Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 24

3

MỤC LỤC

Bài tập 1: Hình thức của di chúc........................................................................5


1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.................................................................................................................6

2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người làm
chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời?..................................................................................................7

3. Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?.............7

4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình thức
di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay?.............................8

5. Di chúc của cụ Hựu đã được thành lập như thế nào?...............................................8

6. Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời?........8

7. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình thức
phù hợp với quy định của pháp luật?.......................................................................9

8. Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu?............9

9. Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc ông Hựu?........9

10. Theo anh/ chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức không? Vì sao?
.............................................................................................................................. 10

11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS 2015 liên quan đến hình thức di
chúc của người không biết chữ?............................................................................10

2
Bài tập 2: Di chúc tài sản của người khác....................................................12
1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định 359 cho câu trả lời?
.............................................................................................................................. 13

12. Đoạn nào của Quyết định 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc là
tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?.................................................................14

13. Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của quyết định cho câu trả
lời?........................................................................................................................14

14. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm?..............14

15. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời?............................................................................................15

16. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu
tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao?............16

17. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị thu
hồi trước khi hai cụ chết........................................................................................16

18. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của
cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định vừa
nêu của Tòa giám đốc thẩm?.................................................................................16

19. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và
cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi?
Suy nghĩ của anh/chị về hướng về nêu trên của Tòa giám đốc thẩm.....................17

Bài tập 3: Di chúc chung của vợ chồng..........................................................18


1. Đoạn nào của bản án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của vợ
chồng?...................................................................................................................18

3
20. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS
2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời................................................19

21. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của vợ
chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015?...........................................................19

Bài tập 4: Di sản dùng vào việc thờ cúng......................................................21


1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời?................................................................................................21

22. Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc thờ
cúng?.....................................................................................................................22

23. Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có được thỏa
mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?..........................................................22

24. Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ tranh
chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?...................................................23

25. Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ
cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?...............................................23

26. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS và
giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu?..................................23

4
Bài tập 1: Hình thức của di chúc

 Bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên

Nguyên đơn là ông Nguyễn Thành Hiếu. Bị đơn là bà Đặng Thị Trọng. Ông Nguyễn
Này và bà Đặng Thị Trọng là vợ chồng hợp pháp kết hôn từ năm 1970. Ông Này có
quan hệ trai gái với bà Nguyễn Thị Tâm sinh ra 3 người con là Hiếu, Trung, Việt. Tài
sản chung của ông Này và bà Trọng là nhà đất có diện tích 225m 2. Ngày 16/11/2008,
ông Này qua đời. Trước khi qua đời, vào ngày 19/12/2007 ông Này lập giấy giao
quyền thừa kế toàn bộ nhà đất thuộc quyền sở hữu chung của ông với bà Trọng cho
Nguyễn Thành Hiếu. Đến nay, Hiếu chỉ xin ½ lô đất để sử dụng nhưng bị bà Trọng
bác bỏ. Từ đó xảy ra tranh chấp.

Quyết định của các cấp xét xử:

Tại bản án dân sự sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu của ông Hiếu về việc tranh chấp di
sản thừa kế. Bà Đặng Thị Trọng được nhận toàn bộ tài sản nhà đất có diện tích 225m 2.
Bà Trọng có trách nhiệm thối chênh lệch cho ông Hiếu số tiền 78.795.000đ được chia
và được nhận từ tài sản theo di chúc. Ngoài ra, còn tuyên án phí và quyền kháng cáo
của các bên đương sự.

Tại bản án phúc thẩm: Bà Đặng Thị Trọng và các đương sự xin rút toàn bộ kháng
cáo. Việc này là tự nguyện không ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của người
khác nên được chấp nhận. Giữ nguyên quyết định của án sơ thẩm và quyết định mức
án phí.

•
 Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân Tối cao

Nguyên đơn là ông Đỗ Văn Quang. Bị đơn là bà Hoàng Thị Ngâm. Ông Quang là con
của cụ Hựu và cụ Sách vào năm 1954. Trước đó, cụ Hựu cũng đã kết hôn với cụ Hằng

5
(đã mất vào năm 1950) và có 2 người con chung là ông Hồng (đã hi sinh năm 1968)
và bà Lựu. Cụ Hựu chết ngày 06/02/2005. Di sản để lại gồm thửa đất 56 diện tích
210m2, thửa đất 54 diện tích 462m2 và thửa đất 57 diện tích 526m2. Hiện tại do bà
Ngâm – vợ ông Hồng quản lý và được cấp giấy chứng nhận đất đối với các thửa đất
trên. Khi kê khai đăng ký quyền sử dụng đất bà Ngâm đã xuất trình di chúc của cụ
Hựu lập năm 1998 với nội dung để lại tài sản, đất cho bà Ngâm và bà Lựu. Ông
Quang cho rằng bản di chúc trên là không hợp pháp nên yêu cầu chia theo thừa kế.

