing morbidity from Acute Appendicitis”, Am. J.
Surgery, 119, pp. 681 - 685.
6. Matthews J. B., Hodin R. A., (2001), “Acute Abdomen and Appendix”,
Surgery Scientific Principles and Pratice, 52, pp. 1224 - 1236.
7. Muiller B. A., Daling J. R. Moorne D. R., Weiss N. S., (1986),
“Appendectomy and the Risk of Tubal Inferrity”, N. Eng. J. Med., 315, pp.
1506 - 1508.
8. SAGES (2009), Guideline for laparoscopic appendectomy
9. Schwartz S. I., (1999), “The Appendix”, Principles of Surgery, 27, pp. 1383
- 1393.
10.Zolinger R.M., Ellison E.C., Bitans M., Smith J. (2011), Zollinger‘s Atlas of
surgical operations, 9th, Mc Graw Hill medical.
CẮT RUỘT THỪA NỘI SOI Ở PHỤ NỮ CÓ THAI
1. Đại cương
Ruột thừa viêm xảy ra với tỷ lệ 1/500 đến 1/2000 phụ nữ có thai. Ruột thừa
viêm cấp có thể gặp trong bất kỳ giai đoạn nào của thai kỳ với tỷ lệ trong 3 tháng
đầu, 3 tháng giữa và 3 tháng cuối thay đổi tùy theo từng nghiên cứu. Biểu hiện lâm
sàng của ruột thừa viêm rất đa dạng, tùy thể lâm sàng của bệnh và tùy theo đáp ứng
của từng bệnh nhân. Bên cạnh đó, tuổi thai cũng là một yếu tố ảnh hưởng gây biến
đổi triệu chứng lâm sàng.
Cho đến thập niên 1990, phụ nữ có thai vẫn là chống chỉ định của phẫu thuật
nội soi. Với nhiều nghiên cứu và báo cáo thời gian sau đó, rào cản của chỉ định
phẫu thuật nội soi trong thai kỳ đã dần dần được tháo bỏ. Các nghiên cứu gần đây
cho thấy cắt ruột thừa nội soi gần như đã trở thành thường quy trong nửa đầu thai
kỳ. Một vài tác giả đã đưa ra khuyến cáo mức giới hạn của tuổi thai an toàn cho
phẫu thuật nội soi là 20 tuần, các nghiên cứu sau đó như của Park (2009) là 26 – 28
tuần. Một vài tác giả đã sử dụng phẫu thuật nội soi ngay cả trên sản phụ ở 3 tháng
cuối thai kỳ như Rollin (2004), Holzer (2011).
2. Biểu hiện lâm sàng và chẩn đoán ruột thừa viêm trong thai kỳ
2.1. Lâm sàng:
- 3 tháng đầu thai kỳ, các triệu
chứng thực thể tương đối điển hình với các
điểm đau ở hố chậu phải (Mc Burney,
Lanz, Clado) và các nghiệm pháp
(Blumberg, Rovsing, Phản ứng thành
bụng…)
- 3 tháng giữa và 3 tháng cuối thai
kỳ: vị trí của ruột thừa cao dần do thai lớn,
đẩy ruột thừa lên cao. Các điểm đau khu
trú có thể thay đổi lên trên mào chậu, ở
hông phải, thậm chí lên đến hạ sườn phải.
Các nội tiết tố có tác dụng giảm
trương lực cơ trong thai kỳ, đặc biệt là an
thai tố (progesterone) sẽ làm giảm các
triệu chứng lâm sàng của ruột thừa viêm chưa biến chứng hay đã có biến chứng
viêm phúc mạc. [12]
Tỷ lệ chẩn đoán chính xác ruột thừa viêm bằng lâm sàng đơn độc chỉ đạt
khoảng 57%.
2.2. Cận lâm sàng và các phương tiện chẩn đoán hình ảnh
- Công thức máu
Số lượng bạch cầu tăng từ 10 – 15 x 109/L. Tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính
trên 75%. Tuy nhiên, thai nghén có thể gây ra tăng bạch cầu lành tính trong máu
đến 15 x 109/L mà không có bất kỳ tiêu điểm nhiễm trùng nào. Do đó, bạch cầu
tăng cao có thể không có giá trị chẩn đoán.
- Siêu âm bụng
Siêu âm bụng là công cụ đắc lực giúp hỗ trợ chẩn đoán vì có thể khảo sát
ruột thừa viêm và loại trừ các nguyên nhân khác mà không ảnh hưởng đến thai.
Giả thuyết tăng nhiệt độ thai nhi khi siêu âm bụng lặp lại nhiều lần vẫn chưa được
chứng minh. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy độ nhạy của siêu âm khi khảo
sát ruột thừa viêm từ 75-89%, độ đặc hiệu 95-100%.
Siêu âm bụng còn là công cụ chẩn đoán hình ảnh đầu tay đối với sản khoa,
không những để xác định có thai mà còn để khảo sát các bất thường của thai nhi và
phần phụ. Tim thai dương tính trên siêu âm là 1 trong 3 dấu hiệu chắc chắn có thai.
Siêu âm có thể khảo sát tim thai từ tuần thứ 6 tính từ kinh cuối cùng bằng đường
bụng, tuần thứ 5 bằng đầu dò âm đạo.
- Chụp cắt lớp vi tính
Chụp cắt lớp được chỉ định hạn chế trong thai kỳ với nguy cơ quái thai do
phóng xạ, đặc biệt là trong 3 tháng đầu thai kỳ. Tuy nhiên, nguy cơ đối với thai
được cho là không đáng kể khi chụp với liều dưới 50mGy. Việc kết hợp thêm cắt
lớp vi tính đã làm giảm tỷ lệ cắt ruột thừa trắng trong thai kỳ xuống 8%.
- Chụp cộng hưởng từ
Cộng hưởng từ không đặt bệnh nhân đối diện với tác hại của phóng xạ như
cắt lớp vi tính và hiện nay vẫn chưa có các báo cáo về tác hại đối với thai khi chụp
trong thai kỳ. Cộng hưởng từ vừa có giá trị chẩn đoán cao với ruột thừa viêm, vừa
là công cụ hữu hiệu để chẩn đoán các bệnh lý khác trong ổ bụng ở phụ nữ có thai.
Chẩn đoán ruột thừa viêm trong thai kỳ dựa vào cộng hưởng từ có độ nhạy 90%,
độ đặc hiệu 98%, độ chính xác 97,5%.
3. Các loại thuốc sử dụng trong thai kỳ
- Sử dụng kháng sinh
Kháng sinh tĩnh mạch nên cho trước, trong và sau phẫu thuật: kháng sinh
nhóm cephalosporin và metronidazole đang sử dụng trên lâm sàng được đánh giá
là an toàn, không có nguy cơ gây quái thai.
Các nhóm còn lại đều có ít nhiều tác động xấu đến mẹ và thai nên hầu như
không được sử dụng trong thai kỳ: aminoglycoside có khả năng làm yếu thần kinh
cơ khi sử dụng cùng MgSO4 hoặc thuốc dãn cơ không khử cực. Quinolone được
nhà sản xuất khuyến cáo không sử dụng trong thời gian mang thai và trẻ em do ảnh
hưởng bất lợi đến mô xương và sụn.
- Thuốc giảm đau
Acetaminophen là loại thuốc giảm đau loại nhẹ được ưa thích sử dụng vì
không có nguy cơ gây quái thai và liều thông thường ở mẹ không gây độc thai nhi.
Aspirin làm tăng nguy cơ xuất huyết chu sinh, codein và propoxyphene có thể gây
nghiện ở mẹ và hội chứng cai opioid ở trẻ sơ sinh. Indomethacin là thuốc kháng
viêm không steroid được sử dụng để điều trị sinh non, sử dụng hơn 48 giờ có thể
gây thiểu ối.
- Thuốc giảm go
Nhiều nghiên cứu trên thế giới và các bảng hướng dẫn điều trị cũng không
ủng hộ việc sử dụng thuốc giảm go dự phòng trước và sau phẫu thuật. Chỉ sử dụng
khi nghi ngờ hoặc có bằng chứng của cơn go tử cung.
