Professional Documents
Culture Documents
Nhung Yeu To Can Thiet Cho Viec Hanh Thien
Nhung Yeu To Can Thiet Cho Viec Hanh Thien
ên Nhữngki ế
nt hứcđượct ì
mt hấy
nhữngbà iPhápthoạicủaSayadaw trong Ki nh Ti nh Cầ n Chi
U Kuma rābhi
vaṃsa v ề Ki nh
NhữngYếuTốCầnThi
ết
(Padhāniyaṅga Sutt
a)v à Kinh
Padhā niya
ṅg av à Kinh Me ghiy
a “Nà
ycá
cTỳ
-khưu,c
ónămyếutốhỗtr
ợviệ
chà nhthi
ền. Me ghiya(Me ghi
yaSutt
a)cóliên
được t huyếtgiảng ởTr ung tâm hệmậ tthi
ếtđế nviệ
cthựchà nh
thi
ền Pa -
Auk Ta wya Ta t
-Oo Thếnà
olànăm?Saddha(ni
ềmt i
n),
..
.”
ChoViệ
cHà nhThi
ền
thiền.
NhữngYếuTốCầnThi
Dha mmaYe i
khthar( mở r ộng),
PyinOoLwi n, Myanma rcũngnhư Padhāni
yaṅgaSut
ta
ởnhữngnướck hácnhưSing a
pore, Tôihyv ọngcuốns áchnhỏnàycó
Thá iLa nvàViệtNa m. thểhỗt r
ợhà nh giảthành c
ông
trongthiề
n,t
rả inghiệ
ms ựanlạc
,
Chúngt
s
ắ c nhấ
ôix
inbà
t đế
yt
ỏlòngt
n Saya
r
i
da
âns
w U
â
u Pa
dhā
niy
aṅg
aSut
ta hạ nhphúcvàgi ảit
hoát.
Kuma r
ā bhi
vaṃsav
ềnhữnglờidạy & VìtôikhônghàilòngvớibàiPháp
c
c
ủaNg
húngt
àicũngnhưđãc
ôibiênt
ậpt
hànhs
hophé
ách.
p
Me
ghi
yaSut
ta thoạicủamìnhvềha ic
hủđềt rên,
tôiđãkhôngc óýđị nhlàmc uốn
ếtChoVi
Mộts ốc âuc huyệnv àphầ ndị c
h sách này.Tuyvậy,thểtheoy êu
Pāḷi
-Ti ếngAnh t ừ nhiề u nguồn cầuc ủa mộts ố đệtử,tôic ho
khác nha u được li
ệtk ê ở phầ n phéphọghic héplạivàbiê
ns oạn
thamk hảong uồntríchdẫ n.Trong thànhsách.
ệcHànhThi
những Phá p thoạic ủa mì nh,
Saya daw U Kumā r
ābhivaṃs a Cầumongc hotấ
tc ảđộcgiảvà
cũngđãc ungc ấpnhữngt àiliệ
u hànhgiảc óthểápdụngnhững
thuộcv ềChúgi ải
.Chúngt ôicó Pháp ởtrongsách đểgiácngộ
điềuc hỉnhmộts ốđiểm nhỏv ềmặ t Níp-
bàns ớm nhấtc óthể.Cầu
ngônng ữx uyênsuốtc uốns áchđể
mongc hotấtcảchúngsinhđều
ền
độcgi ảc óthểhiểumộtc áchdễ
dànghơn.Chúngt ôix inc ám ơn đượchạnhphúc!
tấtcảnhữnga iđãgi úphi ệuđính
ĐạiĐứcKumār
vàc hol ờikhuyên,tấtcảt híchủv à Sā
dhu!Sā
dhu!Sā
dhu!
nhữngquýv ịt
ham giav àov i
ệclàm
sách,phâ n phốisách.Chúngt ôi
cũngx i
nđượct hứl ỗic hobấ tk ỳ “Ở đây
,nà yMe ghi
ya,vịTỳ-khưu cóthiện bằnghữu, U Kumārābhi
vaṃsa
saisótnà o. Pa
-AukTa
wya(Py
inOoLwin)
thi
ệngi
a okết,
thi
ệnbạnlữ.Khitâm gi
ảithoátchưađược
Mongr ằngc uốn sách nà ysẽlà viê
n mã n,thờiđâyl à phá
p đầ ut i
ên đưa đế ns ự
cảm hứngc honhữnga ichưatừng viê
nmã n..
.”
ābhi
hànhthiền.Mongr ằngc uốnsách
nàyhỗt rợthiềns i
nhv ượtquat ấ
t
vaṃs
cảkhók hănt rongv i
ệct hựchành Meghi
yaSut
ta ĐạiĐứcKumārābhi
vaṃs a
thi
ền.Mongr ằngtấtcảđề ucóthể Cẩndị
ch:
Bhi
kkhuTikkhañāṇa
a
thực hành Phá p để gi ác ngộ
Sá
chẤnTốn
g-Kh
ôngMu
aBá
n
Níp-bàn ng a
yt r
ong c hính ki
ếp
sốnghiệntạinà y
.
Sā
dhu!Sā
dhu!Sā
dhu! NhàXuấtBảnHồ
ngĐức
NHỮNG YẾU TỐ CẦN THIẾT
Kinh Padhāniyaṅga
và
Kinh Meghiya
Kinh Padhāniyaṅga
và
Kinh Meghiya
U Kumārābhivaṃsa
Pa-Auk Tawya (Pyin Oo Lwin)
i
Ghi chú của Ban Biên tập
Cuốn sách này được dựa trên những bài Pháp thoại
của Sayadaw U Kumārābhivaṃsa về Kinh
Padhāniyaṅga và Kinh Meghiya được thuyết giảng
ở Trung tâm thiền Pa-Auk Tawya Tat-Oo Dhamma
Yeikhthar (mở rộng), Pyin Oo Lwin, Myanmar
cũng như ở những nước khác như Singapore,
Thái Lan và Việt Nam.
Chúng tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc nhất đến
Sayadaw U Kumārābhivaṃsa về những lời dạy của
Ngài cũng như đã cho phép chúng tôi biên tập
thành sách.
Một số câu chuyện và phần dịch Pāḷi-Tiếng Anh
từ nhiều nguồn khác nhau được liệt kê ở phần
tham khảo nguồn trích dẫn. Trong những
Pháp thoại của mình, Sayadaw U Kumārābhivaṃsa
cũng đã cung cấp những tài liệu thuộc về Chú giải.
Chúng tôi có điều chỉnh một số điểm nhỏ về mặt
ngôn ngữ xuyên suốt cuốn sách để độc giả có thể
hiểu một cách dễ dàng hơn. Chúng tôi xin cám ơn
tất cả những ai đã giúp hiệu đính và cho lời khuyên,
tất cả thí chủ và những quý vị tham gia vào việc
làm sách, phân phối sách. Chúng tôi cũng xin được
thứ lỗi cho bất kỳ sai sót nào.
Mong rằng cuốn sách này sẽ là cảm hứng cho
những ai chưa từng hành thiền. Mong rằng
cuốn sách này hỗ trợ thiền sinh vượt qua tất cả
ii
khó khăn trong việc thực hành thiền. Mong rằng tất
cả đều có thể thực hành Pháp để giác ngộ Níp-bàn
ngay trong chính kiếp sống hiện tại này.
Sādhu! Sādhu! Sādhu!
iii
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
Tam học
Trước khi nói về năm yếu tố cần thiết đối với việc
hành thiền (Padhāniyaṅga), quý vị có biết lời dạy
của Đức Phật bao gồm những gì không? Nếu chúng
ta tóm tắt, thì Lời dạy của Đức Phật bao gồm Tam
học: Giới học (Sīla Sikkhā), Định học (Samādhi
Sikkhā) và Tuệ học (Paññā Sikkhā). Ở đây, tôi sẽ
giải thích vắn tắt.
Giới học – Sīla Sikkhā
Sīla hay Giới, là sự thực hành đầu tiên trong lời dạy
của Đức Phật. Người giữ giới thanh tịnh sẽ được mọi
người biết đến là người tốt, còn những ai thường
xuyên phá giới sẽ không có danh tiếng tốt trong
xã hội.
Rất nhiều vấn đề trong thế giới hiện đại phát sinh bởi
vì con người không giữ giới. Người ta giết hại lẫn
nhau, trộm cắp tài sản của người khác, thực hành tà
hạnh, nói dối, uống rượu, v.v… Nếu con người gìn
giữ và bảo vệ những học giới, thì chiến tranh và
những sự mâu thuẫn trên thế gian này sẽ đi đến hồi
kết thúc. Giới (Sīla) rất quan trọng trong việc tạo
nên hoà bình thế giới. Nếu cứ chiến tranh, giết chóc
liên hồi để đạt được danh lợi thế gian, thế giới này sẽ
không bao giờ yên bình, xã hội vẫn mãi đau thương
và loài người vẫn cứ sống trong lo lắng, sợ hãi. Nếu
ai cũng giữ giới tốt, thế giới này sẽ trở thành một nơi
yên bình, hạnh phúc hơn rất nhiều.
