Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 17

1) Khái niệm

Ấn Độ giáo là 1 tôn giáo hay đạo pháp, hay cách sống, được thực hành rộng
rãi ở tiểu lục Ấn Độ và 1 phần ở Đông Nam Á. Ấn Độ giáo đã được gọi là tôn
giáo lâu đời nhất trên thế giới, và 1 số học viên hay học giả gọi nó là pháp
Sannatana có nghĩa là “truyền thống vĩnh cửu” hay “con đường vĩnh cửu,
vượt ra ngoài lịch sử loài người .
2) Nguồn gốc
Ấn Độ giáo ra đời ở ấn độ cách đây vào khoảng 4000 năm, là 1 tôn giáo cổ
xưa nhất thế giới, nó phát triển qua nhiều thế kỷ với nhiều nguồn khác nhau :
Các nghi thức văn hoá ; Kinh sách và trào lưu triết học ; Cũng như các tín
ngưỡng phổ thông. Ví dụ như trong nền văn hoá đá mới, đã để lại dấu vết
thực chất bao gồm nhiều hòn đá và vách hang động có hình vẽ trâu bò, biểu
thị một mối quan tâm đến nguồn gốc thần thánh của những loài động vật này ;
Thứ 2 là nền văn minh thung lũng Indus, nay thuộc vùng Pakistan và tây bắc
Ấn Độ, đã từng phát triển rực rỡ trong khoảng những năm 2500 đến 1700
TCN, và vẫn còn hiện diện với các tôn giáo tồn tại 800 năm TCN, mặc dù dấu
tích vật chất khu tổ hợp đô thị này chưa rõ ràng, các nhà khảo cổ đã phục chế
1 số cổ vật thú vị, trong đó có nhiều ấn khắc hình trâu bò, vài hình tượng vẽ
những người đang ngồi trong tư thế Yoga, tượng đất phụ nữ biểu tượng cho
phồn thực và 1 vài điêu khắc hình người và đồng, những mẫu Linga bằng đá
(hình tượng tượng trưng cho thầy Shiva, dấu tích còn tự khẳng định người
dân ở đây thờ các Linga.
3) Lịch sử hình thành
Có 3 giai đoạn hình thành và hoàn chỉ qua các giai đoạn sau :
1.Vệ Đà giáo
2. Bà La Môn giáo
3. Ấn Độ giáo
1. Vệ Đà giáo
Kéo dài từ khoảng thời gian 1200 năm TCN đến 800 năm SCN . Đây là
tôn giáo được hình thành sớm nhất ấn độ, cũng là giai đoạn đầu tiên
của ấn độ giáo, nó ra đời trên triết lý thánh kinh Vệ Đà .
Người ta thường gọi tôn giáo này là đa thần giáo, bởi họ thờ cúng rất
nhiều vị thần như : thần sấm, mưa, gió, lửa …..có thể nói hầu hết các
hiện tượng siêu nhiên đều có 1 vị thần trông coi, cai quản. Việc thờ
cúng các vị thần linh, đối với dân tộc Ấn Độ cổ đại , không phải mê tín
mà do lòng tin tưởng chân thành. Họ tin rằng cúng bái thần linh là lẽ
sống, là nhu cầu thiết yếu, cần thiết của con người. Do đó “bất cứ việc
gì”, đối với bản thân, gia đình hay với bộ tộc, hơi động 1 tí là cúng bái.
Hay việc thắng trận, thu được chiến lợi phẩm dù ít hay nhiều, làm lễ
cưới vợ, sinh con, mua may bán đắt,g ia súc không bệnh tật và Sinyh đẻ
nhiều, mưa thuận gió hoà, trong nhà an vui khoẻ mạnh.. nhất nhất đều
cúng tế trước tạ ơn kêu cầu rồi sau đó làm gì thì làm, hoặc giả làm điều
gì không phải ăn năn, sám hối, biết mình phạm tội nên cầu xin thần linh
tha thứ đừng giáng tai hoạ trừng phạt đều đến trước bệ thờ kêu cầu,
khấn vái, rồi lựa những bài thánh ca để ca hát .
=> Qua đây chúng ta thấy được rằng, các vị thần linh có nhiệm vụ che
chở cho mọi người, chuyển hoạ thành phúc…Do đó người Ấn cổ bao
giờ cũng đặt chọn niềm tin vào thần linh.
2. Bà La Môn
Khoảng 800 năm TCN - đến những thế kỉ đầu của thiên nhiên kỉ thứ 1
TCN, xã hộ phát triển dẫn đến sự bất bình đẳng giai cấp ngày càng sâu
sắc và dựa trên nền tảng Vệ Đà, cũng như các hình thức dân gian…đã
hình thành 1 tôn giáo mới gọi là Bà La Môn, đây cũng là giai đoạn
chuẩn bị thứ 2 của quá trình hình thành Ấn Độ giáo sau này .
Lúc đầu, Bà La Môn giáo phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng sâu sắc
đối với xã hội Ấn Độ cổ. Nếu như Vệ Đà giáo thờ cúng rất nhiều vị
thần thì bà La Môn chủ yếu thờ vị thần Brahma(thần sáng tạo là đấng
tối cao), ngoài ra Bà La Môn giáo thờ các vị thần khác như Agni, thần
Indra, thần Surya.. và họ cũng sùng bài nhiều loại động vật như voi, khỉ
và nhất là bò…
Bà La Môn đã góp công thiết lập duy trì chế độ giai cấp xã hội. Do vậy,
xã hội Ấn Độ thời bấy giờ được chia làm 4 giai cấp :
+ Giai cấp Barahmin (Bà La Môn) : Gồm những Giáo sĩ, tu sĩ, triết
gia, học giả và các vị lãnh đạo tôn giáo, tức là những người giữ quyền
thống trị tinh thần, phụ trách về lễ nghi, cúng bái. Ấn Độ giáo coi họ là
đẳng cấp cao thượng nhất thay Phạm Thiên (Brahma) cầm cương lãnh
đạo tinh thần dân tộc, nên có quyền ưu tiên được tôn kính, và an hưởng
cuộc đời sung sướng nhất. Dân chúng Ấn Độ rất tôn trọng đẳng cấp
này.
