Professional Documents
Culture Documents
THẨM MỸ HỌC BS DƯƠNG
THẨM MỸ HỌC BS DƯƠNG
THẨM MỸ HỌC BS DƯƠNG
I. MỤC TIÊU:
1. Nhắc lại giải phẫu của nhóm răng trước hàm trên và hàm dưới.
2. Phân tích các ứng dụng giải phẫu học vào phục hình nhóm răng trước.
II. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THẨM MỸ NHÓM RĂNG TRƯỚC
Hầu hết các bệnh nhân đến khám vì phục hình cũ không đảm bảo tính thẩm
mỹ, thường do kém tương thích về mặt sinh học và chức năng. Nhà lâm sàng nên
ghi chép lại một cách có hệ thống trên bảng kê về các điều trị phục hồi trước đây,
đồng thời ghi lại các răng mất và bất kỳ răng nào bị mòn, đổi màu và/hoặc được
điều trị tủy. Trong quá trình lên kế hoạch phục hình, những ghi chép này sẽ giúp nhà
lâm sàng chọn phương pháp và vật liệu một cách chính xác để dùng trong mỗi
trường hợp bệnh. Trong phần này, chúng ta sẽ nghiên cứu đến một vài đặc điểm
chung của răng hàm trên và răng hàm dưới, như sự sắp xếp răng ở hai bên đường
giữa, hình dạng răng, màu sắc và bề mặt.
1. Đường giữa cung răng hàm trên và hàm dưới
Khoảng 70% dân số cho thấy có sự trùng khớp giữa đường giữa mặt và
đường giữa cung răng hàm trên. Tuy nhiên, sự trùng khớp giữa đường giữa cung
răng trên và dưới ít gặp hơn nhiều, chỉ vào khoảng 25% dân số.
Những lưu ý về thẩm mỹ và ứng dụng:
Một sự chênh lệch nhẹ về đường giữa cung răng trên và dưới hiếm khi được
phát hiện, vì vậy nó không phải là trở ngại chính trong việc đạt được hiệu quả thẩm
mỹ; trên thực tế, nó làm cho nụ cười trở nên tự nhiên hơn. Tuy nhiên, một vài bệnh
nhân yêu cầu sự trùng khớp hoàn toàn giữa hai đường giữa cung răng. Do vậy, đôi
khi, bác sĩ và kỹ thuật viên thường cố gắng để sắp xếp lại cung răng trên và dưới
bằng cách điều chỉnh độ nghiêng của trục răng. Tuy nhiên, Kokich và cộng sự đã
cho thấy rằng, sự thay đổi về độ nghiêng trục răng, dù chỉ rất nhẹ, cũng làm mất đi
1
tính thẩm mỹ. Vì vậy cần phải duy trì trục răng đúng và giữ cho đường giữa cung
răng thẳng đứng, thậm chí phải hy sinh sự trùng khớp của chúng hơn là cố gắng để
duy trì sự trùng khớp bằng mọi giá.
Hình 2.1. a. Sự trùng khớp hoàn hảo giữa 2 đường giữa cung răng là rất hiếm.
b. Sự di lệch sang phải hoặc trái thường được thấy hơn, và đôi khi khá rõ.
Hình 2.2. Bệnh nhân này đang điều trị ở một nơi khác đến khám vì không hài lòng
với màu sắc của phục hình tạm đang mang, răng cửa giữa trên nhỏ và sự không
trùng khớp của 2 đường giữa cung răng.
Hình 2.3. Điều cần chú ý là khi muốn đạt được sự trùng khớp của hai đường giữa,
mặc dù việc thay đổi trục răng là cho phép, những đường này phải luôn được giữ
thẳng đứng. Nếu không được giữ thẳng đứng thì sẽ tạo nên sự mất thẩm mỹ lớn hơn
cho bệnh nhân.
2
2. Hình dạng răng
Răng của bệnh nhân có thể được phân thành các kiểu cơ bản: hình tam giác,
hình vuông và hình trứng. Có thể nhận thấy có mối tương quan giữa hình dạng môi
và kích thước cũng như sự sắp xếp các răng.