1
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
Đức Phật giải thích năm điều lợi ích cho những ai có
giới thanh tịnh1:
(1) Được nhiều của cải, tài sản (mahantaṃ
bhogakkhandhaṃ adhigacchati),
(2) Được danh thơm tiếng tốt (kalyāṇo
kittisaddo abbhuggacchati),
(3) Tự tin tiếp xúc với bất kỳ tầng lớp xã hội hay
hội chúng nào, dù đó là các Bậc Thánh, các
vị Bà-la-môn, gia chủ hay người xuất gia
(yaññadeva parisaṃ upasaṅkamati),
(4) Chết với tâm thanh thản (asammūḷho
kālaṅkaroti),
(5) Sau khi thân hoại, mạng chung được sinh về
nhàn cảnh, cõi trời (kāyassa bhedā paraṃ
maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati).
Cuộc sống vốn vô thường. Khi vừa bắt đầu cuộc đời
này, chúng ta cần phải chấp nhận rằng cái chết sẽ
đến một ngày nào đó. Nếu không chứng đắc thành
bậc A-la-hán trong kiếp này, ta sẽ tiếp tục tiến trình
tái sinh sau khi chết. Không giống như những người
đã chứng đắc trở thành các Bậc Thánh vốn có thể
chọn lựa cảnh giới tái sinh cho những kiếp sống còn
lại của mình, sự tái sinh của người phàm phu là bất
định. Đó có thể là các cõi khổ, cõi người hay các cõi
trời dục giới. Nhưng nếu có thể giữ gìn và trông nom
1
Dīgha Nikāya, Mahāvagga, Mahāparinibbānasuttaṃ,
‘Sīlavanttānisaṃsā- Suttaṃ’ (Kinh lợi ích của việc giữ giới).
2
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
giới hạnh của mình thanh tịnh cho đến khi chết, họ
sẽ không phải lo lắng về cảnh giới tái sinh tiếp theo.
Họ sẽ được sinh vào nơi nhàn cảnh.
Nếu quý vị có thể giữ giới thanh tịnh, sẽ có nhiều nơi
cho quý vị sống. Chẳng hạn, nếu không có nhiều tiền
của, quý vị có thể đến Trung tâm Thiền Pa-Auk của
chúng tôi để thực hành Pháp. Chúng tôi có thể chăm
sóc và hỗ trợ quý vị thực hành thiền. Chúng tôi có
nhiều thí chủ hảo tâm sẵn sàng giúp đỡ những người
giữ giới tốt. Họ sẽ hộ độ sự thực hành giới thanh tịnh
và sự thực hành thiền của quý vị.
Bất luận có phải là Phật tử hay không, nếu quý vị
phá giới, sát sinh, trộm cắp, v.v…, nếu đã gieo những
hạt giống của bất thiện nghiệp, thì sẽ nhận lấy quả
khổ đau. Nếu quý vị có giới thanh tịnh, nếu đã gieo
hạt giống của thiện nghiệp thì chắc chắn sẽ trải
nghiệm kết quả tốt đẹp, an vui. Sự hiểu biết về những
điều lợi ích trong việc giữ giới cho quý vị thêm động
lực và sự tinh tấn để vun bồi sự thực hành này. Điều
đó đưa đến lợi lạc không chỉ trong kiếp sống này mà
còn trong những kiếp sống tương lai.
Mặc dù giữ giới thanh tịnh, quý vị vẫn sẽ thấy rằng
thật khó để giữ tâm mình luôn ở trạng thái hiền thiện,
tích cực. Tâm vẫn cứ dính mắc với sự tham lam
(lobha), sân hận (dosa) và si mê (moha). Với những
phiền não này, tâm không thể đạt đến sự an lạc, hạnh
phúc. Vì vậy, để tâm được thanh tịnh, an lạc và hạnh
phúc, quý vị cần phải tu tập bước thứ hai trong lời
dạy của Đức Phật – Định học (Samādhi Sikkhā).
3
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
2
Xem Phụ lục 1: “Bốn mươi đề mục thiền Định”, trang 109.
4
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
5
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
1. Citta (tâm)
2. Cetasika (tâm sở hay các yếu tố tâm lý)
3. Rūpa (sắc hay vật chất)
4. Nibbāna (sự vắng mặt của danh, sắc và
sự khổ; là hạnh phúc, an lạc tối hậu)
Citta (Tâm) và Cetasika (Tâm sở) là những thực tại
cùng tột của danh (nāma). Kế tiếp, chúng ta có
thực tại cùng tột của sắc (rūpa) và Níp-bàn
(Nibbāna3). Nếu không phát triển định tâm thâm
sâu, một người chỉ có thể thấy được những sự thật
chế định, như là vị tỳ-khưu, cô tu nữ, đàn ông, đàn
bà, chàng trai, cô gái, v.v… Theo sự thật cùng tột
(chân đế), không có những thứ như con vật, con
người, chư thiên, Phạm thiên hay đại loại như thế mà
chỉ có những danh và sắc cùng tột mà thôi. Nếu
không có định tâm, người ta chỉ biết đến những khái
niệm và thấy những nguyên khối. Nếu muốn thấy
danh – sắc cùng tột, quý vị nên thực hành một đề
mục thiền Định để phát triển định tâm. Dựa trên
tâm định này, hành giả tiến tu để thực hành thiền Tứ
Đại.
Vậy tứ đại là gì? Chúng là đất, nước, lửa và gió.
Khi hành giả phân tích bốn nguyên tố này một cách
rõ ràng trên toàn thân từ đầu đến chân, từ chân đến
đầu, lặp đi lặp lại, họ sẽ kinh nghiệm toàn thân của
3
Nibbāna = asaṅkhata dhātu (trạng thái không bị điều kiện hoá
hoặc tạo tác hay là yếu tố an lạc – vô vi giới).
6
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
4
Xin gặp những vị thầy có năng lực để thực hành theo hệ thống.
5
Xem Phụ lục 2: “Hai mươi tám loại Sắc”, trang 112.
7
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
Rồi sau khi có thể phân tích được danh – sắc (nāma-
rūpa), hành giả phải phân tích những nguyên nhân
của chúng, vốn là sự phân tích Lý Duyên Khởi
(Paṭicca- Samuppāda). Lý Duyên Khởi là cách mà
các nhân và quả vận hành qua ba thời quá khứ, hiện
tại và vị lai. Đức Phật dạy bốn phương pháp để phân
tích Lý Duyên Khởi tuỳ theo tính cách của người
nghe, đồng thời còn có phương pháp thứ năm được
Đại Đức Sāriputta giảng dạy.
Tại các thiền viện Pa-Auk, chúng tôi thường chỉ dạy
hai phương pháp: Phương pháp thứ nhất và
Phương pháp thứ năm. Phương Pháp thứ nhất được
lưu lại, chẳng hạn như trong Kinh Đại Duyên
(Mahānidāna-Suttaṃ) thuộc Trường bộ Kinh
(Dīgha-Nikāya) và Phẩm Duyên (Nidāna-Vagga)
thuộc Tương Ưng bộ Kinh (Saṃyutta-Nikāya).
Phương pháp thứ năm được lưu lại trong Phân tích
Đạo (Paṭisambhidā-Magga), phần Giải thích về Trí
về sự hiện diện của các Pháp (Dhamma-Ṭṭhiti-
Ñāṇa-Niddeso).
Chỉ sau khi có thể phân tích danh – sắc và các nhân
của chúng, quý vị mới có thể thấy được bản chất của
chúng. Bản chất của chúng là gì? Chúng luôn luôn
sinh lên và diệt đi theo tốc độ vô cùng nhanh chóng.
Ở giai đoạn chân đế (paramattha) này, quý vị có thể
bắt đầu thẩm sát danh – sắc và các nhân của chúng
là vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã
(anatta).
8
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
6
Xem Phụ lục 3: “Mười sáu Tuệ Minh Sát (Vipassanā Ñāṇa)”,
trang 115.
9
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
10
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
11
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
12
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
13
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
14
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
Việc hành thiền đòi hỏi một thể trạng sức khỏe tổng
quát tốt. Lý tưởng là một người không bị tật bệnh,
thân không bị đau nhức, tiêu hoá tốt, không quá
lạnh, không quá nóng, sự tiêu hoá được phù hợp.
Những điều này cung cấp những điều kiện thuận lợi
cho việc hành thiền. Ngày nay, một số người cố gắng
cải thiện sức khỏe của họ bằng cách ăn chế độ ăn
lành mạnh và sử dụng các phương pháp thải độc
tự nhiên.
3. Asaṭha (Chân thật)
“Asaṭho hoti amāyāvī.”
“Vị ấy chân thật và chân thành.”
Hành giả phải chân thật và chân thành trình bày
đúng sự thật về bản thân họ đối với các vị thầy hoặc
các bạn đồng tu trong cuộc đời phạm hạnh.
4. Vīriya (Tinh tấn)
“Āraddhavīriyo viharati.”
“Vị ấy sống vô cùng tinh tấn.”
Hành giả nên lập đại tinh tấn để loại bỏ những điều
bất thiện và để đạt đến những phẩm chất thiện lành.
Hành giả nên ra sức tinh tấn mãnh liệt để hoàn thiện
các ba-la-mật (pāramī) và không bao giờ ngưng nghỉ
việc tạo tác các thiện Pháp. Điều này có nghĩa là quý
vị phải có năng lượng mạnh mẽ hay phải tạo nên sự
tinh tấn mãnh liệt. Nhưng sự tinh tấn ở đây đặc biệt
lên hệ đến sự tinh tấn trong thiền tập. Hành giả nên
hành thiền với sự tinh tấn mãnh liệt đó và không
15
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
7
Majjhima Nikāya, Majjhimapaṇṇāsa, Rājavagga, Kinh Vương tử
Bồ-đề (Bodhi-Rāja-Kumāra-Suttaṃ).