+ Giai cấp Kshatriya (Sát Đế Lợi) : Là hàng vua chúa quý phái, Ấn Độ
giáo coi họ sinh từ cánh tay Phạm Thiên, thay mặt cho Phạm Thiên
nắm giữ quyền hành thống trị dân chúng.
+ Giai cấp Vaisya ( Vệ Xá) :  Là những người bình dân, thương gia,
nông dân. Ấn Độ giáo coi họ sinh ra từ bắp vế Phạm Thiên, có nhiệm
vụ đảm đương về kinh tế trong nước (mua bán, trồng trọt, thu hoa lợi
cho quốc gia).
+ Giai cấp Sudra ( Thủ Đà La ) : Là hàng tiện dân. Ấn Độ giáo coi họ
sinh từ gót chân Phạm Thiên, phải thủ phận và phải phục vụ các giai
cấp trên.
+ Ngoài ra còn có giai cấp Paria : Giai cấp người cùng khổ. Ấn Độ giáo
coi họ là đẳng cấp hạ tiện nhất. Họ phải làm các nghề hạ tiện nhất
(gánh phân, dọn nhà vệ sinh, giết mổ gia súc), bị coi như sống ngoài lề
xã hội loài người, bị các giai cấp trên đối xử như thú vật, bị coi là thứ ti
tiện, vô cùng khổ nhục, tối tăm, không được chạm tay vào người thuộc
các đẳng cấp khác, thậm chí không được giẫm lên cái bóng của những
người thuộc đẳng cấp cao như Bà-La-Môn, Sát-đế-lỵ.
Để củng cố cũng như bảo vệ hệ thống giai cấp trên người Aryan còn
tạo ra 1 bộ luật Manu, đây là bộ luật nghiêm khắc và có rất nhiều điểm
cực đoan. Nói về giai cấp Manu viết : Do sinh ra từ bộ phận cao quý
nhất của thân thể Brahma, do sinh sớm nhất, do hiểu biết về Vệ Đà, Bà
La Môn có quyền là chúa tể của các tạo vật ấy”
Vào thời kỳ này có đến 6 triết học : Shakhya (số luận), Yoga (du giả),
Vaisesika (thắng luận), Nyaya (chánh lý), Mimansa (di man tát) và
Vedanta(phệ đàn bà) các triết học này được xem là thuộc hệ thống của
Bà La Môn giáo.
=> Qua đây chúng ta thấy được rằng chế độ giai cấp Ấn Độ bấy giờ rất
nặng nề, khắt khe, nó buộc con người phải sống đúng thân phận và phải
tuân theo bộ luật Manu và những gì đạo Bà La Môn quy định.
Bà La Môn phát triển rộng rãi ở Ấn Độ nhưng khi Phật giáo xuất hiện
thì bị suy tàn trong 1 thời gian dài .
3. Ấn Độ giáo : Sau 1 thời gian suy thoái, đến thế kỉ VII Bà La Môn
dần dần được chấn hưng trở lại, sau đó họ bổ sung thêm nhiều vấn đề
mới và đối tương sùng bái, về kinh điển, các nghi thức tế tự…về đối
tượng sùng bái, họ tập trung và đề cao 3 vị thần :
+ Brahma ( Thần Sáng tạo)
+ Shiva (Thần Chiến tranh)
+ Vishnu (Thần Bảo tồn )
Về kinh điển họ cũng biên soạn lại bộ Brahma cũng như các bộ khác áo nghĩa
thư, so với Bà La Môn thánh điển Ấn Độ giáo có hơi khác nhưng nền tảng
chung thì vẫn là căn cứ vào bộ Vệ Đà và chế độ giai cấp vẫn được giữ
nguyên. Nói chung Ấn Độ giáo là 1 tôn giáo đa thần về sau họ chỉ thờ 3 vị
thần chủ yếu, các bộ thánh điển có ảnh hưởng rất lớn với các tôn giáo sinh ra
sau đó, vì không rõ giáo chủ nên sự truyền bá phụ thuộc vào các giáo sĩ , dù
không được truyền bá rộng rãi như Phật giáo nhưng lại chiếm ảnh hưởng rất
lớn đối với người dân Ấn Độ.

4) Đức tin
Người Ấn Độ giáo tin vào các thuyết về luân hồi (vòng luân hồi liên
tục của sự sống, cái chết và tái sinh) và nghiệp lực (luật nhân quả).
Một trong những triết lý quan trọng của Ấn Độ giáo là “Atman”, niềm
tin vào sự tồn tại của linh hồn. Triết lý này cho rằng mỗi một sinh vật
sống trên đời đều có linh hồn, và tất cả đều là một phần của linh hồn tối
thượng. Niềm tin hướng đến sự cứu rỗi, kết thúc vòng luân hồi để đạt
đến linh hồn độc nhất, tự tại.
Một nguyên tắc cơ bản khác trong Ấn Độ giáo Hindu là ý niệm cho
rằng tất cả hành vi và suy nghĩ sẽ trực tiếp quyết định cuộc sống hiện
tại và tương lai của con người..
Người Ấn giáo noi theo “Dharma”, một quy tắc sống coi trọng nhân
phẩm và đạo đức tốt. Người Ấn giáo tôn kính tất cả các sinh vật sống
và coi bò là loài vật linh thiêng. Tập quán ăn uống cũng là một phần
quan trọng trong cuộc sống của người Hindu. Hầu hết họ không ăn thịt
bò hoặc thịt lợn, và nhiều người ăn chay. Ấn Độ giáo tin các thần ở
trong các động vật có sự sống và đồ vật vô tri vô giác như cây cối, gỗ,
đá,...Người Ấn Độ Giáo tin là sự sáng tạo thế giới là việc tiếp diễn mà
con người chia sẻ, không phải là một thứ gì sảy ra đã lâu trong quá khứ.
Cho nên, họ tin ba vị thần làm việc để thi hành việc sáng tạo tiếp diễn.
Cuối mỗi chu kỳ hay thời gian dài sáng tạo Thần Shiva sẽ tiêu diệt thế
giới cũ và thần Phạm thiên tạo thế giới mới. Trong chu trình này, con
người gặp khó khăn không thể tự giải quyết một mình được, thần
Vishnu xuất hiện như một con người hay dưới một hình thái khác, với
thần thông đặc biệt đem đến sự giúp đỡ cần thiết.
