Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 135

Cuốn s ách này được dựa t r

ên Nhữngki ế
nt hứcđượct ì
mt hấy
nhữngbà iPhápthoạicủaSayadaw trong Ki nh Ti nh Cầ n Chi
U Kuma rābhi
vaṃsa v ề Ki nh

NhữngYếuTốCầnThi
ết
(Padhāniyaṅga Sutt
a)v à Kinh
Padhā niya
ṅg av à Kinh Me ghiy
a “Nà
ycá
cTỳ
-khưu,c
ónămyếutốhỗtr
ợviệ
chà nhthi
ền. Me ghiya(Me ghi
yaSutt
a)cóliên
được t huyếtgiảng ởTr ung tâm hệmậ tthi
ếtđế nviệ
cthựchà nh
thi
ền Pa -
Auk Ta wya Ta t
-Oo Thếnà
olànăm?Saddha(ni
ềmt i
n),
..
.”

ChoViệ
cHà nhThi
ền
thiền.

NhữngYếuTốCầnThi
Dha mmaYe i
khthar( mở r ộng),
PyinOoLwi n, Myanma rcũngnhư Padhāni
yaṅgaSut
ta
ởnhữngnướck hácnhưSing a
pore, Tôihyv ọngcuốns áchnhỏnàycó
Thá iLa nvàViệtNa m. thểhỗt r
ợhà nh giảthành c
ông
trongthiề
n,t
rả inghiệ
ms ựanlạc
,
Chúngt
s
ắ c nhấ
ôix
inbà
t đế
yt
ỏlòngt
n Saya
r
i
da
âns
w U
â
u Pa
dhā
niy
aṅg
aSut
ta hạ nhphúcvàgi ảit
hoát.
Kuma r
ā bhi
vaṃsav
ềnhữnglờidạy & VìtôikhônghàilòngvớibàiPháp
c
c
ủaNg
húngt
àicũngnhưđãc
ôibiênt
ậpt
hànhs
hophé
ách.
p
Me
ghi
yaSut
ta thoạicủamìnhvềha ic
hủđềt rên,
tôiđãkhôngc óýđị nhlàmc uốn

ếtChoVi
Mộts ốc âuc huyệnv àphầ ndị c
h sách này.Tuyvậy,thểtheoy êu
Pāḷi
-Ti ếngAnh t ừ nhiề u nguồn cầuc ủa mộts ố đệtử,tôic ho
khác nha u được li
ệtk ê ở phầ n phéphọghic héplạivàbiê
ns oạn
thamk hảong uồntríchdẫ n.Trong thànhsách.

ệcHànhThi
những Phá p thoạic ủa mì nh,
Saya daw U Kumā r
ābhivaṃs a Cầumongc hotấ
tc ảđộcgiảvà
cũngđãc ungc ấpnhữngt àiliệ
u hànhgiảc óthểápdụngnhững
thuộcv ềChúgi ải
.Chúngt ôicó Pháp ởtrongsách đểgiácngộ
điềuc hỉnhmộts ốđiểm nhỏv ềmặ t Níp-
bàns ớm nhấtc óthể.Cầu
ngônng ữx uyênsuốtc uốns áchđể
mongc hotấtcảchúngsinhđều

ền
độcgi ảc óthểhiểumộtc áchdễ
dànghơn.Chúngt ôix inc ám ơn đượchạnhphúc!
tấtcảnhữnga iđãgi úphi ệuđính

ĐạiĐứcKumār
vàc hol ờikhuyên,tấtcảt híchủv à Sā
dhu!Sā
dhu!Sā
dhu!
nhữngquýv ịt
ham giav àov i
ệclàm
sách,phâ n phốisách.Chúngt ôi
cũngx i
nđượct hứl ỗic hobấ tk ỳ “Ở đây
,nà yMe ghi
ya,vịTỳ-khưu cóthiện bằnghữu, U Kumārābhi
vaṃsa
saisótnà o. Pa
-AukTa
wya(Py
inOoLwin)
thi
ệngi
a okết,
thi
ệnbạnlữ.Khitâm gi
ảithoátchưađược
Mongr ằngc uốn sách nà ysẽlà viê
n mã n,thờiđâyl à phá
p đầ ut i
ên đưa đế ns ự
cảm hứngc honhữnga ichưatừng viê
nmã n..
.”

ābhi
hànhthiền.Mongr ằngc uốnsách
nàyhỗt rợthiềns i
nhv ượtquat ấ
t

vaṃs
cảkhók hănt rongv i
ệct hựchành Meghi
yaSut
ta ĐạiĐứcKumārābhi
vaṃs a
thi
ền.Mongr ằngtấtcảđề ucóthể Cẩndị
ch:
Bhi
kkhuTikkhañāṇa

a
thực hành Phá p để gi ác ngộ

chẤnTốn
g-Kh
ôngMu
aBá
n
Níp-bàn ng a
yt r
ong c hính ki
ếp
sốnghiệntạinà y
.

dhu!Sā
dhu!Sā
dhu! NhàXuấtBảnHồ
ngĐức
NHỮNG YẾU TỐ CẦN THIẾT

CHO VIỆC HÀNH THIỀN

Kinh Padhāniyaṅga

Kinh Meghiya

Đại đức Kumārābhivaṃsa


Cẩn dịch: Bhikkhu Tikkhañāṇa
Namo Tassa Bhagavato Arahato
Sammāsambuddhassa

Thành kính đảnh lễ Ngài,


Đức Thế Tôn,
Bậc A-la-hán,
Đấng Chánh Đẳng Chánh Giác
NHỮNG YẾU TỐ CẦN THIẾT
CHO VIỆC HÀNH THIỀN

Kinh Padhāniyaṅga

Kinh Meghiya

Tài liệu trong sách này có thể được tái sử dụng


cho việc chia sẻ miễn phí
mà không cần sự cho phép của tác giả.

Tuy nhiên, nên tránh việc tự ý sửa đổi


hoặc diễn giải sai
về nội dung cuốn sách.
Sabbadānaṃ Dhammadānam Jināti
Pháp thí thắng mọi thí.
Xuất bản lần 1: 19 tháng 2 năm 2019
MahāDāna
Trung tâm thiền Pa-Auk Tawya (Trụ sở chính)
Mawlamyine, Tiểu bang Mon,
Myanmar

QUÀ PHÁP — KHÔNG BÁN


Mục lục
Lời giới thiệu .................................................... i
Ghi chú của Ban Biên tập ................................. ii
Tam học .......................................................... 1
Giới học – Sīla Sikkhā ................................... 1
Định học – Samādhi Sikkhā ........................... 4
Tuệ học – Paññā Sikkhā ................................ 5
Năm yếu tố cần thiết cho việc
hành thiền (Padhāniyaṅga) ............................. 13
1. Saddhā (Niềm tin) .................................. 22
[a] Āgama-saddhā (Niềm tin tôn giáo) ............ 22
[b] Adhigama saddhā
(Niềm tin do chứng đạt) .................................. 24
Câu chuyện về người cùi Suppabuddha ...... 25
Câu chuyện về người
gia chủ Sūrambaṭṭha .................................... 30
[c] Okappana-saddhā (Niềm tin kiên định) .... 35
Câu chuyện về Đại đức Mahākappina......... 36
Câu chuyện về nhà phú hộ
Anāthapiṇḍika ............................................. 42
[d] Pasāda-saddhā (Niềm tin do cảm hứng) ... 48
2. Appābādha (Sức khỏe) ............................ 49
Câu chuyện về Đại đức Godhika ................. 51
3. Asaṭha (Chân thật) .................................. 56
Câu chuyện Uruvela .................................... 58
4. Vīriya (Tinh tấn) ..................................... 61
Câu chuyện về Đại đức Mahāsīva ............... 63
Câu chuyện về Samaṇa Devaputta .............. 70
5. Paññā (Trí tuệ) ....................................... 72
Trí tuệ của Đại đức Sāriputta
và Đại đức Mahā Moggallāna ..................... 74
Kinh Meghiya ............................................... 80
Những tư tưởng bất thiện khởi
sinh trong tâm Đại đức Meghiya .................. 84
Đức Phật giáo giới Đại đức Meghiya ............ 87
Phụ lục 1 ............................................................... 109
Phụ lục 2 ............................................................... 112
Phụ lục 3 ............................................................... 115
Nguồn tham khảo ......................................... 116
Tiểu sử Đại đức U Kumārābhivaṃsa ............. 118
Chia phước .................................................. 120
Lời giới thiệu
Những kiến thức được tìm thấy trong Kinh Tinh
Cần Chi (Padhāniyaṅga Sutta) và Kinh Meghiya
(Meghiya Sutta) có liên hệ mật thiết đến việc thực
hành thiền. Tôi hy vọng cuốn sách nhỏ này có thể
hỗ trợ hành giả thành công trong thiền, trải nghiệm
sự an lạc, hạnh phúc và giải thoát.
Vì tôi không hài lòng với bài Pháp thoại của mình về
hai chủ đề trên, tôi đã không có ý định làm cuốn sách
này. Tuy vậy, thể theo yêu cầu của một số đệ tử, tôi
cho phép họ ghi chép lại và biên soạn thành sách.
Cầu mong cho tất cả độc giả và hành giả có thể áp
dụng những Pháp ở trong sách để giác ngộ Níp-bàn
sớm nhất có thể. Cầu mong cho tất cả chúng sinh
đều được hạnh phúc!
Sādhu! Sādhu! Sādhu!

U Kumārābhivaṃsa
Pa-Auk Tawya (Pyin Oo Lwin)

i
Ghi chú của Ban Biên tập

Cuốn sách này được dựa trên những bài Pháp thoại
của Sayadaw U Kumārābhivaṃsa về Kinh
Padhāniyaṅga và Kinh Meghiya được thuyết giảng
ở Trung tâm thiền Pa-Auk Tawya Tat-Oo Dhamma
Yeikhthar (mở rộng), Pyin Oo Lwin, Myanmar
cũng như ở những nước khác như Singapore,
Thái Lan và Việt Nam.
Chúng tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc nhất đến
Sayadaw U Kumārābhivaṃsa về những lời dạy của
Ngài cũng như đã cho phép chúng tôi biên tập
thành sách.
Một số câu chuyện và phần dịch Pāḷi-Tiếng Anh
từ nhiều nguồn khác nhau được liệt kê ở phần
tham khảo nguồn trích dẫn. Trong những
Pháp thoại của mình, Sayadaw U Kumārābhivaṃsa
cũng đã cung cấp những tài liệu thuộc về Chú giải.
Chúng tôi có điều chỉnh một số điểm nhỏ về mặt
ngôn ngữ xuyên suốt cuốn sách để độc giả có thể
hiểu một cách dễ dàng hơn. Chúng tôi xin cám ơn
tất cả những ai đã giúp hiệu đính và cho lời khuyên,
tất cả thí chủ và những quý vị tham gia vào việc
làm sách, phân phối sách. Chúng tôi cũng xin được
thứ lỗi cho bất kỳ sai sót nào.
Mong rằng cuốn sách này sẽ là cảm hứng cho
những ai chưa từng hành thiền. Mong rằng
cuốn sách này hỗ trợ thiền sinh vượt qua tất cả

ii
khó khăn trong việc thực hành thiền. Mong rằng tất
cả đều có thể thực hành Pháp để giác ngộ Níp-bàn
ngay trong chính kiếp sống hiện tại này.
Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Ban Biên tập