16
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
8
Bát Chánh Đạo bao gồm: Chánh Kiến, Chánh Tư duy, Chánh
Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm,
Chánh Định.
9
Angkusha hay cái móc nhọn để móc bò.
17
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
Đức Phật lại hỏi Vương tử: Này vương tử, giả như
có người biết rằng vương tử thiện xảo trong kỹ thuật
cưỡi voi và dùng câu móc. Vị ấy đến học kỹ thuật
cưỡi voi và dùng câu móc từ vương tử với những
khiếm khuyết sau:
1. Thiếu niềm tin: Vị ấy không có đủ niềm tin để
đạt đến một tiêu chuẩn hay mục tiêu
mong muốn.
2. Tật bệnh: Vị ấy chịu những bệnh tật đủ để
ngăn cản vị ấy đạt được mục tiêu mong muốn.
3. Dối trá: Vị ấy dối trá, khoe khoang rỗng tuếch,
những điều vốn ngăn cản vị ấy đạt được mục
tiêu mong muốn.
4. Thiếu tinh tấn: Vị ấy thiếu sự tinh tấn đúng
mức để đạt được mục tiêu mong muốn.
5. Thiếu trí tuệ: Vị ấy không đủ thông minh để
đạt được mục tiêu mong muốn.
Liệu rằng người ấy có thể học được kỹ thuật cưỡi voi
và điều khiển móc nhọn từ vương tử chăng?
Vương tử trả lời:
- Kính bạch Đức Thế Tôn! Không thể nào huấn
luyện một người có bất kỳ một khiếm khuyết nào
trong năm khiếm khuyết trên để đạt được mục tiêu
mong muốn, đừng nói đến việc huấn luyện một
người mà có cả năm điều khiếm khuyết như vậy.
Đức Phật lại hỏi: Vương tử thử nghĩ xem, nếu có
người đến học kỹ thuật cưỡi voi và điều khiển móc
nhọn mà có được những phẩm chất sau:
18
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
19
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
20
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
10
Majjhima Nikāya, Majjhimapaṇṇāsa, Rājavagga, Kinh Vương tử
Bồ-đề, bản dịch của HT Thích Minh Châu – ND.
21
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
22
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
11
Vô lượng kiếp.
12
Độ dài của một đại kiếp (kappa) không thể được tính toán bằng
số năm, chỉ có thể biết bằng sự suy luận. Giả sử có một cái kho lớn,
mỗi chiều dài, rộng, cao đều dài một do tuần (yojana) [xem cước
chú 21] chứa đầy hạt cải. Một hạt cải được vứt đi khi có một thế kỷ
trôi qua. Khi tất cả số hạt cải đều được vứt đi, thì thời gian được gọi
là một đại kiếp vẫn chưa kết thúc.
13
Mười ba-la-mật (pāramī) là: Bố thí (dāna), Trì giới (sīla), Xuất
gia (nekkhamma), Trí tuệ (paññā), Tinh tấn (vīriya), Nhẫn nại
(khanti), Chân thật (sacca), Quyết định (adhiṭṭhāna), Tâm từ
(mettā), và Tâm xả (upekkhā).
23
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
24
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
25
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
14
Kinh Suppabuddha Sutta; cũng được kể trong Kinh Pháp cú
(Dhammapada, Bālavagga, Udana, Soṇavagga, Câu chuyện về
người cùi Suppabuddha (Suppabuddha-Kuṭṭhi-Suttaṃ))
26
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
15
Từ “alaṃ” có nghĩa là “đủ” nhưng trong trường hợp này, để rõ
nghĩa, xin được dịch theo từ “enough of” trong bản gốc, có nghĩa là
“chán ngán” – ND.
27
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
“Saddhādhanaṃ sīladhanaṃ,
hirī ottappiyaṃ dhanaṃ;
Sutadhanañca cāgo ca,
paññā ve sattamaṃ dhanaṃ.”
“Yassa ete dhanā atthi, itthiyā purisassa vā;
‘Adaliddo’ti taṃ āhu, amoghaṃ tassa jīvita’nti.
Tassimāni me satta ariyadhanāni santi. Yesañhi
imāni dhanāni santi, na tveva te buddhehi vā
paccekabuddhehi vā ‘daliddā’ti vuccantī.”
“Trái lại tôi đã có,
Hạnh phúc, tài sản lớn:
Bảy tài sản Thánh nhân16.
Những ai có như vậy,
Không bị gọi là nghèo,
Theo lời Phật Toàn Giác,
Theo lời Phật Độc Giác.”
Khi Đế-thích nghe nói như vậy, ông ta đi đến Đức
Phật và trình lên Ngài cuộc đối đáp. Đức Phật nói
với ông ta: “Này Đế-thích, không thể có sự tình này.
Dù có trăm thỏi vàng, dù có ngàn thỏi vàng cũng
16
Bảy tài sản của Thánh nhân là:
1. Niềm tin nơi Tam Bảo (saddhā),
2. Giới (sīla),
3. Sự hổ thẹn làm điều bất thiện (hirī),
4. Sự ghê sợ làm điều bất thiện (ottappa),
5. Nghe nhiều hoặc đa văn (bāhusacca),
6. Hào phóng (cāga),
7. Trí tuệ (paññā).
28
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
29
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
17
Majjhima Nikāya, Mūlapaṇṇāsa Aṭṭhakathā, Cūḷayamakavagga
và Aṅguttara Nikāya, Ekakanipāta Aṭṭhakathā, Etadaggavagga
‘Sūrambaṭṭhavatthu’ (Chú giải câu chuyện về Sūrambaṭṭha).
30
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
18
Năm loại māra:
1. Thiên ma thách thức Đức Phật đòi bồ đoàn trí tuệ dưới cội
Bồ-đề bằng cách bao vây Ngài với đội quân hùng mạnh
(devaputta-māra);
2. Phiền não của tâm (kilesa-māra);
3. Những hành vi có cố ý đưa đến sự tái sinh
(abhisankhāra-māra);
4. Các uẩn thuộc danh (nāma) và sắc (rūpa) vốn hiện hữu hoá
mọi kiếp sống trước khi giác ngộ Níp-bàn (khandha-māra);
5. Cái chết (maccu-māra).
31
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
giống như của Đức Phật. Trong hình tướng này, ông
ta đứng trước cửa của người gia chủ Sūrambaṭṭha.
Sūrambaṭṭha tự hỏi tại sao Đức Phật đến thăm lần
thứ hai nhanh như vậy. Khi được gia nhân thông
báo, chàng trả lời: “Đức Phật không bao giờ đến mà
không có lý do chính đáng,” rồi chàng đi đến vị Phật
giả mạo này, tin rằng đó chính là Đức Phật thật. Sau
khi đảnh lễ vị Phật giả mạo, chàng đứng ở nơi
thích hợp rồi hỏi:
- Kính bạch Đức Thế Tôn! Thế Tôn vừa mới rời
khỏi nhà con sau bữa ăn. Vì mục đích gì Thế Tôn
lại quay trở lại?
Vị Phật giả mạo (Māra) nói:
“yaṃ te mayā, sūrambaṭṭha, rūpaṃ aniccaṃ,
vedanā aniccaṃ, saññā aniccaṃ, saṅkhāra aniccaṃ,
viññāṇaṃ aniccanti kathitaṃ, taṃ
anupadhāretvāva sahasā mayā evaṃ vuttaṃ. Tasmā
tvaṃ rūpaṃ niccaṃ, vedanā niccaṃ, saññā niccaṃ,
saṅkhāra niccaṃ, viññāṇaṃ niccanti gaṇhāhī.”
“Này Sūrambaṭṭha, ta đã không chánh niệm mà
thuyết Pháp sai lạc cho ông. Ta đã nói rằng sắc, thọ,
tưởng, hành, thức là vô thường. Nhưng giờ ông nên
ghi nhớ rằng sắc, thọ, tưởng, hành, thức là
thường hằng.”
Người gia chủ Sūrambaṭṭha, một vị Thánh Nhập
Lưu trở nên bực mình bởi lời nói đó. Chàng suy xét:
“Những câu nói này chính là lời phỉ báng thậm tệ
32
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
33
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
34
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
35
Câu chuyện về Đại đức Mahākappina
Mahākappina19 là vua của xứ Kukkutavati. Ông có
hoàng hậu tên là Anojā và một ngàn đại thần giúp
việc quản lý đất nước. Đức vua và hoàng hậu luôn
cố gắng tìm kiếm những tin tức về Phật, Pháp, Tăng.
Một ngày nọ, ông cùng những cận thần đi vào
công viên. Ở đó, họ gặp những thương buôn từ Xá
Vệ, liền hỏi:
“Atthi pana vo padese kiñci sāsanaṃ uppanna?”
“Có tin tức gì từ nơi các ông ra đi không?”
“Deva, aññaṃ kiñci natthi, sammāsambuddho
pana uppanno.”
“Thưa Chủ công, không có tin gì ngoài việc Đức
Phật Chánh Đẳng Chánh Giác(Sammāsambuddha)
đã xuất hiện trên thế gian.”
Khi vừa nghe đến chữ “Phật” (Buddha), đức tin
mạnh mẽ đã khởi sinh trong tâm trí đức vua,
mạnh đến mức ông trở nên gần như ngất đi.
Nhà vua hỏi lại:
“Tātā, kiṃ vadethā?”
