Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 28

MỤC LỤC

A, MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
1: Lý do chọn đề tài............................................................................................................1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của tiểu luận..........................................................1
3, Phương pháp nghiên cứu..............................................................................................1
4, Phạm vi và đối tượng.....................................................................................................1
5, Kết cấu của tiểu luận................................................................................................... 2
B, NỘI DUNG...................................................................................................................2
Chương 1. Những cơ sở tạo nên nền văn minh Hy Lạp - La Mã cổ đại..........................2
1.1: Hy Lạp cổ đại.....................................................................................................2
1.2: La Mã cổ đai.......................................................................................................3
Chương 2 : Những thành tựu về chữ viết và văn học của Hy Lạp – La Mã cổ đại.........5
2. 1 : Thành tựu về chữ viết.....................................................................................5
2.2: Thành tưu về văn học.........................................................................................6
Chương 3 : Đánh giá những thành tựu về chữ viết và văn học của Hy Lạp-La Mã cổ
đại..................................................................................................................................... 22
3.1 : Thành tựu về chữ viết......................................................................................22
3.2 : Thành tựu về văn học......................................................................................22
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 23
Phụ lục............................................................................................................................. 24
A, MỞ ĐẦU
1: Lý do chọn đề tài
Văn minh Hy Lạp La Mã với sự đặc sắc và những thành tựu tuyệt vời của mình đã tạo nên
một ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với phương Tây nói riêng và toàn thể nhân loại nói
chung. Hy Lạp và La Mã cổ đại chính là cái nôi của nền văn minh phương Tây. Karl Max
(Các-mác) từng nói “ Không có cơ sở nền văn minh Hy Lạp cổ đại và đế quốc La Mã thì
không có Châu Âu hiện đại” . Nhắc đến những thành tựu của văn minh Hy Lạp – La Mã
cổ đại thì không thể không nhắc đến chữ viết và văn học . Chính vì vậy em xin được chon
đề tài “ Thành tựu về chữ viết và văn học của nền văn minh Hy Lạp- La Mã cổ đại ” cho
tiểu luận học phần Lich sử văn minh thế giới của mình
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của tiểu luận
- Mục tiêu :
+ Chỉ rõ những thành tựu về chữ viết và văn học mà Hy Lạp-La Mã cổ đại đã đạt được
+Lí giải nguyên nhân đạt được những thành tựu kể trên
+ Đánh giá những thành tựu về văn học và chữ viết của Hy Lạp- La Mã cổ đại
-Nhiệm vụ
+ Phân tích, trình bày , lấy dẫn chứng về những thành tự về chữ viết và văn học của Hy
Lạp – La Mã cổ đại
+ Tìm hiểu nguyên nhân đạt được những thành tựu kể trên
+ Chỉ rõ được vai trò và ý nghĩa của những thành tựu đó
3, Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp phân tích
+ Phương pháp tổng hợp
+ Phương pháp đánh giá
+ Phương pháp lịch sử và đối chiếu
4, Phạm vi và đối tượng
-Đối tượng:
Đối tượng nghiên cứu là những thành tựu về chữ viết và văn học của Hy Lạp -La Mã cổ
đại
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu những thành tựu về chữ viết và văn học của
Hy Lạp -La Mã thời kỳ cổ trung đại.

1
+ Về thời gian: Các thông tin, số liệu phản ánh trong tiểu luận tập trung chủ
yếu trong khoảng thời gian những năm Trước công nguyên
5, Kết cấu của tiểu luận
- Chương 1 : Những cơ sở tạo nên nền văn minh Hy Lạp -La Mã cổ đại
- Chương 2 : Những thành tựu về chữ viết và văn học của Hy Lạp-La Mã cổ đại
- Chương 3 : Đánh giá những thành tựu về chữ viết và văn học của Hy Lạp-La Mã
cổ đại
B, NỘI DUNG
Chương 1. Những cơ sở tạo nên nền văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại

1.1: Hy Lạp cổ đại

1.1.1: Địa lí và dân cư


* Lãnh thổ của Hy Lạp cổ đại rộng lớn hơn nước Hy Lạp ngày nay, bao gồm: miền Nam
bán đảo Ban căng, các đảo bên ngoài biển Êgiê và miền ven biển phía Tây Tiểu Á, trong
đó quan trọng nhất là miền Nam bán đảo Bancăng, tức là vùng lục địa Hy Lạp.
Điều kiện địa lí đó đã giúp cho Hy Lạp cổ đại trở thành nước có nền công thương nghiệp
phát triển, đồng thời có thể tiếp thu ảnh hưởng của văn minh cổ đại phương Đông.
* Cư dân của Hy Lạp cổ đại bao gồm nhiều tộc người: người Êôliêng chủ yếu cư trú ở
phía Bắc bán đảo Bancăng và một phần Trung Bộ (đồng bằng Bêôxi), người Êôliêng ở
vùng Bắc bán đảo Pêlêpônedơ và người Đô riêng ở Bắc bán đảo Pêlêpônedơ, đảo Crết và
các đảo khác ở phía Nam biển Êgiê.
1.1.2:Sơ lược lịch sử cổ đại Hy Lạp
a. Thời kì văn hóa Crét-Myxen và thời Hôme.
* Thời kì văn hóa Cret và Myxen: Từ sớm, vùng biển Êgiê mà trung tâm là đảo Cret và
vùng Myxen ở bán đảo Pêlêpônedơ đã từng tồn tại những nền văn minh rực rỡ
 Cret - Myxen là một nền văn minh của xã hội có giai cấp và nhà nước, cũng giống như
văn minh phương Đông cổ đại, bị tàn tạ vào thiên niên kỷ II TCN, cùng với những cuộc
thiên di của các tộc ngời Hi Lạp từ phía Bắc tràn xuống, chinh phục và định cư. Văn minh
Cret – Myxen là nền văn minh mở đầu của lịch sử Hi Lạp, nhưng nền văn minh tiếp theo
đó không tiếp nối thành tựu của nó.
*Thời kì Hôme (thế kỉ XI-IX TCN): -

2
- Gọi là thời kì Hôme vì giai đoạn này được phản ánh trong hai tập sử thi Iliat và Ôđixê
của Hôme.
Đây là thời kỳ tan rã của xã hội thị tộc - bộ lạc trong cộng đồng những tộc người Hi Lạp
(Đôrien và Iônien) thiên di từ phía Bắc xuống
- Chế nộ nô lệ sơ khai đã ra đời song mang nặng tính chất nô lệ gia trưởng, có nhiều nét
giống với xã hội cổ đại phương Đông..
 b,Thời kỳ xuất hiện và phát triển lên đến đỉnh cao của xã hội có giai cấp, nhà nước
trong lịch sử Hi Lạp ( Thời kì thành bang -thế kỷ VIII - V TCN)
* Sau thời đại Hôme, Hi Lạp bước vào giai đoạn hình thành và phát triển xã hội có giai
cấp và nhà nước. Từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI TCN, các thành bang Hi Lạp dần hình
thành và phát triển, nổi bật là Xpác (Sparte) và Aten (Athen)
*Chế độ chiếm hữu nô lệ hình thành và phát triển, nền kinh tế Hi Lạp cổ đại dựa trên cơ
sở của nó, với hoạt động chính là thủ công nghiệp và mậu dịch hàng hải. Các thành bang
Hi Lạp trở thành trung tâm văn minh thời cổ đại với những thành tựu rực rỡ chưa từng có
trước đó.
c,Hi Lạp trong thời kỳ thống trị của Makêđônia -  Thời kỳ “Hi Lạp hóa” (từ năm
334 đến năm 30 TCN):
* Cuối thế kỷ IV, quốc gia Makêđônia ở miền Bắc Hi Lạp trở nên cường thịnh sau khi
tiếp thu văn hóa Hi Lạp, chinh phục hầu hết các thành bang Hi Lạp, đến thời Alếchxanđrơ
(Alexandre), trở thành một đế quốc lớn, thống trị nhiều vùng đất ở Đông Nam Âu, Tây Á
và Bắc Phi. Nhưng đế quốc đó mau chóng tan rã sau khi chết (năm 323 TCN)
* Thời kỳ này, các thành bang Hi Lạp suy thoái,  nhưng văn hóa Hi Lạp được truyền bá
rộng rãi trong lãnh thổ của đế quốc Makêđônia , vậy nên gọi là thời kỳ “Hi Lạp hóa”.
* Trong khi đó nhà nước Roma ở bán đảo Italia không ngừng phát triển và đã chinh phục
hầu hết lãnh thổ của Hi Lạp.