Theo một vài tác giả, hình dạng răng có thể liên quan đến giới tính hoặc là
tính cách và tuổi tác. Một vài tác giả cho rằng hình dạng răng tròn ám cho thấy tính
cách linh hoạt, tốt bụng và thích nghi tốt trong khi các răng góc cạnh cho thấy sự
mạnh mẽ và tính cách hoạt bát. Theo một số tác giả khác, không có sự liên hệ rõ
ràng giữa hình dạng răng và giới tính. Mặc dầu vậy, một vài nghiên cứu chỉ ra rằng
răng hình trứng được chấp nhận nhiều nhất, đặc biệt là đối với phụ nữ. Những
nghiên cứu khác cho thấy răng hình tam giác được bệnh nhân cho là ít hấp dẫn nhất.
a b
Hình 2.4. a. Răng hình trứng và răng hình tròn thường hay gặp ở phụ nữ.
b. Răng hình vuông có mòn ở rìa cắn thường thấy ở nam giới.
3
Hình 2.5. Ở bộ răng thật, thường không có sự phân biệt rõ ràng như vậy. Thực tế,
nam giới cũng có thể có những răng thanh mảnh và nữ giới với răng dạng hình
vuông.
Mặc dù không có bằng chứng nào cho thấy không có sự liên quan giữa hình
dạng răng và giới tính, sở thích của bệnh nhân dựa trên hình dạng răng phổ biến.
Hơn thế nữa, những nghiên cứu khác đã nghiên cứu mối quan hệ có thể có giữa hình
dạng mặt và hình dạng răng. Williams cho rằng có sự liên quan chặt chẽ giữa hình
dạng mặt và hình dáng răng cửa giữa hàm trên. Hiện nay, chỉ dẫn này vẫn được sử
dụng. Mặc dầu một vài nghiên cứu khẳng định rằng có một vài tương quan giữa các
đặc điểm giải phẫu của khuôn mặt và hình dạng răng, những đặc điểm này không
thể trở thành tiêu chuẩn để chọn lựa răng.
Lưu ý về phục hình và áp dụng:
Khi thực hiện các công việc phục hình, cần phải thăm khám các khía cạnh
khác nhau, từ đó đưa ra các thông tin hữu ích cho việc lựa chọn hình dạng răng phù
hợp nhất. Đầu tiên, phải dựa vào răng tự nhiên bên cạnh răng cần phục hồi hoặc là
dựa vào các răng ở hàm đối. Khi thực hiện các trường hợp phục hình răng mất răng
mà không có bất kỳ chỉ dẫn giải phẫu tự nhiên nào, những bức ảnh cũ hoặc những
4
mẫu hàm cũ của bệnh nhân là rất cần thiết cho việc quyết định hình dạng ban đầu
của răng. Cuối cùng, trong các trường hợp mà những chỉ dẫn trên không có, hình
dạng mô nướu và kiểu mô nha chu có thể cung cấp các chỉ dẫn như về hình dạng
răng thích hợp nhất cho việc phục hình.
Hình 2.6. Cách dễ dàng nhất để khôi phục lại đúng hình dạng và đường viền răng
là mô phỏng răng bên cạnh. Răng cửa trên bên trái của bệnh nhân này, bị gãy sau
tai nạn, được tái tạo lại bằng composite dựa trên các đặc điểm giải phẫu của răng
cửa trên bên phải mà còn hầu như nguyên vẹn. Điều này giúp tạo ra sự đối xứng ở
hai răng cửa giữa hàm trên.
a b c d e
Hình 2.7: a,b,c. Hiện tượng mòn các răng cửa làm mất men ở rìa cắn, răng bị sậm
màu, mất kết cấu bề mặt và có sự biến đổi rõ rệt ở vùng tiếp xúc. Ảnh được cung cấp
bởi bệnh nhân cho thấy rằng răng trước kia của bệnh nhân có dạng hình vuông; d,
e. Sáu veneer sứ được tạo ra mô phỏng lại hình dáng thật của răng với chiều dài rìa
cắn và kết cấu bề mặt thích hợp.
5
3. Màu sắc
Khi quan sát bộ răng tự nhiên, một sự khác biệt rõ về màu sắc có thể được
nhìn thấy giữa các răng của hai cung hàm. Ví dụ, dễ dàng nhận thấy là răng cửa giữa
hàm trên là răng có màu sáng nhất trong miệng và vì vậy cho thấy thành phần răng
không chỉ bao gồm kích thước răng mà gồm cả độ sáng. Ở hầu hết các cá thể, răng
cửa bên có cùng tông màu (hue) như răng cửa giữa hàm trên nhưng răng mảnh hơn
và vì vậy trông ít sáng hơn.
Răng nanh, cả hàm trên và hàm dưới, thường có độ bão hòa (chroma) đậm
hơn, vì vậy tối màu hơn (vàng hơn) so với răng bên cạnh chúng. Hơn thế nữa, có thể
dễ dàng thấy rằng răng tiền cối có cùng màu sắc với răng cửa bên vì vậy dễ dàng
phân biệt chúng với răng nanh. Màu sắc mà mắt chúng ta cảm nhận là kết quả của
hiện tượng khúc xạ và hiện tượng phản xạ ánh sáng lên bề mặt răng, làm cho răng
có màu sắc phụ thuộc vào độ dày của men răng và mức độ tập trung của ngà răng.