“Các ông nói gì?”
19
Khuddaka Nikāya, Dhammapada Aṭṭhakathā, Paṇḍita Vagga,
‘Mahākappinattheravatthu’ (Chú giải Kệ số 79, về đức vua
Mahākappina).
36
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
Họ lặp lại:
“Buddho, deva, uppanno.”
“Thưa Chủ công, Đức Phật đã xuất hiện trên
thế gian.”
Một lần nữa, đức vua tràn ngập đức tin mãnh liệt.
Ông hỏi những thương buôn ba lần cùng một câu
hỏi. Sau đó nhà vua lệnh cho các cận thần cho những
người đó 100 ngàn đồng tiền vàng.
Rồi nhà vua lại hỏi:
“Aññampi kiñci sāsanaṃ atthī”
“Các ông có tin tức gì khác không?”
“Atthi, deva, dhammo uppanno.”
“Có, thưa Chủ công, Pháp đã xuất hiện trên
thế gian.”
Ngay khi nghe được chữ “Pháp” (Dhamma), đức
tin vô cùng mãnh liệt sinh khởi trong tâm ông và mọi
việc cũng xảy ra như lần trước. Đức vua hỏi những
người thương buôn ba lần và ban cho họ 100 ngàn
đồng tiền vàng.
Đức vua lại hỏi:
“Aparampi sāsanaṃ atthi, tātā?”
“Các ông còn có tin tức gì khác không?”
“Atthi, deva, saṅgharatanaṃ uppannaṃ.”
37
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
38
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
20
Gāvuta = Đơn vị đo độ dài, ít hơn hai dặm một chút.
39
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
21
Yojana = Đơn vị đo độ dài. Có chỗ dịch là khoảng bảy dặm, có
chỗ dịch là khoảng mười dặm, hoặc 12.527 dặm.
40
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
41
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
42
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
43
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
23
Có năm loại hỷ (pīti - sự thích thú), đó là:
1. Hỷ chút ít/ tiểu hỷ: lâng lâng sảng khoái, có khi nổi da gà
(khuddakā-pīti),
2. Hỷ trong khoảnh khắc/ Sát-na hỷ: đến chớp nhoáng, mạnh
mẽ hơn tiểu hỷ (khanikā-pīti),
3. Hỷ như ngập lụt/ Hải triều hỷ: thân nhẹ nhàng như có sóng
biển vỗ nhẹ vào từng chập (okkantika-pīti),
4. Hỷ tràn ngập khiến cho rúng động/ thượng thăng hỷ: thân
nhẹ như bông, như bay bổng lên (ubbegā-pīti) và
5. Sung mãn hỷ: thân tâm mát dịu, thấm nhuần toàn thân như
nước tràn đầy/ Hỷ được phát triển hoàn toàn, sâu sắc tràn
ngập toàn bộ thân, tâm (pharanā-pīti).
44
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
45
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
46
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
47
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
48
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
24
Điểm khác biệt thực tiễn duy nhất giữa từ “faith” (niềm tin) trong
tiếng Anh và từ “saddhā” trong tiếng Pāḷi là “faith” có thể đề cập
đến niềm tin ở các tôn giáo vốn dựa trên những quan kiến sai lầm
(tà kiến), trong khi đó “saddhā” ám chỉ duy nhất niềm tin ở tôn giáo
dựa trên quan kiến của Đức Phật Toàn Giác. Đối tượng của niềm
tin như vậy có tám: Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng), Tam học, những
kiếp sống quá khứ, những kiếp sống vị lai, những kiếp sống quá khứ
và vị lai, và Lý duyên khởi.
49
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
50
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
25
Saṃyutta Nikāya, Sagāthāvagga, Mārasaṃyutta,
‘Godhikasuttaṃ’ (Kinh Godhika Sutta), cũng có thể thấy trong
Khuddhaka Nikāya, Dhammapada Aṭṭhakathā,
‘Godhikattheraparinibbānavatthu’ (Chú giải Kệ số 57, về Đại đức
Godhika).
51
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
26
Đức Phật tuyên bố rằng tự vẫn là điều đáng chê trách. Sau biến
cố của năm trăm tỳ-khưu (Vinayapiṭaka, Tatiya-Pārājikaṃ), Đức
Phật tuyên bố đó là điều không phải (ananucchavikaṃ), không hợp
lẽ (ananulomika), không thích hợp (appaṭirūpaṃ), không phải việc
làm của sa môn (assāmaṇakaṃ), không được phép (akappiyaṃ),
không nên làm (akaraṇīyaṃ).
52
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
27
Samasīsī = Người mà sự diệt tận các lậu hoặc (āsava) và sự kết
thúc mạng căn xảy ra đồng thời. Có ba loại:
1. Iriyapatha samasīsī (Chứng Bát-Níp-bàn parinibbāna với
một oai nghi cụ thể khi đang lập nguyện và chìm trong Quả
chứng/ Phala-samāpatti);
2. Roga samasīsī (Chứng parinibbāna khi đang chìm trong
Quả chứng/ Phala-samāpatti sau khi bệnh đã được chữa
khỏi);
3. Jīvita samasīsī (Chứng parinibbāna khi sự chấm dứt mạng
căn và Arahatta-Magga xảy ra đồng thời).
53
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
54
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
chống lại Māra. Quý vị có thể thất trận chỗ này chỗ
kia, nhưng điều quan trọng là tiếp tục cố gắng và
thực hành.
Quý vị có thể biết rằng có hai cách thực hành sai lầm,
cách đầu tiên là tự hành hạ hay khắc khổ thái quá,
cách thứ hai là hưởng thụ hay phóng túng trong
dục lạc. Tôi nghĩ hai cách này chính là ý muốn của
Māra nhằm ngăn cản mọi người giác ngộ Níp-bàn.
Nếu quý vị tuân theo ý muốn của Māra, việc
giác ngộ Níp-bàn là không thể nào. Để giác ngộ
Níp-bàn, quý vị nên tránh hưởng thụ dục lạc.
Đây là bản chất của Māra. Māra không muốn người
ta giác ngộ Níp-bàn. Māra sẽ ngăn cản điều này
bằng nhiều hình thức cám dỗ. Nếu quý vị thấy rằng
tâm mình đang chạy theo hai hình thức tu tập
sai lầm này, có nghĩa là Māra đang phá rối quý vị.
Hành giả phải cẩn trọng và không tuân theo ý muốn
của Māra. Đối với những bậc Thánh nhân, họ có thể
dễ dàng xua đuổi Māra như Sūrambaṭṭha đã từng
làm. Chỉ cần ông búng ngón tay, Māra đã chạy mất.
Nếu quý vị muốn chế ngự Māra, quý vị nên cố gắng
giác ngộ Níp-bàn. Khi quý vị lấy Níp-bàn làm
đối tượng an trú của mình, quý vị đang chế ngự
được Māra.
Đã hiểu được tầm quan trọng của một sức khỏe tốt,
tôi sẽ giới thiệu yếu tố Chân thật đối với việc tu tập.
55
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
56
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
57
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
28
Majjhima Nikāya, Mūlapaṇṇāsa Aṭṭhakathā, Opammavagga,
Pāsarāsisuttavaṇṇana (thuộc Chú giải Kinh Pāsarāsisuttavaṇṇana,
giải thích về Uruvela).
58
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
59
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
60
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
Ông làm như vậy lặp đi lặp lại cho đến khi phiền não
không còn dám xuất hiện trong tâm ông. Quý vị có
thể làm như vậy không? Xin đừng làm vậy trong
thiền đường này vì tiếng hét sẽ quấy rầy người khác
và không ai có thể hành thiền được cả. Nếu muốn
làm như vậy, quý vị có thể tự làm. Nếu không muốn
người khác biết, thì hét một mình ở kuṭi thôi.
Bây giờ, chúng ta hãy xem xét yếu tố tinh tấn
(vīriya).
4. Vīriya (Tinh tấn)
“Āraddhavīriyo viharati akusalānaṃ dhammānaṃ
pahānāya kusalānaṃ dhammānaṃ upasampadāya,
thāmavā daḷhaparakkamo anikkhittadhuro kusalesu
dhammesu.”
“Vị ấy có đại tinh tấn đối với việc loại trừ những
phẩm chất bất thiện và để đạt đến những phẩm chất
thiện lành; vị ấy mạnh mẽ, vững vàng tinh tấn, không
bỏ rơi nghĩa vụ vun bồi các phẩm chất thiện lành.”
Để chăm chút cho việc thiền tập, hành giả cần phải
cố gắng vun bồi chỉ những trạng thái thiện lành và
từ bỏ bất cứ điều gì khác khiến tâm tích tụ những
trạng thái bất thiện. Đây là điều cần thiết bởi vì tâm
thường đi kèm với phiền não. Để có thể làm được
điều này hành giả cần sự nỗ lực hay tinh tấn
mãnh liệt. Hành giả thực hành với ý định trau dồi
cả mười ba-la-mật để giác ngộ Níp-bàn. Níp-bàn
không thể được giác ngộ nếu không trau dồi đầy đủ
61
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
62
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
29
Dīgha Nikāya, Mahāvagga-Aṭṭhakathā,
Sakkapañhasuttavaṇṇanā, ‘Mahāsīvattheravatthu’ (Câu chuyện về
Đại đức Mahāsīva).
63
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
64
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
65
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
30
Lời thỉnh cầu thanh tịnh từ các bậc A-la-hán.