Các loại thuốc giảm go trên thế giới và trong nước hiện đang sử dụng như
thuốc ức chế kênh canxi (nifedipine), thuốc đồng vận thụ thể beta – adrenergic
(salbutamol, terbutaline), chất ức chế cyclooxygenase (indomethacin), MgSO4 đều
không có bằng chứng cho thấy kết quả điều trị bảo tồn với thuốc giảm go làm thay
đổi kết quả dọa sinh non. Việc phối hợp thuốc giảm go tăng tác dụng phụ lên mẹ.
Đối với thai dưới 14 tuần thường có thêm chỉ định sử dụng nội tiết an thai
(progesterone tự nhiên hoặc tổng hợp). Thai từ 28 đến 34 tuần hỗ trợ trưởng thành
phổi với corticosteroid.
4. Ảnh hưởng của việc bơm CO2 trong ổ phúc mạc đến thai kỳ
Thay đổi huyết động, chức năng thông khí phổi, cân bằng kiềm toan, áp lực
nội sọ, chức năng thận … khi bơm hơi ổ phúc mạc (chủ yếu được sử dụng là CO2)
đã được nghiên cứu từ lâu. Đối với thai kỳ đặc biệt quan trọng là huyết động và
thăng bằng kiềm toan.
Bơm CO2 ổ phúc mạc làm giảm chỉ số tim, tăng áp lực động mạch trung
bình và tăng sức cản mạch máu. Gia tăng áp lực ổ bụng làm giảm hồi lưu tĩnh
mạch và cung lượng tim, dẫn đến giảm tưới máu tử cung, tăng áp lực buồng tử
cung và có thể dẫn đến giảm tưới máu thai nhi. Giảm tưới máu tử cung – nhau có
thể đến 61% khi bơm áp lực 20mmHg trên cừu.
Áp lực thấp 8 – 12 mmHg thường được sử dụng trong thai kỳ để giảm tối đa
tác dụng phụ lên thai. Áp lực này được Hunter và cộng sự (1994) đề xuất sau khi
nghiên cứu trên cừu mẹ mang thai. Tác dụng phụ khi bơm CO2 vào ổ phúc mạc
gồm tăng CO2 máu, tăng nhịp tim và tăng huyết áp. Tuy nhiên các tác dụng phụ
này chỉ xuất hiện thoáng qua. Mặc dù Hunter lo ngại các tác dụng phụ gây ảnh
hưởng xấu đến quá trình hình thành cơ quan nhưng những nghiên cứu sau đó đều
không ghi nhận biến đổi bất thường hình thành cơ quan ngay cả khi bơm CO2 để
cắt ruột thừa nội soi trong 3 tháng đầu thai kỳ.
Áp lực bơm hơi được khuyến cáo trong bảng hướng dẫn điều trị của Hiệp
hội phẫu thuật nội soi và tiêu hóa Hoa Kỳ là dưới 12mmHg để đảm bảo vừa an
toàn cho mẹ và thai, vừa tạo đủ không gian cho việc quan sát và thao tác trong ổ
phúc mạc.
Nguy cơ tăng CO2 máu là một vấn đề có thực. Nhiều tác giả khuyến cáo
theo dõi liên tục và duy trì áp lực CO2 cuối kỳ thở ra dưới 35mmHg bằng cách
tăng thông khí cho mẹ. Phương pháp theo dõi O2 mao mạch được nhiều tác giả
chọn lựa vì dễ thực hiện hơn so với việc làm khí máu động mạch trước, trong và
sau mổ.
5. Chuẩn bị bệnh nhân trước mổ và vị trí phẫu thuật
Nhịn ăn từ khi chẩn đoán ruột thừa viêm, vệ sinh vùng mổ.
Hội chẩn BS Sản phụ khoa để phối hợp theo dõi trước, trong và sau mổ.
Đi tiểu trước mổ hoặc đặt sonde tiểu để làm xẹp bàng quang.
Đặt sonde dạ dày với những tình trạng chướng bụng, nôn mửa.
Kháng sinh trước phẫu thuật: Cephalosporin thế hệ thứ 3 an toàn đối với thai
kỳ (Ceftriaxone, Cefuroxim).
Tư thế bệnh nhân: nằm ngửa, cố định bệnh nhân vào bàn mổ. Chuyển sang
tư thế nghiêng trái 10 - 20o sau khi đặt trô ca để giảm nguy cơ đè ép tĩnh mạch chủ
dưới khi thai từ 18 tuần trở lên.
- Phương pháp vô cảm: mê nội khí quản.
- Vị trí kíp mổ:
Phẫu thuật viên đứng bên trái bệnh nhân.
Người phụ đứng bên phải bệnh nhân khi đặt trô ca đầu tiên, sau đó di chuyển
về phía bên trái bệnh nhân để cầm ống soi.
Bác sỹ gây mê đứng phía trên đầu bệnh nhân.
Màn hình đặt ngang hoặc trên mức rốn ở phía bên phải bệnh nhân.
6. Kỹ thuật
6.1. Đặt trocart đầu tiên trong phẫu thuật nội soi ở phụ nữ có thai
3 tháng đầu: tương tự như cắt ruột thừa bình thường. Lưu ý hướng trocart
lên thượng vị trong quá trình thao tác để tránh xâm phạm tử cung.
3 tháng giữa và cuối:
- Khuyến cáo thực hành lâm sàng của Hiệp hội phẫu thuật viên sản phụ khoa
Pháp về việc đặt trocart đầu tiên trên phụ nữ có thai đã đưa ra chống chỉ định sử
dụng bơm hơi bằng kim Veress tại rốn khi thai từ 14 tuần trở lên, 2 phương pháp
đặt trocart khuyến khích sử dụng là phương pháp mở tại rốn hoặc trên rốn (tùy
thuộc vị trí đáy tử cung) và phương pháp đặt trô ca ở hạ sườn phải.
- Hiệp hội phẫu thuật viên tiêu hóa và nội soi Hoa Kỳ khuyến cáo vẫn sử
dụng phương pháp đặt trocart theo kỹ thuật mở của Hasson hoặc sử dụng kim
Veress. Tuy nhiên, vị trí đặt trocart có thể thay đổi để tránh việc tác động lên tử
cung cũng như để tránh sẹo mổ cũ trước đó.
- Một số tác giả đặt trocart đầu tiên theo kỹ thuật mở của Hasson trên rốn
trong 3 tháng đầu, trên đường trắng giữa cách đáy tử cung 3 – 4 cm đối với thai lớn
trên rốn
6.2 Tiến trình kỹ thuật:
Bệnh nhân được đặt ở tư thế nghiêng trái 10 – 20o sau khi đặt xong các
trocart. Bơm hơi áp lực 8 – 12 mmHg.
Sau khi đặt trô ca đầu tiên theo 1 trong các phương pháp kể trên, đưa ống soi
để quan sát ổ phúc mạc.
Đặt 2 trocart còn lại dưới sự quan sát trực tiếp trên màn hình. Vị trí của 2 trô
ca còn lại cũng được đặt tùy thuộc vào đáy tử cung và vị trí ruột thừa quan sát
được: 3 tháng đầu đặt ở hố chậu phải và trái như thường quy, 3 tháng giữa và cuối
có thể đặt ở hạ sườn phải và mạn mỡ phải.
Đôi khi cần đến 4 trô ca để giải phóng ruột thừa trong trường hợp ruột thừa
sau manh tràng.
Thăm dò ổ phúc mạc: sau khi đặt trô ca và bơm hơi ổ phúc mạc cần quan sát
kỹ tình trạng ổ phúc mạc, các tạng trong ổ bụng. Quan sát các cơ quan trong tiểu
khung: tử cung, 2 buồng trứng… tránh việc tác động trực tiếp gây kích thích lên tử
cung.
Xử lý ruột thừa: thông thường ruột thừa được xử lý hoàn toàn trong ổ phúc
mạc với xử trí động mạch ruột thừa, mạc treo ruột thừa, cắt ruột thừa bỏ vào bao
sau khi buộc bằng nơ tự tạo hoặc kẹp bằng clip nội soi.
Sau khi cắt ruột thừa, kiểm tra lại gốc ruột thừa, mạc treo, hút sạch dịch
phản ứng. Kiểm tra không xâm phạm đến tử cung và phần phụ. Chỉ súc rửa và hút
thật sạch ổ phúc mạc trong trường hợp ruột thừa thủng, hoại tử gây viêm phúc
mạc. Cần phải làm sạch các hố, ngách trong ổ phúc mạc tránh để dịch đọng lại.
