Professional Documents
Culture Documents
QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG
QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG
1.2. Tổng quan các hiệp định Thương mại giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu
Cùng với việc tận dụng các cơ hội từ EVFTA, rất nhiều FTA khác cũng đã mang tới cơ
hội mở rộng thị trường và gia tăng giá trị XK cho hàng hóa của Việt Nam. Theo Bộ Công
Thương, đến nay, Việt Nam đã hoàn thành ký kết và thực thi 15 FTA. Trong số đó, nổi
bật nhất là các FTA thế hệ mới, gồm: Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái
Bình Dương (CPTPP); EVFTA; Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp
Vương quốc Anh và Bắc Ireland (UKVFTA); FTA có quy mô lớn nhất thế giới trong
khuôn khổ ASEAN là Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)...
Nhấn mạnh về tác động của các FTA tới hoạt động XK của Việt Nam, Thứ trưởng Bộ
Công Thương Trần Quốc Khánh cho biết, các FTA đã và đang mở rộng cánh cửa thị
trường cho hàng XK của Việt Nam, là cơ hội để Việt Nam kết nối, tham gia sâu hơn vào
chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu. Đặc biệt, trong bối cảnh dịch Covid-19, các
FTA thế hệ mới đã tiếp sức cho hàng hóa vươn tới hầu hết các thị trường trên thế giới.
Nhiều sản phẩm đã dần có chỗ đứng vững chắc và nâng cao được khả năng cạnh tranh
trên nhiều thị trường có yêu cầu cao về chất lượng, như: EU, Nhật Bản, Mỹ, Australia...
Thị trường rộng lớn hơn: Hiệp định EVFTA sẽ tạo cho nền kinh tế Việt Nam
không gian về mặt thị trường rộng lớn hơn, chất lượng cao hơn, đó là thị trường
EU. EU là một trong những nền kinh tế “mở” nhất trên thế giới.
Phá bỏ hàng rào thuế quan: Sau khi được phê chuẩn và triển khai, EVFTA sẽ loại
bỏ gần như tất cả các mức thuế giữa EU và Việt Nam trong suốt một thập kỷ. Nó
sẽ xóa bỏ thuế quan đối với 65% giá trị hàng xuất khẩu của EU khi có hiệu lực,
phần còn lại được loại bỏ trong 10 năm sau đó. Trong khi đó, 71% hàng nhập
khẩu của EU từ Việt Nam sẽ được miễn thuế kể từ thời điểm EVFTA có hiệu lực,
tăng lên hơn 99% trong bảy năm tới. Thuế hải quan sẽ được loại bỏ gần như hoàn
toàn trong thời gian chuyển tiếp là bảy năm đối với hàng hóa Việt Nam và 10 năm
đối với hàng hóa EU. Điều này thể hiện một chiến thắng cùng có lợi cho doanh
nghiệp và người tiêu dùng, dưới hình thức giá thấp hơn và tăng khả năng cạnh
tranh.
Thu hút đầu tư FDI tại Việt Nam: Số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam cho
thấy tính đến ngày 20 tháng 6 năm 2019, các công ty châu Âu đã có khoảng 3.400
dự án đầu tư được đăng ký với mức giá hơn 54 đô la. 8 tỷ tại Việt Nam. Con số
này lên tới 11. 8% trong tổng số các dự án có vốn đầu tư nước ngoài và 15. 57%
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Khi nó có hiệu lực, EVFTA và IPA của nó sẽ
thấy những con số này tăng lên hơn nữa. Các thỏa thuận này sẽ cung cấp một môi
trường an toàn hơn, có thể dự đoán và thân thiện với doanh nghiệp hơn, và một
môi trường phù hợp hơn với các quy tắc và thông lệ quốc tế.
EVFTA sẽ giúp Việt Nam trở thành trung tâm cho các công ty châu Âu trong
ASEAN: EVFTA sẽ mở cửa thị trường, tăng cường thương mại và biến Việt Nam
thành điểm đến đầu tư hấp dẫn hơn cho các công ty châu Âu ở Đông Nam Á. Việt
Nam sẽ trở thành một trung tâm thương mại và đầu tư trong khu vực, có vị trí tốt
để thu hút đầu tư mới từ các công ty muốn hưởng lợi từ những cơ hội mới.
Hiệp định EVFTA được thông qua sẽ giúp ngành điều Việt NAM tham gia sâu vào chuỗi
cung ứng toàn cầu và tăng quy mô xuất khẩu vào thị trường EU. Thuế suất đối với các
sản phẩm chế biến từ hạt điều nhập khẩu vào EU từ Việt Nam giảm về 0% ngay sau khi
EVFTA có hiệu lực từ ngày 1/8/2020. Mức giảm này rất quan trọng vì trước khi EVFTA
có hiệu lực, thuế quan của mặt hàng hạt điều nhập khẩu vào EU từ Việt Nam dao động từ
7 - 12%. Theo Hiệp hội Điều Viều Nam (VINACAS), mặc dù dịch Covid-19 đang lan
rộng trên thế giới, 5 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu hạt điều tiếp tục là điểm sáng khi
xuất khẩu tăng cả về lượng và giá trị. Cụ thể, 5 tháng qua, cả nước xuất khẩu được trên
190.000 tấn điều nhân các loại với kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 1,27 tỷ USD; tăng
19,23% về lượng và tăng 3,07% về trị giá so với 5 tháng đầu năm 2019.