1.2. La Mã cổ đại

1.2.1. Địa lí và dân cư


* La Mã (Rôma) là tên một quốc gia cổ đại, phát nguyên từ bán đảo Ý. Đây là một bán
đảo dài và hẹp ở Nam Âu, hình chiếc ủng vươn ra Địa Trung Hải, diện tích khoảng

3
300.000 km2 , phía Bắc có dãy Anpơ ngăn cách Ý với châu Âu; phía Nam có đảo Xixin,
phía Tây có đảo Coocxơ và đảo Xacdennhơ.
Là vùng có nhiều đồng bằng màu mỡ và đồng cỏ thuận lợi cho việc chăn nuôi gia súc. Ý
còn nhiều kim loại như đồng, chì, sắt... để chế tạo công cụ sản xuất, vũ khí. Bờ biển phía
Đông không thuận tiện cho tàu bè đi lại nhưng phía Nam có nhiều vịnh và cảng tốt.
- Bán đảo Ý lớn gấp 5 lần bán đảo Hy Lạp. Sau khi làm chủ bán đảo Ý, La Mã còn xâm
chiếm các vùng bên ngoài, lập thành một đế quốc rộng lớn bao gồm đất đai của 3 châu:
Âu, Á, Phi, bao quanh Địa Trung Hải.
*Cư dân chủ yếu và có mặt sớm nhất ở bán đảo Ý gọi là người Ý (Italoes). Trong đó bộ
phận sống ở vùng Latium được gọi là người Latinh đã dựng lên thành La Mã trên sông
Tibrơ, từ đó họ được gọi là người La Mã. Ngoài ra còn có ngời Gôloa, người Etơruxcơ ở
miền Bắc và miền Trung, còn người Hy Lạp thì ở các thành phố ven biển phía Nam và
đảo Xixin.
1.2.2.:Sơ lược lịch sử La Mã cổ đại: Có 2 thời kì lớn
a. Thời kì cộng hòa
* Nhà nước La Mã ra đời vào giữa thế kỉ VI TCN, có vua, Viện nguyên lão và Đại hội
nhân dân. Vào khoảng 510 TCN, người La Mã nổi dậy, bãi bỏ ngôi vua, thành lập chế độ
cộng hòa. Bên trên Viện nguyên lão và Đại hội nhân dân là 2 quan chấp chính có quyền
ngang nhau, nhiệm kì một năm.
*Từ thế kỉ IV TCN, La Mã không ngừng tấn công bên ngoài, trải qua hơn một thế kỉ La
Mã chinh phục được toàn bộ bán đảo Ý, mở rộng lãnh thổ gồm vùng bờ biển Bắc Phi,
miền Đông Tây Ban Nha, miền Nam xứ Gôlơ, bán đảo Xácdennhơ, đảo Coocxơ. Đến
giữa thế kỉ I TCN La Mã chiếm toàn bộ vùng đất đai rộng lớn Địa Trung Hải, sát nhập Ai
Cập vào bản đồ La Mã năm 30 TCN. La Mã trở thành đế quốc mênh mông. Địa Trung
Hải trở thành một cái hố nhỏ nằm gọn trong đế quốc La Mã.
b. Thời kì quân chủ
*Từ chế độ cộng hòa sang chế độ quân chủ
Từ thế kỉ I TCN, chế độ cộng hòa La Mã dần bị chế độ độc tài thay thế. Năm 82 TCN,
Xila tuyên bố làm độc tài suốt đời, nhưng đến năm 79 TCN vì ốm nặng phải từ chức và
đến năm 78 TCN thì chết. 28 Sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa nô lệ Xpactacut ở La Mã đã
xuất hiện chính quyền tay ba: Gratxut, Pômpê, Xêda lần thứ nhất. Năm 43 TCN, La Mã

4
xuất hiện chính quyền tay ba lần thứ hai: Antôniút, Lêpiđút, Ốctavianaút. Cuối cùng chính
quyền nằm trong tay Ốctavianút với danh hiệu là Ôgút-Đấng chí tôn, tuy vẫn khoác cái áo
chế độ cộng hòa nhưng thực chất đã chuyển sang chế độ chuyên chế.
*Sự suy vong của đế quốc La Mã
- Đến thời quân chủ, chế độ nô lệ La Mã ngày càng khủng hoảng trầm trọng. Năm 395,
đế quốc La Mã bị chia thành hai đế quốc: Đông La Mã đóng đô ở Cônxtantinốplơ và đế
quốc Tây La Mã đóng đô ở La Mã. Thế kỉ IV, người Giecman bao gồm nhiều tộc người
đã di cư ồ ạt vào lãnh thổ của đế quốc La Mã
- Sang thế kỉ V, một số bộ lạc Giecman thành lập các vương quốc của mình trên đất đai
của Tây La Mã. Năm 476, thủ lĩnh quân đánh thuê người Giecman đã lật đổ ông vua cuối
cùng của đế quốc Tây La Mã rồi tự xưng là hoàng đế. Sự kiện đó đánh dấu sự diệt vong
của đế quốc Tây La Mã đồng thời chấm dứt chế độc chiếm hữu nô lệ.
- Còn đế quốc Đông La Mã thì vẫn tiếp tục tồn tại và đi dần vào con đường phong kiến
hóa, được gọi là đế quốc Bidantium đến 1459.
Chương 2 : Những thành tựu về chữ viết và văn học của Hy Lạp – La Mã cổ đại

2. 1 : Thành tựu về chữ viết

2.1.1 : Hy Lạp cổ đại


a,Chữ viết của cư dân Cret – Myxen : Cư dân Cret – Myen đã sáng tạo ra chữ viết, gồm
có hai loại.
Loại 1 : có niên đại khoảng đầu thiên niên kỷ II TCN, là loại chữ tượng hình thuần túy 
Loại 2 : có dạng thức đơn giản hơn, được cấu tạo bởi một số đường nét khá đều đặn,
thống nhất về kiểu thức, nó lại chia ra làm hai loại, trong đó loại A – cổ xưa hơn (1700 –
1400 TCN), chưa dịch được, B – muộn hơn (1400 – 1200 TCN), đã dịch được. Tuy vậy
đó là hai thứ chữ không được tiếp tục phát triển.
b, Chữ cái Hi Lạp : Qua quan hệ buôn bán (thế kỷ IX – VIII TCN), họ kế thừa và phát
triển từ chữ viết của người Phênixi (Phoenician), một tộc người chuyên về buôn bán
đường biển trên Địa Trung Hải. Bảng chữ cái của người Hi Lạp ban đầu có 40 chữ cái, rồi
có 24 chữ cái (18 phụ âm, và 6 nguyên âm). Ưu điểm : Tính khái quát hóa cao, với cách
ghép linh hoạt, có thể thể hiện mọi kết quả của tư duy. Hệ thống chữ cái Slavơ và Latinh
bắt nguồn từ đó, được phần lớn các dân tộc trên thế giới sử dụng

5
2.1.2: La Mã cổ đại
Theo nhiều nguồn tài liệu, người La Mã chính thức có chữ viết vào thế kỉ VI TCN có
nguồn gốc từ văn tự Hi Lạp. Trên cơ sở chữ viết Hy Lạp cổ, người La Mã đã bổ sung và
hoàn thiện, đặt ra một loại chữ riêng của mình mà ngày nay ta quen gọi là chữ Latinh. 
Với hệ thống chữ viết đơn giản và tiện lợi, tiếng Latinh đã ngày càng trở nên phổ biến và
được sử dụng rộng rãi ở các nước thuộc đế chế La Mã. Chữ Latinh chính là nguồn gốc
của nhiều ngôn ngữ châu Âu hiện đại (Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp…Người La
Mã còn để lại hệ thống chữ số mà ngày nay người ta vẫn thường dùng và quen gọi là chữ
số La Mã.
Có thể nói, từ bảng chữ cái Latinh, chúng ta có những ngôn ngữ mà ngày nay được sử
dụng làm ngôn ngữ chung cho cả thế giới, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa-xã hội, khoa học, nghệ thuật…mang mọi nền văn hóa của các quốc gia dần xích lại
gần nhau hơn.
2.1.3 : Nguyên nhân thành tựu
Nhờ tiếp thu được những thành tựu về chữ viết của người Phênixi trước đó cùng với sự
hiểu biết, nỗ lực học hỏi và sáng tạo không ngừng nghỉ
2.2: Thành tưu về văn học
2.2.1: Thần thoạị
a, Hy Lạp
* Thuật ngữ thần thoại – Mitologia (tiếng Nga), Mythology (tiếng Anh) , Mythologie
(tiếng Pháp) xuất phát từ chữ Hi Lạp Mythologos (Mythos : truyền thuyết ; logos : lời nói,
truyện kể, học thuyết).
* Thần thoại Hi Lạp là thể loại văn học ra đời sớm ( trước khi có chữ viết ), hình thành
chủ yếu trong thời kỳ tan rã của xã hội thị tộc, bộ lạc (thế kỷ XI - IX) và phát triển thành
một hệ thống hoàn chỉnh vào thế kỷ VIII TCN – VII TCN. Đây là một hệ thống các
truyện kể phong phú đẹp đẽ xếp vào hàng những truyện hay nhất thế giới
*Nội dung , nghệ thuật của thần thoại Hy Lạp
-Nội dung : Thần thoại ra đời trong điều kiện trình độ phát triển của xã hội còn thấp và
được thể hiện dưới hình thức truyền thuyết, những câu chuyện hoang đường về giới tự

6
nhiên, xã hội và con người, song thể phản ánh quá trình nhận thức của con người về thế
giới xung quanh, kinh nghiệm sống , ước mơ và khát vọng của con người bấy giờ
+ Thần thoại phản ánh nội dung hiện thực đất nước Hy Lạp cổ đại
Cuộc sống của xã hội Hi Lạp thời cổ đại được miêu tả sống động và huyền thoại hóa
trong hệ thống truyện thần thoại .