Hệ thống ba vị thần - tiếng Ấn Độ là Trimurti (tam vị quy nhất thể -
theo cách gọi của phương Đông/ The Holy Trinity theo cách gọi của
phương Tây) là ba vị thần tối cao trong Ấn Độ giáo bao gồm: Brahma
là đấng tạo hóa (the Creator), Vishnu - thần bảo hộ và gìn giữ và Shiva
là vị thần của hủy diệt nhưng cũng là sinh sôi và phát triển.
Brahma
Brahma được sinh ra từ một quả trứng vàng (hoàng kim thai tử
Hiranyagabha) trôi nổi trên mặt biển vô biên. Sau khi trứng nở, thần
được sinh ra, những mảnh vỏ trứng bay ra xung quanh tạo nên vũ trụ.
Thần nặn cho núi cao, đào biển sâu, tạo ra hình dáng và thổi sự sống
cho muôn loài, trao sinh khí và sức mạnh chi phối vũ trụ cho muôn
loài.
Khi lấy khí chất của mình tạo ra muôn loài, ngài tạo ra một người đàn
bà tên là Satarupa. Khi ngắm nhìn người con gái do chính mình tạo ra,
Brahma đã bị dục tính mê hoặc, và nhìn đăm đăm người con gái đó.
Satarupa phải lẩn sang hướng khác để tránh cái nhìn của Brama.
Brahma liền mọc thêm một đầu để nhìn ra phía nàng nhưng nàng lại
nhích sang hướng khác để tránh né. Sau khi đủ bốn phương thì nàng
bay lên trên, Brahma lại mọc thêm cái đầu thứ năm. Cuối cùng hai
người trở thành vợ chồng và 100 năm sau thì sinh ra con người đầu
tiên. Sau này Brahma bị Shiva hủy mất một đầu nên chỉ còn 4 đầu.
Không như các vị thần khác, Brahma biểu tượng cho trí huệ và sáng tạo
nên trên tay thần không cầm vũ khí mà cầm bốn pho kinh Vệ Đà, chai
đựng nước sông Hằng, cổ đeo tràng hạt tượng trưng cho sự chưởng
quản thời gian.
Tín ngưỡng thờ phụng thần Brama lên đến đỉnh điểm cho đến những
thế kỉ đầu tiên của thiên niên kỉ thứ nhất SCN. Tuy nhiên thần này
thường được xem là ít quan trọng hơn thần Vishnu và Shiva.
Sự mất đi tính chất tối cao của thần Brahma được giải thích trong một
câu truyện thần thoại nói về nguồn gốc của thần Shiva. Theo truyện
này, một ngày kia Brahma và Vishnu đang tranh luận xem ai trong họ
là người có quyền năng nhất. Cuộc cãi cọ đang hồi sôi nổi nhất thì từ
dưới đại dương của vũ trụ trồi lên một Linga (sinh thực khí nam) - vật
biểu trưng có hình dương vật của thần Shiva - thật lớn, xung quanh là
một vòng lửa, khi Brahma và Vishnu đang xem xét cái linga thì nó nổ
tung ra. Hai thần này nhìn thấy trong ấy là vị thần Shiva sáng tạo tối
cao và họ phải tuân phục quyền uy của thần này.
Thú cưỡi của thần là con Thần Hạc Hasma.
Vishnu
Theo giáo phái Vaishnava (những người thờ thần Vishnu), có một
truyền thuyết kể rằng Vishnu nằm trên biển sữa trên mình con rắn vũ
trụ nhiều đầu Ananta hay Sesha. Trong lúc ngủ, một hoa sen từ lỗ rốn
thần mọc ra trên một cuống dài do thần gió Vayu nắm giữ, và từ hoa
sen đó sinh ra Brahma - thần bắt đầu công việc sáng tạo. Thần Vishnu
ngủ trong các khoảng thời gian giữa những đợt sáng tạo nối tiếp này.
Trong lúc ngủ, thần sẽ biến thành một hoá thân khác xuất hiện trong
các chu kỳ sáng tạo sau đó.
Theo thần thoại Ấn Độ giáo, thần Vishnu có 10 hóa thân (Avatar) khác
nhau từ cá cho đến lợn lòi hay chiến binh, và đã nhiều lần cứu Trái Đất
khỏi thảm họa diệt vong như trận Đại hồng thủy, quỷ vương Bali, trong
đó có hai hóa thân rất quen thuộc và nổi tiếng hơn cả là Rama trong
trường ca sử thi Ramayana, đức vua đã được các thần giao nhiệm vụ
tiêu diệt quỷ vương Ravana ở xứ Sri Lanka (đã học trong chương trình
lớp 10 môn Ngữ Văn) và hóa thân thứ 9 là Đức Phật Tất Đạt Đa Cồ
Đàm (Thích Ca Mâu Ni). Hóa thân thứ 10 của thần chưa xuất hiện
trong kỉ nguyên này.
Thần là biểu tượng của sự ổn định, duy trì sự sống nơi ăn chốn ở của
muôn loài và niềm tin đảm bảo cái thiện sẽ chiến thắng cái ác.
Thú cưỡi của thần là Đại Bằng Kim Sí Thần Điểu Garuda.
Shiva
Tại sao Shiva được coi là thần hủy diệt nhưng cũng là thần của sự sinh
sôi và phát triển. Bởi vì triết học Ấn Độ giáo quan niệm sống-chết
không chỉ là sự luân chuyển của con người mà còn là chu kì tự nhiên
của toàn vũ trụ. Người tôn thờ thần Shiva (Saivism) luôn coi cái chết là
một phần của sự sống, và phá hủy là tiền đề của sáng tạo (phá rồi lại
lập).
Theo như truyền thuyết Ấn Độ giáo đã kể ở trên, thần Shiva sinh ra từ
một Linga (biểu tượng phồn thực và sinh sôi) mọc ra từ giữa biển cùng
với thanh âm thiêng liêng AUM. Thần được miêu tả với hình dạng âm
dương hợp nhất, với nước da trắng tượng trưng cho sự thuần khiết, hình
tượng bán nam bán nữ và có con rắn tượng trưng cho sự hủy diệt quấn
quanh cổ. Thần có ba mắt có thể nhìn thấu quá khứ-hiện tại-vị lai. Thần
liên tục hủy diệt và sáng tạo thế giới.