Pa-Auk Tawya Dhamma Yeiktha (mở rộng)
Pyin Oo Lwin, 19 tháng 1 năm 2019

iii
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Tam học
Trước khi nói về năm yếu tố cần thiết đối với việc
hành thiền (Padhāniyaṅga), quý vị có biết lời dạy
của Đức Phật bao gồm những gì không? Nếu chúng
ta tóm tắt, thì Lời dạy của Đức Phật bao gồm Tam
học: Giới học (Sīla Sikkhā), Định học (Samādhi
Sikkhā) và Tuệ học (Paññā Sikkhā). Ở đây, tôi sẽ
giải thích vắn tắt.
Giới học – Sīla Sikkhā
Sīla hay Giới, là sự thực hành đầu tiên trong lời dạy
của Đức Phật. Người giữ giới thanh tịnh sẽ được mọi
người biết đến là người tốt, còn những ai thường
xuyên phá giới sẽ không có danh tiếng tốt trong
xã hội.
Rất nhiều vấn đề trong thế giới hiện đại phát sinh bởi
vì con người không giữ giới. Người ta giết hại lẫn
nhau, trộm cắp tài sản của người khác, thực hành tà
hạnh, nói dối, uống rượu, v.v… Nếu con người gìn
giữ và bảo vệ những học giới, thì chiến tranh và
những sự mâu thuẫn trên thế gian này sẽ đi đến hồi
kết thúc. Giới (Sīla) rất quan trọng trong việc tạo
nên hoà bình thế giới. Nếu cứ chiến tranh, giết chóc
liên hồi để đạt được danh lợi thế gian, thế giới này sẽ
không bao giờ yên bình, xã hội vẫn mãi đau thương
và loài người vẫn cứ sống trong lo lắng, sợ hãi. Nếu
ai cũng giữ giới tốt, thế giới này sẽ trở thành một nơi
yên bình, hạnh phúc hơn rất nhiều.

1
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Đức Phật giải thích năm điều lợi ích cho những ai có
giới thanh tịnh1:
(1) Được nhiều của cải, tài sản (mahantaṃ
bhogakkhandhaṃ adhigacchati),
(2) Được danh thơm tiếng tốt (kalyāṇo
kittisaddo abbhuggacchati),
(3) Tự tin tiếp xúc với bất kỳ tầng lớp xã hội hay
hội chúng nào, dù đó là các Bậc Thánh, các
vị Bà-la-môn, gia chủ hay người xuất gia
(yaññadeva parisaṃ upasaṅkamati),
(4) Chết với tâm thanh thản (asammūḷho
kālaṅkaroti),
(5) Sau khi thân hoại, mạng chung được sinh về
nhàn cảnh, cõi trời (kāyassa bhedā paraṃ
maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati).
Cuộc sống vốn vô thường. Khi vừa bắt đầu cuộc đời
này, chúng ta cần phải chấp nhận rằng cái chết sẽ
đến một ngày nào đó. Nếu không chứng đắc thành
bậc A-la-hán trong kiếp này, ta sẽ tiếp tục tiến trình
tái sinh sau khi chết. Không giống như những người
đã chứng đắc trở thành các Bậc Thánh vốn có thể
chọn lựa cảnh giới tái sinh cho những kiếp sống còn
lại của mình, sự tái sinh của người phàm phu là bất
định. Đó có thể là các cõi khổ, cõi người hay các cõi
trời dục giới. Nhưng nếu có thể giữ gìn và trông nom

1
Dīgha Nikāya, Mahāvagga, Mahāparinibbānasuttaṃ,
‘Sīlavanttānisaṃsā- Suttaṃ’ (Kinh lợi ích của việc giữ giới).

2
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

giới hạnh của mình thanh tịnh cho đến khi chết, họ
sẽ không phải lo lắng về cảnh giới tái sinh tiếp theo.
Họ sẽ được sinh vào nơi nhàn cảnh.
Nếu quý vị có thể giữ giới thanh tịnh, sẽ có nhiều nơi
cho quý vị sống. Chẳng hạn, nếu không có nhiều tiền
của, quý vị có thể đến Trung tâm Thiền Pa-Auk của
chúng tôi để thực hành Pháp. Chúng tôi có thể chăm
sóc và hỗ trợ quý vị thực hành thiền. Chúng tôi có
nhiều thí chủ hảo tâm sẵn sàng giúp đỡ những người
giữ giới tốt. Họ sẽ hộ độ sự thực hành giới thanh tịnh
và sự thực hành thiền của quý vị.
Bất luận có phải là Phật tử hay không, nếu quý vị
phá giới, sát sinh, trộm cắp, v.v…, nếu đã gieo những
hạt giống của bất thiện nghiệp, thì sẽ nhận lấy quả
khổ đau. Nếu quý vị có giới thanh tịnh, nếu đã gieo
hạt giống của thiện nghiệp thì chắc chắn sẽ trải
nghiệm kết quả tốt đẹp, an vui. Sự hiểu biết về những
điều lợi ích trong việc giữ giới cho quý vị thêm động
lực và sự tinh tấn để vun bồi sự thực hành này. Điều
đó đưa đến lợi lạc không chỉ trong kiếp sống này mà
còn trong những kiếp sống tương lai.
Mặc dù giữ giới thanh tịnh, quý vị vẫn sẽ thấy rằng
thật khó để giữ tâm mình luôn ở trạng thái hiền thiện,
tích cực. Tâm vẫn cứ dính mắc với sự tham lam
(lobha), sân hận (dosa) và si mê (moha). Với những
phiền não này, tâm không thể đạt đến sự an lạc, hạnh
phúc. Vì vậy, để tâm được thanh tịnh, an lạc và hạnh
phúc, quý vị cần phải tu tập bước thứ hai trong lời
dạy của Đức Phật – Định học (Samādhi Sikkhā).

3
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Định học – Samādhi Sikkhā


Để phát triển định tâm, Đức Phật dạy 40 đề mục
thiền Định (Samatha)2. Không có tham (lobha), sân
(dosa) và si (moha) trong tâm khi hành giả chìm vào
một đối tượng thiền suốt một giờ, hai giờ, ba giờ hoặc
lâu hơn. Khi những phiền não nội tâm tạm thời được
vượt qua, tâm trở nên an lạc, thanh tịnh và tĩnh lặng.
Trong số 40 đề mục thiền Định, quý vị có thể chọn
một đề mục phù hợp với căn tính của mình. Nhưng
tại Trung tâm Thiền Pa-Auk, chúng tôi thường bắt
đầu bằng việc dạy thiền niệm hơi thở
(Ānāpānassati). Từ kinh nghiệm của nhiều thiền
sinh, chúng tôi biết rằng khi một thiền sinh thực
hành niệm hơi thở miên mật, định tâm chắc chắn sẽ
phát triển. Thiền niệm hơi thở có thể được thực hành
lên tới tứ thiền. Khi chứng đắc thiền an chỉ, tâm có
thể được duy trì trên một đối tượng trong một thời
gian dài và trở nên rất an lạc, thanh tịnh và tĩnh lặng.
Không có một trạng thái bất thiện nào có thể
sinh khởi lúc đó.
Thậm chí khi không có những lạc thú về tài sản
vật chất, nếu có định tâm mạnh mẽ, quý vị vẫn có
thể sống an vui, hạnh phúc một mình ở trong rừng.
Bằng việc thực hành, quý vị sẽ trải nghiệm trực tiếp
tất cả sức mạnh của tâm định và lợi lạc của nó.

2
Xem Phụ lục 1: “Bốn mươi đề mục thiền Định”, trang 109.

4
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Tuy vậy, dù với mức độ an lạc, thanh tịnh và tĩnh


lặng thâm sâu như vậy, hành giả vẫn chưa nhổ tận
gốc những trạng thái tâm bất thiện. Nếu hành giả
ngưng hành thiền, định tâm có thể sẽ giảm đi. Thiền
Định (Samatha) hay thiền Hiệp thế (Lokiya) không
phải là một sự chứng đắc thường hằng. Nó có thể
giảm thiểu hoặc mất đi khi sự thực hành bị
ngưng lại. Rồi thì các trạng thái tâm bất thiện có thể
xuất hiện trở lại và hành giả sẽ dễ dàng phạm giới
nếu không cẩn trọng. Nếu như gốc rễ của những
phiền não nội tâm vẫn còn, thì bất cứ sự hạnh phúc
nào đạt được bởi thiền Định (Samatha) đều không
thường hằng. Đó là lý do tại sao hành giả cần tiếp
tục thực hành bước cuối cùng trong Lời dạy của
Đức Phật, sự thực hành trí tuệ (Paññā Sikkhā).
Tuệ học – Paññā Sikkhā
Ở Trung tâm Thiền Pa-Auk, sau khi phát triển
định tâm, các Thiền sư sẽ hướng dẫn thiền sinh thực
hành thiền Tứ Đại. Thông qua thiền Tứ Đại, hành
giả có thể phân tích 28 sắc (rūpa – vật chất). Sau khi
hoàn tất việc phân tích sắc, hành giả sẽ tiếp tục phân
tích danh (nāma – tâm lý). Với nền tảng mạnh mẽ
từ thiền Định (Samatha), hành giả có thể phân tích
sự thật cùng tột của danh – sắc (nāma-rūpa) theo
đúng bản chất của chúng.
Để hiểu được điều này, quý vị cần biết rằng
Đức Phật dạy về bốn loại sự thật cùng tột
(paramattha-dhammā). Chúng là những gì?

5
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

1. Citta (tâm)
2. Cetasika (tâm sở hay các yếu tố tâm lý)
3. Rūpa (sắc hay vật chất)
4. Nibbāna (sự vắng mặt của danh, sắc và
sự khổ; là hạnh phúc, an lạc tối hậu)
Citta (Tâm) và Cetasika (Tâm sở) là những thực tại
cùng tột của danh (nāma). Kế tiếp, chúng ta có
thực tại cùng tột của sắc (rūpa) và Níp-bàn
(Nibbāna3). Nếu không phát triển định tâm thâm
sâu, một người chỉ có thể thấy được những sự thật
chế định, như là vị tỳ-khưu, cô tu nữ, đàn ông, đàn
bà, chàng trai, cô gái, v.v… Theo sự thật cùng tột
(chân đế), không có những thứ như con vật, con
người, chư thiên, Phạm thiên hay đại loại như thế mà
chỉ có những danh và sắc cùng tột mà thôi. Nếu
không có định tâm, người ta chỉ biết đến những khái
niệm và thấy những nguyên khối. Nếu muốn thấy
danh – sắc cùng tột, quý vị nên thực hành một đề
mục thiền Định để phát triển định tâm. Dựa trên
tâm định này, hành giả tiến tu để thực hành thiền Tứ
Đại.
Vậy tứ đại là gì? Chúng là đất, nước, lửa và gió.
Khi hành giả phân tích bốn nguyên tố này một cách
rõ ràng trên toàn thân từ đầu đến chân, từ chân đến
đầu, lặp đi lặp lại, họ sẽ kinh nghiệm toàn thân của

3
Nibbāna = asaṅkhata dhātu (trạng thái không bị điều kiện hoá
hoặc tạo tác hay là yếu tố an lạc – vô vi giới).

6
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

họ như một khối tứ đại4. Khi điều này xảy ra,


sự nhận thức về “bản ngã” tạm thời biến mất.
Hành giả sẽ kinh nghiệm rằng không có đàn ông,
đàn bà, v.v…
Sau khi có thể phân tích tứ đại trong chính cơ thể
của mình, quý vị có thể phân tích những ngôi nhà,
xe cộ, v.v… ở bên ngoài và thấy bản chất cùng tột
vốn dĩ là những nhóm tứ đại của chúng. Khi thiền
sinh hoàn tất việc phân tích tứ đại, họ sẽ sẵn sàng
tiếp tục sự thực hành thiền Phân tích Sắc (rūpa-
kammaṭṭhāna) – sự phân tích 28 loại sắc (vật chất)5.
Trong cuộc sống hàng ngày, quý vị có thể không
nghĩ rằng thân thể và tâm trí của chúng ta đang thay
đổi. Sự thật rằng tâm và thân của mình luôn thay đổi
có thể không rõ ràng trong quý vị. Bằng việc quán
chiếu cách nhìn nhận về năm nay so với năm ngoái,
quý vị có thể thấy được một số thay đổi chung
chung. Nhưng để biết và thấy bản chất thay đổi ở
mức độ thâm sâu nhất của những sự thật cùng tột,
cần phải phát triển đủ định tâm; chỉ lúc đó, quý vị
mới có thể thấy bản chất chân thật nhất của các
thực tại cùng tột.
Sau khi phân tích các sắc, hành giả có thể tiến lên
phân tích danh thông qua việc thực hành thiền
Phân tích Danh (nāma-kammaṭṭhāna).