Độ dày của men răng ở răng cửa giữa trên thay đổi từ 0.3mm ở vùng cổ răng tới xấp
xỉ 1mm ở rìa cắn. Ở vùng cổ răng, độ dày men răng mỏng làm cho màu sắc của ngà
răng rõ ràng hơn, tạo ra đậm độ bão hòa lớn hơn. Ngược lại, men răng dày hơn sẽ
tạo ra độ trong mờ rõ ở phần ba cắn, khi đó hiện tượng huỳnh quang và cản quang
phối hợp với những hiện tượng phản xạ ánh sáng toàn phần tạo ra bởi độ nghiêng
của rìa cắn.
Lưu ý phục hình và ứng dụng:
Khi bảo tồn răng trước, cần phải tái tạo lại màu sắc răng một cách tự nhiên.
Điều này tương đương với việc tái tạo lại răng nanh của bệnh nhân với màu đậm
hơn, tuy nhiên quan niệm này ít được chấp nhận. Thực tế, đa số bệnh nhân đều thích
răng sáng màu, vì vậy họ thường yêu cầu tẩy trắng trước khi điều trị phục hình. Bên
cạnh đó, để làm cho nụ cười trở nên đẹp hơn, màu sắc sau khi tẩy trắng sẽ dùng để
so màu răng cho phục hình.
6
Hình 2.8: Mặt trước của răng tự nhiên cho thấy sự tăng dần về độ bão hòa của màu
răng từ răng cửa giữa đến răng nanh. Như một quy luật, răng cối nhỏ có màu giống
răng cửa bên.
a b c
d e
Hình 2.9: a, b, c. Bệnh nhân đến vì muốn phục hồi răng cửa bên hàm trên bên trái.
Do nhu cầu muốn làm răng trắng hơn, việc tẩy trắng tại nhà được thực hiện trước
khi điều trị phục hình. So sánh giữa hình ảnh ban đầu (a) và kết quả của điều trị tẩy
trắng ở hàm trên (b), và ở cả 2 hàm (c) cho thấy những cải thiện đáng kể về thẩm
mỹ; d. Nhìn từ phía bên, dễ dàng nhận thấy khoảng hở giữa răng cửa bên trái và
các răng bên cạnh; e. Phục hồi có đậm độ phù hợp khi nhìn.
- Đối với răng người trẻ tuổi: Khi thực hiện phục hồi thẩm mỹ ở các bệnh nhân trẻ
tuổi, cần phải tái tạo lại độ trong mờ điển hình ở phần ba cắn như của một răng khỏe
7
mạnh chưa bị mài mòn trên phục hình. Cũng rất quan trọng để thiết lập độ sáng tối
(value) cao, bởi vì màu sắc sáng của ngà răng bên dưới và cho sự bảo tồn men răng.
- Đối với răng người lớn tuổi: trong tự nhiên, hiện tượng mài mòn làm giảm dần
kích thước men răng, không chỉ ở rìa cắn mà còn ở mặt ngoài, vì vậy cũng làm cho
răng nhỏ dần. Điều này xảy ra do hoạt động của cơ môi và hiện tượng mòn răng tự
nhiên mà răng phải chịu hằng ngày bao gồm thói quen chải răng. Khi tiến hành phục
hình cho bệnh nhân không còn trẻ, bác sĩ cần phải vừa cân nhắc nhu cầu của họ
đồng thời giải thích cho bệnh nhân về sự thay đổi màu sắc xảy ra theo tuổi tác. Sự
gia tăng về đậm độ và giảm độ sáng tối là kết quả của sự giảm độ dày men răng.
Điều này dẫn đến sự nổi bật ngày càng rõ của màu ngà, để rồi nó hòa lẫn các chất
màu càng làm cho răng trở nên sẫm màu hơn. Tuy nhiên, ngày nay, cần phải quan
tâm nhiều đến kỳ vọng của bệnh nhân, cũng như tính cách và lối sống của họ để đạt
được sự phục hồi thẩm mỹ phù hợp với khung thẩm mỹ chung.
Hình 2.10: Phục hình trực tiếp và gián tiếp cho răng cửa trên tạo ra màu sắc như
thật. Mặc dù có độ sáng tối cao, chúng vẫn còn men răng dày, là đặc điểm điển hình
ở người trẻ, đặc biệt ở rìa cắn.