Truyền thuyết kể rằng chư thần vì muốn trường sinh bất tử nên dùng
con rắn Vasuki khuấy đảo đại dương vũ trụ để tạo ra thứ nước Cam Lộ.
Tuy nhiên con rắn quá mệt nên cuối cùng đã phun nọc độc ra, đe dọa
tiêu diệt cả muôn loài. Shiva bèn đến tiếp cứu, ông dùng miệng mình
hút hết nọc độc của con rắn, cho nên cổ họng ông bị thâm tím.
Một lần khác khi muôn loài bị hạn hán, một đạo sĩ đã cầu xin Shiva cho
nước xuống, thần liền nhẹ nhàng xõa mái tóc dài của mình vì sợ đại địa
sẽ vỡ tan tành, tạo thành dòng sông Hằng để muôn vật vĩnh viễn có
nước.
Thần Shiva đại diện cho cả Âm-Dương nên nơi thờ thần có biểu tượng
của cả Dương vật (Linga) và Âm vật (Yoni). Do đó, trong ý nghĩa của
sáng tạo, Shiva được coi là Đấng toàn năng lưỡng tính (Ardha – Nari –
Isvara) hay một hữu thể trung tính tự phân thân thành Âm – Dương.
Âm dương giao hòa thì vũ trụ được tạo dựng, muôn vật hóa sinh. Các
tín đồ của Shiva gọi là Lingayata được phân biệt nhờ các Linga thu nhỏ
họ đeo trên cơ thể trong suốt cuộc đời. Nó được giữ trong hộp bạc đeo
quanh cổ và được tin là có tác dụng như lá bùa bảo vệ hóa giải những
điều xấu xa.
Vật cưỡi của thần Shiva là Thần Ngưu Nadin.
5) Người sáng lập
Không giống như Phật giáo, Jaina giáo hay đạo Sikh, Ấn Độ giáo
không có một người sáng lập trong lịch sử. Căn cứ của nó dựa vào một
số lượng lớn các đoạn trích thánh kinh cung cấp cho các tín đồ các nghi
thức hành lễ, thờ phụng, hành hương và các hoạt động hàng ngày, cùng
nhiều thứ khác. Măc dù những dòng kinh đầu tiên có niên đại từ 4000
năm về trước, nhưng những tượng thần và đền thờ còn tới thời điểm
hiện tại đã được tạo ra cách sau đó khoảng 2000 năm.
6) Giáo chủ
Ấn độ giáo không có giáo chủ. Sự duy trì và truyền bá của tôn giáo này
hoàn toàn phụ thuộc và các giáo sĩ. Tuy vậy, ở Ấn Độ thì Ấn Độ giáo
có ảnh hưởng rất lớn. Theo số lượng thống kế năm 2017 thì số lượng
tín đồ khoảng 1,053,000,000 tín đồ chiếm khoảng 78,6% dân số Ấn Độ
(1.339.000.000 người)
7) Đặc điểm của ấn độ giáo
Không phải ngẫu nhiên người ta gọi Ấn Độ là cái nôi của các tôn giáo. Không
chỉ là đất nước vô cùng đa dạng tôn giáo, tín ngưỡng, Ấn Độ còn là quê
hương của Ấn Độ giáo - tôn giáo lâu đời nhất thế giới.
Ấn Độ giáo chứa đựng nhiều triết lý tôn giáo. Vì lý do này, đôi khi tôn giáo
còn được biết đến như một cách sống hay một gia đình tôn giáo, không giống
như các tôn giáo hợp nhất khác.
Ấn Độ giáo có mối liên hệ chặt chẽ với các tôn giáo khác ở Ấn Độ, như Phật
giáo, đạo Sikh và Kỳ Na giáo. Có thể thấy nhiều giáo lý trong các đạo giáo
khác bị ảnh hưởng khá nhiều từ Ấn Độ giáo.
Điểm tương đồng của Ấn Độ giáo và Phật giáo
Mặc dù có sự khác biệt cơ bản, có nhiều điểm tương đồng giữa hai tôn giáo
này như sau.
• Cả hai tôn giáo đều tập trung vào bản chất huyễn hoặc nhất thời của thế giới
và những thứ trần tục.
• Cả hai đều khẳng định mong muốn của con người là nguyên nhân chính của
mọi đau khổ và đàn hạc khi cần phải vượt qua những ham muốn này.
• Cả Ấn Độ giáo và Phật giáo đều tin vào vòng luân hồi sinh tử và giải thoát
linh hồn con người.
• Cả hai đều tin vào nghiệp và vai trò quan trọng của nó trong việc giải thoát
cá nhân.
• Cả hai đều nhấn mạnh tầm quan trọng của nghiệp mà không mong muốn đạt
được giải thoát.
• Cả hai đều tin rằng cuối cùng tất cả con người đều đạt được giác ngộ ngay
cả khi họ phải tái sinh nhiều lần.
• Cả hai tôn giáo đều tin rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ và có những địa
ngục có hào quang bên dưới trái đất và thiên đường có các vị thần trên trái
đất.
• Cả Ấn Độ giáo và Phật giáo đều tin rằng con người trải qua vòng luân hồi
cho đến khi họ đạt được giải thoát. Giải phóng là giải pháp duy nhất cho
những vấn đề mà con người phải đối mặt trên trái đất.
• Cả hai tôn giáo đều có nguồn gốc từ Ấn Độ và chính Đức Phật được sinh ra
là người theo đạo Hindu.
• Vì mong muốn là nguyên nhân của mọi đau khổ, từ bỏ những điều trần tục
được cả hai tôn giáo tin là cách lý tưởng để tiến tới giải thoát.
• Cả Ấn Độ giáo và Phật giáo đều nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tập trung
và thiền định trong việc di chuyển theo hướng giác ngộ.
• Cả hai tôn giáo đều có niềm tin vững chắc vào bất bạo động và lòng trắc ẩn
đối với mọi sinh vật.