Quyết định của các cấp xét xử:

Tại bản án dân sự sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu của ông Quang về việc mở thừa kế di
sản của cụ Hựu để lại, xác định thời điểm mở thừa kế là thời điểm cụ Hựu mất và xác
định cụ chết có để lại di sản bằng văn bản lập ngày 25/11/1998. Hủy một phần di chúc
của cụ phán quyết quyền tài sản chung của dòng họ Đỗ và đồng thời chấp nhận một
phần di chúc của cụ Hựu để lại cho bà Ngâm và bà Lựu thừa hưởng.Và còn bác yêu
cầu chia thừa kế di sản cụ Hựu để lại theo pháp luật của ông Quang.

Tại bản án dân sự phúc thẩm: Bác yêu cầu kháng cáo của ông Quang, giữ nguyên
bản án sơ thẩm và tất cả các yêu cầu khác của đương sự.

Theo thủ tục giám đốc thẩm: Hội đồng xét xử giám đốc thẩm đồng ý với yêu cầu
kháng nghị của TANDTC xét xử hủy bản án phúc thẩm và sơ thẩm, giao hồ sơ cho
Tòa án sơ thẩm xét xử lại.

•
1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.
Điều kiện về hình thức để di chúc viết tay có giá trị pháp lý: Áp dụng Điều 630
BLDS 2015:
1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa
dối, đe dọa, cưỡng ép;

6
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức
xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được
lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập
di chúc.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải
được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp
pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại Khoản 1 Điều này.

BLDS yêu cầu “người lập di chúc phải tự tay viết vào bản di chúc”. Ở đây chúng ta
phải hội đủ hai điều kiện:

Thứ nhất, di chúc phải là di chúc viết tay (điều đó có nghĩa là người lập di chúc
phải biết chữ và phải biết viết). Do đó, “Di chúc đánh máy không có giá trị pháp lý,
dù rằng người lập di chúc biết đánh máy chữ, đánh máy vi tính và tự tay đánh máy di
chúc”.

Thứ hai, di chúc phải do chính người để lại di sản viết. Người để lại di chúc phải tự
chính tay mình viết nên bản di chúc thì di chúc mới có giá trị. Vì thế, nếu nội dung do
người khác viết thì điều kiện này không thỏa mãn.

2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người
làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời?
Những người làm chứng di chúc của ông Này không phải là người làm chứng hợp
pháp. Vì khoản 1 Điều 632 có quy định về người làm chứng cho việc lập di chúc:
“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc”.
Mà những người điểm chỉ và ký tên làm chứng là cha, em gái, em trai đây là những
người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc là ông Này nên người làm chứng
không hợp pháp.
3. Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?

7
Di chúc của ông Này là di chúc do ông Này tự viết tay. Vì trong bản án có đoạn cho
thấy di chúc của ông Này là do ông Này tự viết tay: “ Xét thấy, giấy thừa kế do ông
Nguyễn Này viết không được chính quyền địa phương công chứng, chứng thực nhưng
được lập trong lúc ông Này còn minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa hoặc
cưỡng ép và có nhiều người làm chứng nên được coi là di chúc hợp pháp”.
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình
thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay?
Theo tôi hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến hình thức di chúc của ông Này
là đúng và hợp pháp, trong bán án Tòa án tuyên như sau: “Xét thấy, giấy thừa kế do
ông Nguyễn Này viết không được chính quyền địa phương công nhận, chứng thực
nhưng được lập trong lúc ông Này còn minh mẫn, sáng suốt không bị lừa dối, đe dọa
hoặc cưỡng ép và có nhiều người làm chứng nên được coi là di chúc hợp pháp”. Việc
tuyên như vậy của Tòa là có căn cứ pháp luật vì để một di chúc là hợp pháp thì phải
thỏa mãn được Khoản 1 Điều 130 BLDS 2015. Ngoài ra ông Này còn thỏa mãn được
điều kiện là có ít nhất hai người làm chứng xác nhận việc lập di chúc của ông Này là
đúng theo nguyện vọng lúc sinh thời của ông. Chính vì thế không có lý do gì để hủy
bỏ bản di chúc của ông Này được nên giải quyết theo cách của Tòa án là hợp lý nhất.

5. Di chúc của cụ Hựu đã được thành lập như thế nào?


Di chúc của cụ Hựu đã được lập bằng cách: Ngày 25/11/1998, cụ Hựu đọc cho ông
Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, ông Vũ và bà Đỗ Thị Quý (là mẹ của ông Vũ) ký tên làm
chứng, sau đó ngày 4/1/1999 bà Lựu mang di chúc đến cho ông Hoàng Văn Thưởng
(là Trưởng thôn) và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận.

6. Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời?
Cụ Hựu không biết chữ. Đoạn của Quyết định cho câu trả lời: “Đối với di chúc đề
ngày 25/11/1998 của cụ Hựu do bà Ngâm xuất trình, bà Ngâm, bà Đỗ Thị Lựu và ông
Vũ khai di chúc do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ
Thị Quý (là mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng, sau đó ngày 04/01/1999 bà Lựu mang
di chúc đến cho ông Hoàng Văn Thưởng (là Trưởng thôn) và Ủy ban nhân dân xã Mai
Lâm xác nhận. Ông Quang xác nhận cụ Hựu là người không biết chữ”.

8
7. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình
thức phù hợp với quy định của pháp luật?
Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện như Khoản 3 Điều
630 BLDS 2015: “Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không
biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng
thực” thì mới được coi là có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật.

8. Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu?
Di chúc của cụ Hựu đã đáp ứng được các điều kiện là:
- Có ít nhất hai người làm chứng: ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quý
- Di chúc được người làm chứng lập thành văn bản: cụ Hựu đọc ông Vũ viết. Di
chúc đã được cụ Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Quý ký tên làm chứng.
- Di chúc có xác nhận của ông Thưởng (Trưởng thôn) và của Ủy Ban Nhân Dân
xã Mai Lâm.

9. Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc ông Hựu?
Di chúc của cụ Hựu không đáp ứng các điều kiện:
- Đã quá thời hạn 5 ngày (sau hơn 1 tháng) di chúc của cụ Hựu mới được mang
đi làm công chứng, chứng thực.
- Ông Thưởng không chứng kiến cụ Hựu lập di chúc, UBND xã chỉ xác nhận
chữ ký của ông Thưởng chứ không xác nhận nội dung di chúc và việc UBND
xã xác nhận là do bà Lựu mang di chúc đến xác nhận.
- Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát kết luận: dấu vân tay của cụ Hựu trên
bản di chúc mờ không thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố
giám định.

Do đó, chưa đủ căn cứ xác định di chúc nêu trên thể hiện đúng ý chí của cụ Hựu.
Điều 624; Điểm a Khoản 1 và Khoản 3 Điều 630 BLDS 2015 quy định về hình thức,
thủ tục lập di chúc của người bị hạn chế về thể chất. Cụ Hựu trong bản án này bị hạn
chế về thể chất, di chúc của cụ Hựu không được tự tay cụ Hựu mang đi công chứng

9
hoặc chứng thực (mà do con cụ Hựu mang đi), trên di chúc cũng không xác định được
dấu vân tay có phải là của cụ Hựu hay không, vì vậy không đủ căn cứ để khẳng định
di chúc trên là của cụ Hựu và thể hiện trung thực ý chí của cụ Hựu trước khi chết.

10. Theo anh/ chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức không? Vì
sao?
Di chúc trên không thỏa mãn điều kiện về hình thức vì vi phạm điều kiện thứ ba và
thứ tư:
- Di chúc không được chứng thực theo đúng thủ tục quy định tại khoản 2 Điều
636, mặc dù di chúc của ông Hựu đã được hai người làm chứng và người làm
chứng cũng đã kí tên xác nhận về việc lập di chúc nhưng việc kí tên không
được thực hiện trước mặt của những người có thẩm quyền chứng thực của
UBND cấp xã. Điều này được thể hiện: Sau khi cụ Hựu lập di chúc hơn 1
tháng thì ông Vũ và bà Quý mới đem bản di chúc đó ra công chứng. Bên cạnh
đó người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã cũng không thực hiện
bước chứng nhận lập di chúc trước mặt người lập di chúc là ông Hựu. Hơn
nữa, UBND cấp xã cũng thừa nhận là xác nhận chữ kí chứ không xác nhận nội
dung của bản di chúc.

- Không có chứng cứ cho rằng ông Hựu đã điểm chỉ vào bản di chúc theo Điều
634 BLDS. Cụ thể, Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát đã kết luận dấu
vân tay trên bản di chúc mờ, không thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không
đủ yếu tố giám định.

11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS 2015 liên quan đến hình thức
di chúc của người không biết chữ?
Căn cứ Khoản 3 Điều 630 BLDS 2015: “Di chúc của người bị hạn chế về thể chất
hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có
công chứng hoặc chứng thực”.

10
Các quy định liên quan đến người không biết chữ trong BLDS 2015 đi liền với khá
nhiều điều kiện về hình thức so với di chúc thông thường. Vì chủ thể lập di chúc là
người không biết chữ nên việc phải thỏa mãn hết các điều kiện từ đọc cho người làm
chứng lập thành văn bản đến việc công chứng hoặc chứng thực là nhằm đảm bảo
quyền lợi và độ xác thực của bản di chúc. Vậy mới có thể hạn chế trường hợp lợi
dụng yếu điểm của người mù chữ có tài sản để lập nên bản di chúc trái với nguyện
vọng và ý chí của họ.