4
Xin gặp những vị thầy có năng lực để thực hành theo hệ thống.
5
Xem Phụ lục 2: “Hai mươi tám loại Sắc”, trang 112.

7
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Rồi sau khi có thể phân tích được danh – sắc (nāma-
rūpa), hành giả phải phân tích những nguyên nhân
của chúng, vốn là sự phân tích Lý Duyên Khởi
(Paṭicca- Samuppāda). Lý Duyên Khởi là cách mà
các nhân và quả vận hành qua ba thời quá khứ, hiện
tại và vị lai. Đức Phật dạy bốn phương pháp để phân
tích Lý Duyên Khởi tuỳ theo tính cách của người
nghe, đồng thời còn có phương pháp thứ năm được
Đại Đức Sāriputta giảng dạy.
Tại các thiền viện Pa-Auk, chúng tôi thường chỉ dạy
hai phương pháp: Phương pháp thứ nhất và
Phương pháp thứ năm. Phương Pháp thứ nhất được
lưu lại, chẳng hạn như trong Kinh Đại Duyên
(Mahānidāna-Suttaṃ) thuộc Trường bộ Kinh
(Dīgha-Nikāya) và Phẩm Duyên (Nidāna-Vagga)
thuộc Tương Ưng bộ Kinh (Saṃyutta-Nikāya).
Phương pháp thứ năm được lưu lại trong Phân tích
Đạo (Paṭisambhidā-Magga), phần Giải thích về Trí
về sự hiện diện của các Pháp (Dhamma-Ṭṭhiti-
Ñāṇa-Niddeso).
Chỉ sau khi có thể phân tích danh – sắc và các nhân
của chúng, quý vị mới có thể thấy được bản chất của
chúng. Bản chất của chúng là gì? Chúng luôn luôn
sinh lên và diệt đi theo tốc độ vô cùng nhanh chóng.
Ở giai đoạn chân đế (paramattha) này, quý vị có thể
bắt đầu thẩm sát danh – sắc và các nhân của chúng
là vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã
(anatta).

8
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Tất cả danh – sắc (nāma-rūpa) đều vô thường


(anicca) bởi luôn luôn sinh và diệt. Bởi vì chúng vô
thường, khi vừa sinh lên, chúng đã diệt đi nên chúng
là khổ (dukkha). Danh – sắc (nāma-rūpa) là vô ngã
bởi nếu có một “bản ngã” chúng sẽ tuân theo ước
muốn của chúng ta, sẽ không đau bệnh, sẽ không
già, không chết. Nhưng bởi vì bản chất vô ngã,
chúng ta đau bệnh, già nua và chết đi. Khi chúng ta
quán tưởng danh – sắc là vô thường, khổ, vô ngã,
đây chính là sự thực hành Minh Sát (Vipassanā), là
Tuệ học.
Sự phát triển các Tuệ Minh Sát6 tuần tự, thứ lớp
thông qua sự thực hành thiền Minh Sát (Vippasanā)
sẽ dần dần làm suy yếu phiền não cho đến khi giác
ngộ Đạo – Quả (Magga-Phala) và đích của sự
giác ngộ – Níp-bàn (Nibbāna).
Sự giác ngộ Níp-bàn có nghĩa là hành giả đã bắt đầu
sự tận diệt các phiền não bằng việc chứng đắc những
bậc Thánh. Đó là:
1. Sotāpanna (Bậc Thánh Nhập Lưu)
Sotāpatti-Magga-Ñāṇa (Nhập Lưu Đạo Trí), phá
hủy ba sự trói buộc/ pháp triền (saṃyojana):
i. thân kiến (sakkāya-diṭṭhi),

6
Xem Phụ lục 3: “Mười sáu Tuệ Minh Sát (Vipassanā Ñāṇa)”,
trang 115.

9
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

ii. hoài nghi (vicikicchā) về Tam Bảo, các kiếp


sống quá khứ và tương lai, sự vận hành của
nghiệp (kamma), v.v…,
iii. sự chấp thủ những nghi lễ và cúng tế sai lạc
(sīlabbata-parāmāsa).
Bậc Thánh Nhập Lưu bây giờ đã có niềm tin bất
động nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, niềm tin
bất động nơi Tam học, niềm tin bất động nơi các
kiếp sống quá khứ, niềm tin bất động nơi các kiếp
sống vị lai, niềm tin bất động nơi các kiếp sống quá
khứ và vị lai và niềm tin bất động nơi Lý Duyên
Khởi. Một người là vị Thánh Nhập Lưu không còn
có thể nắm giữ tà kiến về sự vận hành của nghiệp và
cũng không thể phạm phải Ngũ Giới. Một vị Thánh
Nhập Lưu chắc chắn sẽ chứng đắc thành bậc A-la-
hán trong vòng bảy kiếp sống, là người, là chư thiên
hay Phạm thiên.
2. Sakadāgāmī (Bậc Thánh Nhất Lai)
Sakadāgāmī-Magga-Ñāṇa (Nhất Lai Đạo Trí)
không phá hủy phiền não nào mà chỉ làm yếu đi sự
trói buộc của dục tham, sân hận và si mê. Một vị
Thánh Nhất Lai có thể tái sinh vào thế giới loài người
chỉ một lần và chắc chắn sẽ chứng đắc A-la-hán ngay
trong kiếp sống đó.
3. Anāgāmī (Bậc Thánh Bất Lai)
Anāgāmī-Magga-Ñāṇa (Bất Lai Đạo Trí) phá hủy:
iv. tất cả tham dục (kāmarāga), còn lại,

10
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

v. tất cả sân (paṭigha) còn lại, gồm cả sự hối hận.


Bậc Thánh Bất Lai không còn có thể hành dâm, nói
xấu, nói lời thô ác hay sân hận nữa. Các Ngài sẽ
không bao giờ tái sinh trở lại thế giới loài người hay
chư thiên dục giới được nữa. Vị Thánh Bất Lai chắc
chắn sẽ chứng đắc A-la-hán như một vị Phạm thiên
ở một kiếp sống sau đó.
4. Arahanta (Bậc Thánh A-la-hán)
Arahatta-Magga-Ñāṇa (A-la-hán Đạo Trí), phá
hủy:
vi. tham ái đối với các cõi Sắc giới và thiền sắc
giới (rūparāga),
vii. tham ái đối với các cõi vô sắc và thiền vô sắc
(arūparāga),
viii. ngã mạn (māna),
ix. phóng dật (uddhacca), và
x. vô minh (avijjā).
Một cách vắn tắt, bậc Thánh A-la-hán đã hoàn toàn
đoạn tận tham (lobha), sân (dosa) và si (moha).
Hành động của vị Thánh A-la-hán không cho
nghiệp bất thiện hay thiện. Tác ý của vị Thánh A-
la-hán đơn thuần là duy tác (kiriya). Không còn
tái sinh đối với vị A-la-hán.
Khi hành giả giác ngộ Níp-bàn (Nibbāna), họ có thể
sống thực sự an bình, hạnh phúc sâu sắc và thảnh
thơi. Đây được gọi là Pháp Siêu thế (Lokuttara
Dhamma). Khi một người giác ngộ Níp-bàn, họ sẽ

11
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

không thể nào mất đi sự chứng đắc này nhờ vào


năng lực của Đạo và Quả (Magga và Phala).
Bây giờ quý vị hiểu rằng Giới học (Sīla Sikkhā),
Định học (Samādhi Sikkhā) và Tuệ học (Paññā
Sikkhā) là những lời giáo huấn của Đức Phật dẫn lối
chúng ta đến sự giải thoát khổ đau. Mục đích là hạnh
phúc cao nhất của Níp-bàn. Quý vị có thể tận hưởng
hạnh phúc của Pháp bằng cách thực hành tuần tự
những lời dạy của Đức Phật. Để chứng đắc Níp-bàn,
quý vị cần thực hành thiền cùng với năm yếu tố cần
thiết cho việc hành thiền. Năm yếu tố cần thiết này
được gọi là padhāniyaṅga trong Pāḷi.

12
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Năm yếu tố cần thiết


cho việc hành thiền
(Padhāniyaṅga)
Tôi muốn chia sẻ bài Pháp về năm padhāniyaṅga –
năm yếu tố cần thiết cho việc hành thiền, được trích
dẫn từ Kinh Tinh Cần Chi thuộc Tăng Chi Bộ Kinh
(Aṅguttara Nikāya, Pañcakanipāta,
Dutiyapaṇṇāsakaṃ, Nīvaraṇavagga, Padhāniyaṅga
Sutta (5.53)). Năm yếu tố đó là gì?
Yếu tố đầu tiên là:
1. Saddhā (Niềm tin)
“Saddho hoti, saddahati tathāgatassa bodhiṃ.”
“Vị ấy đặt niềm tin vào sự giác ngộ của Như Lai. Đó
là niềm tin.”
Hành giả nên có niềm tin vào Toàn Giác Trí của
Đức Phật với sự hiểu biết rằng Đức Phật có chín Ân
Đức. Đồng thời, hành giả nên có niềm tin vào Pháp
và Tăng, cũng như sự tự tin nơi chính họ.
Chín Ân Đức Phật:
1. Arahaṃ, xứng đáng sự tôn kính cao nhất;
2. Sammā Sambuddha, hoàn toàn tự mình
giác ngộ;
3. Vijjācaraṇasampanna, hoàn thiện về
chánh trí, chánh hạnh;
4. Sugata, chỉ nói những gì lợi lạc và chân chánh;

13
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

5. Lokavidū, thông hiểu tam giới một cách


chi tiết;
Tam giới là:
a) Thế giới của chúng sinh có tâm thức
(satta-loka),
b) Thế giới của các hành (saṅkhāra-loka),
c) Thế giới làm nền tảng của các cõi
(okāsa-loka);
6. Anuttaro purisadamma-sārathi, bậc điều
phục những ai đáng được điều phục;
7. Satthā deva-manussānaṃ, thầy của chư thiên
và nhân loại;
8. Buddha, bậc tự mình giác ngộ Tứ Thánh Đế
và giảng dạy người khác giác ngộ;
9. Bhagavā, thừa hưởng sáu phẩm chất
vinh quang cao thượng (mà các đệ tử
không thể đạt được), bao gồm:
i. Issariya (Cao nhất, Cùng tột),
ii. Dhamma (Trí về Chín Siêu thế Pháp, tức
là bốn Đạo, bốn Quả và Níp-bàn),
iii. Yasa (Danh tiếng và Đồ chúng),
iv. Sirī (Sự huy hoàng, toàn hảo của
sắc thân),
v. Kāma (Sức mạnh của sự thành tựu), và
vi. Payatta (Sự tinh tấn vô song).
2. Appābādha (Sức khỏe)
“Appābādho hoti appātaṅko.”
“Vị ấy khỏe mạnh, không tật bệnh.”