• Phật giáo có các khái niệm tương tự như Ấn Độ giáo, nhưng nó sử dụng các
tên khác nhau được viết bằng tiếng Pali, một biến thể của tiếng Phạn.
• Cả hai đều nói rằng cái chết là không thể tránh khỏi và không thể tránh khỏi
và gọi nó bằng tên của các vị thần.
• Cả hai đều tin rằng cái chết hủy hoại cơ thể nhưng linh hồn di chuyển vào
một cơ thể khác cho đến khi nó đạt được sự giải thoát khỏi vòng luân hồi. Tuy
nhiên, cần lưu ý rằng Phật giáo không tin vào linh hồn như Ấn Độ giáo.
Đức Phật đã được người Ấn giáo chấp nhận là một hóa thân của Chúa Vishnu
cách đây 1500 năm và nhiều người tin rằng Phật giáo là một vị thần trong tôn
giáo Hindu.
Điểm khác biệt và nổi bật
• Nhưng Ấn Độ giáo có ý thức liên kết lỏng lẻo, khác với đạo Jain và
Phật giáo, và (kể từ thời trung cổ và thời hiện đại) Hồi giáo và Kitô giáo
• Ấn Độ giáo đã được gọi là tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới. Các học
giả coi Ấn Độ giáo là một sự hợp nhất hoặc tổng hợp của các nền văn hóa và
truyền thống Ấn Độ khác nhau, với nguồn gốc đa dạng và không có người
sáng lập
• Ấn Độ giáo là tôn giáo lớn thứ ba thế giới. Người Ấn giáo chiếm phần
lớn dân số ở Ấn Độ, Nepal và Mauritius. Các cộng đồng Hindu quan trọng
cũng được tìm thấy ở Caribbean, Châu Phi, Bắc Mỹ và các quốc gia khác.
• Độ giáo tin mọi người nên cố gắng đạt được những gì được gọi là bốn
kết thúc của cuộc sống con người trong thời gian họ ở trong thế giới phàm
trần này. Bốn mục đích của cuộc đời con người là Dharma (chính nghĩa),
artha (của cải vật chất), kama (lạc thú) và moksha (giải thoát)
• Ấn Độ giáo chấp nhận bốn đạo tràng hoặc các giai đoạn của cuộc đời.
Chúng cụ thể là Brahmacharya (cuộc sống sinh viên), Grihastha (cuộc sống
gia đình), Vanaprastha (cuộc sống nghỉ hưu) và Sanyasa (cuộc sống từ bỏ).

I. Giáo lí
Nếu các tôn giáo khác đều có giáo chủ, có người sáng lập thì Ấn Độ giáo lại
khác hẳn không có người sáng lập, không có giáo chủ. Bản thân Ấn Độ giáo
là tổng hợp của những hệ thống tôn giáo tín ngưỡng-triết học, không giáo
điều hay một tổ chức nhà thờ trung ương chặt chẽ. Rất khó để tìm thấy một tài
liệu nào nói rõ ràng về giáo lý của Ấn Độ giáo mà ta có thể tìm thấy những
giáo lý cơ bản của Ấn Độ giáo trong các kinh sách ( Vêda, Upanishad ) hay
nhiều tác phẩm văn học như truyện cổ tích Pu-ra-na, hay hai bộ sử thi Ma-ha-
bha-ra-ta và Ra-ma-ya-na. Các giáo lý cơ bản đó xoay quanh một số khái
niệm và các cặp phạm trù: Atman – brahman, karma – samsara, dharma –
moksha.

1. Atman - Brahman
1.1.Brahman
- Brah-man hay là Đại Ngã, là một khái niệm cơ bản của tôn giáo và các học
thuyết cổ đại ở Ấn Độ. Rất khó để hình dung và miêu tả Brah-man. Kinh U-
pa-ni-shad đã dùng toàn bộ chữ “không” để nói miêu tả brah-man “không lớn,
không nhỏ, không ngắn, không dài, không rực rở, không tối tăm, không mùi,
không vị, không mắt, không tai, không tiếng nói, không hơi thở, không trong,
không ngoài, không hủy diệt mà cũng không bị tiêu hủy”.
- Theo các nhà tư tưởng Ấn Độ giáo thì Brah-man là “ cái do đó mọi
vật sinh ra, cái nhờ đó mọi vật sinh trưởng, cái trong đó mọi vật nhập vào khi
chết”.
- Brah-man được hiểu biết phổ biến nhất đó là một thực tại khách quan duy
nhất tối cao của vũ trụ, là tinh thần tuyệt đối, là cội nguồn, là bản chất của
mọi hiện tượng trong vũ trụ bao la, là nguồn sáng của tất cả ánh sáng “là linh
hồn của vũ trụ tối cao”.
- Có thể hiểu về Brah-man một cách dễ hiểu nhất theo kinh U-pa-ni-shad đó
là “toàn thể vũ trụ”.
1.2. CÙng tồn tại với brahaman là Atman
- Atman là một phần của Brah-man gọi là Tiểu Ngã. Đó là linh hồn của cá
thể, là một mảnh, một biểu hiện của Brah-man, tồn tại trong mỗi sinh vật,
hiện tượng cụ thể và đơn nhất.
- Con người chúng ta hợp bởi hai yếu tố linh hồn và thể xác, thể xác có thể bị
hủy diệt nhưng linh hồn thì bất diệt. Atman có thể hiểu là - linh hồn bất diệt
không sinh cũng không tử, nó hiện hữu và không bao giờ ngừng hiện hữu.
Linh hồn thường vĩnh hằng, vĩnh cữu, dù thân xác bị hủy diệt do đó linh hồn
vẫn tồn tại. Linh hồn rời bỏ thân xác bị hủy hoại và đến với một thân xác mới
và sẻ trở về với Brah-man khi thân xác đó không còn.