Tuy nhiên, vẫn không thể xóa bỏ được trường hợp lập di chúc không đúng theo ý
niệm của người chết. Việc phải thông qua nhiều chủ thể để lập nên bản di chúc tốn
khá nhiều nhân lực, thời gian. Hơn nữa các chủ thể này không thể nắm rõ hết ý
nguyện của người lập di chúc nên vẫn có thể sai xót. Các nhà làm luật nên cân nhắc
việc lập di chúc cho người không biết chữ bằng việc ghi lại video. Việc lắng nghe trực
tiếp tâm tư nguyện vọng có thể tiết kiệm thời gian và bảo đảm tính xác thực của di
chúc.

11
Bài tập 2: Di chúc tài sản của người khác

 Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao

Nguyên đơn là cụ Lê Thanh Quý. Bị đơn là ông Nguyễn Hữu Dũng và ông Nguyễn
Hữu Lộc.  Cụ Quý và cụ Hương kết hôn năm 1955 và có 12 con chung, tạo lập được
bất động sản bao gồm nhà và đất tại số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận
Phú Nhuận. Ngày 06/04/2009, cụ Hương chết, có để lại di chúc có nội dung chia toàn
bộ căn nhà và đất số 302 cho 5 người con là Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa,
Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng và Quảng Thị Kiều, di chúc đã được công
chứng tại phòng công chứng số 4 TPHCM. Nay cụ Quý khởi kiện yêu cầu chia tài
sản chung của vợ chồng cụ ra làm 2 phần, được hưởng ½ giá trị căn nhà bằng hiện
vật, 2/3 suất thừa kế theo pháp luật đối với di sản của cụ Hương để lại. Ông Lộc và
Ông Dũng không có ý kiến gì đối với yêu cầu của cụ Quý đối với phần tài sản chung
của 2 cụ, tuy nhiên, căn nhà hiện nay do 2 ông quản lý và sử dụng, xin cụ Quý được
hưởng một phần vì không còn chỗ ở khác. 

Quyết định của các cấp xét xử:

Tại bản án dân sự sơ thẩm: Công nhận căn nhà số 302 Nguyễn Thượng Hiền là tài
sản chung của cụ Hương và cụ Quý. 

Cụ Quý được hưởng 1/2 căn nhà 302 Nguyễn Thượng Hiền, 1/2 giá trị tiền xây dựng
nhà, ngoài ra còn được hưởng thừa kế của cụ Hương 18,8m 2 diện tích đất và giá trị
tiền xây dựng nhà. 

Năm người con được đề cập trong di chúc của cụ Hương  và 2 con là Minh Trí và
Kiều Nga mỗi người được hưởng 64,3m 2 đất và giá trị tiền xây dựng nhà của căn nhà
302 Nguyễn Thượng Hiền. 

•

12
 Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27/9/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại
Hà Nội 

Nguyên đơn là ông Trần Văn Y. Bị đơn là Phòng công chứng M. Người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn D1. Thửa đất số 38  là do ông nhận chuyển
nhượng của cụ Nguyễn Thị C từ năm 1987. Năm 1998, ông và cụ C làm giấy tờ
chuyển nhượng thửa đất trên. Khi chuyển nhượng ông và cụ C đã lập Hợp đồng mua
bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Năm 2008, gia đình ông không ở trên
thửa đất này nữa do đất bị giải phóng mặt bằng. Năm 2009, giữa ông và gia đình cụ
Nguyễn Văn D xảy ra tranh chấp đối với thửa đất trên. Năm 2013, ông được biết
Phòng công chứng M đã công chứng Di chúc của cụ D và công chứng Văn bản công
bố di chúc của cụ D và cụ Nguyễn Thị T1. Theo các văn bản trên thì cụ D có quyền
sở hữu, sử dụng 1 phần thửa đất số 38. Ông D1 là người được hưởng thừa kế của cụ
D và cụ C đối với thửa đất số 38. Việc công chứng này không đúng quy định của
pháp luật và ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của gia đình ông nên ông đề nghị
Tòa án tuyên bố 02 văn bản công chứng trên vô hiệu.

Quyết định của các cấp xét xử:

Tòa sơ thẩm: Tuyên bố Văn bản Công chứng Di chúc, Văn bản Công chứng Văn bản
công bố di chúc và Di chúc của cụ D là vô hiệu.

Tòa phúc thẩm: Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.

Tòa giám đốc thẩm: Hủy Bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm. Giao
hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm
lại theo đúng quy định của pháp luật.