 Nền sản xuất, trình độ sản xuất và công cụ lao động được miêu tả khá rõ nét trong
những câu chuyện có vẻ hoang đường về các vị thần
 Cuộc đấu tranh chống kẻ thù bốn chân và hai chân: Thiên nhiên hung dữ gây bao
tai họa cho con người cổ đại. Nạn hồng thủy, núi lửa , động đất, bão táp, thú dữ thú
độc đều được miêu tả sinh động trong thần thoại. Truyện thần Apollon tiêu diệt
mãng xà vùng Denph, truyện sư tử Nemee, bò rừng, chó ngao Xerbe, ác điểu … bị
dũng sĩ Heracles chinh phục hoặc tiêu diệt. Con người đã phải chiến đấu gay go, ác
liệt để chinh phục thiên nhiên hoang dã mà sản xuất, làm ăn. Cuộc xung đột giữa
con người chân chính chống những kẻ thù hai chân – những tên xâm lược tham
lam cũng được miêu tả hấp dẫn
 Sinh hoạt xã hội, phong tục tập quán cũng được miêu tả phong phú trong thần
thoại:.
+ Thần thoại phản ánh tư tưởng, tình cảm của người Hi Lạp cổ

 Chủ nghĩa duy vật thô sơ hình thành:.


 Nội dung nhân văn đậm đà trong thần thoại Hi Lạp
 Phân biệt ý niệm chính- tà từ rất sớm: Trong những gia hệ thần, người kể
chuyện biểu lộ rõ thái độ ca ngợi các vị thần tích cực và phê phán các thần tiêu
cực.
 Tư tưởng đạo lí công bằng được đề cao( trừng phạt và khen thưởng).
 Thái độ trân trọng tất cả những gì có ích cho cuộc sống con người.
 .Đề cao những tình cảm đạo đức lớn lao
-Nghệ thuật : Đó là tính lãng mạn và cái đẹp cổ đại, chất thơ, trí tưởng tượng tràn đầy
trong thần thoại 
*Thần thoại Hi Lạp, cùng với anh hùng ca, thể hiện thời kỳ lịch sử quan trọng của Hi
Lạp : Chuyển tiếp từ xã hội nguyên thủy sang xã hội có giai cấp và nhà nước. Giữa thần

7
thoại và anh hùng ca vừa đan xen, vừa nối tiếp, trong đó thần thoại là khúc dạo đầu, thể
hiện tiến trình lịch sử đầu tiên ấy.
* Phân loại :Có thể chia hệ thống thần thoại Hi Lạp ra ba nhóm:
-Truyện về các gia hệ thần : Thế giới các thần đông đảo, với nhiều thế hệ, nhiều mối
quan hệ phức tạp. Dưới đây chỉ là các vị thần linh tiêu biểu cho hệ thống thần linh đông
đảo ấy
Ban đầu vũ trụ chỉ là một khối hỗn mang Kaốt (Chaos), từ đó sinh ra thần đất mẹ Gaia.
Thần Gaia sinh thần bầu trời Uranos. Rồi Gaia và Uranos kết hôn, sinh ra 12 thần khổng
lồ Tităng (Titan), gồm 6 nam thần và 6 nữ thần. Đây là thế hệ “ các thần già ”. Trong các
thần đó, thần Cronos đã lật đổ cha mình – Uranos để chiếm ngôi vi chúa tể. Các thần
Tităng kết hôn với nhau theo cặp, sinh ra nhiều con.
Các thần con của Tităng gọi là thế hệ “ các thần trẻ “. Một trong số đó, thần Dớt (Zeus),
con trai của Crônốt (Cronos), đã lãnh đạo các thần trẻ đánh bại “ các thần già “ và cai trị
thế giới, ngự trên đỉnh Ôlympơ (Olympe, một ngọn núi ở Bắc Hi Lạp, phân biệt với thành
phố Olimpia, nơi tổ chức thế vận hội Olimpic, nằm trên bán đảo Pêlôpône). Trong thế
giới thần linh đông đúc ấy có 12 thần tiêu biểu do Dớt đứng đầu (Một số vị thần già tham
gia phe Dớt cũng tiếp tục cai quản thế giới, như thần Mặt trời Hêliốt)
Thần Dớt (Zeus) : thần tối cao, ( cha của các thần )và của con người và thần sấm sét
Thần Đêmêtê : chị ruột Dớt, nữ thần nông nghiệp, tạo ra sự phì nhiêu
Thần Hađét : anh ruột Dớt, thần cai quản thế giới âm phủ
Thần Hestia : chị ruột Dớt, thần cai quản bếp lửa gia đình
Thần Pôsêiđông : anh ruột Dớt, thần biển và các nguồn nước
Thần Hêra : em gái và vợ Dớt, quản lý việc hôn nhân và bảo vệ các bà mẹ khi sinh nở
Thần Apôlô : con trai Dớt, thần ánh sáng và nghệ thuật
Thần Áctêmít : con gái thần Dớt, nữ thần săn bắn
Thần Aphrôđit : Nữ thần tình yêu và sắc đẹp
Thần Ares : con trai Dớt, thần chiến tranh
Thần Hêphaixtốt: con trai Dớt, thần lửa – thợ rèn

8
Thần Atêna: con gái Dớt, thần trí tuệ, bảo trợ Aten và sự phát triển của khoa học, nghệ
thuật, nghề thủ công.
Thần Promete: thần đã sáng tạo ra loài người và mang ngọn lửa xuống trần gian. Vì thế,
Prômêtê bị xiềng vào núi, hàng ngày có con đại bàng đến xé lồng ngực để ăn gan, khi
ngày mới bắt đầu, lá gan lại như cũ và tiếp tục chịu cực hình đó. Về sau, thần được
Heraclex, con trai thần Dớt với một người trần đến cứu thoát. Câu chuyện này là đề tài
của vở kịch “Promete bị xiềng” của nhà bi kịch Etsin.
Thần thoại Hi Lạp có nét đặc trưng : hình ảnh, cuộc sống, những đặc điểm vê tâm lý, tính
cách gần gũi với con người. Đó là sự  thần thánh hóa  con người, hội tụ những nét đẹp của
con người (dũng cảm, hảo hiệp, vì nghĩa lớn, yêu chân lý và cái đẹp) cũng như những
khiếm khuyết của con người (sự độc ác, tính tị hiềm, ghen tuông,…).
Nhà thơ Hê-đi-ốt, sống khoảng cuối thế kỷ VIII, đầu thế kỷ VII TCN đã viết “ Gia phả
các thần “, phân rõ ba triều đại thần linh, sắp xếp nên một hệ thống thần linh hoàn chỉnh
-Sự tích các thành bang
Truyện sự tích Châu Âu và một số thành bang: Vua Agienor thành Sidon, con trai của
thần Pozeidon và tiên nữ Okenaid xứ Libie sinh ra. Vua Agienor sinh bốn con trai là
Cadmos, Phenicie, Kilice và Phinee và một gái tên là Europe. Nàng xinh đẹp như ánh
sáng. Một đêm nằm mơ thấy hai mảnh đất khổng lồ cách nhau một quãng biển rộng, một
mảnh gọi là Asie, còn mảnh kia chưa biết gọi là gì. Hai mảnh đất hoá thành hai người phụ
nữ tranh nhau dữ dội giành bắt lấy nàng Europe. Cuối cùng người phụ nữ tên Asie đành
thua cuộc. Người kia nuôi dưỡng chăm sóc Europe đến khi trưởng thành… Tỉnh giấc mơ
cô kể lại với vua cha. Điềm chẳng lành ? Một ngày kia thần Zeus quyến rũ nàng, thần hoá
làm một con bò mộng lông vàng óng, đôi sừng cong như vầng trăng, vầng trán toả ánh
sáng bạc lấp lánh. Con bò đến gần nàng Europe, dụi đầu vào cánh tay, thè lưỡi liếm bàn
tay nàng , quì xuống bên nàng. Hơi thở của nó cũng toả hươgn thơm ngát. Nàng vuốt ve
nó rồi ngồi lên lưng. Bất chợt nó vùng chạy, lao xuống nước biển , nàng gào thét kêu cứu.
Con bò bơi trên biển như cá. Những nàng tiên nữ biển cả Nereid lội hai bên rẽ nước hộ
tống, Europe vẫn khô ráo khi con bò cập bờ một hòn đảo đô thành tên là Cret. Thần Zeus
hiện nguyên hình uy nghiêm đẹp đẽ, tỏ tình với nàng. Sau đó Europe sinh hạ ba người con
trai là: Minos, Radamante và Sarpedon. Những người dân xứ đảo này lấy tên nàng đặt tên
cho toàn bộ vùng đất phía Tây là Europe nghĩa là châu Âu.