Nếu ruột quá chướng, nhiều giả mạc, dày dính không thể làm sạch qua nội soi tốt
nhất nên chuyển sang mổ hở.
Các lỗ trô ca 10 mm được đóng 2 lớp, trô ca 5 mm đóng 1 lớp.
7. Chăm sóc hậu phẫu
Truyền dịch 12 - 24 giờ sau phẫu thuật.
Vận động sớm.
Cho ăn nhẹ khi tái lập lưu thông tiêu hóa.
Kháng sinh tĩnh mạch Cephalosporin thế hệ thứ 3 (Ceftriaxone, Cefuroxim)
liều 2 – 3 gam / ngày. Có thể kết hợp metronidazole chuyền tĩnh mạch chậm liều 1
– 1,5 gam / ngày nếu ruột thừa vỡ mủ, viêm phúc mạc.
Giảm đau acetaminophene 2 – 3 gam / ngày.
Theo dõi sát tình trạng bụng trước, trong và sau phẫu thuật. Nếu có dấu hiệu
của đau bụng hạ vị (từng cơn hoặc trì nặng bụng dưới), cơn go tử cung hoặc ra
máu âm đạo, xóa mở cổ tử cung, vỡ ối thì hội chẩn Sản khoa để điều trị theo phác
đồ dọa sẩy, dọa sinh non:
Nghỉ ngơi tuyệt đối tại giường
Giảm go 1 trong 4 nhóm: thuốc ức chế kênh canxi (nifedipine), thuốc
đồng vận thụ thể beta – adrenergic (salbutamol, terbutaline), chất ức chế
cyclooxygenase (indomethacin), MgSO4
An thai bằng progesterone tự nhiên hoặc tổng hợp khi thai kỳ dưới 14
tuần.
Corticosteroid cho thai dưới 35 tuần.
Kiểm tra bằng CTG đối với thai trên 22 tuần và siêu âm bụng cho toàn
bộ thai kỳ để tìm các dấu hiệu bất thường của tử cung và thai.
8. Các biến chứng của cắt ruột thừa nội soi trong thai kỳ
8.1. Biến chứng trên mẹ
- Tràn khí dưới da
- Nhiễm trùng vết mổ
- Chảy máu vết mổ
- Chảy máu trong bụng
- Viêm phúc mạc
- Khác: nhiễm trùng đường tiểu, viêm phổi
8.2. Biến chứng trên thai
Ngoài những biến chứng kể trên thì phẫu thuật trong thai kỳ đưa đến các
nguy cơ: quái thai của thuốc mê hoặc các loại thuốc khác dùng trong và sau phẫu
thuật, rối loạn tưới máu tử cung – nhau và oxy hóa thai trong phẫu thuật, nguy cơ
sẩy thai hoặc sinh non.
Phẫu thuật nội soi đem lại các biến chứng liên quan đến việc chấn thương tử
cung hoặc thai, thai nhiễm toan do hấp thụ khí CO2 và giảm cung lượng tim mẹ và
tưới máu tử cung – nhau do gia tăng áp lực ổ bụng khi bơm hơi ổ phúc mạc.
Các biến chứng cần theo dõi sát:
- Dọa sẩy thai: ra máu âm đạo lượng ít lẫn với dịch nhầy, nặng tức bụng dưới, cổ
tử cung đóng kín, siêu âm có sự bóc tách 1 phần bánh nhau hay màng nhau, bờ túi
ối đều và rõ.
- Sẩy thai: ra máu âm đạo lượng nhiều, đỏ tươi, đau quặn từng cơn vùng hạ vị ngày
càng tăng, cổ tử cung mở, thấy phần thai bị tống xuất. Tuổi thai dưới 22 tuần.
- Thai chết trong tử cung: ra máu âm đạo tự nhiên lượng ít, không kèm đau bụng,
tử cung nhỏ lại, siêu âm không thấy cử động thai và tim thai.
- Dọa sinh non: đau bụng từng cơn hoặc trì nặng bụng dưới, ra dịch nhầy âm đạo,
go tử cung thưa nhẹ (dưới 1 - 2 cơn/10 phút), ối vỡ non.
- Sinh non: sinh khi tuổi thai từ 22 tuần đến dưới 38 tuần.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Tấn Cường, Trần Phùng Dũng Tiến, Nguyễn Thị Minh Huệ (2010),
“Kết quả cắt ruột thừa nội soi trên bệnh nhân có thai”, Ngoại khoa (3 – 4 –
5), số đặc biệt đại hội hội phẫu thuật nội soi Châu Á Thái Bình Dương
(ELSA) lần thứ 10, trang 88 - 95
2. Trần Văn Khôi (2013), Cắt ruột thừa trên phụ nữ có thai, Luận văn Thạc sỹ y
học Đại học Y Dược Huế.
3. Muir H.A., Wong C.A. (2013), “Chuyển dạ sớm và sanh non”, Chestnut’s
Gây mê sản khoa: Lý thuyết và lâm sàng, phần IX, chương 32, trang 685 –
712.
4. Ozmen S. (2006), “Giảm go trong điều trị dọa sinh non: Đánh giá thực tế”,
Thư viện sức khỏe sinh sản của WHO, Geneva: Tổ chức Y tế Thế giới.
5. Defieux X., Ballester M., Collinet P., Fauconier A., Pierre F.(2011), “Risk
associated with laparoscopic entry: guidelines for clinical practice from the
French College of Gynaecologists and Obstetricians”, Eur J Obstet Gynecol,
doi:10.1016/j.ejogrb.2011.04.047
6. Grabowski J.E., Talamini M.A. (2009), “Physiological effects of
pneumoperitoneum”, J Gastrointest Surg, 13, pp. 1009 – 1016
7. Hunter J.G., Swanstrom L., Thornburg K. (1994),”Carbon dioxide
pneumoperitoneum induces fetal acidosis in pregnant ewe model”, Surg
Endosc, 9, pp. 272 – 279
8. SAGES (2011) Guidelines for Diagnosis, Treatment, and Use of
Laparoscopy for Surgical Problems during Pregnancy.
9. Tremblay E., Therasse E., Naggara I.T., Trop I. (2012), "Guidelines for use
of medical imaging during pregnancy and lactation", RadioGraphics, 32, pp.
897 - 911
10.Wilasrusmee C., Sukrat B., McEvoy M., Attia J., Thakkinstian A. (2012),
“Systematic review and meta – analysis of safety of laparoscopic versus
open appendicectomy for suspected appendicitis in pregnancy”, British
Journal of Surgery, 99, pp. 1470 – 1479
CẮT TÚI MẬT BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI
Năm 1882, Carl Langenbuch là người đầu tiên thực hiện mổ mở thành công
trường hợp cắt túi mật do sỏi túi mật. Đến năm 1985 (103 năm sau), Eric Muhe là
người đầu tiên thực hiện mổ cắt túi mật bằng nội soi ổ phúc mạc tại Đức. Phillipe
Mouret là người đầu tiên tiến hành tại Pháp ở Lyon năm 1987, nơi nhiều tác giả
nghĩ là nơi đầu tiên cắt túi mật nội soi trên thế giới. Từ đó các quốc gia khác trên
thế giới bắt đầu tiến hành mổ theo phương pháp này. Đặc biệt có hai nhóm chính
thực hiện độc lập loại phẫu thuật nội soi này đó là nhóm phẫu thuật viên ở Mỹ và ở
Pháp.
Điển hình ở Mỹ từ năm 1990, các phẫu thuật viên mổ cắt túi mật nội soi ổ
phúc mạc chỉ chiếm tỉ lệ 10% nhưng đến năm 1992, tỉ lệ mổ bằng phương pháp
này chiếm 90% trường hợp. Tất cả các bệnh nhân được mổ theo phương pháp phẫu
thuật nội soi đều rất hài lòng bởi lẽ có nhiều ưu điểm như: ít đau sau mổ, thời gian
phục hồi sau mổ nhanh, giảm tỉ lệ biến chứng, giảm tỉ lệ nhiễm trùng vết mổ, thời
gian nằm viện được rút ngắn, sớm trả bệnh nhân về lao động... Chính vì thế ở
những năm thập niên 90, mổ cắt túi mật nội soi ổ phúc mạc được coi là tiêu chuẩn
vàng. Với những ưu điểm trên, mổ nội soi đã dần được áp dụng rộng rãi ở các quốc
gia trên thế giới nhất là các nước tiên tiến như: Mỹ, Nhật, các nước ở Châu Âu...