14
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Việc hành thiền đòi hỏi một thể trạng sức khỏe tổng
quát tốt. Lý tưởng là một người không bị tật bệnh,
thân không bị đau nhức, tiêu hoá tốt, không quá
lạnh, không quá nóng, sự tiêu hoá được phù hợp.
Những điều này cung cấp những điều kiện thuận lợi
cho việc hành thiền. Ngày nay, một số người cố gắng
cải thiện sức khỏe của họ bằng cách ăn chế độ ăn
lành mạnh và sử dụng các phương pháp thải độc
tự nhiên.
3. Asaṭha (Chân thật)
“Asaṭho hoti amāyāvī.”
“Vị ấy chân thật và chân thành.”
Hành giả phải chân thật và chân thành trình bày
đúng sự thật về bản thân họ đối với các vị thầy hoặc
các bạn đồng tu trong cuộc đời phạm hạnh.
4. Vīriya (Tinh tấn)
“Āraddhavīriyo viharati.”
“Vị ấy sống vô cùng tinh tấn.”
Hành giả nên lập đại tinh tấn để loại bỏ những điều
bất thiện và để đạt đến những phẩm chất thiện lành.
Hành giả nên ra sức tinh tấn mãnh liệt để hoàn thiện
các ba-la-mật (pāramī) và không bao giờ ngưng nghỉ
việc tạo tác các thiện Pháp. Điều này có nghĩa là quý
vị phải có năng lượng mạnh mẽ hay phải tạo nên sự
tinh tấn mãnh liệt. Nhưng sự tinh tấn ở đây đặc biệt
lên hệ đến sự tinh tấn trong thiền tập. Hành giả nên
hành thiền với sự tinh tấn mãnh liệt đó và không

15
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

ngừng hành thiền. Nếu ngưng thực hành, quý vị sẽ


không đạt được mức độ định tâm thâm sâu và sẽ
không giác ngộ Níp-bàn.
5. Paññā (Trí tuệ)
“Paññavā hoti”
“Vị ấy có trí tuệ.”
Hành giả nên có được trí tuệ Minh Sát Trí
(Vippasanā-Ñāṇa); Minh Sát Trí ở đây đặc biệt ám
chỉ Trí tuệ về sự Sinh Diệt (Udayabbaya-Ñāṇa) của
danh – sắc (nāma-rūpa) và những nguyên nhân của
chúng. Ví dụ, bây giờ quý vị đang đọc một bài Pháp.
Tâm của quý vị câu hữu với trí tuệ, nhưng đó là trí
tuệ bình thường, không phải trí tuệ Vippasanā.
Năm padhāniyaṅga này còn có thể được gọi là năm
yếu tố cần thiết cho việc hành thiền để giác ngộ Níp-
bàn. Khi có đầy đủ năm yếu tố này, quý vị có thể
giác ngộ Níp-bàn. Nếu quý vị chưa vun bồi năm yếu
tố này, việc giác ngộ Níp-bàn là không thể. Quý vị
vẫn phải cần thực hành thêm nữa. Trước khi chúng
ta thảo luận thêm về chúng một cách chi tiết, tôi sẽ
kể cho quý vị nghe một câu chuyện. Quý vị có biết
vương tử Bồ-đề (Bodhi Rāja Kumāra) không7?
Vương tử Bồ-đề là con của vua Udena. Vương tử
học kỹ thuật cưỡi voi và điều khiển móc nhọn từ

7
Majjhima Nikāya, Majjhimapaṇṇāsa, Rājavagga, Kinh Vương tử
Bồ-đề (Bodhi-Rāja-Kumāra-Suttaṃ).

16
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

vương phụ. Do đó chàng trở thành chuyên gia trong


lĩnh vực điều phục voi. Một ngày nọ, vương tử Bồ-
đề thỉnh Đức Phật cùng Chư Tăng tới dự lễ khánh
thành vương điện của chàng. Vào dịp đó, Đức Phật
giảng giải tuần tự từng bước cách mà Ngài đã thực
hành Tam học, Giới học, Định học, Tuệ học (Sīla,
Samādhi, Paññā) hay Bát Chánh Đạo8 cho đến khi
Ngài trở thành Bậc Giác ngộ.
Sau khi Đức Phật kết thúc Pháp thoại, vương tử
Bồ-đề hỏi Ngài một câu hỏi:
- Kính bạch Đức Thế Tôn! Đối với một người có
được một vị lãnh đạo, một Đạo Sư như Ngài, vị ấy
cần tu tập bao lâu để đạt tới quả vị A-la-hán và
thọ hưởng sự tịnh lạc?
Đức Phật trả lời:
- Này Vương tử, liên hệ đến vấn đề này, ta sẽ hỏi
vương tử một câu hỏi và nếu muốn, người có thể trả
lời: Vương tử có thiện xảo trong kỹ thuật cưỡi voi và
điều khiển móc nhọn9 không?
Vương tử trả lời:
- Bạch Thế Tôn! Con thiện xảo trong kỹ thuật
cưỡi voi và điều khiển móc nhọn.

8
Bát Chánh Đạo bao gồm: Chánh Kiến, Chánh Tư duy, Chánh
Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm,
Chánh Định.
9
Angkusha hay cái móc nhọn để móc bò.

17
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Đức Phật lại hỏi Vương tử: Này vương tử, giả như
có người biết rằng vương tử thiện xảo trong kỹ thuật
cưỡi voi và dùng câu móc. Vị ấy đến học kỹ thuật
cưỡi voi và dùng câu móc từ vương tử với những
khiếm khuyết sau:
1. Thiếu niềm tin: Vị ấy không có đủ niềm tin để
đạt đến một tiêu chuẩn hay mục tiêu
mong muốn.
2. Tật bệnh: Vị ấy chịu những bệnh tật đủ để
ngăn cản vị ấy đạt được mục tiêu mong muốn.
3. Dối trá: Vị ấy dối trá, khoe khoang rỗng tuếch,
những điều vốn ngăn cản vị ấy đạt được mục
tiêu mong muốn.
4. Thiếu tinh tấn: Vị ấy thiếu sự tinh tấn đúng
mức để đạt được mục tiêu mong muốn.
5. Thiếu trí tuệ: Vị ấy không đủ thông minh để
đạt được mục tiêu mong muốn.
Liệu rằng người ấy có thể học được kỹ thuật cưỡi voi
và điều khiển móc nhọn từ vương tử chăng?
Vương tử trả lời:
- Kính bạch Đức Thế Tôn! Không thể nào huấn
luyện một người có bất kỳ một khiếm khuyết nào
trong năm khiếm khuyết trên để đạt được mục tiêu
mong muốn, đừng nói đến việc huấn luyện một
người mà có cả năm điều khiếm khuyết như vậy.
Đức Phật lại hỏi: Vương tử thử nghĩ xem, nếu có
người đến học kỹ thuật cưỡi voi và điều khiển móc
nhọn mà có được những phẩm chất sau:

18
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

1. Niềm tin: Vị ấy có đủ niềm tin giúp vị ấy đạt


được mục tiêu mong muốn
2. Sức khỏe: Vị ấy không bị bật bệnh gì hoặc sức
khỏe tốt giúp vị ấy đạt được mục tiêu
mong muốn.
3. Thật thà: Vị ấy không có khoe khoang sai sự
thật, hoặc vị ấy là người có tâm chân thật có
thể khiến vị ấy đạt được mục tiêu mong muốn.
4. Tinh tấn: Vị ấy là người có đủ sự tinh tấn đúng
mức khiến vị ấy đạt được mục tiêu
mong muốn.
5. Trí tuệ: Vị ấy là người có trí tuệ có khả năng
đạt được mục tiêu mong muốn.
Liệu vương tử có thể huấn luyện một người với
những phẩm chất như vậy đạt được mục tiêu
mong muốn hay không?
Vương tử Bồ-đề trả lời:
- Kính bạch Đức Thế Tôn! Con có thể huấn luyện
một người dù chỉ có một trong năm phẩm chất như
trên, còn nói gì đến việc người ấy thành tựu cả năm
phẩm chất đó.
- Cũng vậy, này vương tử, có năm yếu tố này cần
cố gắng đạt được bởi một người hành thiền.
Sau đó, Đức Phật tiếp tục dạy về năm padhāniyaṅga
như tôi vừa đề cập đến trên đây, được lưu lại trong
Kinh Padhāniyaṅga Sutta như sau:

19
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

“Pañcimāni, bhikkhave, padhāniyaṅgāni. Katamāni


pañca? Idha, bhikkhave, bhikkhu saddho hoti,
saddahati tathāgatassa bodhiṃ – ‘itipi so bhagavā
arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno
sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi
satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā’ti.
Appābādho hoti appātaṅko; samavepākiniyā
gahaṇiyā samannāgato nātisītāya nāccuṇhāya
majjhimāya padhānakkhamāya; asaṭho hoti
amāyāvī; yathābhūtaṃ attānaṃ āvikattā satthari vā
viññūsu vā sabrahmacārīsu; āraddhavīriyo viharati
akusalānaṃ dhammānaṃ pahānāya kusalānaṃ
dhammānaṃ upasampadāya, thāmavā
daḷhaparakkamo anikkhittadhuro kusalesu
dhammesu; paññavā hoti, udayatthagāminiyā
paññāya samannāgato ariyāya nibbedhikāya sammā
dukkhakkhayagāminiyā. Imāni kho, bhikkhave,
pañca padhāniyaṅgānī.”
“Này các tỳ-khưu! Có năm yếu tố này hỗ trợ cho
việc thực hành thiền. Thế nào là năm?
1. Ở đây, vị Tỳ-khưu có lòng tin, tin tưởng sự
giác ngộ của Như Lai. Ngài là Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sỹ Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư,
Phật, Thế Tôn.
2. Vị ấy ít bệnh, ít não, với bộ tiêu hóa được điều
hòa, không quá lạnh, không quá nóng,
trung bình, hợp với tinh tấn.

20
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

3. Vị ấy không gian trá, xảo trá, tự mình xử sự


như chơn đối với bậc Ðạo sư, đối với các vị có
trí hay đối với các vị đồng Phạm hạnh.
4. Vị ấy sống tinh cần, tinh tấn từ bỏ các bất
thiện pháp, làm cho khởi lên các thiện pháp,
kiên cố, kiên trì, không từ bỏ gánh nặng
đối với các thiện pháp.
5. Vị ấy có trí tuệ thành tựu trí tuệ về sự sinh diệt
(của các pháp), với sự thể nhập bậc Thánh
đưa đến sự chơn chánh đoạn diệt khổ đau.
Này các tỳ-khưu! Như vậy là năm yếu tố hỗ trợ việc
thực hành thiền.”10
Do vậy, quý vị nên xem xét và quán chiếu: Liệu rằng
quý vị có được năm yếu tố này hay không. Nếu
không có, quý vị không thể giác ngộ Níp-bàn được.
Quý vị cần thực hành miên mật, phát triển và
hoàn thiện năm yếu tố này.