9
Vua Agenor từ khi nàng Europe mất tích liền sai bốn con trai là Cadmos, Phenicie , Kilice
và Phinee và tuyên bố nếu không tìm thấy em gái thì chớ quay về. Vượt bao gian khổ
không tìm thấy em gái Europe, mỗi người đi mỗi ngả và khai phá, xây dựng quê hương
mới. Đó là những đô thành rải rác ở châu Âu và Hi Lạp mà họ trở thành các vị vua (các
thành bang Phenixi, Kiliki, Xanmidessos và Cadmee tức là Thebes nổi tiếng Hi Lạp) .
Hầu như cả trăm thành bang ở Hi Lạp đều được kể đến trong những cuộc xây dựng của
những người anh hùng thần thoại Hi Lạp
-Sự tích các anh hùng , nghệ nhân , nghệ sĩ bán thần
Người dân Hi Lạp tin rằng những người có tài năng xuất chúng, phẩm chất tuyệt vời
huyền bí, chắc hẳn phải mang dòng máu thần linh. Ngôn ngữ thi ca và trí tưởng tượng
phong phú với một lối tư duy đặc sắc Hi Lạp đã sáng tạo cả một hệ thống thần thoại hùng
vĩ với khoảng 3000 nhân vật thần linh và bán thần, người trần. Các nhân vật đầy những
ước mơ, khát vọng, đau khổ, vui sướng, hạnh phúc và sụp đổ. . .như con người Hi Lạp
vậy.
Dưới đây giới thiệu một số truyện thần thoại tiêu biểu:
 SỰ TÍCH THẦN APOLLON (Heliot)
 APHRODITE – NỮ THẦN SẮC ĐẸP VÀ TÌNH YÊU (tên La mã: Venus)
 THẦN RƯỢU NHO DIONISOTE (Bacchus)
 CUỘC ĐỜI ANH HÙNG HERACLES (Hercules)
 NỮ THẦN ATHENA THI ĐẤU VỚI CÔ THỢ DỆT ARAKNEE
 TRUYỆN TÌNH CỦA DANH CA ORPHEE
*Vai trò của thần thoại Hy Lạp
-Đối với Phương Tây, ảnh hưởng của thần thoại Hi Lạp xuyên suốt và bao trùm mọi
thời kì, mọi loại hình nghệ thuật và sinh hoạt văn hóa“Không có thần thoại Hi Lạp thì
không có nghệ thuật Hi Lạp” (nhận xét của Karl Marx).
-Thần Thoại Hi Lạp là kho điển tích vô tận cho mọi trào lưu văn học – nghệ thuật châu
Âu kể từ thời đại Phục Hưng về sau
b, La Mã : La Mã hầu như tiếp thu hoàn toàn kho tàng thần thoại và hệ thống các thần
của Hy Lạp nhưng đặt lại tên cho các vị thần đó. Ví dụ: - Thần Dớt của Hy Lạp trở thành

10
Giupite của La Mã. - Thần Nêva - vợ thần Dớt của Hy Lạp thành thần Giumông - vợ của
Giupite của La Mã…
2.2.2 : Thơ
a,Hy Lạp :
* Nhắc đến thơ ca Hy Lạp không thể không kể đến 2 tác phẩm nổi tiếng là sử thi I-li-át
và Ô-đi-xê do Hô-me- một nhà thờ khiếm thị sáng tác
- Cuộc đời của nhà thơ Hô-me(Homère) :
Về cuộc đời của Homère thời cổ đại không để lại một bằng chứng hay tài liệu nào chính
xác. Có tới 8 bản tiểu sử khác nhau. Theo truyền thuyết ông ra đời khoảng năm 1102
TCN. Hiện nay phần lớn các nhà nghiên cứu cho rằng ông sống khoảng cuối thế kỷ IX
đầu thế kỷ VIII TCN
Homère có thể đã sinh ra bên bờ sông Méles. Gần đô thị Xmiếcnơ. Cha không rõ tên, mẹ
ông là bà Krethéis, đã đặt tên cho ông là Mêlêxigen (Mélésigène). Nhà nghèo, ông được
một thầy giáo là Phémios nuôi nấng ăn học. Sau khi Phémios chết, ông nối nghiệp cha
nuôi làm nghề dạy học. Một thương nhân vì khâm phục tài năng của ông đã mời ông đi du
lịch. Ông đã qua thăm Ai cập, Libi, Ý, Tây Ban Nha, ghi chép được nhiều điều. Trở về
quê hương ông làm nghề ca hát để sinh sống. Ông cũng mang tên Homère (Mù) từ đấy.
Ông đã tới đảo Kios, được một gia chủ mời ở lại dạy học, cưới vợ và có hai con gái, sáng
tác Iliade và Odyssé. Mặc dù tuổi già và bị mù, ông vẫn còn lòng ham muốn hiểu biết.
Ông lại lên đường đi thăm Samos và dự định sẽ đến thăm thủ đô Athène. Bị ốm nặng, dọc
đường ông qua đời
- I-li -át(Iliade) : Iliade là bản anh hùng ca chiến trận, dài 15.453 câu thơ và chia ra làm
24 khúc ca.
+ Tóm tắt nội dung cốt truyện: Quân Hy Lạp đánh thành Troie gần 10 năm nhưng thành
vẫn đứng vững. Trong một trận đánh vào một đô thị gần thành Troie, quân Hy lạp chiến
thắng, thu được nhiều chiến lợi phẩm trong đó có hai người con gái đẹp là nàng Bryséis
và Chryséis, con gái của ông già Chrysès, thủ tự đền thờ thần Apollon. Chryséis được
dâng cho chủ tướng là Agamennon và Bryséis cho Achille, viên tướng tài nhất trong hàng
ngũ quân Hy Lạp. Chrysès mang lễ vật tới chuộc con không được, còn bị lăng nhục. Ông
nổi giận cầu xin thần Apollon giáng họa xuống quân Hy Lạp.

11
Quân Hy Lạp Bị thần Apollon bắn tên vô hình gây bệnh dịch, chết vô số. Một đại hội toàn
quân mở ra để tìm nguyên nhân tai họa.Quân sĩ buộc Agamennon phải trả Chryséis cho
thủ tự đền Apollon. Bù lại, Agamennon bắt nàng Bryséis của Achille. Hành động trịch
thượng đó khiến Achille giận sôi máu. Ðể trả thù, từ đó quân đội của Achille không trợ
chiến quân Hy Lạp nữa. Achille lại nhờ mẹ là nữ thần Thétis lên thiên đình cầu thần Zeus
trừng trị quân Hy Lạp.
Quân Troie dần dần phản công dữ dội, đuổi quân Hy Lạp ra tận bờ biển, hạ trại bao vây.
Agamennon định rút lui nhưng Diomède phản đối. Agamennon cử sứ giả đi xin lỗi
Achille, hứa sẽ trả lại nàng Bryséis và còn bồi thường trọng hậu, mong Achille trợ chiến,
nhưng chàng cự tuyệt lạnh lùng. Quân Hy Lạp ra sức chống đỡ. Achille liền cử bạn chiến
đấu là Patrocle thay mặt chàng ra quan sát chiến trường. Patrocle cùng quân Hy Lạp phản
công thắng lợi. Quá say mê với chiến tích, Patrocle truy kích quân Troie về tận bờ thành.
Quân Troie được thần Apollon giúp sức bao vây đánh Patrocle bị thương. Hector, một
dũng tướng thành Troie xông đến giết chết Patrocle.
Hay tin bạn chết Achille đau đớn rụng rời. Dù mẹ đã khuyên răn, Achille vẫn quyết tâm
xung trận để trả thù cho bạn. Thétis lên thiên cung nhờ thần Héphaitos rèn cho con mình
một bộ áo giáp và vũ khí mới. Achille nguôi giận, hòa giải với Agamennon rồi xuất trận.
Ðến giai đoạn này, cuộc chiến lại trở nên khốc liệt. Với lòng trả thù cho bạn, Achille truy
sát quân Troie. Cuối cùng quân Troie chạy trốn cả vào thành, chỉ còn một mình Hector
đứng lại chờ giao chiến với Achille trước cổng thành Xké, dù mẹ cha chàng khóc lóc van
nài chàng hãy trốn vào thành. Vì danh dự, Hector buộc phải tử chiến với Achille. Thần
Zeus bắt cân tử mệnh. Dĩa cân nghiêng về phía Hector. Athéna buộc phải thôi giúp
Hector. Achille hùng hổ lao tới, đuổi Hector chạy quanh thành ba vòng, sau khi đuổi kịp,
đã giết chết Hector. Sau đó, Achille cho buộc xác Hector vào một cổ xe kéo lê quanh
thành giữa những tiếng than khóc của cha mẹ vợ con chàng và nhân dân thành Troie.. Các
thần trên thiên đình nổi giận vì hành động đó, buộc Achille phải chấm dứt cuộc báo thù và
báo cho vua Priam của thành Troie đến doanh trại của Achille chuộc xác con. Kết thúc
bản trường ca là lễ mai táng Hector.
+ Iliade làm nổi bật chủ nghĩa anh hùng toàn dân, chủ nghĩa anh hùng tập thể của cả hai
phe tham chiến. Người Hy Lạp và Troie đều hiểu rõ mục đích cuộc chiến đấu của mình.
Cho dù trong tác phẩm đôi khi có nói đến cái chết, vẫn không làm mất đi âm điệu của bài
ca hùng tráng