Riêng ở Việt Nam, mặc dù phẫu thuật nội soi ổ phúc mạc được du nhập từ
những năm đầu thập niên 90 nhưng đến nay hầu như các phẫu thuật viên đã và
đang dần dần làm quen với loại phẫu thuật này, bởi lẽ hiện nay phẫu thuật nội soi
không những chỉ đơn thuần được tiến hành ở các Bệnh viện lớn cũng như các trung
tâm lớn mà dần dần đã được tiến hành ở các cơ sở như tuyến Tỉnh, tuyến Huyện...
Những ưu thế của phương pháp mổ cắt túi mật qua nội soi ổ phúc mạc.
- Quan sát được toàn bộ ổ phúc mạc.
- Ít làm sang chấn tổ chức, nhanh chóng tái lập lưu thông tiêu hóa.
- Ít đau sau mổ, rút ngắn ngày nằm viện, nhanh chóng trở lại cuộc sống bình
thường.
- Giảm tỉ lệ nhiễm trùng thành bụng sau mổ nhất là ở bệnh nhân béo phì và ở
bệnh nhân đái tháo đường...
1. Chỉ định
- Sỏi túi mật.
- Viêm túi mật không do sỏi.
- Polype túi mật...
2. Chống chỉ định.
- Đám quánh túi mật.
- Hoại tử túi mật gây viêm phúc mạc mật.
- Ung thư túi mật (nghi ngờ hoặc xác định).
- Viêm phúc mạc mật.
- Ở những bệnh nhân có vết mổ củ đường mổ giữa trên rốn hoặc ở bệnh
nhân có kèm theo các bệnh lý nội khoa nặng như trong các bệnh lý về: hô hấp, tim
mạch, suy gan, rối loạn chức năng đông máu, xét nghiệm chức năng gan có biểu
hiện tắc mật...
* Chống chỉ định tương đối: Ở những bệnh nhân tăng áp tĩnh mạch cửa,
bệnh lý về máu, dò mật ruột, viêm túi mật cấp tính và phụ nữ có thai.
Hình 1. Tư thế bệnh nhân, nhóm mổ, vị trí đặt trocart và phương tiện trong
mổ nội soi.
- Thăm dò ổ phúc mạc.
Sau khi đặt trocart và bơm khí vào ổ phúc mạc đủ áp lực, để bệnh nhân nằm
theo tư thế đầu cao so với mặt phẳng ngang một góc 15 độ, nghiêng sang trái .
Quan sát kỹ tình trạng toàn bộ ổ phúc mạc, các tạng trong ổ bụng nhằm phát hiện
thương tổn các tạng do đặt trocart hoặc bệnh lý của các tạng khác. Đặc biệt chú ý
tình trạng gan và vùng dưới gan để đánh giá tình trạng tổn thương bệnh lý, viêm
dính hay không. Dùng que thăm dò bằng cách nâng nhẹ mặt tạng của gan lên để
quan sát, đánh giá tình trạng vùng cuống gan xem ống mật chủ có giãn, viêm dày,
các cấu trúc giải phẫu vùng cuống gan có gì bất thường không nhằm quyết định
phương án phẫu thuật.
- Kỹ thuật cắt túi mật.
* Trong trường hợp túi mật có dính với các tạng chung quanh cần phải tiến
hành bóc tach gỡ dính. Trường hợp dính do viêm cấp có thể dùng kẹp phẫu tích
hoặc dùng kéo nhẹ nhàng bóc tách các tạng ra khỏi túi mật. Với những trường hợp
dính nhiều đã tổ chức hóa thì phải bóc tách gỡ dính bằng kéo, móc, kẹp phẫu
tích...hoặc/và dao điện. Khi tiến hành bóc tách cần đi sát với thành túi mật, chỉ tiến
hành cắt hay đốt sau khi phẫu tích nhận biết rõ cấu trúc giải phẫu nhằm tránh làm
thương tổn các tạng xung quanh nhất là tá tràng và kết tràng ngang. Gỡ dính cần
tiến hành tuần tự đi từ đáy túi mật đến vùng cổ túi mật và tới bờ phải của cuống
gan.
* Trong hầu hết các trường hợp tiến hành cắt túi mật theo kỹ thuật ngược
dòng. Thường sử dụng 4 trocart, sử dụng một kẹp phẫu thuật (thường sử dụng kẹp
cứng) đưa vào qua trocart 5mm (C4), kẹp lấy đáy túi mật, đẩy căng túi mật lên trên
và sang phải. Kẹp phẫu thuật thứ 2 (dùng kẹp không chấn thương (atraumatic
forcep) hoặc Babcock) đưa vào qua trocart 5mm (C3) dùng để kẹp vào cổ túi mật
trợ giúp trong quá trình phẫu tích. Nếu sử dụng 3 trocart thì kẹp này vừa làm
nhiệm vụ kéo căng và vừa để trợ giúp phẫu tích.
* Khi kẹp ở cổ túi mật được kéo căng và đưa sang phải ta đã bộc lộ được
tam giác Calot (Calot’s triangle) có giới hạn trên là mặt tạng của gan, giới hạn bên
trái là bờ phải của cuống gan và giới hạn dưới là bờ dưới ống túi mật (hình 2).
Hình 2. Nâng đáy túi mật lên trên và sang phải để bộc lộ cửa gan
Trong tam giác Calot có ống túi mật thường ở phía dưới, phía trên bên trong
là động mạch túi mật. Động mạch túi mật thường phát xuất từ ngành phải của động
mạch gan riêng thường chạy trong mạc treo túi mật. Tuy nhiên, có tới 1/3 trường
hợp có bất thường nơi phát xuất của động mạch túi mật như phát xất từ động mạch
gan riêng, động mạch gan chung, động mạch vị tá tràng, động mạch mạc treo tràng
trên... Chính vì vậy, nên động mạch túi mật có thể chạy phía trước, sau, trên, dưới
của ống túi mật, cho nên trong quá trình phẫu tích vùng cổ túi mật cần phải thận
trọng.
* Trước hết bóc tách thanh mạc ở phía trước tam giác Calot, tốt nhất nên bóc
tách gần thân túi mật cách xa ống gan chung và ống mật chủ. Sau đó, dùng kẹp
phẫu tích hoặc cần móc (hook) để bóc tách lá sau và tổ chức lỏng lẻo trong tam
giác Calot để bộc lộ ống túi mật và động mạch túi mật (hình 3).
Tùy từng trường hợp có thể phẫu tích kẹp trước ống cổ túi mật rồi đến bóc
tách tìm động mạch túi mật hoặc phẫu tích tìm cả 2 thành phần trước khi tiến hành
các bước tiếp theo (hình 4). Trong khi phẫu tích luôn tuân thủ các nguyên tắc chỉ
cắt hay đốt sau khi đã nhìn rõ cấu trúc dưới mắt và tránh xa đường mật chính.
Hình 4. Bóc tách bộc lộ ống túi mật và động mạch túi mật
* Khi đã phẫu tích hai thành phần ống cổ túi mật và động mạch túi mật,
dùng clip để kẹp động mạch túi mật trước. Bao giờ cũng phải tuân thủ kẹp 3 clip,
hai clip kẹp sát nhau ở phía đầu gốc của động mạch còn một clip khác ở phía sẽ cắt
bỏ và tiến hành cắt đứt đôi động mạch giữa các clip. Còn lại ống cổ túi mật nên thả
chùng kẹp ở cổ túi mật và đáy túi mật lại để xác định rõ ống túi mật (mốc quan
trọng nhất là ống túi mật đổ vào ống gan chung tạo nên ống mật chủ) và để đảm
bảo rằng đường mật chính không bị kéo gập góc sang phải. Đặt 1 clip vào ống túi
mật xa nhất có thể với chỗ đổ vào ống gan chung, thường là ngay sát bể của cổ túi
mật (hình 5).
Hình 5. Đặt clip kẹp ống túi mật sau khi xác định rõ các cấu trúc giải phẫu
* Khi xác định chắc chắn trong đường mật chính không có sỏi hoặc chít tắc
do bệnh lý, tiến hành kẹp 2 clip về phía gần chỗ ống túi mật đổ vào ống gan chung
chú ý không kẹp vào ống gan chung hoặc ống mật chủ nhưng cũng không nên để
đoạn ống túi mật dài quá vì sau này có thể gây nên hội chứng ống túi mật. Sau đó
cắt đứt đôi ống túi mật giữa các clip.