10
Majjhima Nikāya, Majjhimapaṇṇāsa, Rājavagga, Kinh Vương tử
Bồ-đề, bản dịch của HT Thích Minh Châu – ND.

21
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Chúng ta hãy nghiên cứu từng yếu tố một theo sự


giải thích từ Chú giải.
1. Saddhā (Niềm tin)
Chú giải giải thích Niềm tin hay Tín (saddhā) bằng
cách phân chia làm bốn loại:
1. Āgama-saddhā (niềm tin tôn giáo)
2. Adhigama-saddhā (niềm tin do chứng đạt)
3. Okappana-saddhā (niềm tin kiên định)
4. Pasāda-saddhā (niềm tin do cảm hứng)
Tôi sẽ giải thích thêm về bốn loại niềm tin này ở
phần tiếp theo.
[a] Āgama-saddhā (Niềm tin tôn giáo)
“Tattha sabbaññubodhisattānaṃ saddhā,
abhinīhārato paṭṭhāya āgatattā āgamasaddhā
nāma.”
“Niềm tin của Đức Bồ-tát trở nên bất động từ khi
lập đại nguyện để trở thành một vị Phật được gọi là
niềm tin tôn giáo (āgama-saddhā).”
Đức Bồ-tát của chúng ta đã lập nguyện để trở thành
một vị Phật vào thời kỳ Đức Phật Nhiên Đăng
(Dīpaṅkara Buddha) cách đây bốn A-tăng kỳ kiếp

22
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

(asaṅkheyya kappa11) và 100.000 đại kiếp (kappa12).


Kể từ lúc đó cho đến kiếp sống cuối cùng khi là Thái
tử Tất-đạt-đa (Siddhatta), Ngài không bao giờ đánh
mất niềm tin của mình. Đức Bồ-tát cần phải bồi bổ
10 ba-la-mật (pāramī). Ví dụ, ba-la-mật bố thí (dāna
pāramī); có những lúc Ngài bố thí gia đình của mình
hay những bộ phận cơ thể của Ngài cho những ai
cần hay muốn chúng. Thỉnh thoảng quý vị cần phải
quán chiếu đến những phẩm chất cao thượng của
Đức Bồ-tát. Quý vị có thể làm điều như Đức Bồ-tát
hay không?
Trong số 10 ba-la-mật13 (pāramī), thì ba-la-mật bố
thí (dāna pāramī) là điều dễ làm nhất để trở thành
một Đức Phật. Dù đó là điều dễ thực hành nhất
trong số 10 ba-la-mật, có rất ít người có thể thực
hành một cách nhiệt tâm, liên tục. Nếu không thể
thể làm được như vậy, vị ấy sẽ phải ngừng con đường
của mình lại và sẽ không trở thành một Đức Phật.

11
Vô lượng kiếp.
12
Độ dài của một đại kiếp (kappa) không thể được tính toán bằng
số năm, chỉ có thể biết bằng sự suy luận. Giả sử có một cái kho lớn,
mỗi chiều dài, rộng, cao đều dài một do tuần (yojana) [xem cước
chú 21] chứa đầy hạt cải. Một hạt cải được vứt đi khi có một thế kỷ
trôi qua. Khi tất cả số hạt cải đều được vứt đi, thì thời gian được gọi
là một đại kiếp vẫn chưa kết thúc.
13
Mười ba-la-mật (pāramī) là: Bố thí (dāna), Trì giới (sīla), Xuất
gia (nekkhamma), Trí tuệ (paññā), Tinh tấn (vīriya), Nhẫn nại
(khanti), Chân thật (sacca), Quyết định (adhiṭṭhāna), Tâm từ
(mettā), và Tâm xả (upekkhā).

23
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Đức Bồ-tát của chúng ta không bao giờ thất bại


trong việc vun bồi các ba-la-mật cần thiết đối với quả
vị Phật. Xuyên suốt nhiều kiếp sống, Ngài đã bố thí
vợ, con gái, con trai, những bộ phân cơ thể và cả tính
mạng của mình không biết bao nhiêu lần. Nếu một
ai đến yêu cầu Ngài, Ngài sẽ bố thí. Nếu ai đó đòi
quý vị cho đôi mắt của mình, liệu quý vị có sẵn lòng
bố thí? Vâng, thật khó để làm được điều đó. Nhưng
dù khó đến như vậy, Đức Bồ-tát không bao giờ thất
bại trong việc bồi bổ ba-la-mật của mình. Kể từ thời
khắc Ngài nhận được lời thọ ký quả vị Phật cho đến
khi giác ngộ, Ngài không bao giờ đánh mất niềm tin
của mình. Bởi lý do đó, loại niềm tin này được gọi
là Āgama-saddhā.
[b] Adhigama saddhā
(Niềm tin do chứng đạt)
“Ariyasāvakānaṃ paṭivedhena adhigatattā
adhigamasaddhā nāma.”
“Niềm tin của các vị Thánh đệ tử trở nên bất động
kể từ khi các vị giác ngộ Níp-bàn được gọi là
niềm tin do chứng đạt (adhigama-saddhā).”
Điều này không giống với niềm tin của người thường
hay niềm tin của các vị đệ tử phàm phu. Lấy ví dụ,
bây giờ quý vị có thể có niềm tin, nhưng một trải
nghiệm không may nào đó xảy đến sẽ có thể khiến
quý vị mất đi niềm tin của mình. Trái lại, các bậc
Thánh đệ tử hay Thánh nhân – những người đã
chứng đắc Đạo Trí (Magga-Ñāṇa) hay giác ngộ

24
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Níp-bàn lại có niềm tin bất động và không thể thay


đổi ở nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng và nơi
chính bản thân họ. Niềm tin này sẽ không bao giờ
mất đi trong suốt quãng đời của họ bất luận điều gì
xảy ra đi nữa. Loại niềm tin như vậy gọi là
adhigama-saddhā tức là niềm tin do đạt được bằng
sự giác ngộ Đạo-Quả (Magga-Phala).
Liên hệ đến loại niềm tin này, tôi sẽ kể câu chuyện
về người cùi Suppabuddha, quý vị đã từng nghe câu
chuyện này chưa?
Câu chuyện về người cùi Suppabuddha
Dịp nọ, Đức Phật đang ngự tại Trúc Lâm - nơi nuôi
dưỡng những con sóc, gần thành Vương Xá
(Rājagaha). Lúc đó có người cùi Suppabuddha, một
con người nghèo nàn, khốn khổ. Đức Phật đang
thuyết Pháp có đại chúng đoanh vây. Thính chúng
bao gồm nhiều thành phần, như tỳ-khưu, tỳ-khưu ni,
thiện nam, tín nữ và những chúng sinh khác. Từ xa,
người cùi Suppabuddha nhìn thấy hội chúng đó.
Ông ta đến gần, nhìn thấy Đức Phật và nghĩ rằng:
“Đó chính là Bậc Đạo sư Cồ Đàm (Gotama) đang
thuyết giảng Giáo Pháp. Tại sao ta lại không nghe?
Ông ta ngồi ở một góc tự viện, khá xa thính chúng,
không dám lại gần người khác vì bị cùi.
Đức Phật từ bi, bao quát toàn bộ hội chúng với trí
tuệ của mình, nhìn thấy Suppabuddha có khả năng
hiểu được Pháp. Hướng nội dung Pháp thoại của

25
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

mình đến Suppabuddha14, Ngài tuần tự thuyết về


bố thí, (dāna-kathā), thuyết về giữ giới (sīla-kathā),
và thuyết về các cõi trời (sagga-kathā); Ngài tuyên
thuyết về sự bất lợi, thấp kém, khiếm khuyết của
dục lạc (kāmānaṃ-ādīnavaṃ- okāraṃ-saṅkilesaṃ-
kathā) và sự lợi ích của xuất ly (nekkhamma-
ānisaṃsaṃ-kathā). Sau đó, khi biết rằng tâm của
Suppabuddha đã sẵn sàng, không còn chướng ngại,
trở nên rõ ràng, Đức Phật thuyết về Tứ Thánh Đế.
Suppabuddha hiểu được Tứ Thánh Đế một cách
sâu sắc và trở thành một vị Thánh Nhập Lưu. Muốn
thông báo đến Đức Phật về quả chứng của mình
nhưng lại không dám mở đường đi vào giữa đại thính
chúng, ông đành phải chờ cho đến khi mọi người
đảnh lễ Đức Phật xong. Khi đám đông đã giải tán,
ông đến gặp Đức Phật.
Vào lúc đó, vua trời Đế-thích suy nghĩ: “Người cùi
Suppabuddha muốn tuyên bố về quả chứng của
mình trong Giáo Pháp của Đức Phật. Ta phải thử
ông ta!”
Rồi ông ta đi đến Suppabuddha, đứng giữa
hư không mà nói:

14
Kinh Suppabuddha Sutta; cũng được kể trong Kinh Pháp cú
(Dhammapada, Bālavagga, Udana, Soṇavagga, Câu chuyện về
người cùi Suppabuddha (Suppabuddha-Kuṭṭhi-Suttaṃ))

26
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

- Này Suppabuddha, ông là một người nghèo, bị


bệnh cùi làm cho khổ sở. Ta sẽ cho ông tài sản vô
hạn nếu ông chịu nói:
“Buddho na buddho,
dhammo na dhammo,
saṅgho na saṅgho,
alaṃ me buddhena,
alaṃ me dhammena,
alaṃ me saṅghenā.”
“Phật không phải là Phật,
Pháp không phải là Pháp,
Tăng không phải là Tăng,
Ta đã chán15 Đức Phật,
Ta đã chán Đức Pháp,
Ta đã chán Đức Tăng.”
Quý vị nghĩ như thế nào? Suppabuddha trả lời
Đế-thích như thế nào đây?
Người cùi Suppabuddha trả lời: “Ông là ai?”
- Ta là Đế-thích đây!
- Tội nghiệp cho ông, Đế thích! Ông không xứng để
nói chuyện với tôi. Ông đã nói rằng tôi nghèo và
khổ.” Rồi Suppabuddha đọc bài kệ trả lời Đế-thích

15
Từ “alaṃ” có nghĩa là “đủ” nhưng trong trường hợp này, để rõ
nghĩa, xin được dịch theo từ “enough of” trong bản gốc, có nghĩa là
“chán ngán” – ND.

27
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

“Saddhādhanaṃ sīladhanaṃ,
hirī ottappiyaṃ dhanaṃ;
Sutadhanañca cāgo ca,
paññā ve sattamaṃ dhanaṃ.”
“Yassa ete dhanā atthi, itthiyā purisassa vā;
‘Adaliddo’ti taṃ āhu, amoghaṃ tassa jīvita’nti.
Tassimāni me satta ariyadhanāni santi. Yesañhi
imāni dhanāni santi, na tveva te buddhehi vā
paccekabuddhehi vā ‘daliddā’ti vuccantī.”
“Trái lại tôi đã có,
Hạnh phúc, tài sản lớn:
Bảy tài sản Thánh nhân16.
Những ai có như vậy,
Không bị gọi là nghèo,
Theo lời Phật Toàn Giác,
Theo lời Phật Độc Giác.”
Khi Đế-thích nghe nói như vậy, ông ta đi đến Đức
Phật và trình lên Ngài cuộc đối đáp. Đức Phật nói
với ông ta: “Này Đế-thích, không thể có sự tình này.
Dù có trăm thỏi vàng, dù có ngàn thỏi vàng cũng

16
Bảy tài sản của Thánh nhân là:
1. Niềm tin nơi Tam Bảo (saddhā),
2. Giới (sīla),
3. Sự hổ thẹn làm điều bất thiện (hirī),
4. Sự ghê sợ làm điều bất thiện (ottappa),
5. Nghe nhiều hoặc đa văn (bāhusacca),
6. Hào phóng (cāga),
7. Trí tuệ (paññā).