12
- Ô-đi-xê(ODYSSÉE):
+ Odyssée là bản anh hùng ca của cuộc sống hòa bình, dài 12.110 câu thơ và cũng chia ra
làm 24 khúc ca.
Ðây là một câu chuyện phiêu lưu trọn vẹn và thuần nhất hơn Iliade nhiều. Diễn tiến có thể
chia làm ba phần: Télémaque đi tìm cha, Nhũng cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Ulysse và Trở
lại quê hương.
Tại Ithaque, quê hương của Ulysse, vì đã một thời gian không có tin tức gì của chàng,
nhiều vương tôn công tử đến ve vãn cầu hôn và dùng áp lực để ép vợ của Ulysse là nàng
Pénélope phải tái giá cùng một người trong số họ (108 vị). Pénélope tìm cách hoãn binh
(dệt vải liệm cho cha chồng theo phong tục Hy Lạp). Ðến năm thứ 9, tức năm chót trong
10 năm phiêu bạt của Ulysse, họ dùng mọi áp lực buộc nàng nhận lời. Lúc bấy giờ
Télémaque, con trai của hai người đã lớn, nhờ các thần giúp đỡ, ra đi tìm cha.
Télémaque ra đi tìm cha trước những lời chế giễu của bọn cầu hôn đang deo đuổi mẹ
chàng.Chàng lần lượt đến viếng triều đình của vua Nestor, thành Sparta của vua Ménélas
và bà hoàng hậu tuyệt sắc Hélène, tại đây chàng đã hỏi thăm được tin tức của cha và trở
về.
Phần hai của tác phẩm trình bày cuộc hành trình phiêu bạt của Ulysse từ khi rời thành
Troie trở về quê hương. Ðầu tiên đoàn thuyền của Ulysse nhổ neo để đến Thrace, sau đó
một ngọn gió Bấc thổi dạt họ đến tận châu Phi, nơi có xứ sở của những người trồng quả lú
(lotus). Sợ bạn đồng hành ăn phải thứ quả này sẽ quên mất quê hương, Ulysse ra lệnh nhổ
neo. Từ đây đoàn thuyền trôi dạt đến những vùng đất xa lạ ở phía tây Ðịa Trung Hải. Ðến
xứ của những người khổng lồ một mắt Cyclopes, Ulysse đã làm mù mắt người khổng lồ
Poliphème để giải thoát mình và các bạn. Họ còn thử thách với những cơn giông bão của
thần gió, đấu trí với mụ phù thủy Circé chuyên môn biến người thành lợn, xuống địa
ngục, kỳ ngộ với những con quái vật Scharyps, Scylla, những nàng tiên cá Sirènes, lên
đảo của thần mặt trời Heliose. Vì các bạn đồng hành của chàng dại dột bắt bò thần ăn thịt
nên thần Zeus gây một trận bão để trừng phạt. Chỉ còn một mình chàng sống sót, trôi dạt
đến hòn đảo Ogypgia của tiên nữ Calypso. Nơi đây chàng bị nữ thần giam lỏng với ý định
kết hôn cùng chàng. Nhưng Ulysse vẫn hướng về quê hương xa dịu vợi.Năm thứ 10 sau
khi rời thành Troie cũng là lúc thiên đình quyết định buộc nàng tiên Calypso phải trả tự
do cho Ulysse về lại quê hương.

13
Ulysse xuống bè nhưng chưa thấy được đất liền thì thần Poseidon, vốn rất căm thù
Ulysse, đã gây nên một trận bão mà phải nhờ đến một vuông vải thần, Ulysse mới thoát
nạn và dạt vào xứ sở của nàng công chúa Nausicaa trong một trường hợp ly kỳ, trở thành
khách quý của triều đình và cha con nàng. Biết chuyện của Ulysse, nhà vua giúp chàng
phương tiện trở về quê hương. Cuộc hành trình an toàn nhờ sự giúp đỡ của nữ thần
Athéna.
Phần ba của tác phẩm là những mưu mẹo chàng đã sử dụng để tiêu diệt bọn bất lương đã
thừa lúc chàng vắng nhà lộng hành áp bức vợ con chàng. Chàng phải lánh mặt tại nhà một
lão già chăn lợn trung thành, rồi cuộc hội kiến với Télémaque… Cuối cùng là cuộc thi tài
bắn cung giữa lão ăn mày Ulysse và 108 kẻ cầu hôn. Bọn này giương không nỗi chiếc
cung thần nổi tiếng của Eurytus. Chỉ có Ulysse bắn dễ dàng một mũi tên xuyên qua những
lỗ hổng trên 12 cán rìu trận đặt theo hàng dọc. Chàng bỏ lớp cải trang, giết bọn cầu hôn
phản phúc và đoàn tựu với nàng Pénélope thủy chung.
Nếu Iliade là bản anh hùng ca chiến trận thì Odyssé chính là bản anh hùng ca của cuộc
sống hòa bình. Hình ảnh người anh hùng trong chiến tranh đã được thay thế bằng người
anh hùng trên mặt biển.
Qua cuộc hành trình trở về quê hương cuả Ulysse, bản trường ca ca ngợi sức mạnh của ý
chí và nghị lực của con người trước những gian nan, nguy hiểm. Chiến trường ở đây là
đại dương mênh mông với những sức mạnh kỳ bí của thiên nhiên, với những xứ sở xa lạ,
đầy nguy hiểm mà cũng đầy quyến rũ. Chiến công chính là những gian nan, khó khăn,
cám dỗ mà con người đã vượt qua để về với gia đình, còn vũ khí thì chính là trái tim và
khối óc của người anh hùng.
-Vài đặc điểm nghệ thuật qua hai bản anh hùng ca:
Những biện pháp kỹ thuật của sử thi:
+Lối miêu tả chi tiết, tỉ mỉ, cụ thể.
+Lối miêu tả không phù hợp với trật tự thời gian
+Lối so sánh mở rộng.
+Lối so sánh chồng chất tạo thành chuỗi dài trong đó hết so sánh này đến so sánh
khác, mỗi so sánh là một cảnh độc lập, làm chậm hành động truyện, góp phần tạo ra
phong cách trang trọng, chậm rãi của sử thi.
+Lối nhắc lại với mục đích làm cho người đọc nắm rõ được nội dung truyện.

14
+Cách dùng những định ngữ giúp người nghe nắm được những đặc tính, thuộc tính
của người hay đồ vật đó.
+Những đoạn thuyết lý.
- Kết luận :Qua hai bức tranh hiện thực của hai thiên trường ca nói về cuộc chiến đấu trên
đất liền và cuộc phiêu lưu trên mặt biển, tác phẩm của Homère đã gần như tổng hợp được
toàn thể sự nghiệp của người Hy Lạp trong thời đại anh hùng, phản ánh khá đầy đủ những
nét của cuộc sống một dân tộc mang nhiều sức sống trong buổi rạng đông của lịch sử. Nó
xứng đáng tiêu biểu cho sức mạnh và vẻ đẹp của nhân loại trong buổi ấu thơ. Tác phẩm
của Homère là một mẫu mực của anh hùng ca, biểu hiện trình độ hoàn thiện của nghệ
thuật kể chuyện sử thi, đặc biệt là ở Odyssé. Như vậy giá trị hàng đầu của sử thi Iliade và
Odyssé chính là giá trị tư tưởng của nó với thế giới quan khẳng định cuộc sống và tinh
thần nhân đạo. Một nhà hùng biện thời cổ đại đã đánh giá: Homère là người đầu tiên, là
người ở giữa và là người cuối cùng, là người cung cấp cho trẻ em, người lớn, cụ già tất cả
những gì mà mỗi người có thể rút ra được.
*Thơ trữ tình :
- Nhà thơ xác thực đầu tiên là Hêđiốt, khoảng nửa sau thế kỷ VIII TCN, đầu thế kỷ
VII TCN, tác giả của “ Nguồn gốc các vị thần ” và “ Lao động và ngày tháng ’”.
“Nguồn gốc các vị thần” là văn bản viết đầu tiên về thế giới thần thoại Hi Lạp, hệ
thống hóa những câu chuyện kể dân gian và do đó đôi khi có những khác biệt so với
truyền thuyết, sử thi (ví dụ: về nguồn gốc của nữ thần tình yêu Aphrôđit, theo Hôme là
do thần Dớt sinh ra, nhưng theo ông là do bọt biển sinh ra)
-Các thi sĩ khác : Thế kỷ VII – VI TCN xuất hiện nhiều nhà thơ, tiêu biểu như
Ackhilốc (Archiloque), Ankây (Alcaeus), Saphô (Sappho)… Trong đó Nữ thi sĩ Sa
phô (Sappho), được người Hi Lạp xưng tụng là nàng thơ thứ 10 của thơ ca Hi Lạp
(theo quan niệm của người Hi Lạp, có 9 nàng tiên bảo trợ cho hoạt động thi ca). Bà để
lại 9 tập thơ, thể hiện sâu sắc và tinh tế những sắc thái tình cảm sâu sắc của con người.
b,Thơ La Mã: Phát triển nhất dưới thời Ốctaviaút: nhóm tao đàn do Mêxen được thành
lập, Mêxen là một thân cận của Ốctaviaút đã đứng ra bảo vệ các thi sĩ. Trong nhóm này
có các nhà thơ nổi tiếng như: Viếc-gi-li-út, Hôratiut, Ôviđiút. Những nhà thơ xuất phát từ
nhiều nguồn gốc: nhân dân, nô lệ và kẻ sĩ…