•
1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định 359 cho câu trả
lời?
Cụ Hương đã định đoạt toàn bộ nhà và đất tại địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn Đậu
(nay là 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận). Đoạn của Quyết định

13
cho câu trả lời: “Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện nguồn gốc
nhà đất tại địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn Đậu (nay là 302 Nguyễn Thượng Hiền,
phường 5, quận Phú Nhuận) được Ủy ban nhân dân quận Phú Nhuận cấp giấy chứng
nhận cho cụ Nguyễn Văn Hương vào năm 1994. Ngày 16/01/2009, cụ Hương di chúc
toàn bộ nhà đất cho các con là Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc
Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ Nguyễn Hữu Trí)”.

2. Đoạn nào của Quyết định 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc
là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
Đoạn của Quyết định cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc là tài sản
chung của vợ chồng cụ Hương: “...về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần bởi
nhà đất trên là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ Quý…”.

3. Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của quyết định cho câu
trả lời?
Theo bản án thì Tòa chỉ công nhận ½ vì ông Nguyễn Văn Hương chỉ có quyền
định đoạt ½ số tài sản do phần tài sản mà ông lập di chúc là phần tài sản chung của
ông và vợ ông là bà Lê Thanh Quý. Đoạn của quyết định cho câu trả lời là: “Tuy
nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất trên là tài sản chung
của vợ chồng cụ Hương và cụ Quý. Việc cụ Hương lập di chúc cho toàn bộ nhà đất
cho 5 người con trong khi không có sự đồng ý của cụ Quý là không đúng. Vì vậy, Tòa
án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của cụ Nguyễn Văn Hương có hiệu lực một phần đôi
với phần tài sản của cụ Hương (½ nhà đất) nên được chia đều cho 5 người con là các
ông bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu
Dũng, Quãng Thị Kiều (vợ ông Nguyễn Hữu Trí) sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất
thừa kế theo pháp luật; còn ½ diện tích đất còn lại được chia cho cụ Quý; phần giá trị
căn nhà theo kết quả định giá của hội đồng định giá thì được chia cho cụ Quý ½ và
thêm 2/3 suất thừa kế theo pháp luật và phần còn lại chia đều cho 5 người con được
hưởng thừa kế theo di chúc của cụ Hương là có căn cứ”.

4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm?
Việc Tòa án quyết định chia di sản của cụ Quý như trên phù hợp với quy định của
pháp luật. Điều 634 của BLDS năm 2005 có quy định về di sản: “Di sản bao gồm tài
sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người

14
khác”. Trong trường hợp của cụ Quý và cụ Hương, tài sản thuộc sở hữu chung của cả
hai người. Trước khi chết, cụ Hương cũng không có tài sản riêng nên chỉ có phần tài
sản trong tài sản chung với cụ Quý của cụ Hương mới được coi là di sản. Cụ Hương
chỉ có quyền định đoạt phần đó. Vì nên, việc Tòa xác định chỉ có ½ nhà đất được chia
cho 5 người thừa kế là phù hơp với quy định trên của pháp luật.
Khoản 1 Điều 669 BLDS năm 2005 cũng có quy định về Người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc:
“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một
người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp
họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít
hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định
tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại
khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.”
Cụ Quý không thuộc trường hợp tại Điều 642 và Khoản 1 Điều 643 của BLDS 2005.
Khi cụ Hương chết, cụ Quý là vợ của cụ Hương cũng không được cụ Hương là người
lập di chúc cho hưởng di sản. Vì thế, việc Tòa án xác định chia cho cụ Quý 2/3 suất
thừa kế theo pháp luật là hợp lý.
5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời?
Nếu cụ Quý chết trước thì phần di chúc có giá trị pháp lý là một phần tài sản của cụ
Hương trong phần tài sản chung của cụ Quý và cụ Hương ( 1/2). Trong trường hợp cụ
Quý để lại di chúc nhưng không chia di sản cho cụ Hương thì phần di chúc của cụ
Hương có giá trị pháp lý cộng thêm 2/3 suất thừa kế theo pháp luật mà cụ Hương được
nhận từ cụ Quý do cụ Hương là người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc. Căn
cứ vào Điều 644 BLDS 2015. Còn nếu cụ Quý để lại di chúc có chia di sản cho cụ
Hương thì phần di chúc có giá trị pháp lý của cụ Hương sẽ cộng thêm phần di sản của
cụ Hương được nhận. Căn cứ vào Điều 609 BLDS 2015. Trường hợp cụ Quý không
để lại di chúc thì phần di sản của cụ Quý sẽ được chia theo pháp luật (cho những
người thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm 12 người con và cụ Hương) thì phần di chúc
có giá trị pháp lý của cụ Hương sẽ cộng thêm 1/13 di sản của cụ Quý để lại. Căn cứ
Điều 650, 651 BLDS 2015.