Từ đồ thị với nguồn số liệu thu thập từ nhiều nguồn khác nhau như Vinacas, Tổng
cục Hải quan… có thể thấy được rằng, sản lượng nhân điều của cả nước vẫn tăng trưởng
đều, nhìn chung sẽ không thấy tác động của đại dịch Covid-19 đến sản lượng xuất khẩu
nhân điều. Lý giải cho điều này, có thể nói nguồn nguyên liệu nội địa luôn là nỗi lo của
ngành khi không đủ nguồn cung xuất khẩu. Thực tế cho thấy, điều thô VN từ lâu vẫn
luôn nhập khẩu từ châu Phi, tuy nhiên trước tác động của đại dịch đã khiến cho việc vận
chuyển quốc tế khó khăn, làm gián đoạn chuỗi cung ứng điều thô của các quốc gia châu
Phi đến VN. Các DN nội địa chuyển hướng sang nhập khẩu hạt điều Campuchia, vì VN
có biên giới với với Campuchia và hơn hết là hầu hết lượng điều thô đều được vận
chuyển bằng đường bộ, không bị chịu thuế quá cao từ cước phí hàng hải. Đó cũng là lý
do vì sao sản lượng xuất khẩu điều nhân của nước ta luôn tăng dù trong đại dịch.
2.1.2. Kim ngạch xuất khẩu hạt điều trước và trong đại dịch Covid-19
Bỏ qua sự giảm xuống về giá xuất khẩu bình quân năm 2018 và 2019 của hạt điều
VN do chất lượng sản phẩm kém, lượng hàng tồn kho nhiều do khó xuất đi nước ngoài
thì ta thấy giá xuất khẩu bình quân năm 2020 là 6238,5 USD/ tấn. Điều đó cho thấy,
trước tác động của đại dịch, sức mua của người tiêu dùng giảm dẫn đến nhu cầu mặt hàng
điều của các quốc gia cũng giảm và sau cùng giá xuất khẩu bình quân cũng giảm thiểu.
Trong khi đó, các DN xuất khẩu phải chịu tiền thu mua đầu vào điều thô số lượng lớn và
chịu cước phí hàng hải cao, dẫn đến sự thiếu hụt lợi nhuận, gây lỗ cho DN.
Nhìn chung, từ việc giá xuất khẩu bình quân hạt điều giảm mà ta thấy kim ngạch
xuất khẩu cho mặt hàng này trước và trong đại dịch có sự khác nhau. Trước đại dịch
Covid-19, kim ngạch xuất khẩu tăng dần đều, có sự suy giảm vào năm 2019 và 2020.
Như vậy, trước tác động của tại dịch Covid-19 thì kim ngạch xuất khẩu hạt điều VN đã
có sự biến động theo chiều hướng đi xuống.
Về cơ cấu thị trường : 11 tháng năm 2021, ngành điều Việt Nam xuất khẩu sang
23 thị trường thành viên EU. Trong đó, ngành điều đã khai thác tốt hai thị trường Hà Lan
và Đức. Kim ngạch xuất khẩu hạt điều của Việt Nam sang thị trường Hà Lan đạt 63,42
nghìn tấn, trị giá 345,71 triệu USD, tăng 12,3% về lượng, nhưng giảm 4,1% về trị giá.
Tương tự, xuất khẩu hạt điều của Việt Nam sang thị trường Đức đạt 19,4 nghìn tấn, trị
giá 122,64 triệu USD, tăng 9,5% về lượng và tăng 6,2% về trị giá. Đức và Hà Lan hiện là
những đầu mối thương mại quan trọng đối với hạt điều nhập khẩu để tái xuất. Bên cạnh
đó, ngành điều Việt Nam cũng đã khai thác tốt các thị trường thành viên EU khác như:
Pháp, Tây Ban Nha và Ba Lan. Đây đều là những thị trường tiêu thụ hạt điều tốt. Đáng
chú ý, xuất khẩu hạt điều sang thị trường Phần Lan tăng 625,7% về lượng và tăng
629,6% về trị giá. Như vậy, ngành điều Việt Nam đã khá thành công khi khai thác tốt thị
trường cửa ngõ như Hà Lan, Đức, đồng thời, doanh nghiệp Việt Nam đã khai thác tốt các
thị trường khác tại EU như Phần Lan, Ba Lan, Bỉ, Tây Ban Nha, Rumani, Bồ Đào Nha.