15
* Viếc-gi-li-út(70-19 TCN)là nhà thơ lớn nhất La Mã . Tác phẩm đầu tiên làm ông bắt
đầu có tiếng tăm là “ Những bài ca của người chăn nuôi ”. Tiếp theo là tác phẩm “Khuyến
nông” khuyến tuyên truyền cho sự phát triển nông nghiệp. Tác phẩm ưu tú nhất làm ông
trở thành nhà thơ ưu tú nhất La Mã là Ê-nê-it
* Hôratiut( 65-8 TCN): Chịu ảnh hưởng sâu sắc của triết học và thơ trữ tình Hy Lạp . Tác
phẩm tiêu biểu nhất là tập thơ ca ngợi , đánh dấu sự nghiệp của mình với bài “Bia kỉ niệm

Ngoài ra ông còn có những đóng góp quan trọng về lí luận thơ ca và nghệ thuật kịch qua
bài “ Nghệ thuật thơ ”
*Ovidut(43-17 TCN): Hoạt động chí làm 3 thời kì
- Thời kì thứ nhất bao gồm các tập thơ nói về yêu đương tình ái vơi các tác phẩm “Tình
ca”, “Nữ anh hùng”, “Nghệ thuật yêu đương ”
- Thời kì thứ 2 : Trong thời kì này ông đã chuyển hướng sáng tác . Các tác phẩm tiêu biểu
thời kì này là “Các ngày lễ” , “ Biến hình ”
- Thời kì thứ 3 : Năm 8 trước công nguyên , trong thòi kì này ông có 2 tập thơ là “Những
bài thơ buồn ”và “Thơ về Kinh ”
2.2.3 : Kich
a, Hy lạp : Kịch thơ là một trong thể loại văn học rất phát triển ở Hi Lạp cổ đại, vừa là
một loại hình nghệ thuật sân khấu, một đóng góp lớn vào kho tàng văn hóa nhân loại.
Chính kịch ra đời bắt nguồn từ các hoạt động ca hát, kể chuyện trong lễ hội tôn vinh thần
rượu nho Dionisos, nhất là khoảng thế kỷ VI TCN, được trình diễn lần đầu tiên năm 534
TCN. Thế kỷ VI – V TCN là thời kỳ hoàng kim của kịch cổ điển Hi Lạp. Các chủ nô tài
trợ nhiều cho hoạt động sáng tác và trình diễn, chẳng hạn như tổ chức thi và trao giải hàng
năm.
* Bi kịch: Bi kịch là một loại hình nghệ thuật bắt nguồn từ Hy Lạp cổ đại. Có nội dung
xoay quanh mâu thuẫn gay gắt không thể giải quyết, nhuốm màu sắc bi thương, thường
kết thúc bằng sự thất bại, hoặc sự hy sinh cuả nhân vật chính diện/nhân vật anh hùng. Chủ
đề kịch thường lấy từ sự tích thần thoại hay trong sinh hoạt thường ngày, nội dung của bi
kịch thường ca ngợi vẻ đẹp con người với sự trân trọng, thương yêu, tin tưởng, bảo vệ và
chống lại tất cả các thế lực xấu xa thù địch. Đặc biệt, trong bất kì hoàn cảnh nào, phẩm
giá và nhân cách con người cũng luôn được đề cao. Bi kịch miêu tả những con người

16
lương thiện, dũng cảm, những anh hùng đấu tranh vì mục đích tốt đẹp, lý tưởng cao quý
nhưng điều kiện khách quan không ủng hộ khiến họ thất bại. Qua những khó khăn, gian
khổ, hy sinh con người thể hiện lý tưởng, khát vọng của chính mình. Vì thế mà bi kịch
trong không khí bi tráng luôn gợi cảm và hấp dẫn người đọc, người xem.
Ba nhà sáng tác bi kịch lớn, Etslin, Xôphôcclơ và Ơripit
- Tác giả Etsin và tác phẩm “Prômêtê bị xiềng ”
+Etsin(Eschyle )(525-456 TCN) là nhà thơ bi kịch vĩ đại của Hy Lạp cổ đại . Ông được
cho là người thực sự sáng lập bi kịch Hy Lạp cổ đại .Ông không những là người sáng tác
kịch bản đầu tiên mà còn là đạo diễn và người cải tiến đạo cụ . Chủ đề tư tưởng trong bi
kịch của ông là vấn đề số phận , yếu tố chi phối không thể cưỡng được
Etslin xuất thân trong một gia đình quý tộc ruộng đất ở Eleusis gần Athène. Suốt đời đã
dùng ngòi bút của mình để chiến đấu cho nền trật tự và văn hóa của xã hội mới(xã hội dân
chủ chủ nô). Cuộc đời ông gắn liền với những biến cố lớn lao của thời đại: sự hình thành
nhà nước dân chủ chủ nô và cuộc chiến tranh chống xâm lược của đế quốc Ba Tư. Ông
cũng là chiến sĩ trong ba trận chiến thắng lừng lẫy của người Hy Lạp: trận Marathon(490
TCN), trận Salamine(480 TCN), trận Platée(479 TCN). Ông đã đoạt được 13 giải thưởng
trong đời và 28 giải sau khi mất. Ông đã viết tất cả 90 vở kịch(70 vở kịch và 20 vở satire),
tuy nhiên chỉ còn lại 7 vở: Những thiếu nữ cầu xin, Bảy tướng đánh thành Thebes, Quân
Ba Tư, Promethée bị xiềng, Oresti(Agamennon, Những người dân đến lễ Các nữ thần ân
đức
+Prômêtê(Promethée) bị xiềng :Là một vở bi kịch nổi tiếng của Eschyle từ lâu đã có ảnh
hưởng đối với nền văn hóa thế giới. Ðược diễn vào năm nào không rõ, ước chừng 469
TCN. Ðây là một trong bộ ba vở kịch liên hoàn: Prométheé người mang lửa, Prométheé bị
xiềng và Prométheé được giải phóng. Hai vở kịch kia đã thất truyền.
Prométheé bị xiềng mở đầu bằng cảnh Prométheé bị xích chặt vào núi đá và yên lặng chịu
đựng cực hình mà không một lời kêu than. Chàng khinh bạc tất cả những lời khuyên dụ
của thiên thần. Chàng còn là hiện thân của một người bạn chân tình của những kẻ bị áp
bức, đau khổ. Lúc bấy giờ, Ios-một thiếu nữ bị Zeus phụ tình và Héra ghen tuông cho ruồi
trâu cắn đốt chạy qua vùng này. Prométheé tiên tri rằng nàng sẽ sinh hạ một vĩ nhân, sau
này sẽ giải phóng chàng. Ðồng thời chàng cho biết những bí mật về số phận và cái chết
của Zeus. Ðược tin đó, Zeus cho Hermès xuống tra hỏi. Bất chấp mọi lời dọa dẫm, dụ dỗ,

17
Prométhée không dứt lời sỉ nhục Zeus. Bất lực trước ý chí sắt đá đó của Prométheé, Zeus
giáng mây mù giông bão xuống núi đá chôn vùi Prométheé.
Qua bi kịch Promete thấy được sự đấu tranh để sống, để phát triển của loài người; sự đấu
tranh giữa ánh sáng của hiểu biết với sự u tối lạc hậu; đây là một bước tiến dài trong quá
trình phát triển của con người. Ngoài ra còn cho thấy đối đầu giữa tầng lớp thống trị và bị
trị.
- Tác giả Xôphôcclơ và tác phẩm “Ơ-đip làm vua”
+Xôphôcclơ (Sophoce )(496- 406 TCN) là tác gia bi kịch của thời kỳ nền dân chủ phồn
vinh ở Hi lạp cổ đại.Ông sinh ra trong một gia đình giàu có và thế lực, được hấp thụ một
nền giáo dục toàn diện và sớm có năng khiếu thơ ca. Tương truyền năm 16 tuổi, ông đã
chơi đàn lia trong dàn nhạc chào mừng những người chiến thắng Xalamin trở về trong đó
có Eschyle.
Được mênh danh là “ Hô-me của nghệ thuật kịch ”. Các tác phẩm của ông xoáy quanh
quan niệm về số phận kết hợp với việc ca ngợi tài năng con người . Ông đã sáng tác tất cả
123 vở, đến nay chỉ còn lại 7 vở: Ajax giận dữ, Những người phụ nữ Trachinie,
Philoctète, Édipe ở Colone, Antigne, Electra và Édipe làm vua.
Tại thành Thebes xinh đẹp, đức vua Laius cùng hoàng hậu Jocaste kết hôn đã lâu xong
chưa có con.Họ bèn đến đền thờ thần Apolllo để cầu tự.Thần phán rằng họ sẽ có con trai
nhưng đứa con ấy khi lớn lên sẽ giết cha lấy mẹ.Để tránh tai hoạ ấy, khi đứa bé vừa chào
đời, Laius sai người giết đi. Xót thương đứa trẻ vô tội, người nô lệ trao nó cho một người
chăn cừu xứ Corynth.Vì không có con nên vua xứ này này nhận đứa trẻ làm con nuôi.
Một ngày kia tin đồn Oedipus không phải là con ruột của nhà vua tới tai chàng. tìm đến
đền thờ thần Apollo tìm lời giải đáp.Thế nhưng thay vì giải đáp thần lại phán sau này
chàng sẽ giết cha và lấy mẹ.Sợ hãi tột độ, Oedipus rời Corynth đi về phía Thebes.Tại một
ngã ba đường, chàng xích mích với một đoàn người.Chàng giết chết tất cả trong đó có
một ông già, chỉ có một người chạy thoát.
Lại nói, ở Thebes lúc này đang mắc phải một tai hoạ.Một con quái vật đưa ra một câu đố
nếu không giải được câu đố của nó thì mỗi ngày nó sẽ ăn một người. Oedipus giải được
câu đố, quái vật chết, chàng lên làm vua và lấy hoàng hậu làm vợ.
Ít lâu sau, thành Thebes xảy ra dịch bệnh.Trong quá trình đi tìm nguồn gốc của dịch bệnh,
Oedipus khám phá ra thân phận thật sự của mình.Chàng hiểu rằng chính chàng là nguyên