15
6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu
tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao?
Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu
tháng 4/2009 thì di chúc có giá trị pháp lý hay không bộ luật không có quy định. Còn
trong thực tiễn xét xử Tòa án giải quyết theo hướng di sản được xác lập từ thời điểm
lập di chúc. Khi còn sống cụ Hương chỉ được định đoạt 1/2 trong phần tài sản chung
của vợ chồng cụ. Di chúc của cụ Hương được công chứng ngày 16/1/2009 mà đến
đầu tháng 4/2009 toàn bộ tài sản mới thuộc sở hữu của cụ Hương nên chỉ có giá trị
pháp lý một phần.

7. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị
thu hồi trước khi hai cụ chết.
Đó là đoạn: “Ngày 15/01/2011, cụ D lập di chúc tại Phòng công chứng M, tỉnh
Vĩnh Phúc với nội dung để lại phần tài sản của mình tại thửa đất nêu trên cho ông D1,
Khi Nhà nước thu hồi, bồi thường bằng tái định cư (hoặc nhận tiền) và bồi thường tài
sản trên đất thì ông D1 được đứng tên và nhận tiền.”

8. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của
cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định vừa
nêu của Tòa giám đốc thẩm?
Đoạn đó là: “Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa
đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày
21/7/2010 của Ủy ban nhân dân thành phố V nhưng giá trị quyền sử dụng đất của
người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai
nên hai cụ Có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1”. Hướng giải quyết
trên của tòa án là hợp lý và đảm bảo được quyền lợi cho đương sự.

9. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và
cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi?
Suy nghĩ của anh/chị về hướng nêu trên của Tòa giám đốc thẩm.

16
Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và cụ D
được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi là: “ Ngoài
ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số
13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21/7/2010 của Ủy ban
nhân dân thành phố V nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn
được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ Có quyền lập di
chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1”. Hướng nêu trên của Tòa giám đốc thẩm là
phù hợp, đúng đắn.

17
Bài tập 3: Di chúc chung của vợ chồng

 Bản án số 14/2017/DSST ngày 28/9/2017 của TAND huyện C tỉnh Phú Thọ
Nguyên đơn là bà Hoàng Thị H. Bị đơn là anh Hoàng Tuyết H. Ông X và bà H kết
hôn năm 1960 có với nhau 4 người con là anh H, anh H1, anh H2 và anh H3. Vợ
chồng bà có khối tài sản chung là quyền sử dụng thửa đất số 76 với diện tích 967,4m².
Ngày 10/08/2015 hai vợ chồng lập di chúc chung của vợ chồng do ông X viết có nội
dung là giao toàn bộ toàn bộ tài sản cho con là anh H1. Sau khi ông X chết các anh H,
H2, H3 không công nhận di chúc trên là hợp pháp và đòi chia di sản.

Quyết định của các cấp xét xử:

Quyết định của Viện kiểm sát: Công nhận di chúc của ông Hoàng Minh X, bà Hoàng
Thị H viết ngày 10/8/2015 là hợp pháp. Về án phí: Bà H không phải chịu án phí
DSST. Anh H, anh H2 phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Quyết định của Tòa án: Công nhận di chúc chung của ông Hoàng Minh X và bà
Hoàng Thị H viết ngày 10/8/2015 là hợp pháp. Không chấp nhận yêu cầu của anh
Hoàng Tuyết H và anh Hoàng Quốc H2 đòi chia di sản của ông Hoàng Minh X.

Bà Hoàng Thị H không phải chịu án phí DSST. Anh Hoàng Tuyết H, anh Hoàng
Quốc H2 phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

•
1. Đoạn nào của bản án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của vợ
chồng?
Đoạn của bản án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của vợ chồng
là: “Vợ chồng bà có khối tài sản chung là quyền sử dụng thửa đất số 76, tờ bản đồ số
18 ở khu 2, Thị trấn S, huyện C, tỉnh Phú Thọ diện tích đất là 967,4 m 2 (trong đó:
200m2 đất ở và 767,4 m2 đất vườn), 01 ngôi nhà xây cấp 4, bếp và công trình phụ,
công trình chăn nuôi và các tài sản khác trên diện tích đất đã được Hội đồng thẩm

18
định và định giá tài sản ngày 21/8/2017. Ngày 10/8/2015 bà và ông X cùng nhau lập
di chúc chung của vợ chồng do ông X viết với nội dung: nếu ông X chết trước bà thì
di chúc này sẽ giao lại cho bà quản lý sử dụng tài sản chung, khi bà chết sẽ giao lại
cho con trai là Hoàng Hồng H1. Khi viết di chúc ông X hoàn toàn khỏe mạnh, minh
mẫn, không bị ai ép buộc. Sau khi viết xong di chúc ông X đi viện điều trị nên bản di
chúc không được chứng thực”.