28
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

không thể thuyết phục người cùi Suppabuddha nói


rằng: “Phật không phải là Phật, Pháp không phải là
Pháp, Tăng không phải là Tăng.” Bởi niềm tin của
ông ta đã trở nên bất động.”
Sau đó Suppabuddha đi đến Đức Phật và Ngài tiếp
ông. Sau khi thông báo lên Đức Phật quả chứng của
mình, ông liền từ chỗ ngồi đứng dậy và rời khỏi
tịnh xá.
Tại sao Suppabuddha không thể bị thuyết phục bởi
Đế-thích? Bởi vì niềm tin của bậc Thánh rất
mãnh liệt. Niềm tin của các vị sẽ trở nên bất động
ngay khi các Ngài giác ngộ Níp-bàn. Nhìn từ quan
điểm thông thường và từ bề ngoài, nhiều người sẽ
nói rằng Suppabuddha rất nghèo. Tuy nhiên,
Suppabuddha sở hữu bảy tài sản của bậc Thánh.
Chính tài sản bên trong này mới khiến ông trở thành
người thực sự giàu có. Loại niềm tin này được gọi là
adhigama-saddhā.
Bây giờ tôi sẽ chia sẻ thêm một câu chuyện liên quan
đến adhigama-saddhā vì có nhiều người thích các
câu chuyện và như vậy thì sẽ dễ hiểu hơn.
Câu chuyện tiếp theo là về Surambaṭṭha.

29
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Câu chuyện về người gia chủ


Sūrambaṭṭha
Sūrambaṭṭha17 được sinh ra trong một gia đình giàu
có tại thành Xá Vệ (Sāvatthi) trong thời kỳ Giáo
Pháp Đức Phật Gô-ta-ma. Khi đến tuổi thành hôn,
chàng lấy vợ và trở thành người hộ độ cho các
nhà tu khổ hạnh tu theo giáo lý khác.
Vào một sáng sớm nọ, Đức Phật quán xét thế gian
để xem những ai đã sẵn sàng cho sự giác ngộ và thấy
rằng phước báu của Sūrambaṭṭha đã chín muồi cho
sự chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo. Rồi Ngài đi
đến nhà Sūrambaṭṭha để khất thực.
Sūrambaṭṭha suy nghĩ: Sa-môn Gô-ta-ma xuất thân
từ hoàng tộc và có danh tiếng tốt trên thế gian. Có lẽ
sẽ thích đáng để ta đón rước Ngài.” Nghĩ vậy, chàng
đi đến Đức Phật, cúi mọp đảnh lễ dưới chân Ngài,
mang bình bát cho Ngài rồi mời Đức Phật ngồi trên
chiếc ghế trường kỷ vốn dành riêng cho các bậc
Thánh nhân. Sūrambaṭṭha cúng dường vật thực,
phục vụ Đức Phật xong rồi ngồi ở một nơi thích hợp.
Đức Phật thuyết giảng Giáo Pháp phù hợp với nền
tảng tâm linh của Sūrambaṭṭha. Vào cuối thời Pháp,
chàng trở thành một vị Thánh Nhập Lưu. Sau khi

17
Majjhima Nikāya, Mūlapaṇṇāsa Aṭṭhakathā, Cūḷayamakavagga
và Aṅguttara Nikāya, Ekakanipāta Aṭṭhakathā, Etadaggavagga
‘Sūrambaṭṭhavatthu’ (Chú giải câu chuyện về Sūrambaṭṭha).

30
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

giúp Sūrambaṭṭha chứng đắc Nhập Lưu Trí,


Đức Phật quay về tịnh xá.
Bây giờ hành giả không được quên đi Māra. Quý vị
đang chiến đấu với Māra. Māra là những gì thường
ảnh hưởng đến người ta với năm món dục lạc. Nếu
hành giả tuân theo ý của Māra cũng có nghĩa là họ
đã bại trận. Tất cả năm món dục lạc là những vũ khí
của hắn ta.
Māra18 nghĩ: “Sūrambaṭṭha, người gia chủ này
thuộc về phe của ta, hắn là đệ tử của các nhà tu khổ
hạnh ngoài Giáo Pháp Đức Phật. Nhưng hôm nay
Đức Phật lại đến nhà của hắn. Tại sao? Liệu
Sūrambaṭṭha đã trở thành bậc Thánh sau khi nghe
Pháp của Đức Phật chưa? Hắn đã thoát khỏi
phạm vi của các dục chưa? Ta phải thử mới được.”
Rồi với thần thông của mình, Māra tự hoá hiện mình
thành Đức Phật với đủ 32 tướng của bậc đại nhân.
Māra cũng hoàn thiện sự giả mạo đó với y và bát

18
Năm loại māra:
1. Thiên ma thách thức Đức Phật đòi bồ đoàn trí tuệ dưới cội
Bồ-đề bằng cách bao vây Ngài với đội quân hùng mạnh
(devaputta-māra);
2. Phiền não của tâm (kilesa-māra);
3. Những hành vi có cố ý đưa đến sự tái sinh
(abhisankhāra-māra);
4. Các uẩn thuộc danh (nāma) và sắc (rūpa) vốn hiện hữu hoá
mọi kiếp sống trước khi giác ngộ Níp-bàn (khandha-māra);
5. Cái chết (maccu-māra).

31
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

giống như của Đức Phật. Trong hình tướng này, ông
ta đứng trước cửa của người gia chủ Sūrambaṭṭha.
Sūrambaṭṭha tự hỏi tại sao Đức Phật đến thăm lần
thứ hai nhanh như vậy. Khi được gia nhân thông
báo, chàng trả lời: “Đức Phật không bao giờ đến mà
không có lý do chính đáng,” rồi chàng đi đến vị Phật
giả mạo này, tin rằng đó chính là Đức Phật thật. Sau
khi đảnh lễ vị Phật giả mạo, chàng đứng ở nơi
thích hợp rồi hỏi:
- Kính bạch Đức Thế Tôn! Thế Tôn vừa mới rời
khỏi nhà con sau bữa ăn. Vì mục đích gì Thế Tôn
lại quay trở lại?
Vị Phật giả mạo (Māra) nói:
“yaṃ te mayā, sūrambaṭṭha, rūpaṃ aniccaṃ,
vedanā aniccaṃ, saññā aniccaṃ, saṅkhāra aniccaṃ,
viññāṇaṃ aniccanti kathitaṃ, taṃ
anupadhāretvāva sahasā mayā evaṃ vuttaṃ. Tasmā
tvaṃ rūpaṃ niccaṃ, vedanā niccaṃ, saññā niccaṃ,
saṅkhāra niccaṃ, viññāṇaṃ niccanti gaṇhāhī.”
“Này Sūrambaṭṭha, ta đã không chánh niệm mà
thuyết Pháp sai lạc cho ông. Ta đã nói rằng sắc, thọ,
tưởng, hành, thức là vô thường. Nhưng giờ ông nên
ghi nhớ rằng sắc, thọ, tưởng, hành, thức là
thường hằng.”
Người gia chủ Sūrambaṭṭha, một vị Thánh Nhập
Lưu trở nên bực mình bởi lời nói đó. Chàng suy xét:
“Những câu nói này chính là lời phỉ báng thậm tệ

32
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

nhất. Đức Phật không bao giờ thất niệm mà thuyết


Pháp sai lạc cả. Người ta nói rằng Māra là kẻ
chống đối Đức Phật. Chắc chắn rằng đây chính là
Māra.”
Rồi chàng hỏi Māra: “Ngươi là ai? Ngươi là Māra,
có phải không?”
Māra liền hoảng hốt, dao động vì bị bậc Thánh hỏi
tội cũng như vừa bị một cây búa nện xuống hắn ta.
Sự giả mạo của hắn biến mất và hắn phải thừa nhận:
“Phải! Này Sūrambaṭṭha, ta chính là Māra.”
Sau đó Sūrambaṭṭha nghiêm nghị nói với Māra:
“Này Māra ác độc kia, tại sao ngươi lại nói như vậy?
Dù có một ngàn loại như ngươi cũng không thể nào
làm dao động niềm tin của ta. Chính Đức Phật
Gô-ta-ma, trong thời Pháp của mình, đã dạy: “Tất
cả hành vô thường.” Và Pháp của Đức Phật đã dẫn
dắt ta đến với Nhập Lưu Thánh Đạo. Hãy cút đi!”
Bằng cách búng ngón tay, chàng xua đuổi Māra đi.
Với sự quở trách như vậy từ một bậc Thánh, Māra
không thể làm được gì mà biến mất ngay lập tức.
Vào buổi tối, Sūrambaṭṭha đi đến Đức Phật kể về
chuyện Māra đến nhà chàng, cố gắng làm lung lạc
niềm tin của chàng và cách mà chàng xử lý Māra.
Niềm tin của một vị Thánh thì bất động. Dù Māra
có cố gắng đánh lừa họ, niềm tin của họ cũng sẽ
không bị thay đổi hoặc dao động. Nhưng nếu Māra
thuyết phục quý vị, chuyện gì sẽ xảy ra? Bây giờ,

33
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

quý đang hành thiền miên mật nhưng thỉnh thoảng


ngay cả sau một thời gian dài miên mật như thế, việc
đắc định vẫn rất khó khăn. Lúc đó Māra có thể đến
và thuyết phục quý vị: “Tại sao lại không hưởng thụ
dục lạc?” Liệu quý vị có chấp nhận thỉnh mời này
của ông ta hay không?
Có một ví dụ từ một hành giả ở đây. Không lâu trước
đây, khi anh ta đến đây, anh ta nói với tôi rằng:
“Bạch Ngài! Con đã giải quyết xong tất cả vấn đề
trong nhà con rồi. Con gái con nay đã tốt nghiệp và
có việc làm. Vậy nên con không cần lo lắng cho nó
nữa. Vợ con cũng ổn, cô ấy có thể ở nhà mà không
cần đến con. Nên bây giờ con có thể tập trung vào
việc thực hành thiền. Đó là lý do con muốn
xuất gia.”
Tôi đã nghĩ rằng nếu xuất gia, anh ta có thể tu tập
trong nhiều năm. Rồi tôi nói anh ta: “Được rồi! Nếu
đã có niềm tin như vậy, tôi sẽ giúp anh xuất gia.”
Chỉ vài tháng trôi qua, anh ta đã muốn xả y. Anh
nói: “Bạch Ngài! Con cần phải về nước.”
Anh ta cho tôi nhiều lý do lắm: “Con cần phải chăm
sóc mẹ, con cần phải làm điều này, con cần phải làm
điều nọ.” Anh ta có nhiều lý do lắm. Loại niềm tin
như thế này không phải là adhigama-saddhā. Niềm
tin của những người phàm phu thì dễ bị
thay đổi.
Tiếp tục câu chuyện về Sūrambaṭṭha...