18
nhân dẫn tới dịch bệnh (vì chàng đã phạm tội giết cha lấy mẹ).Người anh hùng xưa nay
bỗng trở thành tên giết người tàn bạo. Oedipus tự chọc mù hai mắt và rời bỏ ngai vàng.
+Bi kịch “Oedipus làm vua”( Ơ-đip làm vua)
Bi kịch “Oedipus làm vua” của Sophocle mang một giá trị  nhân văn sâu sắc, phản ánh
được những đặc điểm xã hội của Hi Lạp lúc bấy giờ. Con người dưới sự chi phối của thần
linh trở nên bất lực trước số phận của mình. . Sophocle dưới cái nhìn khách quan đã xây
dựng hình tượng nhân vật Oedipus như một con rối trước định mệnh của cuộc đời dù cho
có trốn chạy thì số mệnh đã được định đoạt. Trong vở kịch chân dung con người Hi lạp cổ
được tái hiện dưới cái nhìn bi kịch và một vấn đề được đặt ra:con người có thể chiến
thắng số phận khi chiến thắng được thế lực thần thánh tức là chiến thắng được cái tư duy
sai lệch về sự chi phối của thế lực siêu nhiên trong cuộc đời. Bi kịch “Oedipus làm vua” 
đã kết thúc nhưng dư âm của nó vẫn tồn tại trong suy nghĩ của bao thế hệ con người,
nhưng dù ở nhận định nào thì cũng không thể phủ định các giá trị tư tưởng, nghệ thuật
trường tồn của nó.
-Tác giả Ơripit và tác phẩm “ Mê-đê”
+Ơripit (khoảng 485/480 TCN – 406 TCN) : Ông khoảng khoảng 90 vở kịch, nay còn giữ
được 18 vở kịch (17 bi kịch, 1 hài kịch). Quan điểm của ông là không tin vào số mệnh,
con người rơi vào bi kịch do không thắng nổi dục vọng của mình. Trong các tác phẩm của
ông, cuộc đấu tranh giữa trí tuệ và tình cảm rất mạnh mẽ, nên được xem là người khởi đầu
cho thể loại bi kịch tâm lí – xã hội.
+Vở kịch tiêu biểu nhất của Ơ ri pit là Mê -đê (Médée)
Vở bi kịch Médée được trình diễn lần đầu tiên vào năm 431 TCN, trong lễ hội Dyonisies
và chỉ giành giải ba trong cuộc thi kịch năm đó do vấp phải sự phản đối của nhiều khán
giả.
Vở kịch Médée ra đời trong hoàn cảnh chế độ dân chủ chủ nô Athène đang dần suy thoái,
mâu thuẫn trong bộ máy chính quyền ngày càng trở nên gay gắt và giai cấp thống trị cũng
dần bộc lộ ngày càng nhiều điều bất công và bản chất xấu xa của nó.
Nội dung vở kịch được dựa trên câu chuyện thần thoại về người anh hùng Jason – người
đã lấy được bộ lông cừu vàng và Médée, ở thời điểm sau khi Jason và Médée đã có hai
con trai và đến sống tại Corinthe và trọng tâm xoay quanh sự trả thù của Médée với Jason
vì đã bỏ rơi nàng để lấy công chúa con vua Créon. Tuy nhiên, trong vở kịch, chi tiết

19
Médée giết chết hai đứa con của mình là một khác biệt rất lớn so với nội dung của thần
thoại.
Sau khi lấy được bộ lông cừu vàng đem về Iolcos và giúp Jason trả thù vua Pélias, Médée
phải cùng chồng và hai con chạy đến Corinthe ẩn thân. Tại đây, hai người chung sống rất
hạnh phúc, hòa thuận nhưng rồi Jason vì muốn khôi phục địa vị mà phản bội nàng, ruồng
bỏ vợ con để lấy công chúa, con vua Créon trị vì nước này. Phát hiện việc chồng mình bội
bạc, Médée hết mực đau khổ, suốt ngày khóc than và không ngừng óan trách Jason. Nàng
và hai con còn bị vua Créon đuổi ra khỏi Conrinthe. Cuối cùng, nàng quyết tâm trả thù
chồng mình bằng cách lập mưu giết chết cha con vua Créon bằng thuốc độc và tự tay
mình giết cả hai đứa con trai rồi mang xác con lên cỗ xe do thần Hélios gửi xuống và bay
đi mất.
Trong vở bi kịch Médée, chuyện nhân tình thế thái đã được tác giả ghi nhận rõ ràng và
khái quát. Euripide đã thể hiện cho người đọc, người xem thấy rõ được nội tâm cũng như
bản chất của từng nhân vật. Tuy họ bộc lộ bản tính của mình ở một khía cạnh khác nhau
nhưng lại có một điểm chung là mang trong mình bản chất ích kỉ rất lớn, ai cũng muốn
thỏa mãn ước muốn của bản thân và vì thế họ bất chấp tất cả mọi thứ để đạt được mục
đích. Dù là vị vua cao quý hay là người đàn nàng bị phản bội, ai cũng sẵn mang trong
mình bản tính nhỏ nhen: vua Créon vì sợ Médée làm hại nên phải đuổi ra khỏi đất nước,
Jason vì muốn được lấy công chúa nên đã thực hiện cái quyền được đơn phương ruồng bỏ
vợ, Médée vì muốn trả thù nên bất chấp thủ đoạn để đạt được mục đích của mình. Những
toan tính cá nhân này hợp lại đã tạo nên cái bi kịch lớn của sự ích kỉ trong toàn vở kịch,
khi mà cái nhỏ nhen đáp trả cái nhỏ nhen và tính ích kỉ cuối cùng không mang lại gì ngoài
thù hận, chết chóc và mất mát – những cái dẫn đường cho con người đi tới bi kịch. Không
những vậy, mâu thuẫn nội tâm của nhân vật Médée là những nỗi giằng xé dữ dội giữa lý
trí và tình cảm được đẩy lên tới cực hạn, thể hiện sâu sắc những ngóc ngách trong tâm
hồn phụ nữ và cũng là minh chứng cho tài năng của “nhà triết lý trên sân khấu” Euripide,
nhờ vậy, vở bi kịch Médée dù có một kết thúc thảm khốc nhưng lại không khiến người
xem cảm thấy ghê sợ mà còn đồng cảm và thương xót cho Médée để sau hàng ngàn năm,
đây vẫn là một trong những đỉnh cao của bi kịch Hi Lạp và sân khấu thế giới.
* Hài kịch : Nổi bật nhất là Arixtôphan (khoảng 445 – 386 TCN)
Ông là nhà sáng tác hài kịch tiêu biểu nhất, với 44 ở kịch, nay còn 11 vở kịch, tiêu biểu
như Hòa bình, Kỵ sĩ, Đàn chim…Đề tài của ông xoay quanh các vấn đề thời sự, chính trị,

20
mang tính đả kích, châm biếm xã hội đương thời, như phản đối cuộc chiến tranh
Pêlôpônne (431 – 404 TCN), các thói hư, tật xấu của con người… Về quan điểm chính trị,
ông thuộc phái bảo thủ, thường chỉ trích các nhà cầm quyền dân chủ của Aten.
b, La Mã cổ đại :
-Ở La Mã các nhà thơ An-đrô-ni-cút , Nơ-vi-ut, En-ni-ut , Plan-tút, Tê-xe-i-útcũng là
những nhà soạn bi kịch và hài kich
- Các nhà soạn kich La Mã thường dịch bi kịch và hài kịch và hài kịch của Hi Lạp , đồng
thời phỏng theo những nhà soạn bi kịch và hài kịch Hi Lạp để soạn những vở kịch lịch sử
của La Mã hoặc cải tiến các vở kịch Hy Lạp thành các vở kịch của La Mã
2.2.4 : Nguyên nhân những thành tựu
*Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp phát triển khá hoàn hảo. Nó đã mở ra một sự phân
công trong xã hội tạo sự cách biệt giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Nô lệ đảm
đương tất cả mọi việc. Trí thức, quý tộc, chủ nô thoát ly lao động, có thì giờ và điều kiện
để nghiên cứu triết học, khoa học, sáng tác văn học nghệ thuật. Do đó có thể nói nếu
không có lao động của nô lệ thìcũng không có nền văn minh cổ đại Hy Lạp. Không phải
nô lệ không có khả năng sáng tạo văn học, những lao động của họ đã tích lũy vô vàn kinh
nghiệm, tạo điều kiện cho sự phát triển của nền văn học Cổ đại Hy lạp. Tài năng của họ
đã bị quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ vùi dập.
*Trước khi có văn học viết nhân dân Hy Lạp đã có một pho thần thoại phong phú,
hoặc để giải thích những hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, con người, hoặc để nói lên
khát vọng của những con người Cổ đại, hay để ca ngợi thành quả lao động của những
người anh hùng… Từ đó các ca sỹ dân gian dựng lên thành các bài hát. Về sau Homère
dựa trên những bài hát ấy để xây dựng hai thiên anh hùng ca bất hủ và đó cũng là loại
hình văn học đạt đến trình độ hoàn chỉnh đầu tiên của nhân loại.
*Cùng với sự phát triển của chế độ tư hữu trong thời kỳ chế độ nô lệ hình thành vai
trò của cánhân trong xã hội cũng được đề cao. Vì thế thơ ca trữ tình xuất hiện. Loại thơ
ca này nhằm biểu hiện một tình cảm thuần túy bên trong mỗi cá nhân, hoặc nói lên cảm
nghĩ của nhà thơ về một đối tượng nào đó.
* Người Hy Lạp hàng năm có tục tế thần Dyonisos vào mùa xuân. Quần chúng tham
gia đông đảo, hóa trang nhảy múa đủ các kiểu, dần dần phát triển thành loại hình ca kịch.