66
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
67
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
68
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
69
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
31
Saṃyutta Nikāya, Sagāthāvagga, Devatāsaṃyutta, Ādittavagga,
‘Accharāsuttavaṇṇanā’ (Chú giải Kinh Accharā).
70
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
bào thai của người mẹ, không cần phải lớn lên trong
bụng mẹ chín tháng. Ngài nghĩ mình vẫn là một vị
tỳ-khưu đang hành thiền. Dung mạo Ngài tự động
trông như một chàng trai hai mươi hay hai mươi lăm
tuổi đời. Và vị thiên tử sẽ có nhiều thiên nữ phục vụ
mình. Vì Ngài vẫn tiếp tục hành thiền, tất cả thiên
nữ nhận ra rằng có lẽ vị thiên tử này là một vị
tỳ-khưu ở đời trước. Vậy nên họ cố gắng đánh thức
Ngài bằng cách tạo nên những tiếng ồn.
Samaṇa Devaputta nghĩ rằng: “Kiểu tín nữ gì đã đến
thiền viện của chúng ta vậy? Tại sao họ lại ồn ào như
vậy chứ? Thật là đáng xấu hổ!”
Vì vậy, Ngài mở mắt ra và nói với những thiên nữ
xung quanh mình: “Tại sao các cô lại ở đây? Bây giờ
tôi đang hành thiền.”
Rồi Ngài nhắm mắt lại. Họ mang lại một tấm gương
đặt trước Ngài và cho Ngài xem dung mạo mới của
mình để Ngài hiểu. Khi Ngài nhận ra rằng mình đã
tái sinh làm thiên tử, Ngài trở nên vô cùng thất vọng.
Ngài nói: “Ta hành thiền để giác ngộ Níp-bàn,
không với mục đích tái sinh làm thiên tử.”
Thật may mắn khi được tái sinh làm người, bởi lẽ
con người có thể tránh được những món dục lạc,
nhưng rất khó để tránh né dục lạc ở các cõi trời.
Không có nơi để lẫn tránh khỏi sự hưởng thụ dục lạc
và không có cơ hội để thấy sự già, sự bệnh và sự chết.
Do đó, thật khó và thật hiếm khi sinh khởi
sự kinh cảm (saṃvega). Thật dễ dàng để thấy một
71
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
72
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
32
Khuddakanikāya, Dhammapada-Aṭṭhakathā, Yamakavagga,
‘Sāriputtattheravatthu’ (Chú giả Kệ số 11 và 12, Câu chuyện về Đại
đức Sāriputta).
73
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
74
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
75
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
33
Vinayapiṭaka, Mahāvagga-Aṭṭhakathā, Mahākhandhakaṃ,
‘Sāriputta- Moggallāna-Pabbajjākathā’ (Về sự xuất gia của Đại đức
Sāriputta và Moggallāna).
76
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
được xuất gia, khi đang ở với Đức Phật trong hang
Sūkarakhata, núi Gijjha-Kūṭa, thành Vương Xá, Đại
đức Sāriputta lắng nghe Pháp thoại của Đức Phật
như được giảng trong kinh Vedāna-Pariggaha Sutta
hay còn được biết tới như là Kinh Dīghanakha Sutta
(Paribbajaka Vagga, Majjhima Paṇṇāsa) và trở
thành một vị A-la-hán. Ngài cũng phân tích mười
sáu giai đoạn của tuệ Vipassanā vô cùng
mạnh mẽ.
Đại đức Sāriputta và Đại đức Mahā Moggallāna đã
thực hành thiền Định (Samatha) và thiền Minh Sát
(Vipassanā) cho đến Tuệ Hành Xả (Saṅkhār-
Upekkhā-Ñāṇa) bao gồm Tuệ Sinh diệt
(Udayabbaya-Ñāṇa) trong rất nhiều đời sống quá
khứ34. Trí tuệ của họ dễ dàng thể nhập Pháp và có
thể giác ngộ Níp-bàn chỉ bằng cách lắng nghe một
34
Trong nhiều kiếp sống quá khứ các Ngài đã tích lũy những nhân
duyên sau:
1. Thiện xảo về Kinh điển (pariyatti): Học thuộc lòng lời dạy
của Đức Phật (Buddha-Vacanassa-pariyāpuṇanaṃ), tụng
đọc Pāḷi (Pāḷyā-sajjhāyo).
2. Nghe (savana): Học Pháp một cách kỹ lưỡng với sự cẩn
trọng và tôn kính.
3. Hỏi (paripucchā): Thảo luận về những đoạn khó trong
Kinh điển Pāḷi, Chú giải, v.v...
4. Thực hành trong quá khứ (pubba-yoga): Thực hành thiền
Định (Samatha) và thiền Minh Sát (Vipassanā) cho đến
Tuệ Hành Xả (Saṅkhār-Upekkhā Ñāṇa).
77
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
bài kệ. Đây là lý do tại sao yếu tố trí tuệ rất quan
trọng trong việc giác ngộ Níp-bàn.
Trong xã hội, con người ta có thể được xem như là
một người được giáo dục nếu họ có bằng cấp và địa
vị. Tuy nhiên, theo Kinh Padhāniyaṅga, chúng ta
không thể nói rằng một người có được yếu tố trí tuệ
bởi những thành tích thuộc thế gian. Đại đa số con
người không có được yếu tố trí tuệ này bởi, ở đây, trí
tuệ phải đi kèm Tuệ Minh Sát. Trí tuệ này thuộc về
sự biết và thể nhập sự thật cùng tột thuộc danh-sắc
và những nhân duyên của chúng. Trí tuệ về sự sinh
diệt (Udayabbaya-Ñāṇa) là yếu tố tối quan trọng đối
với việc chứng ngộ Níp-bàn. Do vậy, hành giả không
thể giác ngộ Níp-bàn mà không có loại trí tuệ này.
Sự giác ngộ Níp-bàn sẽ đến khi trí tuệ Minh Sát chín
muồi. Níp-bàn có nghĩa là sự giải thoát mọi phiền
não và khổ đau. Đó là hạnh phúc thực sự, hạnh phúc
tối thượng.
Với yếu tố trí tuệ, chúng ta kết thúc buổi tìm hiểu về
các padhāniyaṅga hay năm yếu tố cần thiết cho việc
thực hành thiền. Nếu quý vị muốn thành công trong
thiền, muốn thoát khỏi mọi khổ ải và giác ngộ Níp-
bàn, quý vị nên phát triển và duy trì năm yếu tố này:
niềm tin (saddhā), sức khỏe (appābādha), chân thật
(asaṭha), tinh tấn (vīriya) và trí tuệ (paññā).
Quý vị có nhớ khi Đức Phật giảng dạy cho vương tử
Bồ-đề vào cuối thời Pháp thoại, vị vương tử đã hỏi:
“Kính bạch Đức Thế Tôn! Với những ai có Ngài là
người lãnh đạo, phải mất bao lâu để người đó thực
78
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
79
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
Kinh Meghiya 35
Trong hai mươi mùa hạ đầu tiên của mình,
Đức Phật không có một vị thị giả (upaṭṭhāka)
cố định nào. Thời kỳ này được gọi là Thời kỳ Giác
ngộ Đầu tiên (Pathama Bodhi). Đại đức
Nāgasamāla, Đại đức Nāgita, Đại đức Upavāna,
Đại đức Sunakkhatta (trước là một vương tử
Licchavi), Đại đức Cunda (em trai của Đại đức
Sāriputta), Đại đức Sāgata và Đại đức Meghiya là
những thị giả tạm thời của Đức Phật.
Vào hạ thứ mười ba của mình, Đức Phật ngự tại đại
tinh xá đồi Cālika. Lúc ấy Đại đức Meghiya là
thị giả tạm thời của Đức Phật.
Một ngày nọ, Đại đức Meghiya đi đến gặp Đức
Phật, đảnh lễ Ngài và đứng một bên. Đại đức
Meghiya bạch với Đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn!
Con xin được đi vào làng Jantu khất thực.”
35
Aṅguttara Nikāya, Navakanipāta, Sambodhivagga,
‘Meghiyasuttaṃ’ và Khuddaka Nikāya, Udāna, Nandavagga,
Meghiyavagga, ‘Meghiyasuttaṃ’ (Kinh Meghiya).
80
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
81
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
Khi được yêu cầu như vậy, Đức Phật trả lời để ngăn
cản36 Đại đức đi đến khu vườn xoài: “Vì chúng ta
chỉ có một mình, này Meghiya, hãy đợi cho đến khi
một tỳ-khưu khác đến.”
Lần thứ hai, Đại đức Meghiya lặp lại lời thỉnh cầu:
“Đức Thế Tôn đã thành tựu quả vị A-la-hán và
không có gì khác cần để hoàn thiện. Còn con phải
hoàn thiện mười sáu bài học trên Đạo lộ dành cho
chính con. Con chưa tu tập những gì cần phải hoàn
thiện. Nếu Đức Phật cho phép, con xin đi để
tinh tấn hành thiền.”
Lần thứ hai, cũng vậy, Đức Phật trả lời: “Vì chúng
ta chỉ có một mình, này Meghiya, hãy đợi cho đến
khi một tỳ-khưu khác đến.”
Lần thứ ba, Đại đức Meghiya thỉnh cầu. Lần này
Đức Phật không ngăn cản mà nói rằng:
“Padhānanti kho, meghiya, vadamānaṃ kinti
vadeyyāmā! Yassa dāni tvaṃ, meghiya, kālaṃ
maññasī’ti.”