- Vì Atman là linh hồn và là cái tồn tại trong thể xác con người ở đời sống
trần tục nên ý thức con người thường nhầm tưởng rằng: Linh hồn - cái Tiểu
Ngã là cái khác với cái Đại Ngã - “linh hồn vũ trụ” với nguồn sống không có
sinh, không có diệt. Nhưng thực chất thì hòa đồng làm một, về bản chất là
đồng nhất. Vì nếu Brahman là đại ngã thì Atman là cái Tiểu Ngã trong cái Đại
Ngã ấy. Nếu Brahman là linh hồn của vũ trụ tối cao thì Atman là linh hồn cá
thể của vũ trụ tối cao ấy. Nếu Brahman là thực tại duy nhất của vũ trụ thì
Atman là số nhiều trong cái duy nhất ấy. Mặt khác Atman là một mảnh, là
một bộ phận của Brahman nên Atman cũng có nghĩa là Brahman. Có thể viết
thành công thức sau: Atman = Brahman
Chính sự hòa đồng ấy Atman và Brahman đã tạo thành một cặp phạm trù tiêu
biểu trong giáo lý Ấn Độ giáo, trở thành yếu điểm tâm linh của triết học Ấn
độ cả về phương diện thể luận lẫn nhận thức luận. Mọi nguyên lý khác của
đạo Ấn Độ đều dựa trên nền tảng này.
2. Kar-ma – Sam-sara
- Linh hồn trong thể xác con người ở đời sống trần tục nên ý thức còn cạn cợt,
lầm lạc, ham muốn dục vọng từ đó có những hành động nhằm thỏa mản
những ham muốn trong đời sống trần gian đã gây ra những hậu quả, gieo đau
khổ cho kiếp này và cả kiếp sau gọi là nghiệp báo Kar-ma.
- Do vậy, linh hồn bất tử cứ bị giam hãm hết trong thể xác này đến thể xác
khác. Linh hồn bị che lấp, ràng buộc bởi thế giới hiện tượng như ảo ảnh, u
mê, ngu muội gọi là luân hồi Sam-sara, không nhận và không trở về đồng
nhất với bản chất tuyệt đối Brah-man được.
2.1. Karma – Nghiệp báo
- Karma nguyên nghĩa là hành động. Tuy nhiên, nó đã tồn tại nhiều thế kỷ
trong Hindu giáo như một thuật ngữ liên quan đến tư tưởng: Mọi hoạt động
của mỗi người, dù tốt hay xấu đều tạo ra những hệ quả nhất định mà chính
người ấy phải chịu, đó chính là nghiệp báo.
- Những gì con người có ở kiếp này chính là kết quả của những hành động mà
người đó đã gieo hạt ở kiếp trước và những hoạt động của kiếp này sẽ quyết
định số phận của người đó trong kiếp sau. Chính vì vậy mà số phận hay Định
mệnh của mỗi người không phải do một đấng siêu nhiên nào sắp đặt mà chính
là do bản thân của mỗi người tự tạo ra cho chính mình.
2.2. Samsara – Luân hồi
- Samsara là vòng xoáy luân hồi sinh - tử mà ở đó linh hồn bị giam
hãm, ràng buộc vào thể xác này rồi thể xác khác tương ứng với kiếp này, kiếp
khác và cứ kéo dài thành một chuổi dài không kể xiết những cuộc đời nối tiếp
nhau.
- Thể xác chỉ là nơi tạm bợ, là quán trọ bên đường của linh hồn trong
vòng xoáy luân hồi. Khi thân xác không còn tồn tại nữa thì linh hồn theo
nghiệp báo của kiếp này mà tái sinh vào một thân xác mới. Nếu tạo nghiệp tốt
thì sẽ nhận quả tốt, còn tạo nghiệp xấu thì nhận quả xấu cũng giống như:
“Gieo cây nào gặp quả ấy”. Điều này giải thích tại sao lại có đẳng cấp, có con
người, con vật, có thánh thần, ác quỷ…
- Học thuyết luân hồi – nghiệp báo này hình thành nên hai loại người
với hai cách ứng xử trái ngược nhau:
* Một là người chỉ biết nhẫn nhục, cam chịu, thụ động. Những người này
cho rằng số phận của họ hiện nay là do nghiệp báo của kiếp trước nên họ tỏ ra
chấp nhận với cuộc sống.
* Hai là những người biết nổ lực, làm thiện, hướng thiện, tránh bỏ cái ác, lạc
quan, họ có những hành động tốt đẹp vì họ tin rằng số phận của mình là do
mình tạo ra và do mình định đoạt.
Như vậy, theo Ấn Độ giáo con người chỉ có thể thoát khỏi vòng tuần hoàn
luân hồi, u mê khi họ nhận ra được cái Ngụy Ngã và bản chất thức tỉnh quay
trở về với tinh thần tối cao Brah-man.
Bên cạnh khái niệm Atman – Brah-man làm nền tảng cho vũ trụ quan
thì học thuyết Karma – Samsara đóng vai trò nền tảng cho nhân sinh quan của
đạo Hindu. Học thuyết này cũng ảnh hưởng lớn đến các tôn giáo khác.
3. Dharma – Moksha
Hindu giáo tin rằng con người trong cuộc sống vừa chịu sự ảnh hưởng
và chi phối của nhu cầu xã hội vừa có tâm linh khao khát vượt qua những giới
hạn của xã hội đó. Vì vậy mà con người bị đặt trước hai bổn phận tương ứng
với hai nhiệm vụ khác nhau. Đó là Dhar-ma ( bảo vệ, duy trì, nâng đỡ thế giới
nói chung và xã hội con người nói riêng ) và Mok-sha ( hợp nhất với tinh thần
tối cao Brah-man, thoát khỏi sự chi phối của đời sống xã hội ).
3.1. Dhar-ma
- Là một thuật ngữ phức tạp của Ấn Độ giáo, tạm dịch là Đạo hay Pháp.
Dhar-ma chỉ nguyên lý, trật tự, quy luật khách quan cơ bản nhất chi phối toàn
thể vũ trụ (tự nhiên - xã hội - tâm linh) đem lại sự điều hòa về mọi phương
diện.
- Dhar-ma của mỗi người là nhiệm vụ xã hội, vai trò xã hội được định
sẳn mà con người có bổn phận phải đảm bảo sự vận hành có trật tự của xã
hội. Bổn phận ấy tùy thuộc vào đẳng cấp và những giai đoạn khác nhau trong
cuộc đời.
Ví dụ như: Người nào làm nghề gì phải chịu trách nhiệm với công việc ấy hay
con người tùy thuộc vào thứ bậc mà có những mối quan hệ gia đình, xã hội
( vợ chồng, anh em, cha mẹ - con cái, bạn bè…).