Khi có chỉ định chụp đường mật trong mổ (một số tác giả chủ trương chụp
đường mật trong mổ hệ thống cho tất cả trường hợp cắt túi mật) sau khi đặt clip
đầu tiên về phía sát bể của cổ túi mật, kéo căng ống túi mật và dùng kéo cắt
khoảng ½ chu vi ống túi mật ngay sát chỗ kẹp clip. Khi thấy mật chảy ra hoặc thấy
được lòng của ống túi mật tiến hành luồn một ống thông đã chuẩn bị sẳn vào ống
cổ túi mật hướng về phía ống mật chủ, chú ý khi tiến hành thao tác cần phải nhẹ
nhàng để tránh những tổn thương đường mật chính, sau khi kiểm tra ống thông đã
vào trong lòng ống túi mật (dịch mật chảy ra theo ống thông, bơm thử thấy nhẹ tay,
nếu cần có thể chụp thử với một ít thuốc cản quang) cố định ống thông bằng clip,
chỉ thắt hoặc loại kẹp chuyên dụng có sẳn, rồi tiến hành bơm thuốc cản quang để
chụp. Khi luồng ống thông và bơm thuốc để chụp không để lọt không khí vào
đường mật.
Sau khi chụp xong cho kết quả tốt, rút bỏ ống thông, kẹp 2 clip ở phía đầu
ống túi mật đổ vào ống gan chung và cắt đôi ống túi mật giữa các clip như bình
thường. Trong trường hợp ống túi mật to không thể kẹp clip được có thể thắt ống
túi mật bằng chỉ khâu hoặc thắt bằng làm nút sẳn.
* Phẫu tích túi mật ra khỏi hố túi mật: kẹp vào bể túi mật đã được cắt rời kéo
lên trên à sang phải. Dùng que móc hoặc kéo có gắng dao điện để cắt dần tổ chức
lỏng lẻo (túi mật là tạng dưới thanh mạc). Khi phẫu tích túi mật ra khỏi hố túi mật
luôn chú ý đi sát thành túi mật, tránh đi nhầm vào phía nhu mô gan sẽ dẫn tới chảy
máu rất khó kiểm soát. Trong vùng hố túi mật có thể có các mạch máu nhỏ cần
phải đốt điện cẩn thận trước khi cắt. Nếu có các mạch máu lớn hoặc các nhánh nhỏ
ống mật đi từ các nhánh của ống gan thường là của hạ phân thùy V thì tốt nhất nên
kẹp clip trước khi cắt để tránh chảy máu thứ phát hoặc dò mật sau mổ. Khi cắt tới
gần ranh giới đáy túi mật và bờ dưới gan nên dừng lại dùng kẹp cặp vào túi mật
nâng gan lên để kiểm tra toàn bộ hố túi mật đã cắt nhằm xử lý các chỗ chảy máu
hoặc dò mật qua các nhánh mật phụ trước khi cắt hết túi mật (hình 6).
Hình 6: Kiểm tra toàn bộ hố túi mật đã cắt.
* Sau khi túi mật đã được cắt rời, đưa một túi nylon vào trng ổ phúc mạc,
đặt túi mật vào trong túi và để ở trên mặt hoành của thùy gan phải (giữa gan và cơ
hoành). Tiến hành kiểm tra lần cuối vùng cuống gan xem mỏm cắt ống cổ túi mật,
động mạch túi mật có tốt không, kiểm tra lại đường mật chính, dùng máy hút để
rửa, hút sạch toàn bộ vùng mổ. Kiểm tra lần cuối tình trạng ổ phúc mạc trước khi
kết thúc cuộc mổ.
* Sau khi kiểm tra toàn bộ, chuyển ống soi từ trcart ở rốn sang trocart dưới
mũi ức, đưa một kẹp phẫu tích vào qua trocart ở rốn và lấy túi nylon đựng túi mật
ra khỏi ổ phúc mạc qua lỗ trocart ở rốn dưới sự kiểm soát trực tiếp của camera.
6. Tai biến trong mổ.
* Chảy máu:
Đây là tai biến thường gặp nhất, nguồn chảy máu chủ yếu khi phẫu tích bộc
lộ vùng tam giác Calot làm tổn thương động mạch túi mật. Khi chảy máu cần bình
tỉnh để xử lý bằng cách tìm rõ đầu động mạch đang chảy máu để kẹp clip. Không
nên kẹp hoặc đốt điện mò mẫm vì sẽ không giải quyết được nguyên nhân chảy máu
mà sẽ gây thêm những tai biến trầm trọng hơn như: làm tổn thương động mạch gan
riêng, ngành phải của động mạch gan riêng và nhất là tổn thương đường mật chính.
Nếu phẫu thuật viên chưa có kinh nghiệm xử lý tai biến này không nên ngần ngại
chuyển sang mổ mở để đảm bảo an toàn. Trường hợp chảy máu nhiều ở hố túi mật
thường do tổn thương nhánh tĩnh mạch trên gan của hạ phân thùy V, hoặc trong
quá trình cắt túi mật không bóc tách và cắt đúng lớp tổ chức lỏng lẻo mà cắt phạm
vào nhu mô gan. Với trường hợp này thường đốt điện có thể cầm máu được. Nếu
không thành công có thể dặt một miếng spongel lên chỗ chảy máu, phía ngoài đặt
miếng gạc nhỏ và dùng kẹp phẫu tích chèn chặc vào và chờ. Thường sau 10-15
phút máu tự cầm, nhẹ nhàng lấy miếng gạc nhỏ ra. Nếu máu không cầm có thể tiến
hành khâu một mũi chữ X hoặc chữ U để cầm máu. Nếu chưa quen với kỹ thuật
khâu và buộc nơ trong ổ phúc mạc, có thể phải tính đến mổ mở để xử lý. Lượng
máu mất trung bình trong phẫu thuật cắt túi mật nội soi trong ổ phúc mạc ít hơn
10ml. Nếu lượng máu mất quá 100-200ml và nhất là cần phải truyền máu thì tốt
nhất nên chuyển sang mổ mở.
* Tổn thương đường mật chính.
Đây là biến chứng nặng thường gặp nhất trong phẫu thuật cắt túi mật nội soi
qua ổ phúc mạc, thường gặp trong khoảng 0,2% trường hợp ( tỉ lệ tổn thương này
trong phẫu thuật cắt túi mật mở là 0,1%). Tuy nhiên, biến chứng tổn thương
đường mật chính trong phẫu thuật cắt túi mật nội soi qua ổ phúc mạc sẽ giảm dần
và giảm đáng kể khi phẫu thuật viên đã thuần thục trong thao tác và đã có nhiều
kinh nghiệm.
Stewart và cộng sự đã đề nghị phân loại tổn thương đường mật trong phẫu
thuật cắt túi mật nội qua ổ phúc mạc như sau:
- Dạng I. Khi cắt đứt một phần của ống mật chủ hoặc ống gan chung do khi
bộc lộ không nhìn rõ ống túi mật hoặc cắt rộng quá ống túi mật do không thận
trọng. Sai lầm này thường được phát hiện trước khi ống mật bị cắt đức rời.
- Dạng II. Ống gan chung bị hẹp có thể có dò mật hoặc không dò mật.
nguyên nhân thường do cố caamf máu khi chảy máu từ động mạch túi mật hoặc do
phẫu tích không tốt.
- Dạng III. Cắt bỏ một đoạn phần ống túi mật đổ vào ống gan chung để tạo
nân ống mật chủ.
- Dạng IV. Làm tổn thương ống gan phải có thể làm tắc hoặc cắt phải.
Khi phát hiện được tổn thương đường mật trong mổ cần phải được xử lý
ngay. Tổn thương loại I nên khâu lại bằng chỉ tiêu đơn sợi (chỉ PDS 5.0 hoặc 6.0),
nếu không có cũng có thể dùng Vicryl 5.0 hoặc 6.0. Thường không cần đặt Kehr để
dẫn lưu. Nếu tổn thương loại II, III, và IV nên tiến hành nối mật ruột theo kiểu
Roux en Y khi cắt phải hoặc kẹp clip đường mật chính. Một nguyên tắc chính cần
phải tuân thủ là trước và trong khi kẹp clip hay cắt ống túi mật bao giờ cũng phải
thả chùng ống túi mật để có thể tránh được nguyên nhân chủ yếu gây ra những tổn
thương trên. Khi nghi ngờ tổn thương đường mật chính, biện pháp xác định tốt
nhất là chụp đường một trong mổ. Khi xác định tổn thương đường mật chính
không nên cố sửa chữa qua nội soi mà nên chuyển sang mổ mở để xử lý tùy theo
mức độ tổn thương.