36
Đức Phật biết rằng ba-la-mật của Đại đức Meghiya vẫn chưa chín
muồi. Đó là lý do Đức Phật ngăn cản. Ngài nói: “Vì chúng ta chỉ có
một mình, này Meghiya, hãy đợi cho đến khi một tỳ-khưu khác
đến.” Bởi Ngài biết rằng, nếu Ngài nói vậy và nếu Đại đức Meghiya
thất bại trong việc hành thiền, Đại đức sẽ quay trở về không ngượng
ngùng, trái lại, Đại đức sẽ có lòng kính mến Đức Phật. Đức Phật nói
vậy để khiến tâm Đại đức kham nhậm hơn.
82
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
83
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
84
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
85
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
suy nghĩ như vậy luôn xuất hiện trong tâm, quý vị
không thể nào chứng đắc bất kỳ sự định tâm nào.
Vì Đại đức Meghiya bị bủa vây bởi ba loại tư duy
bất thiện, Ngài không thể hành thiền đúng cách
được. Đại đức lấy làm lạ và quyết định quay về hỏi
Đức Phật.
Đức Phật không bao giờ giáo giới đệ tử của Ngài mà
không có nguyên do. Ngài biết những gì sẽ xảy đến
đối với Đại đức Meghiya. Nhưng tại sao Đức Phật
lại cho phép Đại đức Meghiya đi đến khu vườn xoài?
Bởi vì Đức Phật biết rằng Đại đức sẽ đi đến đó dù
không được Đức Phật cho phép. Nếu Đại đức bị
ngăn cản không được đi, Đại đức có thể nghĩ sai và
hiểu nhầm Đức Phật rằng: “Đức Phật không cho
phép ta vì Ngài chỉ mong muốn một điều, tức là sự
phục vụ của ta.” Đức Phật cũng biết rằng nếu
Đại đức Meghiya có suy nghĩ sai lầm như vậy, Đại
đức có thể chỉ trích Đức Phật. Chính tư tưởng sai lạc
này sẽ khiến cho Đại đức chịu đau khổ dài lâu và có
thể ngăn cản sự chứng đắc của Ngài. Chính vì vậy
Đức Phật mới cho phép.
Thỉnh thoảng, một số thiền sinh muốn về nước
nhưng tôi lại ngăn cản họ. Điều này là để giúp cho
thiền sinh không rơi vào những thói quen bất thiện.
Chẳng hạn, một thiền sinh từ Mỹ muốn về nước.
Sau khi về, anh ta có thể quay về với những thói quen
cũ, hưởng thụ dục lạc, đi đến các câu lạc bộ ban
đêm, v.v… Rồi anh ta sẽ quên đi việc thực hành
thiền. Đây là lý do tại sao quý vị nên suy xét để
86
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
37
Đối với văn phong lịch sự, thông thường đại từ “chúng con/ chúng
tôi” được sử dụng thay vì “con/ tôi”.
87
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
38
Có tham khảo bản dịch Kinh Meghiya của HT Thích Minh Châu
– ND.
39
227 giới của Tỳ-khưu.
88
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học các học pháp. Khi tâm
giải thoát chưa được viên mãn, thời đây là pháp thứ
hai đưa đến sự viên mãn.”
“Puna caparaṃ, meghiya, bhikkhu yāyaṃ kathā
abhisallekhikā cetovivaraṇasappāyā
ekantanibbidāya virāgāya nirodhāya upasamāya
abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati,
seyyathidaṃ – appicchakathā, santuṭṭhikathā,
pavivekakathā, asaṃsaggakathā,
vīriyārambhakathā, sīlakathā, samādhikathā,
paññākathā, vimuttikathā,
vimuttiñāṇadassanakathā; evarūpāya kathāya
nikāmalābhī hoti akicchalābhī akasiralābhī.
Aparipākāya, meghiya, cetovimuttiyā ayaṃ tatiyo
dhammo paripākāya saṃvattati.”
(3) “Lại nữa, này Meghiya! Vị tỳ-khưu được nghe
như ý muốn một cách dễ dàng, không có khó khăn,
những lời nói liên hệ đến cuộc sống phạm hạnh,
thuận lợi cho sự mở mang nhận thức, tức là lời nói
về thiểu dục, lời nói về tri túc, lời nói về viễn ly,
lời nói về độc cư, lời nói về tinh tấn, lời nói về giới,
lời nói về định, lời nói về tuệ, lời nói về giải thoát,
lời nói về giải thoát tri kiến. Khi tâm giải thoát chưa
được viên mãn, thời đây là pháp thứ ba đưa đến
sự viên mãn.”
“Puna caparaṃ, meghiya, bhikkhu āraddhavīriyo
viharati, akusalānaṃ dhammānaṃ pahānāya,
kusalānaṃ dhammānaṃ upasampadāya, thāmavā
daḷhaparakkamo anikkhittadhuro kusalesu
89
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
40
Chú giải Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya Aṭṭhakathā) giải thích
điều này có nghĩa là vị ấy có khả năng thâm nhập vào sự sinh khởi
và hoại diệt của năm uẩn bằng cách đàn áp (vikkhambhana-vasena)
với Tuệ Minh Sát (vipassanā-paññā), và bằng cách nhổ tận gốc rễ
(samuccheda-vasena) với Đạo Tuệ (Magga-paññā).
90
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
91
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
92
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
41
Saṃyutta Nikāya, Mahāvagga, Satipaṭṭhānasaṃyutta,
Ambapālivagga, 'Sakuṇagghisuttaṃ' (Kinh Chim ưng).
93
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
94
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
95
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
96
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
43
Saṃyutta Nikāya, Maggasaṃyutta, ‘Upaḍḍha-Suttaṃ’
(Kinh Một nửa).
97
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
kalyāṇamittatā kalyāṇasahāyatā
kalyāṇasampavaṅkatā. Mamañhi, ānanda,
kalyāṇamittaṃ āgamma jātidhammā sattā jātiyā
parimuccanti; jarādhammā sattā jarāya
parimuccanti; maraṇadhammā sattā maraṇena
parimuccanti; sokaparideva-
dukkhadomanassupāyāsa- dhammā sattā
sokaparidevadukkhadomanassupāyāsehi
parimuccanti. Iminā kho etaṃ, ānanda, pariyāyena
veditabbaṃ yathā sakalamevidaṃ brahmacariyaṃ,
yadidaṃ – kalyāṇamittatā kalyāṇasahāyatā
kalyāṇasampavaṅkatā.”
“Này Ānanda, chính với pháp môn này, các Thầy
cần phải hiểu thế nào toàn bộ Phạm hạnh này là
thiện bằng hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình.
Do nương nhờ Ta (Đức Phật – ND) là thiện bằng
hữu, này Ānanda, nên các chúng sinh bị sinh được
giải thoát khỏi sinh; các chúng sinh bị già được giải
thoát khỏi già; các chúng sinh bị chết được giải thoát
khỏi chết; các chúng sinh bị sầu, bi, khổ, ưu, não
được giải thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não. Chính với
pháp môn này, này Ānanda, các Thầy cần phải hiểu
thế nào mà toàn bộ Phạm hạnh này là thiện bằng
hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình.”
Đó là lý do tại sao Đức Phật giải thích tầm quan
trọng của việc có những người bạn tốt. Sau khi xác
lập những điều này, Đức Phật cũng giải thích thêm
rằng vị tỳ-khưu nên phát triển bốn đức tính nữa:
“Asubhā bhāvetabbā rāgassa pahānāya.”
98
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
99
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
44
Xin tham khảo cuốn “Biết và Thấy” của Đại Trưởng lão Pa-Auk
Sayadaw để có thêm giải thích chi tiết hoặc tìm gặp các vị thiền sư
có năng lực.
100
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
giải thích rằng thiền niệm hơi thở có thể loại trừ
những suy nghĩ tản mạn. Đó là lý do tại sao quý vị
nên tiếp tục việc thực hành cho đến khi có thể chứng
đắc mức độ định tâm mạnh mẽ, lúc ấy, quý vị có thể
loại trừ sự phóng tâm ra khỏi tâm trí của mình.
“Aniccasaññā bhāvetabbā
asmimānasamugghātāya.”
(15) “Tưởng về vô thường nên được tu tập để loại
trừ ngã mạn”
Quý vị có biết tâm ngã mạn (māna) không? Ví dụ,
một số người không thích khi người khác nhắc nhở
về những lỗi của chính họ hoặc khi họ được giáo giới.
Đó là vì họ có tâm ngã mạn. Thực ra, khi họ có thể
quán chiếu như thế này: “Một ngày nào đó, những
người khác sẽ chết, ta rồi cũng như sẽ như vậy.
Người khác là sự kết hợp của những nhóm nguyên
tố, ta cũng như vậy.” Như vậy có thể tạm thời loại
trừ tâm ngã mạn. Nhưng đối với những ai có thể thực
hành lên thiền Vipassanā, họ có thể phân tích tất cả
danh và sắc là vô thường. Do đó, Đức Phật cũng nói:
“Aniccasaññino hi, meghiya, anattasaññā saṇṭhāti,
anattasaññī asmimānasamugghātaṃ pāpuṇāti
diṭṭheva dhamme nibbāna.”