8
Hình 2.11: Phục hình được thực hiện trên bệnh nhân bị bệnh nha chu bao gồm việc
làm tăng đậm độ phục hình trên răng tự nhiên và implant, đặc biệt ở vùng cổ răng,
phù hợp với tuổi và tình trạng mô nha chu bệnh nhân.
a b c d
Hình 2.12: Bệnh nhân có nhu cầu làm lại phục hình đã được làm cách đây 15 năm.
Ở lần điều trị trước, bệnh nhân yêu cầu màu sắc răng rất trắng. Mặc dầu bệnh nhân
không còn trẻ nữa, bệnh nhân có yêu cầu đặc biệt muốn làm trẻ nụ cười của mình.
(b) Trên phục hình mới, mặc dù răng rất trắng nhưng vẫn tự nhiên vì độ trong mờ
phù hợp; c,d. Hình ảnh chụp cận cảnh cho thấy hình dáng răng và quan trọng hơn
là màu sắc răng điển hình của người trẻ tuổi phù hợp với kỳ vọng của bệnh nhân.
4. Ảo giác
Ảo giác về sự thay đổi kích thước thông qua sự thay đổi màu sắc. Màu sắc
của phục hồi được chọn bởi bệnh nhân trở thành thước đo quan trọng nhất cho nhà
lâm sàng. Trên thực tế, sự thay đổi màu sắc được cân nhắc sau khi lựa chọn hình
dáng, đường viền và tỷ lệ răng. Dù sao đi nữa, tông màu, độ bão hòa, độ sáng tối, độ
trong mờ và đặc điểm bề mặt đều đóng vai trò quan trọng trong phục hình thẩm mỹ
và ảnh hưởng rõ rệt lên ảo giác về sự thay đổi kích thước răng.
9
Lưu ý phục hình và ứng dụng:
- Tông màu và độ bão hòa (Hue và chroma)
Hue là màu sắc chủ đạo của răng, trong khi chroma là sự bão hòa của nó.
Trong tự nhiên, tông màu của răng cửa giữa và cửa bên thường rất giống nhau. Tuy
nhiên, khi phục hình của bốn răng cửa có cùng màu sắc như trong thuyết của Chiche
và Pinault, sẽ cho thấy rõ sự giả tạo của phục hình. Thông thường, răng nanh có độ
bão hòa cao hơn so với răng cửa. Để tránh sự tương phản rõ ràng giữa màu sắc răng
nanh và răng cửa bên, Geller đề nghị tạo ra sự chuyển dần về độ bão hòa từ răng cửa
giữa đến răng nanh. Đối với hai răng cùng hue, răng càng nằm gần má hơn sẽ trông
sáng hơn, nếu hai răng có kích cỡ khác nhau (ví dụ, răng cửa giữa trên so với cửa
bên), răng lớn hơn sẽ trông trắng hơn bởi vì diện tích bề mặt lớn hơn (do ảo giác).
Việc áp dụng những nguyên tắc này sẽ làm nổi bật răng cửa giữa, góp phần quan
trọng vào việc tạo ra một nụ cười dễ nhìn.
Hình 2.13: Khi phục hình vùng răng cửa, nhà lâm sàng phải cố gắng tái tạo lại sự
chuyển tiếp độ bão hòa giống như ở bộ răng thật, răng nanh phải có độ bão hòa cao
hơn so với răng cửa bên và răng cửa giữa.
10
Hình 2.14: Bởi vì nằm ở gần má hơn, nên răng cửa giữa nhìn sáng hơn so với răng
cửa bên mặc dù cùng màu.
11
Ở những người già, các đường sọc đứng màu nâu được đắp thêm vào ở phía
trong của phục hình hoặc được đắp vào bề mặt tạo nên ảo giác của sự gia tăng chiều
cao thân răng. Việc tạo ra các đường ngang có màu, mỏng có thể mô phỏng sự mất
khoáng ở mặt ngoài tạo ra ảo giác răng to hơn. Việc dùng đến các màu sắc bề mặt
thường là cơ hội cuối cùng cho việc cố gắng để cải thiện độ bão hòa của phục hồi; vì
lý do này, phương pháp này bị lạm dụng và sử dụng thường xuyên. Tuy nhiên, cần
phải lưu ý rằng màu sắc ở bề mặt được tạo ra bởi oxide kim loại và việc sử dụng
không cần thiết có thể làm gia tăng độ đục của phục hình.