21
Cho đến nay, hàng vạn người đã coi ca kịch là món ăn tinh thần không thể nào thiếu
được.
*Truyền thống hùng biện đã có từ lâu ở người Hy Lạp, nay được phát triển thành loại
hình văn xuôi hùng biện
*Vai trò của thần quyền ở Hy Lạp không quan trọng. Không có tầng lớp tăng lữ đặc
quyền, không có hệ thống đẳng cấp đè nặng lên xã hội, không có chủ nghĩa giáo điều tôn
giáo khống chế tư tưởng con người như ở các quốc gia phương đông Cổ đại. Ðiều đó góp
phần giải phóng trong chừng mực nào đó sự phát triển của văn học, khoa học và triết học
khỏi những ràng buộc tôn giáo và những tư tưởng duy tâm thần bí.
* Cần chú ý rằng nền văn học Cổ đại Hy Lạp cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của các
nền văn minh lâu đời ở các quốc gia phương đông Cổ đại. Người Hy Lạp đã biết học
tập tiếp thu tinh hoa của những người đi trước và biết phát huy nhũng tinh hoa đó thành
một nền văn học phong phú và đầy tính sáng tạo.

Chương 3 : Đánh giá những thành tựu về chữ viết và văn học của Hy Lạp- La Mã cổ
đại
3.1 : Thành tựu về chữ viết
Có thể nói nếu không có nền văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại sẽ không thể nào có hệ
thống chữ chữ viết đơn giản , tiện lợi được sử dụng rông rãi . Đây là thành tựu bản để
thúc đẩy các lĩnh vực khác phát triển
3.2 : Thành tựu về văn học
Nền văn hóa và văn học cổ đại Hy Lạp chiếm một vị trí đặc biệt trong lịch sử phát triển
của nền văn minh tinh thần phương Tây.Có thể nói rằng: nếu không đi ngược thời gian để
tìm hiểu nền văn hóa Hy La thì khó mà có thể hiểu hết văn hóa Châu Âu ngày nay.Trong
phạm vi văn viết Châu Âu chúng ta có thể tìm thấy biết bao nhiêu đề tài, điển cố, điển tích
bắt nguồn từ cảm hứng thần thoại Hy La cổ đại. Nền văn hóa, văn học đó đã mở đường
cho sử học, triết học, thần thoại, anh hùng ca, kịch, thơ, điêu khắc, âm nhạc...phát triển.

22
KẾT LUẬN
Như vậy nhờ tiếp thu được thành tựu từ nền văn minh trước cùng với sự hiểu biết, nỗ lực
học hỏi và sáng tạo không ngừng nghỉ, người Hy Lạp cổ đại đã sáng tạo ra hệ thống chữ
viết đơn giản, tiện dụng được sử dụng rông rãi ngày nay . Đây là một thành tựu mang tính
nền tảng để thúc đẩy các lĩnh vực khác phát triển
Đối với văn học , nền văn hoc Hy Lạp cổ đại đã đề cập đến những vấn đề có tính chất xã
hội như vấn đề tự do công lý, tinh thần chiến đấu chống lại số mệnh, tư tưởng anh hùng.
Nhờ vậy nền văn học ấy đã dựng nên những hình tượng thể hiện đầy đủ bản chất của nhân
loại trong buổi ấu thơ.Vì lấy con người làm đối tượng miêu tả nên văn học Hy Lạp còn
giàu tính hiện thực. Những anh hùng ca Hy Lạp dù mang nặng tính chất hoang đường vẫn
là những bức tranh trung thực của cuộc sống bấy giờ. Còn thơ ca trữ tình muôn màu
muôn vẻ là những tâm tư tình cảm của người cổ đại đang khát khao hướng tới hạnh phúc
của cuộc sống thần tiên.
Nền văn học nghệ thuật Hy Lạp là một mẫu mực trong việc gắn bó chặt chẽ giửa văn học
bác học và văn học dân gian. Tất cả loại hình đều phát triển từ văn học dân gian lên như
anh hùng ca hình thành từ cơ sở những bài hát của các ca sỹ dân gian, bi hài kịch ra đời từ
những cuộc vui chơi có tính cách tôn giáo. Mác nói: Thần thoại Hy Lạp không chỉ là kho
vũ khí của nghệ thuật Hy Lạp mà còn là mảnh đất nuôi dưỡng nó nữa.
Giá trị thẩm mỹ của nền nghệ thuật Hy Lạp là thể hiện được bản chất chân thật của loài
người thời thơ ấu. Khi tiếp xúc với nền văn học đó, ta như thấy lại tuổi thơ của riêng mình
và nhận thấy rằng chúng ta đã lớn lên từ một bước dài của lịch sử nhân loại.
Nền văn học La Mã cổ đại chịu sự ảnh hưởng rất lớn từ những đặc điểm trên từ văn học
Hy Lạp cổ đại
Những thành tự về văn học của văn minh Hy Lạp – La Mã cổ đại đã ảnh hưởng rất lớn
đến sự phát triển của nền văn minh tinh thần phương Tây từ đó đã mở đường cho sử học,
triết học, thần thoại, anh hùng ca, kịch, thơ, điêu khắc, âm nhạc...phát triển
Tóm lại, nền văn minh Hy Lạp- La Mã cổ đại đã để lại cho chúng ta những thành tựu vô
giá về chữ viết và văn học . Thành tựu trên hai lĩnh vực trên là nền tảng cho các lĩnh vực
khác đạt được những bước phát triển to lớn . Nếu như không có thành tựu ấy , sẽ không
có một Châu Âu hiện đại và một thế giới phát triển như ngày hôm nay . Chúng ta sẽ mãi

23
biết ơn những thành quả ấy , kế thừa và phát huy chúng để xây dựng một thế giới ngày
càng văn minh và phát triển hơn

PHỤ LỤC
Tranh ảnh tham khảo

Hình 1:Bản đồ Hy Lạp cổ đại Hình 2 :Bản đồ La Mã cổ đại

Hình 3: Bảng chữ cái Hy Lạp cổ

24
H
Hình 4 : Bảng chữ cái La Mã cổ

Hình 5:Bảng chữ số La Mã Hình 6 : Sử thi“ I-li-át” và“ Ô-đi-xê”

Hình 7 : Tác phẩm“ Ơ-đíp làm vua” Hình 8: Tác phẩm “ Prô-mê- tê bị xiềng ”

25
Hình 9 : Tác phẩm “ Mê-đê”

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Vũ Dương Ninh(1999) , Lịch sử văn minh thế giới , NXB Giáo Dục
2. Bài viết : Văn học Hy Lạp cổ đại
Link https://chinhminh911.wordpress.com/2012/04/17/van-h%E1%BB%8Dc-
c%E1%BB%95-d%E1%BA%A1i-hy-l%E1%BA%A1p/
3. Bài viết : Bài giảng Lịch sử văn minh thế giới
Link :
https://khoakhxhnv.ntu.edu.vn/uploads/12/images/bomonkhxhnv/files/B
%C3%80I%20GI%E1%BA%A2NG%20L%E1%BB%8ACH%20S
%E1%BB%AC%20V%C4%82N%20MINH%20TH%E1%BA%BE%20GI
%E1%BB%9AI%20-%20GV_ThS_%20Nguy%E1%BB%85n%20V
%C4%83n%20Tu%E1%BA%A5n.pdf
4. Bài viết : Thần thoại Hy Lạp là gì ?Phân loại, Nghệ thuật , Nội dung
Link: https://lytuong.net/than-thoai-hi-lap/
5. Bài viết : Tác phẩm “Promethée bị xiềng ”
Link : https://ivivi.vn/tac-pham-promete-bi-xieng-cua-etsylo
6. Bài viết : Vở bi kịch “Oedipus làm vua ”của Sophocle
Link : https://ivivi.vn/oedipus-lam-vua-sophocle
7. Bài viết : Vở kịch Médée
Link https://ivivi.vn/vo-kich-medee

26
27

You might also like