3.2. Moksha
- Trong suốt cuộc đời mỗi người phải tìm kiếm để đạt được giá trị hiểu biết,
giàu có, tình yêu…nhưng tất cả chỉ là hư vô, vô nghĩa vì mục đích cuối cùng
đó là giải thoát – Moksha.
- Moksha nghĩa là Giải thoát, liên quan đến sự tự do thoát khỏi Karma
– Samsara, thoát khỏi mọi giới hạn của thân xác, thoát khỏi vô minh và đau
khổ đạt đến hạnh phúc, an vui Cực Lạc. Hạnh phúc theo Ấn Độ giáo đó là sự
ý thức về bản ngã đích thực và mối quan hệ giữa bản ngã cá nhân (Tiểu Ngã)
với Đại Ngã. Khi con người bừng tỉnh khỏi cơn u mê, tăm tối truyền kiếp,
nhận thức được bản ngã đích thực của mình, là lúc con người trở về với chân
ngã của hạnh phúc và được giải phóng khỏi luân hồi, khỏi mọi đau khổ.
- Moksha là sự kết thúc vòng tuần hoàn vô tận thời gian trở nên tuyệt
đích tâm linh. Đây là cứu cánh của Ấn Đố giáo.
- Đến với Moksha mỗi người có một lối đi khác nhau tùy thuộc vào
chính bản thân người đó. Có 3 con đường đến với giải thoát như sau:
* Con đường tri thức: đòi hỏi tu hành khổ hạnh, rời bỏ cám dỗ vật
chất, chuyên tâm rèn luyện kỉ luật tinh thần. Con đường tri thức “mảnh như
một lưỡi dao cạo” vì nó đòi hỏi phải có sức mạnh tinh thần vững vàng và sẳn
lòng thoát li hoàn toàn khỏi trần tục. Một thao tác quan trọng của con đường
này là Yoga.
` * Con đường hành động: lấy hành động làm cơ sở quan trọng của
cuộc sống. Hành động xấu thì phải nhận nghiệp xấu. Ngược lại, hành động
với ý thức phụng sự Đại Ngã, không chú ý đến hơn thua, thưởng phạt thì
không bị trói buộc bởi vong luân hồi sinh tử và có thể đạt đến giải thoát
Moksha.
* Con đường sùng tín: Con đường này rộng rãi nhất và mở ra với tất
cả mọi người, không phân biệt giàu - nghèo, trai - gái…Tín đồ chỉ cần hết
lòng tin yêu, tôn kính Đấng Tối Cao, hiến dâng tinh thần phụng sự Đấng Tối
Cao của mình. Linh hồn cá thể hòa nhập với linh hồn vũ trụ trong tình yêu và
bằng tình yêu.
Như vậy, Dharma và Moksha là hai nhu cầu trái nghịch nhau trong vận
mệnh con người. Nhưng tín đồ Ấn Độ giáo đã ý thức giác ngộ về Dharma và
Moksha như là một bổn phận kép trong cuộc sống. Họ không thoát li trần tục
mà vẫn thực hiện nhiệm bổn phận với xã hội nhưng trong thế giới tâm linh thì
vẫn hướng hy vọng về sự giải thoát cuối cùng mà họ xem là tuyệt đích tâm
linh.
=> Giáo lý của Ấn Độ giáo mang đậm tính tâm linh, giải thoát luôn dẫn dắt
các tín đồ đi theo ánh sáng của sự giác ngộ và hướng họ đến với Chân Ngã.
Chính vì vậy mà Ấn Độ giáo có sức sống rất mãnh liệt, trải qua nhiều giai
đoạn Ấn Độ giáo còn ảnh hưởng rất lớn đến các tôn giáo khác như Đạo Phật,
Đạo Jain.
4. CHẾ ĐỘ ĐẲNG CẤP VÀ NHIỆM VỤ
Theo giáo lý Ấn Độ Giáo, mỗi người có một vị trí riêng trong cuộc sống và
trách nhiệm riêng biệt. Mỗi người được sinh ra ở một chỗ với những khả năng
riêng biệt vì những hành động và thái độ trong quá khứ.
Có bốn đẳng cấp chính, ghi trong các tác phẩm Ấn Giáo: (1) nhóm trí thức –
thầy tu, (2) tầng lớp quý tộc, kể cả quân nhân, (3) nhóm hành chính gồm có
những nhà buôn và địa chủ; và (4) số lớn dân chúng làm những việc thông
thường trong xã hội.
Trong bốn đẳng cấp, có mười hai nhánh. Qua nhiều năm, hơn một ngàn thứ
bậc đẳng cấp đã xuất hiện trong đời sống xã hội Ấn Độ, nhưng tất cả đều
thuộc một trong bốn nhóm chính.
Hệ thống đẳng cấp dùng để đem lại cho mỗi người một chỗ thích hợp trong xã
hội, với một số nhiệm vụ phải thi hành theo cách tốt nhất mà người ấy có thể.
Trong những lần tái sanh tiếp diễn, người ấy có thể cải thiện vị trí của mình
— nếu người ấy làm tốt bổn phận hiện tại của mình.
5. MỤC ĐÍCH ĐỜI TÔI SẼ LÀ GÌ?
bốn mục tiêu cơ bản: gồm có tất cả những phần có giá trị về hoạt động của
con người và mang lại mục đích cho mỗi đời sống.
- đời sống lạc thú: thực hiện tất cả những ham thích bình thường của con
người, kể cả ham thích rất quan trọng bắt nguồn từ nhục dục. Người Ấn Độ
Giáo không bác bỏ kinh nghiệm giác quan về cuộc đời — phát triển quan hệ
sáng tạo với người khác, biết thẩm mỹ, biểu lộ tình dục.
- tham gia vào hoạt động kinh tế hay phúc lợi công cộng (bao gồm một
số công việc hay nghề nghiệp có giá trị): Mỗi người có bổn phận với chính
mình và với xã hội để làm một số công việc có ích. Vì việc này người ấy sẽ
nhận được tiền cần thiết cho nhu cầu hàng ngày, và thông qua đó người ấy
đóng góp vào phúc lợi chung.