Hình 2.15: Với hai răng cùng kích cỡ nhưng khác nhau về value, răng có value cao
hơn (trắng hơn) trông có vẻ to hơn so với răng có value thấp (đen hơn).
Hình 2.16: Kích thước răng quá dài có thể được che đậy bằng cách tạo lại vùng cổ
răng bằng cách vẽ thêm chân răng giả và tạo thêm đường nối men-cement.
12
a b
Hình 2.17: a. Việc đắp sứ trong mờ ở vùng tiếp xúc làm cho răng có cảm giác hẹp
hơn,hoặc khi dùng ở rìa cắn sẽ làm giảm chiều cao thân răng; b.Vì vậy, phục hình
một khi được gắn trong miệng sẽ tạo ra ảo giác về kích thước.
13
của bệnh nhân nên được cân nhắc để có được mức và kiểu kết cấu phù hợp trong khi
làm phục hình.
Hình 2.18: Nhu cầu thẩm mỹ ở răng cửa giữa hàm trên bên trái đòi hỏi phải tạo ra
giải phẫu bề mặt giống răng cửa giữa hàm trên phải trên miếng trám composite.
Hình 2.19: Răng cửa giữa hàm trên bên trái chết tủy, có miếng trám composite lớn,
hở bờ. Bệnh nhân được đề nghị làm phục hình toàn sứ.
14
1.1. Hình dạng và đường viền:
- Hình tam giác: Khi nhìn từ mặt ngoài, hai đường viền bên phân kỳ về phía
cắn và hội tụ nhiều về phía cổ răng. Điều này tạo nên đường cổ răng tương đối hẹp.
- Hình oval: Hai đường viền bên cong và tròn hơn cả về phía cắn và phía cổ
răng cùng với sự thu hẹp dần phía cổ răng và phía rìa cắn.
- Hình vuông: Hai đường viền bên thẳng và song song hơn tạo ra vùng cổ
răng và rìa cắn rộng.
Hình 3.1: Các dạng hình răng cửa khác nhau ở các cá thể khác nhau, nhưng nhìn
chung được chia thành 3 dạng: tam giác, oval, hình vuông.
15
1.2. Tỷ lệ
Hầu như tất cả các nghiên cứu đều kết luận rằng chiều rộng thân răng cửa
giữa bằng khoảng 80% chiều cao. Theo nghiên cứu của Brisman, tỷ lệ này được
chấp nhận bởi đa số bệnh nhân, tuy nhiên nhiều nhà lâm sàng bị ảnh hưởng bởi răng
nhựa có sẵn của hàm tháo lắp thì thích răng dài và hẹp hơn. Chiche và Pinault cho
rằng tỷ lệ từ 75% đến 80% là lý tưởng. Người ta cũng nhận thấy rằng nam giới có
răng cửa lớn hơn so với nữ giới, cũng như người da đen có răng lớn hơn so với
người da trắng. Peck và Peck đồng ý với nhận định này, đồng thời chỉ ra rằng răng
cửa giữa ở nữ giới có thân răng lâm sàng ngắn hơn và cũng có đường cười cao hơn.
Hình 3.2: Ở bộ răng tự nhiên, chiều rộng của răng cửa giữa trên từ 8.3mm đến
9.3mm, trong khi chiều dài dao động từ 10.4 đến 11.2mm, vì vậy tỉ lệ rộng/cao là
80%.
16
răng cửa giữa. Sự khác biệt nhỏ thường không được chú ý nhưng nếu quá 0.3 đến
0.4mm thì sẽ dễ nhận biết sự mất đối xứng giữa hai răng.
Hình 3.3: Sự đối xứng hoàn hảo của răng cửa giữa không phải luôn có ở bộ răng
thật. Sự khác biệt lớn hơn 0.3mm có thể bị chú ý, trong trường hợp này là chênh
lệch 0.5mm.
Hình 3.4: Sự khác biệt nhỏ về chiều cao thân răng, khi môi ở tư thế nghỉ, là chấp
nhận được nếu có đường cười cao, được sữa chữa bởi sự khác biệt tương ứng về
chiều cao đường viền nướu, làm cân bằng lại chiều cao tổng thể.
17
Hình 3.5: Chiều cao thân răng có vẻ bằng nhau khi môi ở tư thế nghỉ, khi đường
cười cao sẽ nhận thấy sự chênh lệch ở đường viền nướu ở hai răng cửa giữa;vì vậy,
sự đối xứng và tương đồng có thể bị ảnh hưởng.