“Này Meghiya! Nhờ tưởng về vô thường, tưởng về
vô ngã trở nên vững chắc. Khi tưởng về vô ngã trở
101
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
nên vững chắc, ngã mạn được tiêu trừ hoàn toàn45,
cũng chính là Níp-bàn trong chính kiếp sống này.”
Theo Chú giải Kinh Phật tự thuyết46 (Udāna), có
mười lăm yếu tố khác có thể hỗ trợ tâm giải thoát
khỏi phiền não được viên mãn (vimuttiparipācanīyā
dhamma). Hay nói cách khác là những yếu tố
đưa đến sự chứng đạt quả vị A-la-hán. Chúng là:
[Ba yếu tố liên hệ đến niềm tin (saddhā)]
1. Không thân cận người không có niềm tin
(assaddhe puggale parivajjayato),
2. Thân cận người có niềm tin (saddhe puggale
sevato bhajato payirupāsato),
3. Quán chiếu những kinh tạo niềm tin
(pasādanīye suttante paccavekkhato)47,
[Ba yếu tố liên hệ đến sự tinh tấn (vīriya)]
4. Không thận cận người lười biếng (kusīte
puggale parivajjayato),
5. Thân cận người tinh tấn (āraddhavīriye
puggale sevato bhajato payirupāsato),
45
Chỉ khi chứng đắc A-la-hán, ngã mạn mới được đoạn trừ
hoàn toàn.
46
Khuddaka Nikāya, Udāna-Aṭṭhakathā, Meghiyavagga,
‘Meghiyasutta- vaṇṇanā (Chú giải Kinh Meghiya).
47
Đọc những Kinh nói về Ân Đức Phật, Pháp, Tăng. Chẳng hạn,
để tăng niềm tin nơi Đức Phật, đọc câu chuyện Maṭṭhakuṇḍalī, có
thể tìm thấy trong Chú giải Kinh Pháp Cú, (Dhammapada
Aṭṭhakathā), Phẩm Song Đối (Yamakavagga).
102
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
48
Bốn sự tinh tấn chân chính (sammappadhāna):
1. Tinh tấn thu thúc (saṃvara-padhāna): Nhiệt tâm, tinh cần
thu thúc không tạo tác những bất thiện nghiệp trên
thân, khẩu, ý;
2. Tinh tấn đoạn trừ (pahāna-padhāna): Tinh tấn chấm dứt
bất cứ bất thiện nghiệp nào trên thân, khẩu, ý;
3. Tinh tấn tu tập (bhāvanā-padhāna): Nhiệt tâm, tinh cần cố
gắng phát triển và tạo tác những thiện nghiệp mới trên thân,
khẩu, ý. Cũng là sự cố gắng tu tập ngày càng nhiều
minh (vijjā) và hạnh (caraṇa);
4. Tinh tấn duy trì (anurakkhaṇa-padhāna): Tiếp tục với
bất cứ thiện nghiệp nào được tạo tác qua thân, khẩu, ý.
103
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
12. Quán chiếu đến những kết quả tạo nên các
bậc thiền và sự giải thoát (jhānavimokkhe
paccavekkhato),
[Ba yếu tố liên hệ đến trí tuệ (paññā)]
13. Không thân cận người không có trí tuệ
(duppaññe puggale parivajjayato),
14. Thân cận người có trí tuệ (paññavante
puggale sevato bhajato payirupāsato), và
15. Quán chiếu đến những kinh thâm sâu liên hệ
đến trí tuệ (gambhīrañāṇacariyaṃ
paccavekkhato).
Mười lăm yếu tố này sẽ đưa đến sự thanh tịnh hay
sự viên mãn của năm căn, đó là:
Tín căn (saddhindriyaṃ), tấn căn (vīriyindriyaṃ),
niệm căn (satindriyaṃ), định căn(samādhindriyaṃ)
và tuệ căn (paññindriyaṃ).
Bên cạnh mười lăm yếu tố trên đây, còn có năm
tưởng thể nhập (nibbedhabhāgiyā saññā), đó là:
1. Tưởng vô thường (anicca-saññā),
2. Tưởng khổ (dukkha-saññā),
3. Tưởng vô ngã (anatta-saññā),
3. Tưởng từ bỏ (pahāna-saññā), và
4. Tưởng ly dục (virāga-saññā); không dính mắc
bất cứ điều gì ở đời.
Năm yếu tố đã được dạy trong Kinh cho Đại đức
Meghiya là: thân cận với thiện bằng hữu, có giới
hạnh, lắng nghe và quán chiếu đến mười loại lời nói,
104
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
105
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
49
Chữ “Buddho” ở đây được dịch ra là những ai đã thể nhập Tứ
Thánh Đế, như các vị Thánh Đệ tử và các bậc A-la-hán.
50
‘Meghiyattheravatthu’ (Chú giải Câu chuyện về Đại đức
Meghiya), Khuddakanikāya, Dhammapada Aṭṭhakathā, Cittavagga
106
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
mình trở nên chánh trực bằng cách rèn luyện chúng
với phương tiện của sự tinh tấn, cả về thân lẫn tâm.
Tâm vốn bị kích động bởi sáu đối tượng giác quan,
như hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị, sự xúc chạm,
và pháp, do vậy, rất khó kiểm soát. Một cái tâm như
vậy khó có thể được kiểm soát, không cho lang thang
đến những đối tượng giác quan không thích hợp.
“Vārijova thale khitto,
okamokata ubbhato;
Paripphandatidaṃ cittaṃ,
māradheyyaṃ pahātave.”
“Như một con cá khi bị kéo lên khỏi nước và quăng
trên đất vùng vẫy và dao động, cũng vậy, tâm này bị
kích động. Do đó, cần thoát khỏi thế lực của Māra.”
Cũng như loài cá được sinh ra trong nước, khi bị đưa
lên khỏi môi trường sống trong nước và bị quẳng trên
đất, vùng vẫy hoảng hốt. Cũng vậy cái tâm hưởng
thụ năm đối tượng giác quan, khi được đưa khỏi
những món dục lạc, trở nên vật lộn, vùng vẫy khi
hành thiền. Nó nhảy nhót dao động đến những đối
tượng giác quan trong thời thiền cũng như một con
cá đang vật lộn trên mặt đất để quay về với nước vậy.
Khi kết thúc hai câu Pháp cú, Đại đức Meghiya trở
thành một vị Thánh Nhập Lưu cùng với rất nhiều
chúng sinh đang lắng nghe Pháp từ Đức Phật.
Nếu quý vị thực hành thiền lặp đi lặp lại, một ngày
nào đó tâm quý vị sẽ có khả năng trú trên một đối
107
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
108
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
Phụ lục 1
Bốn mươi Đề mục thiền Định
Đức Phật dạy bốn mươi đề mục thiền để chứng đạt
định tâm:
❖ 10 đề mục kasiṇa:
1. Pathavī-kasiṇa (kasiṇa đất),
2. Āpo-kasiṇa (kasiṇa nước),
3. Tejo-kasiṇa (kasiṇa lửa),
4. Vāyo-kasiṇa (kasiṇa gió),
5. Nīla-kasiṇa (kasiṇa nâu/ đen/ xanh),
6. Pīta-kasiṇa (kasiṇa vàng),
7. Lohita-kasiṇa (kasiṇa đỏ),
8. Odāta-kasiṇa (kasiṇa trắng),
9. Āloka-kasiṇa (kasiṇa ánh sáng),
10. Ākāsa-kasiṇa (kasiṇa hư không).
❖ 10 Asubha (Đề mục bất tịnh)
11. Uddhumātaka (tử thi trương phình),
12. Vinīlaka (tử thi bị biến sắc, trở nên xanh,
đen),
13. Vipubbaka (tử thi bị lở loét),
14. Vicchiddaka (tử thi bị cắt ra làm hai,
ba phần),
15. Vikkhāyitaka (tử thi bị gặm nhấm và xé xác
bởi chó, kền kền, v.v…),
16. Vikkhittaka (tử thi bị cắn và làm vung vãi
thành từng miếng bởi chó, kền kền, v.v…),
109
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
110
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
39. Āhāre-paṭikūla-saññā
(Tưởng sự nhờm gớm của thức ăn),
40. Catu-dhātu-vavatthāna (Thiền tứ đại).
111
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
Phụ lục 2
Hai mươi tám loại Sắc51
Bốn đại chủng (cattāro mahā-bhūtā) là:
1. Nguyên tố đất – địa đại (pathavī-dhātu),
2. Nguyên tố nước – thuỷ đại (āpo-dhātu),
3. Nguyên tố lửa – hỏa đại (tejo-dhātu),
4. Nguyên tố gió – phong đại (vāyo-dhātu).
Mười bốn loại sắc thực phái sinh, trước hết là bốn
loại sắc cảnh giới (gocara rūpa):
5. Màu sắc – sắc (vaṇṇa),
6. Âm thanh – thinh (sadda),
7. Mùi hương – hương (gandha),
8. Vị (rasa).
Màu sắc được nhận thức bởi mắt, âm thanh bởi tai,
mùi hương bởi mũi và vị bởi lưỡi. Sự xúc chạm được
nhận thức bởi cơ thể không được liệt kê ở đây vì sự
xúc chạm không phải là sắc phái sinh. Nó là ba đại:
đất, lửa và gió.
9. Dưỡng chất (ojā),
Dưỡng chất duy trì thân vật lý. Chúng ta có
nó từ vật thực chúng ta ăn.