Biện pháp ngăn ngừa tổn thương đường mật chính là phải bộc lộ rõ tam giác
Calot là điều kiện bắt buộc đầu tiên của phẫu thuật, có như vậy mới không nhầm
lẫn giừa đường mật chính với ống túi mật. Khi phẫu thuật viên mới mổ (nếu ở
những cơ sở có đủ điều kiện chụp đường mật trong mổ). Thì tốt nhất nên chụp
đường mật trong mổ để kiểm tra đường mật chính. Nếu có nghi ngờ về vị trí ống
túi mật bất thường, vị trí giải phẫu không rõ, có viêm dính nhiều ở vùng cổ và ống
túi mật, vùng cuống gan khiến không nhận biết rõ các thành phần thì tốt nhất nên
chuyển sang mổ mở.
* Rơi sỏi vào ổ phúc mạc.
Trong quá trình bóc tách hoặc kẹp túi mật có thể bị thủng và gây rơi sỏi vào
ổ phúc mạc (tỉ lê gặp #20%). Thường hiếm khi sỏi rơi vào ổ phúc mạc gây ra biến
chứng nhưng tốt nhất nên gắp những viêm sỏi rơi để tránh biến chứng tạo ổ áp-xe
trong ổ phúc mạc sau mổ.
7. Chăm sóc sau mổ.
Bệnh nhân nhịn ăn truyền dịch sau mổ 6-8 giờ. Sau khi hết tác dụng của
thuốc mê có thể thay đổi tư thế, dậy đi lại và sau đó cho ăn nhẹ khi có dấu hiệu tái
lập nhu động ruột. Kháng sinh có thể dùng theo chế độ dự phòng. Tuy nhiên, cần
phải tùy theo tình trạng bệnh lý trước, trong và sau mổ để sử dụng kháng sinh cho
phù hợp.Trong quá trình mổ, hậu phẫu diễn biến tốt bệnh nhân có thể ra viện 24-36
giờ sau mổ và trở lại sinh hoạt bình thường sau 7-10 ngày.
8. Biến chứng sau mổ.
* Chảy máu.
Tỉ lệ chảy máu sau mổ cắt túi mật nội soi ổ phúc mạc từ 0,08-0,3%. Nguồn
chảy có thể từ hố túi mật, thành bụng hoặc từ một mạch máu lớn khác. Biểu hiện
trên lâm sàng của hội chứng xuất huyết nội sau mổ. Trong trường hợp chảy máu
xảy ra sau khi bệnh nhân đã xuất viện thường có tỉ lệ tử vong cao. Trong hầu hết
các trường hợp chảy máu sau mổ nặng cần phải xử lý bằng mổ bụng.
* Dò mật sau mổ.
Theo các thống kê của nhiều tác giả cho thấy tỉ lệ biến chứng này từ 0,2-
1,5%. Nguyên nhân là do tuột clip ống túi mật, hoại tử đầu ống túi mật hoặc tổn
thương đường mật chính trong quá trình bóc tách nhưng không phát hiện được
trong mổ. Khi đặt dẫn lưu dưới gan sẽ thấy mật dò qua ống dẫn lưu. Nếu số lượng
dịch mật dò ra ít và không có biểu hiện viêm phúc mạc mật hoặc tắc mật thì nên
tiếp tục theo dõi và cho bệnh nhân nằm đầu thấp vì dò có thể tự liền. Nếu dịch mật
dò nhiều qua ống dẫn lưu, có biểu hiện viêm phúc mạc mật hoặc tắc mật tốt nhất
nên mổ mở lại sớm để tìm ra nguyên nhân và xử lý.
Khi không có dẫn lưu ổ phúc mạc bệnh nhân có biểu hiện dấu chứng của
viêm phúc mạc mật hoặc tắc mật kết hợp với các xét nghiêm. Cận lâm sàng đặc
biệt siêu âm và chụp cắt lớp vi tính ổ bụng thường cho thấy có dịch dưới cơ hoành
hoặc dịch tự do trong ổ phúc mạc, cũng có thể chụp đường mật ngược dòng
(ERCP) để có thể xác định vị trí tổn thương. Nên tiến hành chọc hút dịch ổ phúc
mạc dưới màng siêu âm để xác định là dịch mật, nhằm đưa ra cách xử lý.
Nếu tổn thương là đường dò nhỏ từ ống túi mật không có tổn thương đường
mật chính. Nếu phát hiện sớm có thể mổ lại bằng nội soi ổ phúc mạc để hút sạch
dịch mật đọng, kẹp hoặc thắt lại ống túi mật. Cũng có thể đặt Stent dẫn lưu đường
mật qua cơ Oddi với nội soi ngược dòng để làm giảm áp đường mật và chọc hút,
dẫn lưu dịch mật qua da dưới hướng dẫn siêu âm hoặc cắt lớp vi tính. Thường chỗ
dò mật sẽ tự liền sau 2 tuần.
Khi bệnh nhân trở lại muộn với bệnh cảnh viêm phúc mạc mật cần mổ mở,
hút rửa sạch ổ phúc mạc, tùy theo thương tổn gây dò mật để có biện pháp xử lý chỗ
dò, cần đặt dẫn lưu ổ phúc mạc tốt.
* Tắc mật sau mổ.
Thường do chít hẹp đường mật.
Nếu tắc mật sớm sau mổ thường do kẹp clip, thắt hoặc cắt vào đường mật
chính. Chẩn đoán xác định với soi, chụp đường mật ngược dòng. Khi phát hiện tổn
thương cần phải mổ mở lại sớm để xử lý.
Nếu tắc mật muộn sau mổ thường là do chít hẹp đường mật một phần do kẹp
clip, do khâu một phần ống mật chủ hoặc cũng có thể do sẹo xơ sau bỏng đường
mật do dao điện.
Bệnh nhân có thể có biểu hiện lâm sàng của thương tổn đường mật nhưng
không phát hiện được trong mổ sau nhiều ngày hay nhiều tháng tùy theo dạng và
mức độ tổn thương. Một số bệnh nhân có vàng da tăng dần và chỉ đau nhẹ, một số
khác có biểu hiện của cơn đau quặn gan, nhiễm trùng đường mật do tắc mật. Nên
chờ đến khi đường mật ngoài gan đủ giãn có đường kính khoảng từ 1cm để mổ lại
nối mật ruột.
9. Cắt túi mật nội soi trong viêm túi mật cấp.
Trước đây, viêm túi mật cấp là một chống chỉ định của phẫu thuật cắt túi
mật nội soi. Tuy nhiên, do phẫu thuật viên ngày càng quen dần với kỹ thuật mổ
này nên càng ngày các tổn thương do viêm túi mật không còn là chống chỉ định
trong cắt túi mật nội soi nữa. Tuy nhiên, cần phải biết một số khó khăn có thể gặp
phải khi cắt túi mật nội soi trong các trường hợp viêm túi mật cấp để có thể xử lý
và cần sẳn sàng chuyển sang mổ mở khi thấy cuộc mổ tiến triển không thuận lợi.
1. Trần Bình Giang, Tôn Thất Bách (2005), “Phẫu thuật cắt túi mật qua nội
soi”, Phẫu thuật nội soi ổ bụng, Nhà xuất bản Y học, 14, 309 - 327.
2. Phạm Như Hiệp, Nguyễn Văn Liễu, Nguyễn Hải Thanh (1999), "Phẫu thuật
cắt túi mật nội soi tại Bệnh viện Trung ương Huế", Báo cáo Khoa học Đại
hội Ngoại khoa Việt Nam lần thứ 10, 103 - 107.
3. Nguyễn Văn Liễu (2006), “Ngiên cứu ứng dụng điều trị cắt túi mật bằng
phương pháp phẫu thuật nội soi tại Bệnh viện Trường Đại học Y Khoa Huế,
Tạp chí Y học Thực hành, 559, 186 - 191.