34
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Nhân một dịp nọ, Đức Phật tuyên bố:


“Etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ
upāsakānaṃ paṭhamaṃ aveccappasannānaṃ
yadidaṃ sūrambaṭṭho.”
“Này các tỳ-khưu, giữa các đệ tử cư sĩ có niềm bất
động tịnh tín trong Giáo Pháp của ta, Sūrambaṭṭha
là tối thắng.”
Đó là câu chuyện về Sūrambaṭṭha. Còn bây giờ
chúng ta nên tiếp tục với loại đức tin tiếp theo.
[c] Okappana-saddhā (Niềm tin kiên định)
“Buddho dhammo saṅghoti vutte acalabhāvena
okappanaṃ okappanasaddhā nāma.”
“Niềm tin vững chắc nơi Phật, nơi Pháp, nơi Tăng
được củng cố kiên định đúng mực được gọi là
okappana-saddhā.”
Khi nghe tới từ “Phật”, “Pháp”, và “Tăng” niềm tin
của một người trở nên mạnh mẽ. Khi hành giả chiêm
bái hình ảnh của Đức Phật, hỷ (pīti) sinh khởi cùng
niềm tin mạnh mẽ. Nếu niềm tin này được tiếp tục
và duy trì cực kỳ mãnh liệt mặc dù hành giả là người
phàm phu, niềm tin này được gọi là okappana-
saddhā. Niềm tin như vậy là một yếu tố cần thiết cho
việc thực hành thiền. Tôi sẽ chia sẻ câu chuyện về
vua Mahākappina có liên hệ đến loại niềm tin
như vậy.

35
Câu chuyện về Đại đức Mahākappina
Mahākappina19 là vua của xứ Kukkutavati. Ông có
hoàng hậu tên là Anojā và một ngàn đại thần giúp
việc quản lý đất nước. Đức vua và hoàng hậu luôn
cố gắng tìm kiếm những tin tức về Phật, Pháp, Tăng.
Một ngày nọ, ông cùng những cận thần đi vào
công viên. Ở đó, họ gặp những thương buôn từ Xá
Vệ, liền hỏi:
“Atthi pana vo padese kiñci sāsanaṃ uppanna?”
“Có tin tức gì từ nơi các ông ra đi không?”
“Deva, aññaṃ kiñci natthi, sammāsambuddho
pana uppanno.”
“Thưa Chủ công, không có tin gì ngoài việc Đức
Phật Chánh Đẳng Chánh Giác(Sammāsambuddha)
đã xuất hiện trên thế gian.”
Khi vừa nghe đến chữ “Phật” (Buddha), đức tin
mạnh mẽ đã khởi sinh trong tâm trí đức vua,
mạnh đến mức ông trở nên gần như ngất đi.
Nhà vua hỏi lại:
“Tātā, kiṃ vadethā?”
“Các ông nói gì?”

19
Khuddaka Nikāya, Dhammapada Aṭṭhakathā, Paṇḍita Vagga,
‘Mahākappinattheravatthu’ (Chú giải Kệ số 79, về đức vua
Mahākappina).

36
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Họ lặp lại:
“Buddho, deva, uppanno.”
“Thưa Chủ công, Đức Phật đã xuất hiện trên
thế gian.”
Một lần nữa, đức vua tràn ngập đức tin mãnh liệt.
Ông hỏi những thương buôn ba lần cùng một câu
hỏi. Sau đó nhà vua lệnh cho các cận thần cho những
người đó 100 ngàn đồng tiền vàng.
Rồi nhà vua lại hỏi:
“Aññampi kiñci sāsanaṃ atthī”
“Các ông có tin tức gì khác không?”
“Atthi, deva, dhammo uppanno.”
“Có, thưa Chủ công, Pháp đã xuất hiện trên
thế gian.”
Ngay khi nghe được chữ “Pháp” (Dhamma), đức
tin vô cùng mãnh liệt sinh khởi trong tâm ông và mọi
việc cũng xảy ra như lần trước. Đức vua hỏi những
người thương buôn ba lần và ban cho họ 100 ngàn
đồng tiền vàng.
Đức vua lại hỏi:
“Aparampi sāsanaṃ atthi, tātā?”
“Các ông còn có tin tức gì khác không?”
“Atthi, deva, saṅgharatanaṃ uppannaṃ.”

37
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

“Có, thưa Chủ công, Tăng đã xuất hiện trên


thế gian.”
Ngay khi nghe được chữ “Tăng” (Saṅgha), đức tin
vô cùng mãnh liệt sinh khởi trong tâm ông và mọi
việc cũng xảy ra như lần trước. Lần nữa, đức vua hỏi
những người thương buôn ba lần và ban cho họ 100
ngàn đồng tiền vàng.
Ngay khi đức vua và tuỳ tùng của mình nghe được
tin tức về Tam Bảo, họ không quay về hoàng cung
nữa. Thay vào đó, đức vua cùng các cận thần ngay
lập tức đi đến Xá Vệ để gặp Đức Phật. Hầu hết mọi
người sẽ phải sắp đặt công việc trước, nghĩ rằng:
“Ồ! Trước hết ta phải thu xếp công việc ở trong nước
rồi mới đi hành thiền sau.” Nhưng vua
Mahākappina không như vậy. Niềm tin mãnh liệt
của đức vua thúc giục phải thấy Đức Phật ngay lập
tức mà không cần quay về hoàng cung.
Trước khi từ biệt những thương buôn, đức vua yêu
cầu họ thông báo tin này đến hoàng hậu của ông.
Những thương buôn này làm theo lời yêu cầu của
vua Mahākappina và cũng nhận được phần thưởng
tương đương từ hoàng hậu.
Đức vua cùng tuỳ tùng cấp tốc phi ngựa đến Xá Vệ.
Trên đường đi, đoàn người cần phải vượt qua một
con sông sâu mà không có cầu. Các cận thần
bẩm báo đức vua rằng:

38
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

“Gambhīrato gāvutaṃ, puthulato dve gāvutāni,


devā.” “Sông rất sâu, khoảng một gāvuta20 và rộng
chừng hai gāvuta, thưa Chủ công”.
Sau đó đức vua và toàn bộ cận thần kiên định và
hướng tâm đến những Ân Đức cao thượng:
“Itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho.”
‘Buddhānussatiṃ anussaranto saparivāro
assasahassena udakapiṭṭhiṃ pakkhandi.’
Họ cùng quán tưởng đến những Ân Đức của Đức
Phật (Buddhānussati): “Đức Thế Tôn, bậc xứng
đáng sự tôn kính cao nhất, bậc Chánh Đẳng Chánh
Giác” và với sự niệm tưởng sâu sắc như vậy, những
con ngựa đã mang họ băng qua sông một cách
dễ dàng.
Niềm tin của họ vô cùng mạnh mẽ và đầy năng lực;
họ không sợ hãi cái chết nhờ sự quán tưởng Ân Đức
Phật (Buddhānussati). Sau đó họ tiếp tục cuộc hành
trình của mình. Nhiều người không sở hữu niềm tin
phi thường như Mahākappina. Họ có thể nghĩ:
“Ồ! Tôi không thể băng qua con sông này được,
tốt nhất cứ quay về hoặc đợi thuyền đến”. Hành
trình đến diện kiến Đức Phật có thể bị trì hoãn hoặc
thậm chí dừng lại giữa chừng. Mahākappina và tuỳ
tùng của mình sở hữu niềm tin mãnh liệt có thể giúp
họ vượt qua chướng ngại. Cũng bởi niềm tin và sự

20
Gāvuta = Đơn vị đo độ dài, ít hơn hai dặm một chút.

39
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

quán chiếu sâu xa đến Ân Đức Phật mà những con


ngựa có thể băng qua sông dễ như chạy trên
đất liền vậy.
Tiếp tục cuộc hành trình, họ cũng gặp hai con sông
nữa, sâu hơn, rộng hơn con sông ban đầu. Vẫn với
cách như vậy, họ băng qua chướng ngại của dòng
nước bằng cách niệm tưởng đến những Ân Đức của
Pháp (Dhammānussati) và Tăng (Saṅghānussati).
Khi Đức Phật quán xét thế gian ngày hôm đó với
năng lực siêu nhiên của mình, Ngài thấy hình ảnh
của Mahākappina đang cùng những cận thần hướng
tới thành Xá Vệ. Đức Phật biết rằng họ sẽ chứng đắc
quả vị A-la-hán sau khi diện kiến Ngài. Để gặp hội
chúng quả cảm này, Đức Phật đã đi đến một nơi
cách Xá Vệ một trăm hai mươi do tuần (yojana21) và
chờ dưới một cây đa trên bờ sông Candabhāga.
Vua Mahākappina và cận thần của mình đi đến nơi
Đức Phật đang đợi sẵn. Khi họ trông thấy Đức Phật
với hào quang sáu màu tỏa ra từ kim thân, họ đi đến
và đảnh lễ Ngài. Đức Phật sau đó đã thuyết Pháp
cho họ. Sau khi nghe, đức vua và toàn bộ các cận
thần đều chứng đắc Quả Nhập Lưu và thỉnh cầu
Đức Phật cho phép họ gia nhập Tăng đoàn. Đức
Phật gọi: “Lại đây, này tỳ-khưu!” (“Ehi bhikkhu”),
ngay lập tức họ trở thành những vị tỳ-khưu.

21
Yojana = Đơn vị đo độ dài. Có chỗ dịch là khoảng bảy dặm, có
chỗ dịch là khoảng mười dặm, hoặc 12.527 dặm.

40
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Cũng với cách như vậy hoàng hậu Anojā và vợ của


một ngàn cận thần cũng đến được nơi mà Đức Phật
đang đợi sẵn. Đức Phật sau đó thuyết một thời Pháp
nữa khiến cho đức vua và cận thần của ông chứng
đắc quả vị A-la-hán trong khi hoàng hậu và các bà
vợ của những cận thần chứng đắc quả vị Thánh
Nhập Lưu. Những tín nữ đó cũng xin phép Đức
Phật gia nhập Tăng đoàn và được hướng dẫn tiếp
tục đi về Xá Vệ. Họ gia nhập Tăng đoàn và không
bao lâu chứng đắc A-la-hán. Đức Phật quay lại chùa
Kỳ Viên (Jetavana), theo sau bởi một ngàn vị
tỳ-khưu.
Niềm tin của họ nơi Đức Phật, Đức Pháp và
Đức Tăng thật mạnh mẽ, ổn định và vững chắc.
Loại niềm tin như thế này được gọi là okappana-
saddhā. Niềm tin như vậy rất cần thiết cho việc thực
hành thiền. Quý vị cũng cần tin tưởng nơi lời dạy của
Đức Phật và Tam học bằng cách quán tưởng như
vậy: “Nếu ta thực hành lời dạy của Đức Phật một
cách chân chánh, ta nhất định sẽ giác ngộ Níp-bàn.”
Với niềm tịnh tín như vậy, quý vị nên tiếp tục hành
thiền không ngừng lại và không bỏ cuộc. Để truyền
thêm cảm hứng và khích lệ đến quý vị, tôi sẽ chia sẻ
một câu chuyện khác về người thí chủ ở chùa
Kỳ Viên, ông Cấp Cô Độc (Anāthapiṇḍika).