Đoạn trích trên thể hiện quan điểm của Tòa án công nhận di chúc trong vụ việc là
di chúc chung của vợ chồng.

2. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS
2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
Theo Tòa án di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lí khi áp dụng BLDS 2015

Trích Bản án: “ Nội dung trong bản di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không
trái đạo đức xã hội phù hợp với điều luật 630 BLDS 2015

Xử: Công nhận di chúc chung của ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H viết vào
ngày 10/8/2015 là hợp pháp”.

3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của
vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015?
Hướng giải quyết của Tòa án về di chúc chung của vợ chồng trong mối quan hệ với
BLDS 2015 là hợp lí tuy BLDS này không có quy định cụ thể về trường hợp này như
BLDS 2005. So với các điều kiện để di chúc được xem là hợp pháp theo BLDS 2015
thì:
- Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật không trái đạo đức xã
hội phù hợp với Điểm b Khoản 1 Điều 630 BLDS 2015
- Người lập di chúc, ông X và bà H hoàn toàn tự nguyện minh mẫn, sáng suốt tại
thời điểm lập di chúc. Điều này được thể hiện rõ ràng qua bản án qua sự thừa
nhận của các bên đương sự và phù hợp với Điểm a Khoản 1 Điều 630 BLDS
2015.

19
- Hình thức di chúc phù hợp với quy định của pháp luật về di chúc bằng văn bản
và không có người làm chứng tại Điều 633 BLDS 2015. Cụ thể, di chúc này là
do ông X tự viết và được vợ chồng ông tự kí tên vào, theo Kết luận giám định
số 1700/KLGĐ ngày 28/8/2017 thì đây chính xác là chữ viết tay của ông X.
Việc không xác nhận chữ kí của bà H là do bà còn sống tại thời điểm xảy ra
tranh chấp.
- Di chúc này nhằm định đoạt tài sản chung của vợ chồng ông X, bà H. Điều này
là phù hợp với quy định tại Điều 609 BLDS 2015 về việc cá nhân có quyền
định đoạt tài sản của mình.

Tòa án chỉ công nhận di chúc trên là hợp pháp chứ chưa đề cập đến hiệu lực của di
chúc. Điều này là hợp lí vì đây là di chúc chung của hai vợ chồng ông X và bà H
nhưng chỉ có ông X qua đời trước nên chưa đến thời điểm mở thừa kế theo Điều 611
BLDS 2015.

Vậy, BLDS 2015 không đề cập đến quy định về di chúc chung của vợ chồng nhưng
do thỏa các điều kiện về nội dung, hình thức, chủ thể được quy định nên việc Tòa án
công nhận di chúc của Ông X và Bà H là hợp lí.

20
Bài tập 4: Di sản dùng vào việc thờ cúng

 Bản án số 211/2009/DSST của TAND huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai.

Nguyên đơn là anh Phan Văn Được. Bị đơn là anh Phan Văn Tân, Chị Phan Thị
Hương. Ông Phan Văn Mười (chết năm 1972) và bà Nguyễn Thị Lùng (chết năm
2005) là vợ chồng, hai người có 7 người con là Thảo, Tân, Xuân, Nhành, Hoa, Được,
Hương. Di sản để lại là 1 căn nhà cấp 4 diện tích khoảng 100 mét vuông tại khi Kim
Sơn, thị trấn Long Thành. Ngày 8/7/2004 bà Lùng lập di chúc để lại nhà đất cho 7
người con đồng thời thừa hưởng để thờ cúng cho mẹ, anh Được quản lý sử dụng. Anh
Tân và chị Hương yêu cầu để căn nhà và đất như hiện tại là tài sản chung của 7
người. 

Quyết định của tòa án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Được đối với anh Tân
và chị Hương cùng những người có nghĩa vụ liên quan về việc Tranh chấp di sản
thừa kế. Giao cho anh Được quyền sở hữu, sử dụng căn nhà diện tích 57,25m 2. Anh
Được phải có trách nhiệm thanh toán giá trị di sản thừa kế cho anh Tân và chị Hương
mỗi người số tiền 37.424.000 đồng. 

•
1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời?
Điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý:
- Người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng;
- Sau khi thanh toán xong nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc;
- Những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc đã được hưởng
phần di sản theo quy định tại Điều 644 BLDS 2015.

Cơ sở pháp lý: Điều 645 BLDS 2015 quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng:

21
1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng
thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được
chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ
định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những
người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào
việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.

Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng
thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.

Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản
dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số
những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

2. Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài
sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.

2. Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc
thờ cúng?
Đoạn của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng cho việc thờ
cúng là: “Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 07 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7
người con đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh Được là người quản lí di sản,
hiện tại 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh Được sở hữu
di sản là có cơ sở chấp nhận”.
3. Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có được thỏa
mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?
Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý gồm: người lập di
chúc để lại di sản dùng vào việc thờ cúng, đã thanh toán hết nghĩa vụ tài sản của
người chết để lại, đã chia thừa kế cho những người thừa kế bắt buộc. Trong trường
này phần di sản của bà Lùng để lại đã thỏa mãn được các điều kiện nêu trên nên nó đã
trở thành di sản thờ cúng một cách hợp pháp.

22
4. Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ tranh
chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Anh Phan Văn Được, anh Phan Văn Thảo, Phan Văn Xuân, anh Phan Văn Nhành
và chị Phan Thị Hoa đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng, còn anh Phan Văn
Tân và chị Phan Thị Hương không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng . Căn
cứ vào đoạn dưới đây trong bản án: “Ngày 08 tháng 7 năm 2004 mẹ anh lập di chúc
để lại nhà đất cho 07 anh chị em, hiện tại anh quản lý nhà đất, năm 2005 năm anh chị
em hợp lại chia di sản của mẹ anh, nhưng anh Tân và chị Hương không đồng ý”.

5. Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ
cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Cuối cùng Tòa án đã chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ
cúng. Điều này được thể hiện ở đoạn: “Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà
Lùng để lại nhà đất cho 7 người con đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh Được
là người đang quản lý di sản, hiện tại 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di sản
và giao cho anh Được sở hữu di sản là có cơ sở chấp nhận”.

6. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS và
giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu?
Theo BLDS 2005, căn cứ vào Điều 670 thì phần di sản dùng vào việc thờ cúng
không được chia thừa kế mà được giao cho một người quản lý để thực hiện việc thờ
cúng. Trong thực tiễn xét xử tại Tòa thì Tòa án lại chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
anh Được, giao cho anh Được quyền sở hữu căn nhà và anh phải có nghĩa vụ thanh
toán giá trị di sản thừa kế cho anh Tân và chị Hương.

Như vậy, xét về lý thì cách xử của Tòa có phần không đúng với quy định của
BLDS. Nhưng xét về tình và thực tiễn nguyện vọng của những người thừa kế thì cách
xử của Tòa vẫn đưa đến được kết quả là di sản vẫn được dùng để thờ cúng. Bởi lẽ
phần nhà đất được chia thừa kế là chia theo giá trị, anh Nhành, anh Thảo, anh Xuân,
chị Hoa không nhận di sản mà cho lại anh Được; căn nhà vẫn được giữ nguyên và anh

23
Được là người quản lý căn nhà và thực hiện nghĩa vụ thờ cúng chính. Việc bất hợp lý
ở đây đó là, di sản để thờ cúng nếu theo di chúc thì ta xác định là sở hữu chung của
những người thừa kế, vậy thì không được định đoạt, chia lẻ chỉ được quản lý. Tuy
nhiên, Tòa án lại xử chia di sản và anh Được phải thanh toán giá trị di sản phần thừa
kế cho hai người, như vậy tức là đã xé lẻ di sản ra, đánh mất bản chất chỉ quản lý để
thờ cúng mà không định đoạt.

Theo BLDS 2015, căn cứ vào Điều 645 thì phần di sản dùng vào việc thờ cúng
không được chia thừa kế mà được giao cho người được chỉ định trong di chúc hoặc
người quản lí di sản hợp pháp để thực hiện việc thờ cúng. Trong bản án trên thì Tòa
án lại chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Được, giao cho anh Được quyền sở hữu
căn nhà và anh phải có nghĩa vụ thanh toán giá trị di sản thừa kế cho anh Tân và chị
Hương. Như vậy, xét về lý thì cách xử của Tòa án có phần không đúng với quy định
của BLDS. Nhưng xét về tình và thực tiễn nguyện vọng của những người thừa kế thì
cách xử của Tòa vẫn đưa đến được kết quả là di sản vẫn được dùng để thờ cúng. Bởi
lẽ phần nhà đất được chia thừa kế là chia theo giá trị, anh Nhành, anh Thảo, anh
Xuân, chị Hoa không nhận di sản mà cho lại anh Được, căn nhà vẫn được giữ nguyên
và anh Được là người quản lý căn nhà và thực hiện nghĩa vụ thờ cúng chính. Việc bất
hợp lý ở đây đó là di sản để thờ cúng nếu theo di chúc thì ta xác định là sở hữu chung
của những người thừa kế, vậy thì không được định đoạt, chia lẻ. Tuy nhiên Tòa án lại
xử chia di sản và anh Được phải thanh toán giá trị di sản phần thừa kế cho hai người,
vậy tức là đã xé lẻ di sản ra, đánh mất bản chất chỉ quản lý để thờ cúng mà không định
đoạt.

24

You might also like