4. Nguyễn Văn Liễu, Nguyễn Đoàn Văn Phú, Nguyễn Hữu Trí, (2008),
“Nghiên cứu ứng dụng điều trị cắt túi mật bằng phương pháp phẫu thuật nội
soi tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế (qua 1257 trường hợp)”, Y
học Thành phố Hồ Chí Minh, tập 12, số 4, trang 220-224.
5. Văn Tần và cs (2002), "Biến chứng cắt túi mật qua nội soi ổ bụng", Y học
Thành phố Hồ Chí Minh, tập 6, số 2, 147 - 157.
6. Ahrendt S. A. , Pitt H. A. (2004), “Biliary Tract”, Text book of Surgery 52,
1597 - 1621.
7. Bailey R. W. and Gluck E. S. (1995) "Cholecystectomy", Complication of
Laparoscopic Surgery, 6, (1995), 161 - 183.
8. Farquarson E. L. (1972), "The Gallbladder, The Bile ducts and The
Pancreas", Text book of Operative Surgery, 20, 583 - 614.
9. Hermann R. E., Vogt D. P., Chung R. S. (1998), "Biliary System", Surgery a
Problem-Solving Approach, 35, 1515 - 1558.
10.Hunter J. G. (1997) "Laparoscopic Cholecystectomy, Intraoperative
cholangiography, and Common bile duct Exploration" Mastery of Surgery,
98, 1098 - 1108.
11.Greenfield L. J. (2001), "Gallbladder and Biliary Tract", Surgery Scientific
Principles and Pratice, 39, 1003 - 1061.
12.Schwartz S. I. (1999) "Gallbladder and Extrahepatic Biliary System",
Principles of Surgery, 29, 1383 - 1393.
ĐIỀU TRỊ THỦNG Ổ LOÉT DẠ DÀY-TÁ TRÀNG BẰNG
PHẪU THUẬT NỘI SOI Ổ PHÚC MẠC
1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ
Năm 1987, Mouret P báo cáo trường hợp cắt túi mật thành công lần đầu tiên
tại Lyon (Pháp), mở đường cho sự phát triển của phẫu thuật nội soi.
Năm 1990, Mouret báo cáo năm trường hợp thủng ổ loét dạ dày-tá tràng đầu
tiên được điều trị bằng phẫu thuật nội soi với kỹ thuật không khâu sử dụng mạc nối
lớn và keo sinh học để bịt kín lỗ thủng. Nathason cùng năm đã công bố báo cáo
khâu lỗ thủng tá tràng bằng phẫu thuật nội soi.
2. CHUẨN BỊ BỆNH NHÂN
Ngoài những xét nghiệm thông thường chuẩn bị cho bệnh nhân trước mổ
cấp cứu, cần làm thêm
- Điện tâm đồ, chụp phim phổi cho những bệnh nhân trên 50 tuổi.
- Đặt thông mũi - dạ dày và hút
- Đặt thông tiểu
- Truyền dịch và kháng sinh
- Cho thuốc giảm đau, nhất là khi phải chờ phòng mổ
3. BỐ TRÍ PHÒNG MỔ
3.1 Phương tiện và dụng cụ (hình 1 và 2)
- Ống soi nghiêng 30, kìm kẹp kim, que gạt vén gan, máy hút và tưới rữa
lưu lượng tốt
Gây mê
Dàn máy
PTV
PTV phụ chính
Bệnh nhân
Dụng cụ
viên
Bàn dụng cụ
Hình 3 Bố trí dàn máy và kíp mổ
- Dàn máy nội soi đặt ngang vị trí vai phải của bệnh nhân. Nếu có thể một
màn hình phụ đặt bên trái. Phẫu thuật viên đứng giữa hai chân bệnh nhân.
Người phụ và dụng cụ viên đứng bên phải bệnh nhân.
- Hoăc dàn máy nội soi đặt ngang vị trí vai phải của bệnh nhân. Bàn dụng
cụ đặt phía dưới chân bệnh nhân. Phẫu thuật viên và người phụ đứng bên
trái bệnh nhân, dụng cụ viên đứng bên phải bệnh nhân.
3.5 Kỹ thuật
3.5.1 Vị trí các trocar
Có nhiều cách đặt trocar, số lượng và vị trí các trocar tuỳ theo tác giả
+ Sử dụng 4 trocar gồm 2 trocar 10 mm và 2 trocar 5 mm, vị trí các trocar
được sắp xếp để thuận lợi cho thao tác trong bụng (hình 5)
Trocar thứ nhất (10 mm) đặt ngay dưới rốn, dùng để đưa ống soi vào. Đặt
trocar thứ nhất theo phương pháp mở của Hasson (Hình 4). Hoặc có thể bơm hơi ổ
phúc mạc trước nhờ kim Veress. Đặt trocar thứ nhất theo phương pháp mở của
Hasson qua nhiều tổng kết cho thấy an toàn và nhanh chóng hơn. Bơm hơi đến áp
lực 12 mm Hg, đưa ống kính soi vào bụng quan sát qua trocar thứ nhất và lần lượt
đặt tiếp một trocar 5 mm ngay dưới mũi kiếm xương ức dùng cho ống hút rửa và
dụng cụ kẹp kéo dạ dày bộc lộ lỗ thủng, trocar thứ 3 (10 mm) đặt cạnh bên phải
rốn và trocar thứ 4 (5 mm) đặt cạnh bên trái rốn trên đường giữa đòn, được dùng
cho dụng cụ khâu cột.
(Hình 4) Đặt trocar đầu tiên theo phương pháp mở của Hasson
(Hình 5) Vị trí các trocar (theo WebSurg)
5. CÁC YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG TRƯỚC MỔ ĐỐI VỚI MỔ NỘI SOI ĐIỀU
TRỊ BIẾN CHỨNG THỦNG Ổ LOÉT DẠ DÀY-TÁ TRÀNG
Hầu hết các nghiên cứu hồi cứu cũng như tiến cứu đều đưa ra các yếu tố liên
quan đến thất bại đối với mổ nội soi như sau
- Sốc khi nhập viện (huyết áp tối đa <80 -100 mmHg)
- Thời gian từ lúc thủng đến lúc nhập viện >24 giờ
- Xuất huyết tiêu hoá kèm theo
- Có bệnh toàn thân nặng
- Tuổi lớn hơn 70 (75)
- ASA III-IV
- (APACHE)II = 5
- Kinh nghiệm của phẫu thuật viên
6. CHỈ ĐỊNH
+Chỉ định thích hợp cho mổ nội soi là những trường hợp có thời gian từ lúc
thủng đến lúc mổ dưới 24 giờ. Đây cũng là thời gian vàng cho những can thiệp
triệt để vừa điều trị thủng vừa điều trị nguyên nhân gây ra thủng.
+ Không nên chọn mổ nội soi cho những trường hợp
- Có choáng trước mổ (là một chống chỉ định tương đối).
- Có kèm theo hẹp môn vị hay xuất huyết tiêu hóa.
- Có bệnh lý nội khoa nặng đi kèm. Chống chỉ định vì những biến đổi về
hô hấp và tuần hoàn khi bơm hơi vào khoang phúc mạc có thể làm nặng
thêm tình trạng chung của bệnh. Đây là chống chỉ định tuyệt đối.
- Có tiền sử mổ bụng (tương đối).
- Trong lúc mổ nội soi, nếu nghi ngờ thủng do ung thư dạ dày hoặc khoang
bụng quá bẩn khó rửa sạch qua nội soi thì nên chuyển mổ mở. Xác định
nguyên nhân thủng là ung thư không phải là dễ dàng, phải nghĩ đến khi ổ
loét có vị trí ở dạ dày, bờ lỗ thủng sượng cứng nhất là có hình ảnh thâm
nhiễm của mô ung thư ra đến lớp thanh mạc. Hiện nay đa số ổ loét không
phải ở vị trí môn vị hay tiền môn vị thì thường là ung thư. Đối với lỗ
thủng nằm ở mặt sau nhiều tác giả khuyên nên chuyển sang mổ mở.
1. Trần Bình Giang. (2003), Khâu thủng ổ loét dạ dày-tá tràng qua soi ổ bụng,
Phẫu thuật nội soi ổ bụng, Chương 17, tr: 349-355
2. Bergamaschi R., Marvik R. Johnsen G., Thoresen J.E., Ystgaard B.,
Myrvold H.E., (1999), “Open versus laparoscopic repair of perforated peptic
ulcers”, Surg Endosc, 13, p: 679–682
3. Costalat G., Alquier Y. (1995), “Combined laparoscopic and endoscopic
treatment of perforated gastroduodenal ulcer using the ligamentun terres
hepatis (LTH)”, Surg. Endo; 9, p: 677-679.