10. Sắc mạng căn (jīvitindriya),
51
Những chi tiết sau đây được lấy từ Thanh Tịnh Đạo xviii.13
(Visuddhi-Magga xviii, Đoạn 667 'Diṭṭhi-Visuddhi-Niddesa'
(Giải thích về Kiến Thanh tịnh).
112
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
113
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
114
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
Phụ lục 3
Mười sáu Tuệ Minh Sát
(Vipassanā Ñāṇa)
1. Nāma-Rūpa Pariccheda Ñāṇa (Tuệ Xác định
Danh Sắc),
2. Paccaya Pariggaha Ñāṇa (Tuệ Nhân duyên),
3. Sammasana Ñāṇa (Tuệ Thấu hiểu),
4. Udayabbaya Ñāṇa (Tuệ Sinh Diệt),
5. Bhaṅga Ñāṇa (Tuệ Hoại diệt),
6. Bhaya Ñāṇa (Tuệ Sợ hãi),
7. Ādīnava Ñāṇa (Tuệ Hiểm nguy),
8. Nibbidā Ñāṇa (Tuệ Nhàm chán),
9. Muñcitu-Kamyatā Ñāṇa
(Tuệ Muốn Giải thoát),
10. Paṭisankhā Ñāṇa (Tuệ Suy tư),
11. Saṅkhārupekkhā Ñāṇa
(Tuệ Buông xả các hành),
12. Anuloma Ñāṇa (Tuệ Thuận theo),
13. Gotrabhu Ñāṇa (Tuệ Chuyển tộc),
14. Magga Ñāṇa (Tuệ Đạo),
15. Phala Ñāṇa (Tuệ Quả),
16. Paccavekkhaṇa Ñāṇa (Tuệ Duyệt xét),
115
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
116
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
117
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
118
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
119
Chia Phước
120
Danh Sách Thí Chủ Hùn Phước
Gd Ha Oanh ₫300.000
Gd Hoa Nguyen ₫200.000
Gd Ly Thanh Loc ₫300.000
Gd Oai Tran ₫300.000
Gd Vu Thi Ha ₫200.000
Gd Noname ₫30.000
Gd Trinh Ngoc Trac ₫200.000
Gd Ngoc Dang Pham ₫300.000
Gd Pt Vien Thuy ₫500.000
Gd Pham Mai ₫2.000.000
Gd Co Hue Duc ₫200.000
Gd Nguyen Thao Lien ₫200.000
Gd Minh Ha + Bach Hue + Thao ₫100.000
Gd Song Van ₫500.000
Kusala Citta + Panna Aloka ₫1.000.000
Gd Nguyen Thach Bich ₫200.000
Gd Hoa Xuyen ₫100.000
Gd Duong Thi Lan ₫50.000
Gd Dinh Thang ₫1.000.000
Gd Nguyen Quang Tuan ₫50.000
Gd Son Ha ₫200.000
Gd Le Thi Doan Trang ₫500.000
Gd Mai Chi ₫500.000
Gd Hong Loan ₫200.000
Gd Nguyen Huynh Thuy Vy ₫500.000
Gd Hoang Tuan Anh ₫500.000
Gd Thanh Ngo ₫500.000
Gd Hoang Thi Le Thuy & Co Anh ₫700.000
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
Gd Be Do Dai Quang -
Fb Chan Ban Tam ₫2.000.000
Gd Syl Jhanasampada ₫200.000
Gd Vi Thi Ngoc Kieu ₫200.000
Gd Noname 2 ₫1.000.000
Gd Hong Thuy ₫300.000
Gd Quyen Dao ₫100.000
Gd Huynh Thi Tuyet Linh ₫300.000
Gd Chi Nam Vinh ₫200.000
Gd Chau Nguyen ₫100.000
Gd Trinh Thi Kim Dung ₫360.000
Gd Do Thoai Phong ₫500.000
Gd Nguyen Van Duan ₫1.000.000
Gd Tran Thi Phuong Mai ₫200.000
Gd Kim Anh Dao ₫200.000
Gd Sukhagavesi ₫500.000
Gd Mai Loc ₫100.000
Gd Nguyen Minh Tuyen ₫250.000
Gd Le Thi Bich Tin ₫200.000
Nhom Nhu Quynh ₫500.000
Gd Thao Hai ₫500.000
Gd Duy Quang ₫200.000
Gd Neang Soc Nane ₫300.000
Gd Pham Thi Mai Diem ₫500.000
Gd Chi La Giac Mo ₫11.293.000
Gd Comay ₫100.000
Gd Anh Em Moon Shu ₫300.000
Gd Chi Oai Tran ₫1.000.000
Gd Liennh ₫300.000
Gd Mai Tran ₫500.000
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền
Biên tập
Phan Thị Ngọc Minh
Sửa bản in
Nhóm Tâm Bình An
Trình bày
Minh Anh
NhữngYếuTốCầnThi
ết
(Padhāniyaṅga Sutt
a)v à Kinh
Padhā niya
ṅg av à Kinh Me ghiy
a “Nà
ycá
cTỳ
-khưu,c
ónămyếutốhỗtr
ợviệ
chà nhthi
ền. Me ghiya(Me ghi
yaSutt
a)cóliên
được t huyếtgiảng ởTr ung tâm hệmậ tthi
ếtđế nviệ
cthựchà nh
thi
ền Pa -
Auk Ta wya Ta t
-Oo Thếnà
olànăm?Saddha(ni
ềmt i
n),
..
.”
ChoViệ
cHà nhThi
ền
thiền.
NhữngYếuTốCầnThi
Dha mmaYe i
khthar( mở r ộng),
PyinOoLwi n, Myanma rcũngnhư Padhāni
yaṅgaSut
ta
ởnhữngnướck hácnhưSing a
pore, Tôihyv ọngcuốns áchnhỏnàycó
Thá iLa nvàViệtNa m. thểhỗt r
ợhà nh giảthành c
ông
trongthiề
n,t
rả inghiệ
ms ựanlạc
,
Chúngt
s
ắ c nhấ
ôix
inbà
t đế
yt
ỏlòngt
n Saya
r
i
da
âns
w U
â
u Pa
dhā
niy
aṅg
aSut
ta hạ nhphúcvàgi ảit
hoát.
Kuma r
ā bhi
vaṃsav
ềnhữnglờidạy & VìtôikhônghàilòngvớibàiPháp
c
c
ủaNg
húngt
àicũngnhưđãc
ôibiênt
ậpt
hànhs
hophé
ách.
p
Me
ghi
yaSut
ta thoạicủamìnhvềha ic
hủđềt rên,
tôiđãkhôngc óýđị nhlàmc uốn
ếtChoVi
Mộts ốc âuc huyệnv àphầ ndị c
h sách này.Tuyvậy,thểtheoy êu
Pāḷi
-Ti ếngAnh t ừ nhiề u nguồn cầuc ủa mộts ố đệtử,tôic ho
khác nha u được li
ệtk ê ở phầ n phéphọghic héplạivàbiê
ns oạn
thamk hảong uồntríchdẫ n.Trong thànhsách.
ệcHànhThi
những Phá p thoạic ủa mì nh,
Saya daw U Kumā r
ābhivaṃs a Cầumongc hotấ
tc ảđộcgiảvà
cũngđãc ungc ấpnhữngt àiliệ
u hànhgiảc óthểápdụngnhững
thuộcv ềChúgi ải
.Chúngt ôicó Pháp ởtrongsách đểgiácngộ
điềuc hỉnhmộts ốđiểm nhỏv ềmặ t Níp-
bàns ớm nhấtc óthể.Cầu
ngônng ữx uyênsuốtc uốns áchđể
mongc hotấtcảchúngsinhđều
ền
độcgi ảc óthểhiểumộtc áchdễ
dànghơn.Chúngt ôix inc ám ơn đượchạnhphúc!
tấtcảnhữnga iđãgi úphi ệuđính
ĐạiĐứcKumār
vàc hol ờikhuyên,tấtcảt híchủv à Sā
dhu!Sā
dhu!Sā
dhu!
nhữngquýv ịt
ham giav àov i
ệclàm
sách,phâ n phốisách.Chúngt ôi
cũngx i
nđượct hứl ỗic hobấ tk ỳ “Ở đây
,nà yMe ghi
ya,vịTỳ-khưu cóthiện bằnghữu, U Kumārābhi
vaṃsa
saisótnà o. Pa
-AukTa
wya(Py
inOoLwin)
thi
ệngi
a okết,
thi
ệnbạnlữ.Khitâm gi
ảithoátchưađược
Mongr ằngc uốn sách nà ysẽlà viê
n mã n,thờiđâyl à phá
p đầ ut i
ên đưa đế ns ự
cảm hứngc honhữnga ichưatừng viê
nmã n..
.”
ābhi
hànhthiền.Mongr ằngc uốnsách
nàyhỗt rợthiềns i
nhv ượtquat ấ
t
vaṃs
cảkhók hănt rongv i
ệct hựchành Meghi
yaSut
ta ĐạiĐứcKumārābhi
vaṃs a
thi
ền.Mongr ằngtấtcảđề ucóthể Cẩndị
ch:
Bhi
kkhuTikkhañāṇa
a
thực hành Phá p để gi ác ngộ
Sá
chẤnTốn
g-Kh
ôngMu
aBá
n
Níp-bàn ng a
yt r
ong c hính ki
ếp
sốnghiệntạinà y
.
Sā
dhu!Sā
dhu!Sā
dhu! NhàXuấtBảnHồ
ngĐức