18
Hình 3.6: Răng cửa giữa trên trái của bệnh nhân này bị bệnh nha chu, có chỉ định
định nhổ răng, đã được thay thế bằng một mão răng trên trụ implant. Khi hoàn tất
phục hình, hình ảnh chụp phía trước của các răng cửa giữa cho thấy một khe hở ở
phía nướu giữa răng thật và răng phục hình. Răng bên trái dài hơn so với răng bên
phải do tụt nướu sau nhổ răng, tuy nhiên sự chênh lệch này khó nhìn thấy, ngay cả
khi cười tối đa.
Hình 3.7: Đối với bệnh nhân có đường cười cao, sự sắp xếp đúng đường viền nướu
và rìa cắn là yếu tố quyết định để đảm bảo tính đối xứng và sự tương phản của răng
cửa giữa trên. Kích thước và tỷ lệ không phù hợp được sửa chữa bởi tạo ra hai
veneer sứ nổi bật, đối xứng và tương đồng.
19
cho răng cửa trên. Mặt má của răng cửa giữa có thể chia thành 3 phần có độ nghiêng
khác nhau: phần ba cổ, phần ba giữa, phần ba cắn. Ba phần này quyết định độ lồi
của mặt răng mà có thể dễ dàng nhận thấy khi nhìn từ mặt bên.
Lưu ý phục hình và ứng dụng:
Độ dày của răng cửa trên ở chỗ nối giữa phần ba giữa và phần ba cắn thay đổi
từ 2.5 mm (ở răng mỏng) đến 3.3 mm (ở răng dày). Một phục hình có độ dày không
vượt quá 3.5 mm được xem là chấp nhận được mặc dù giá trị này lớn hơn với giá trị
thường được thấy trên bộ răng thật. Một cách lý tưởng, trong quá trình mài răng,
răng trụ nên được mài ở cả mặt ngoài và mặt trong cho đến khi đạt được độ dày của
vật liệu phục hồi. Trước khi bắt đầu thủ thuật, cần thiết phải cân nhắc trước độ dày
của phục hồi bằng cách sử dụng dấu silicone lấy từ mẫu sáp; như vậy sẽ cho phép
xác định chính xác vị trí rìa cắn của cùi răng. Một trong những lỗi hay gặp phải khi
phục hồi vùng răng trước là làm cho mặt ngoài lồi quá mức do mài quá ít ở phần ba
cắn. Theo Chiche và Pinault, việc mài thiếu mặt ngoài có thể phát hiện được bằng
cách đo chiều dày của phục hình ở nơi giao giữa phần ba cắn và phần ba giữa; ngoài
ra có thể được xác định khi khám thấy rìa cắnvượt quá đường viền môi đỏ, dẫn đến
các vấn đề về phát âm khi phát âm f.
Hình 3.8: Độ cong rìa cắn răng cửa giữa trên tạo nên các dải opaque giúp phân
biệt được rìa cắn trước khi hiện tượng mài mòn xảy ra. Thăm khám răng nhìn
nghiêng cho thấy độ dày răng ở chỗ nối phần ba giữa và phần ba cắn nằm trong
khoảng từ 2.5 đến 3.3 mm.
20
Hình 3.9: Ở phục hình răng cửa, độ dày của cùi răng nên được giảm ở cả mặt
ngoài và mặt trong với mục đích đảm bảo mão răng có kích thước không vượt quá
3.5m.
21
Hình 3.10: Ở bộ răng thật, hình dạng của răng cửa bên thường giống hình dạng
của răng cửa giữa, mặc dù nhỏ hơn nhiều về kích thước.
Hình 3.11: Bệnh nhân này không hài lòng với tình trạng răng cửa bên bị đổi màu
và có hình dạng bất thường. Sau khi được bọc mão thì thẩm mỹ của bệnh nhân được
cải thiện đáng kể.
a b c d
Hình 3.12: a,b.Để duy trì sự sắp xếp các răng đúng vị trí, kích thước gần xa của
răng cửa bên có thể bị giảm đi một phần mà không làm ảnh hưởng đến thẩm mỹ của
toàn bộ phục hình; c,d. Ngược lại, khi có quá nhiều khoảng trống, tăng chiều rộng
của răng cửa bên là yếu tố quyết định đến thẩm mỹ phục hình.