4. Darzi A., Cheshire N.J., Somers S.S. et al., (1993), “Laparoscopic omental
patch repair of perforated duodenal ulcer with an automated stapler”,
Br.J.Surg; 80 (12), p: 1552
5. Druart M..L, Vanhee R., et al. (1997), “Laparoscopic repair of perforated
duodenal ulcer - a prospective multic center clinical trial”, Surg Endosc-
Ultras, 11, p: 1017-1020.
6. Hasson H.M, Rotman C., et al., (2000), “Open laparoscopy: 29 years
experience. Obstetric and gynecology, 96, p: 736-766.
7. Kok K.Y., Mathew V.V., Yapp S.K., (1999), “Laparoscopic omental patch
repair for perforated duodenal ulcer”, Am Surg, 65, p: 27–30.
8. Lagoo S., Ross L., Mc Mahon R.L., et al. (2002), “The sixth decision
regarding perforated duodenal ulcer”. J S L S; 6, p: 359-368.
9. Lau H. (2004), “Laparoscopic repair of perforated duodenal ulcer: a meta-
analysis”, Surg.Endosc; 18, p: 1013-1016.
10. Lau WY, Leung KL, et al. (1996), “A randomised study comparing
laparoscopic versus open repair of perforated peptic ulcer using suture or
sutureless technique”, Ann Surg, 224, p: 131-138.
11. Lee FY, Leung KL, Lai BS et al. (2001), “Selection of patients for
laparoscopic repair of perforated peptic ulcer”, Br.J.Surg, 88, p: 133-136.
12. Lee K.H., Chang H.C., Lo C.J., (2004), “Endoscope-assited laparoscopic
repair of perforated peptic ulcers”, Am Surg ; 70, p: 352-356.
13. Malkov I.S., Zaynutdinov A.M., et al., (2004), “Laparoscopic and
endoscopic management of perforated duodenal ulcers”, Am Coll Surgeons,
Vol 198, No.3, 352-355.
14. Mehandale V.G., Shenoy S.N., Joshi A.M., Chaudhari N./C., (2002),
« Laparoscopic versus open surgical closure of perforated duodenal ulcers :
a comparative study », Indian J Gastroenterol, 21, p : 222-224.
15. 27. Platell C., Papadimitriou J.M., Hall J.C., (2000), “The influence of
lavage on peritonitis”, J.Am.Coll.Surg, 191, p: 672-680.
16. Robertson G.S., Wemyss-Holden S.A., Maddern G.J., (2000),
“Laparoscopic repair of perforated peptic ulcers: the role of laparoscopy in
generalised peritonitis”, Ann R Coll Surg Engl, 82, p: 6–10.
17. Seelig M.H., Seelig S.K., Behr C., Schonleben K., (2003), “Comparison
between open and laparoscopic technique in the management of perforated
gastroduodenal ulcers”, J Clin Gastroenterol, 37(3), p:226-229.
18. Siu WT, Chau CH, Law BK et al., (2004), “Routine use of laparoscopic
repair for perforated peptic ulcer”, Br.J.Surg, 91, p: 481-484.
19. Siu W.T., Leong H.T., Law B.K., Chau C.H., Li A.C., Fung K.H., Tai Y.P.,
Li M.K., (2002) “Laparoscopic repair for perforated peptic ulcer: a
randomized controlled trial”, Ann Surg, 235, p: 313–319.
CÁC TAI BIẾN VÀ BIẾN CHỨNG TRONG PHẪU THUẬT
NỘI SOI.
Phẫu thuật qua nội soi được cả các thấy thuốc và bệnh nhân nhanh chóng
chấp nhận là do mang lại nhiều lợi ích như giảm đau sau mổ, thời gian nằm viện
ngắn, nhanh chóng trả người bệnh trở lại làm việc. Trên thực tế, phẫu thuật qua soi
ổ phúc mạc đã thay thế phẫu thuật cắt túi mật mở. Nhờ hệ thống hình ảnh và dụng
cụ mổ nội soi ngày càng được cải thiện tốt hơn nên đã tạo ra nhiều khả năng có thể
cho phép thực hiện nhiều loại phẫu thuật khác trong ổ bụng và ổ phúc mạc bằng
nội soi.
Tuy nhiên, khi phẫu thuật nội soi ngày càng được ứng dụng rộng rãi thì
người ta cũng dần dần thấy được những nguy cơ và tai biến của nó. Vì vậy, trước
khi quyết định thực hiện một phẫu thuật nội soi cần phải cân nhắc giữa lợi ích
mang lại và các biến chứng gây ra do kỹ thuật và dụng cụ mổ nội soi.
Tỷ lệ nguy cơ so với lợi ích cần được phân tích cho mỗi trường hợp mổ nội
soi và các nguy cơ phải được so sánh với các nguy cơ của phẫu thuật mở. Sự phân
tích này cho thấy một thực tế là nguy cơ sẽ lớn hơn ở phẫu thuật viên mới có ít
kinh nghiệm hay khi loại phẫu thuật mới được thực hiện.
Những tai biến kỹ thuật xảy ra với phẫu thuật nội soi là do nhiều yếu tố.
Thay đổi rõ ràng nhất là trường mổ không quen khác với mổ mở do hình ảnh quan
sát chỉ ở không gian hai chiều không có chiều sâu, hình ảnh bị phóng đại. Người
phẫu thuật viên phải phụ thuộc vào rất nhiều các thiết bị phức tạp như ống soi,
camera, bộ xử lý hình ảnh, màn hình… và chỉ một trong chuỗi các thiết bị này trục
trặc là có thể làm cuộc mổ không thực hiện được.
Nguyên nhân thứ hai liên quan với dụng cụ phẫu thuật. Hầu hết các phẫu
thuật viên chưa quen với những thao tác khi sử dụng dụng cụ dùng trong mổ nội
soi. Độ dài của dụng cụ và việc thực hiện các thao tác qua một điểm vào nhỏ trên
thành bụng làm giới hạn hoạt động của dụng cụ và giảm cảm giác xúc giác.
Những biến chứng của phẫu thuật qua nội soi ổ phúc mạc có thể chia ra
thành những biến chứng liên quan tới bơm khí khoang phúc mạc, tư thế bệnh nhân
hay do dụng cụ.
Một số biến chứng đặc trưng cho từng loại phẫu thuật riêng biệt đã được
trình bày kỹ ở các chương nói về phẫu thuật đó.
1. Tỷ lệ biến chứng chung.
Tỷ lệ biến chứng thực sự của phẫu thuật nội soi ở bụng và ngực cho tới nay
rất khó đánh giá chính xác. Một phần do phẫu thuật mới được áp dụng trong một
thời gian chưa lâu, mặt khác hầu hết các nghiên cứu là các thống kê hồi cứu.
Tuy nhiên, cho tới nay đã có thể định hịnh được những loại biến chứng
thường gặp trong phẫu thuật nội soi.
Một thống kê lớn thực hiện tại Hoa Kỳ cho thấy số các loại biến chứng gặp
trong phẫu thuật nội soi như sau (bảng 1):
Bảng 1. Các loại biến chứng gặp trong phẫu thuật nội soi
Biến chứng Tỷ lệ phần
trăm
Biến chứng do bơm khí ổ phúc mạc 0,7
Chảy máu 0,6
Thủng tạng 0,3
Biến chứng do dao điện 0,2
Nhiễm trùng 0,1
Tổn thương ruột < 0,1
Ngừng tim < 0,1
Tỷ lệ chuyển mở bụng 0,6
1. Trần Bình Giang, Tôn Thất Bách (2005), “Phẫu thuật cắt túi mật qua nội
soi”, Phẫu thuật nội soi ổ bụng, Nhà xuất bản Y học, 14, 309 - 327.
2. Bailey R. W., Flowers J. L., (1995), “Complications Related to
Pneumoperitoneum”, Complications of Laparoscopic Surgery, 2, 26-57.
3. Zucker K. A., Martin D. T., Pegues R. F., (1995), “Complications of
Laparoscopic Instrumentation and Equipment”, Complications of
Laparoscopic Surgery, 3, 58-74.