- sống đúng luân lý hay sống đạo đức: Ta có bổn phận đối với chính ta
và đối với người khác để làm những gì được trông đợi ở chính mình về luân
lý và đạo đức. Bổn phận đã được phân định khá rõ ràng tại Ấn Độ, cho mỗi
một đẳng cấp có một luật lệ hành động và thái độ mà mỗi thành viên phải thi
hành. Và đối với luật lệ này, một người phát nguyện bằng nỗ lực của mình
nếu muốn đạt một đời sống tốt đẹp.
6. NHỮNG GIAI ĐOẠN TRONG ĐỜI NGƯỜI
Brahmacharga (Học Sinh) : Tất cả nam giới trẻ của những đẳng cấp cao hơn
đều phải sống một thời gian với vị gia sư tôn giáo dạy về trí tuệ cổ xưa của
Ấn và hướng dẫn đọc sách thánh. Mỗi học sinh được giúp đỡ trực tiếp học về
ý nghĩa cuộc đời và được khuyến khích tìm một chỗ thích hợp trong đó.
grhastha (lập gia đình, tạo sự nghiệp): ý nghĩa cuộc đời trong lạc thú, vì quan
hệ hôn nhân giúp giải tỏa tất cả những sức lực và ham muốn căn bản con
người. Vì là một thành viên trong gia đình đòi hỏi người ấy phải đóng góp
phần mình vào sự ổn định kinh tế của xã hội do năng xuất. Và chắc chắn
người chủ hộ có cơ hội chu toàn bổn phận theo luật lệ đạo đức của đẳng cấp
mình.
vanaprastha (hướng về tâm linh) Nghỉ Hưu: vào thời điểm này người ta (cùng
với vợ, nếu họ muốn như vậy) có thể quay trở lại những lợi ích của một học
sinh. Sau khi đứa cháu đầu tiên sinh ra, ta được phép rút khỏi công việc hay
hoạt động nghề nghiệp, không còn phụ trách trách nhiệm trực tiếp về gia đình,
và về sống ẩn dật trong rừng để nghiên cứu.
sanrgasu (thoát ly xã hội để tu hành)Người Hành Hương Tinh Thần Giai: Nếu
người ấy cảm thấy sẵn sàng làm được việc này, người ấy có thể rời bỏ nơi ẩn
dật, làng xóm và nhóm bè bạn tương đắc. Mang theo gậy và bình bát khất
thực, người ấy lang thang chỗ này đến chỗ kia không có lo âu hay không lo
lắng- ăn bất cứ cái gì được cho từ ân tình của những người dân trong làng mà
người ấy đi qua. Người ấy giúp dân bằng cách chia sẻ trí tuệ của mình về ý
nghĩa đời sống hay bằng sự hiện diện của mình. Người ấy có thể sống một
thờì gian làm gia sư cho học sinh trẻ; nhưng khi đã hoàn tất nhiệm vụ, người
ấy lại cất bước lên đường lang thang.
7. TÓM LẠI.
Giáo lý của Hindu giáo chỉ rõ muốn diệt vô minh để chấm dứt luân hồi thì
con người phải trả hết những nghiệp xấu đã gây ra và phát huy những nghiệp
lành. Chỉ khi nào sự thăng tiến của tâm linh tiến đến mức độ chỉ làm ra
những việc lành, lúc ấy con người mới bừng tỉnh khỏi cơn mê truyền kiếp,
nhận thức được Bản ngã đích thực, rời khỏi luân hồi trở về hội nhập vào Đại
Ngã.

Nơi nào tôn giáo tạo được sự khác biệt thực sự trong đời sống người dân, tôn
giáo trở thành một lực lượng thực sự huy hoàng. Ấn Độ Giáo là một lực
lượng như vậy. Một trong những tôn giáo cổ nhất trên thế giới — một số
người nói tôn giáo cổ nhất — Ấn Độ Giáo đã có hàng thế kỷ giúp đỡ người
dân trả lời những câu hỏi sâu xa nhất của họ.
Tôi thực ra là gì? Trong cái ngã bên trong của bạn, người Ấn Độ Giáo trả lời,
bạn là một phần của Thượng Đế.
Đời tôi là gì? Người Ấn Độ Giáo trả lời đó là sự truy tìm cho đến khi tìm ra
Thượng Đế trong chính bạn.
Làm sao tôi có thể có hạnh phúc? Chỉ khi bạn trở nên hiểu biết Thượng Đế,
người Ấn Độ Giáo trả lời.
Làm sao tôi có thể biết được Thượng Đế? “Ai biết được chính mình sẽ biết
Thượng Đế”
Cách thờ phượng nào là tốt nhất? Người Ấn Độ Giáo đã nói: Trâu bò có nhiều
mầu sắc, nhưng tất cả sữa của chúng giống nhau… hệ thống tín ngưỡng khác
nhau, nhưng Thượng Đế chỉ là một.”

*Câu hỏi

1 Đâu là quốc giáo ở ấn độ ?


A . Phật giáo B. Hồi giáo C. Ấn giáo D. Hỏa giáo
2 Vị thần nào nằm trong hệ thống văn hóa Ấn Độ giáo ?
A . Vishnu B. Gautama C . Abraham D . Avestan
3 Tôn giáo bất diệt là chỉ tôn giáo nào sau đây ?
A . Phật giáo B. Hồi giáo C. Ấn giáo D. Hỏa giáo
4 Điền vào dấu 3 chấm
… với quyền hạn tuyệt đối về tư tưởng, tôn giáo, lễ nghi và luật lệ. Kế
tiếp là đẳng cấp … với vai trò cai trị xã hội qua lãnh vực chính trị và
quân sự.
A Sát Đế Lợi – Vệ Xá
B Vệ Xá – Thủ Đà La
C Bà La Môn – Thủ Đà La
D Bà La Môn – Sát Đế Lợi
5 Bộ luật nghiêm khắc và có rất nhiều điểm cực đoan được tạo ra để
củng cố cũng như bảo vệ quyền lực của hệ thống giai cấp trên người
Aryan. Tên bộ luật đó là gì ?
A . Manu B . Menu C . Monu D. Minu

You might also like