22
3. RĂNG NANH TRÊN
Những răng này rất nổi bật, đặc biệt về phía cổ răng và có múi nhọn hình chữ
V nằm ở phía cắn và ngày càng tù hơn theo tuổi do sự mài mòn của múi răng. Đặc
điểm nổi bật bao gồm cingulum nổi rõ và chiều dày ngoài trong cho phép chúng
chịu được các lực không theo trục răng. Vì vậy trong tự nhiên, chúng đóng vai trò
mở khớp ở vùng răng sau trong vận động sang bên. Răng nanh thường có độ bão
hòa cao hơn so với răng cửa giữa và cửa bên. Đỉnh viền nướu cũng giống như đỉnh
múi không hoàn toàn nằm trên mặt phẳng ngang bởi vì độ nghiêng của mặt phẳng
cắn thường được thấy trên bộ răng thật. Độ nghiêng theo chiều ngoài trong thường
không đối xứng vì vậy tạo nên sự mất cân bằng về sự gia tăng của góc cắn trong.
Lưu ý phục hình và ứng dụng:
Hình dạng và vị trí răng nanh trên đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm
soát độ rộng của nụ cười, ảnh hưởng rõ rệt lên kích thước hành lang môi. Khi phục
hình không đúng làm cho những răng này kém lồi do bị nghiêng trong nhiều, sẽ ảnh
hưởng đến thẩm mỹ nụ cười do răng nanh là nơi chuyển tiếp giữa vùng răng trước
và vùng răng sau. Ngược lại, khi một phục hình răng nanh bị làm nhô quá ở mặt
ngoài sẽ dẫn đến sự thu hẹp quá mức của hành lang má, làm ảnh hưởng đến nụ cười.
Hình 3.13: Răng nanh cũng có nhiều biến thể về mặt giải phẫu. Thỉnh thoảng nó có
đỉnh múi nhọn tạo cảm giác rất mạnh mẽ, nhưng đôi khi nó lại tròn và mềm mại.
23
Hình 3.14: Răng nanh hàm trên bên phải làm lồi ít ảnh hưởng đến nụ cười của
bệnh nhân trẻ này. Khi phục hình, răng này được làm dài ra và nhô về phía má thêm
khoảng 1mm. Sự thay đổi này cho phép làm răng nanh lấy lại vai trò của nó là phân
chia vùng răng trước và vùng răng sau, làm cho nụ cười phù hợp với cá tính của
bệnh nhân.
24
4.2. Răng cửa bên trên
25
phẳng ở phần ba giữa và phần ba cắn và lồi hơn ở phần ba cổ. Răng nanh có thùy
giữa nổi rõ và lồi ngay phía trên đường viền nướu.
Lưu ý phục hình và ứng dụng:
Không phải khi nào cũng có đủ chỗ để sắp xếp các răng hàm dưới một cách
đều đặn. Việc giảm kích thước gần xa của các phục hình răng cửa hàm dưới nhằm
mục đích sắp xếp đều đặn các răng này sẽ tạo nên sự giả tạo do sự biến đổi về hình
dáng và đuờng viền răng. Khi làm phục hình, bên cạnh việc cân nhắc những thay đổi
có thể tìm thấy ở bộ thật liên quan đến sự sắp xếp răng, những khác biệt về giải phẫu
ở các răng cửa hàm dưới cũng phải được tính đến. Kích thước thật phải được tái tạo,
và sự khác biệt về đường viền của răng ở phía xa so với răng cửa giữa phải được tạo
lại.
Hình 4.1: Ở hàm dưới, răng cửa bên có đường viền xa lồi rõ. Điều này làm cho
chúng rộng hơn so với răng cửa giữa 0.5mm.
Hình 4.2: Khi làm phục hình ở hàm dưới, cần chú ý đến sự khác biệt về mặt giải
phẫu giữa răng cửa giữa và răng cửa bên để mang lại sự tự nhiên cuả phục hình.
26
2. Sự sắp xếp
Khi quan sát trên phần lớn bệnh nhân, người ta nhận thấy rằng các răng hàm
dưới hiếm khi sắp xếp đều đặn. Sự lệch lạc ở vùng này phổ biến đến nỗi nó không
gây nên bất cứ sự khó chịu nào cho bệnh nhân và người đối diện. Sự sắp xếp răng
sai lệch tạo nên đường cong bất thường của rìa cắn do sự xoay và lệch ngoài hay
lệch trong thường được tìm thấy ở răng dưới.
Lưu ý phục hình và ứng dụng:
Khi thiết kế một kế hoạch điều trị, nhà lâm sàng phải lưu tâm đến nhu cầu
của bệnh nhân khi muốn sự sắp xếp lại bốn răng cửa hàm dưới, tuy nhiên phải tránh
hy sinh hình dạng và đường viền của các răng này chỉ để làm hài lòng ước muốn của
bệnh nhân. Kết quả này có thể đạt được tối ưu bằng chỉnh nha tiền phục hình, tuy
nhiên cần phải làm cầu răng trong trường hợp này để tránh tái phát. Điều này sẽ gây
khó khăn trong việc vệ sinh răng miệng cũng như tạo ra nhiều nguy cơ khác. Để
thuận tiện cho việc vệ sinh răng miệng, trong trường hợp có đủ mô nha chu nâng đỡ,
có thể làm mão rời. Trong những trường hợp không thể thỏa mãn hoàn toàn ước
muốn của bệnh nhân, bác sĩ phải làm cho bệnh nhân hiểu rằng phục hình tuy không
được sắp xếp một cách hoàn hảo nhưng đúng về mặt giải phẫu sẽ vẫn thẩm mỹ hơn
so với việc sắp xếp đều đặn nhưng có hình dạng không đúng.
Hình 4.3: Ở bộ răng thật, hiện tượng xoay và chồng lấp lên nhau rất thường gặp.
27
Hình 4.4: Thỉnh thoảng nó còn kết hợp với sự thay đổi độ nghiêng trục răng theo
hướng trái hoặc phải.
Hình 4.5: Trong tự nhiên, hiếm khi các răng cửa dưới sắp xếp ngay ngắn. Trong
trường hợp này, để các răng đươc sắp xếp ngay ngắn, nhà lâm sàng đã mài bỏ kích
thước gần xa một cách không phù hợp làm thay đổi hình dạng, đường viền và tỷ lệ,
làm cho phần răng cửa trở nên không tự nhiên.
Hình 4.6: Để làm cho phục hình răng cửa trông tự nhiên nhất, mặc dù có đủ chỗ để
sắp xếp các răng một cách đều đặn, răng cửa giữa dưới trái được làm xoay nhẹ và
chồng lên mặt ngoài của răng bên cạnh.
28
Hình 4.7: Trong trường hợp phục hình với implant, việc tạo ra sự xoay và chồng
nhau ở vùng răng cửa hàm dưới cũng giúp giải quyết vấn đề thẩm mỹ khi có sự
thiếu chỗ và đường kính implant nhỏ hơn cần thiết.
3. Rìa cắn
Ở tuổi thanh thiếu niên, rìa cắn của các răng cửa hàm dưới có các nụ mà sau
này sẽ biến mất do hiện tượng mài mòn. Cùng với thời gian rìa cắn các răng cửa
dưới bị mài mòn do tiếp xúc cắn khớp với răng cửa trên đặc biệt trong vận động đưa
hàm ra trước. Rìa cắn răng nanh và răng cửa hàm dưới rất quan trọng về mặt chức
năng, bởi vì chúng chịu trách nhiệm ổn định khớp cắn ở vùng răng trước. Trong các
chuyển động sang bên, răng nanh đóng vai trò nhả khớp. Răng cửa dưới trong tương
quan với răng cửa trên thông qua hõm lưỡi cho phép sự hướng dẫn ra trước, giúp
nhả khớp vùng răng sau.
Lưu ý phục hình và ứng dụng:
Một lỗi thường xuyên gặp khi phục hình răng dưới, theo Dawson, đó là tạo ra
các góc cắn tròn thay vì góc cắn vuông ở vùng này. Ngoài việc tạo ra hình dạng
không tự nhiên, việc này còn ảnh hưởng lên sự tiếp xúc với răng cửa trên tạo ra sự
bất ổn về khớp cắn. Để tiếp khớp đúng với hõm lưỡi răng cửa trên, nhằm tạo ra hiệu
quả mặt thẩm mỹ và chức năng, đường viền mặt trong của rìa cắn phải hơi cao hơn
so với đường viền mặt ngoài. Ở nhóm răng nanh, hiện tượng mài mòn do vận động
động sang bên vừa làm cho đỉnh múi lệch về phía gần hơn đồng thời làm cho rìa cắn
cũng nghiêng theo chiều ngoài trong giống răng cửa.
29
Hình 4.8: Theo thời gian, rìa cắn có những thay đổi rõ rệt, các nụ được nhìn thấy ở
tuổi thiếu niên biến mất khi trưởng thành, rìa cắn bị mòn nhiều và trở nên rõ ràng
hơn cùng với tuổi tác.
Hình 4.9: Để phục hồi răng trước, cần phải chú ý đến việc phục hồi rìa cắn với
phía lưỡi rìa cắn cao hơn so với phía má. Rìa cắn răng cửa giữa phải và răng cửa
bên trái được tái tạo bằng composite.
Hình 4.10: Răng cửa giữa bên trái được phục hình và rìa cắn được làm sao cho bị
mài mòn chức năng ở phía xa để khớp với hõm lưỡi của răng cửa giữa trên.
30