41
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Câu chuyện về nhà phú hộ


Anāthapiṇḍika
Nhà phú hộ Cấp Cô Độc (Anāthapiṇḍika 22) người
mà sau này trở thành thí chủ dâng cúng chùa Kỳ
Viên được sinh ra là con của ông Sumana, một đại
phú gia của thành Xá Vệ. Ông được đặt tên là
Sudatta. Sau này, người ta gọi ông là Cấp Cô Độc –
người cấp dưỡng cho những người nghèo, cô độc.
Ông Cấp Cô Độc của thành Xá Vệ và phú hộ thành
Vương Xá là anh em rể. Những khi phú hộ thành
Vương Xá thấy rằng giá hàng hoá tại Vương Xá thấp
hơn nhiều so với ở Xá Vệ, ông thường mua và du
hành đến Xá Vệ. Khi đi, ông thường mang theo 500
xe hàng chất đầy hàng hoá để bán. Thông thường,
khi còn cách nơi đến một do tuần, ông sẽ gửi một
bức thư thông báo cuộc viếng thăm của mình đến
ông Cấp Cô Độc. Và ông Cấp Cô Độc sẽ tổ chức
một cuộc tiếp đón trọng hậu cho người anh rể rồi cả
hai sẽ vào thành trên cùng một chiếc xe. Nếu hàng
hoá tìm được chợ bán ngay tại Xá Vệ, phú hộ thành
Vương Xá sẽ bán ngay. Trường hợp họ không tìm
được chợ bán, họ để chúng tại nhà của người em gái
và quay trở về thành (Vương Xá). Ông Cấp Cô Độc
cũng thường làm như vậy.

‘Anāthapiṇḍikavatthu’ – Câu chuyện về ông Cấp Cô Độc, Vinaya


22

Cūḷavagga, Senāsanakkhandhakaṃ, Dutiyabhāṇavāra.

42
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Vào khoảng hạ (vassa) thứ hai, Đức Phật Thế Tôn


cho phép các tỳ-khưu sử dụng tịnh xá theo lời
thỉnh cầu của người phú hộ thành Vương Xá.
Lúc ấy, ông Cấp Cô Độc chuẩn bị 500 cỗ xe chất
đầy hàng hoá đi đến thành Vương Xá. Như thường
lệ, ông gửi một lá thư thông báo việc viếng thăm của
mình đến người phú hộ thành Vương Xá khi còn
cách khoảng một do tuần, nhưng lần này bạn của
ông không lưu tâm đến điều ấy.
Người phú hộ thành Vương Xá, sau khi trở về từ
chùa Thi Đà Lâm (Sitavana) nơi ông được nghe một
bài Pháp từ Đức Phật, đã thỉnh mời Ngài và Tăng
đoàn đi bát để ông cúng dường vật thực vào ngày
hôm sau. Sau khi về nhà, ông bận bịu sắp xếp
cuộc tiếp rước và cúng dường cho ngày hôm sau.
Cuối cùng, ông Cấp Cô Độc đến thành Vương Xá
và chờ đợi một cuộc tiếp đón chào mừng. Thường
thì người anh rể sẽ chờ đợi ông đến như những dịp
khác, nhưng lần này ông không thấy ai tiếp rước cả
ở cổng thành lẫn ở nhà của người anh rể. Kể cả khi
ông Cấp Cô Độc đi vào nhà, cũng không nhận được
mấy lời nồng nhiệt từ người anh rể, chỉ là: “Người
đại phú thành Xá Vệ, con cái em như thế nào?
Chúng có khỏe không? Ta hy vọng em đã có
một chuyến đi dễ dàng và thoải mái.”
Rồi người phú hộ thành Vương Xá cứ tiếp tục
bận rộn chuẩn bị cho cuộc lễ cúng dường vật thực
vào ngày mai.

43
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Ông Cấp Cô Độc lấy làm lạ lắm với những cử chỉ


bất thường của người anh rể. Ông suy nghĩ rằng hẳn
đây là sự chuẩn bị cho lễ cưới hay đón tiếp vua Bình
Sa Vương (Bimbisāra). Sau khi công việc chuẩn bị
đã hoàn tất, ông Cấp Cô Độc lúc ấy mới được chú ý
tới và ông đã hỏi chuyện gì đang diễn ra.
Người phú hộ thành Vương Xá trả lời: “Này người
phú hộ, ta không tổ chức đám cưới cho con gái, con
trai. Ta cũng không thỉnh mời đức vua Bình Sa
Vương. Nhưng ta đang tiến hành những sắp xếp cần
thiết cho cuộc lễ cúng dường vật thực. Ta đã thỉnh
Đức Phật và Chư Tăng dùng cơm ngày mai để
tích lũy công đức.”
Khi ông Cấp Cô Độc nghe được từ “Đức Phật”,
toàn thân ông tràn ngập hỷ lạc (pīti)23 và liền hỏi lại
người phú hộ thành Vương Xá:

23
Có năm loại hỷ (pīti - sự thích thú), đó là:
1. Hỷ chút ít/ tiểu hỷ: lâng lâng sảng khoái, có khi nổi da gà
(khuddakā-pīti),
2. Hỷ trong khoảnh khắc/ Sát-na hỷ: đến chớp nhoáng, mạnh
mẽ hơn tiểu hỷ (khanikā-pīti),
3. Hỷ như ngập lụt/ Hải triều hỷ: thân nhẹ nhàng như có sóng
biển vỗ nhẹ vào từng chập (okkantika-pīti),
4. Hỷ tràn ngập khiến cho rúng động/ thượng thăng hỷ: thân
nhẹ như bông, như bay bổng lên (ubbegā-pīti) và
5. Sung mãn hỷ: thân tâm mát dịu, thấm nhuần toàn thân như
nước tràn đầy/ Hỷ được phát triển hoàn toàn, sâu sắc tràn
ngập toàn bộ thân, tâm (pharanā-pīti).

44
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

“Buddhoti tvaṃ, gahapati, vadesī.”


“Này người phú hộ, có phải anh vừa nói
“Đức Phật”?”
“Buddho tyāhaṃ, gahapati, vadāmī.”
“Vâng! Ta đã nói “Đức Phật”.”
Ông hỏi đến ba lần và đều nhận được cùng
câu trả lời.
Sau đó ông nói:
“Ghosopi kho eso, gahapati, dullabho lokasmiṃ
yadidaṃ – buddho buddhoti.”
“Người phú hộ à! Trên thế gian này, ngay cả nghe
đến từ “Đức Phật” cũng đã là một cơ hội vô cùng
hãn hữu.”
Sau đó ông Cấp Cô Độc hỏi về Đức Phật: “Bây giờ
em có thể đi đến đảnh lễ Đức Phật, Bậc xứng đáng
được đảnh lễ, bậc Chánh Đẳng Chánh Giác được
không?” – nhưng lại được bảo là phải chờ đến sáng
hôm sau vì lúc ấy đã tối. Đã quá trễ để đi đến chùa
Thi Đà Lâm vốn nằm ngoài cổng thành, nơi người
ta thường quăng bỏ xác chết vào ban đêm.
Sau khi nghe như vậy, ông đi ngủ, tâm mảy may
không có đối tượng nào khác ngoài Đức Phật.
Từ thời khắc nghe được từ “Đức Phật”, tâm ông
luôn hướng về Ngài và mong ước được diện kiến
Ngài càng sớm càng tốt. Ông thức dậy rất nhiều lần

45
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

và cuối cùng, ngay trước bình minh, ông quyết định


đi đến gặp Đức Phật.
Khi ông vừa đi đến cổng thành, Sivaka (một vị thiên
bảo hộ vốn là một bậc thánh), đã mở sẵn cổng thành.
Sivaka biết rằng ông Cấp Cô Độc mong ước được
gặp, đảnh lễ và phục vụ Đức Phật. Sivaka cũng biết
rằng ông Cấp Cô Độc sẽ được an lập vào Quả Nhập
Lưu. Muốn giúp ông Cấp Cô Độc, Sivaka đã
mở cổng cho ông.
Bởi vì nghiệp quá khứ và bởi vì niềm tin sâu sắc nơi
Đức Phật được hỗ trợ bởi hỷ lạc mãnh liệt, toàn thân
ông Cấp Cô Độc phát ra hào quang như trăng tròn
mọc trên bầu trời. Nhưng ngay khi ông vừa đi ra khỏi
thành phố, sợ hãi và run rẩy khởi lên trong ông và
hào quang phát ra từ thân thể của ông biến mất.
Do vậy, ông muốn quay về từ chỗ đó nhưng Sivaka
khích lệ ông Cấp Cô Độc tiếp tục đi. Sivaka đi đến
ông và đọc lên câu kệ này:
“Sataṃ hatthī sataṃ assā, sataṃ assatarīrathā;
Sataṃ kaññāsahassāni, āmukkamaṇikuṇḍalā;
Ekassa padavītihārassa, kalaṃ nāgghanti soḷasiṃ.”
“Abhikkama gahapati abhikkama gahapati;
Abhikkantaṃ te seyyo no paṭikkanta.”
“Ôi! Người phú hộ, một trăm con hoàng tượng, một
trăm cỗ hoàng xa được kéo bởi giống ngựa đặc
chủng assatara với một trăm ngàn cung nữ mang nữ
trang vô giá cũng không sánh được phần mười sáu
của tác ý thiện lành (cetanā) trước mỗi bước chân

46
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

đưa ông đến đảnh lễ Đức Phật. Hãy tiến bước và


hành trình của ông sẽ tốt đẹp và mỹ mãn! Xin đừng
lùi bước!”
Khi nghe như vậy, ông Cấp Cô Độc trở nên can đảm
và được khích lệ. Niềm tịnh tín mãnh liệt nơi
Đức Phật trở nên mạnh mẽ một lần nữa. Do vậy,
hào quang xuất hiện trở lại. Mỗi khi ông gặp
khó khăn, Sivaka lại khích lệ niềm tịnh tín ở ông
Cấp Cô Độc cho đến khi ông tới được chùa
Thi Đà Lâm vào trước bình minh.
Lúc ấy Đức Phật đang đi xuống đi lên con đường ở
ngoài trời. Ông Cấp Cô Độc đang tự vấn
làm cách nào để phân biệt được Đức Phật thật,
Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác với những vị đạo sư
vốn cũng tự xưng là Bậc Giác Ngộ. Rồi một suy nghĩ
sinh khởi trong tâm ông, rằng: Nếu Đức Phật là
Bậc Giác Ngộ, Ngài sẽ gọi ông bằng cái tên được
cha mẹ ông đặt cho “Sudatta”, vốn ngoại trừ ông ra
thì chẳng ai biết đến.
Đức Phật liền gọi ông: “Đến đây, này Sudatta thân!”
Ông Cấp Cô Độc hoan hỷ khi nghe Đức Phật gọi
ông bằng tên mà bố mẹ đã đặt cho mình. Sau khi
đảnh lễ và lắng nghe Pháp từ Đức Phật, ông Cấp Cô
Độc trở nên an lập trong quả vị Nhập Lưu. Sau đó,
ông Cấp Cô Độc thỉnh mời Đức Phật đến thành
Xá Vệ và cúng dường chùa Kỳ Viên. Đức Phật đã
an cư mùa mưa ở chùa Kỳ Viên này mười chín lần.

47
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Okappana-saddhā là niềm tin hoàn toàn hay


niềm tin tuyệt đối mà nhờ đó một người nương nhờ,
nương tựa nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng.
Bây giờ quý vị đã biết về cách mà okappana-saddhā
giúp ích cho vua Mahākappina và ông
Anāthapiṇḍika trên con đường đến sự giác ngộ.
Đây cũng là lý do tại sao okappana-saddhā rất quan
trọng cho việc thực hành thiền và chứng ngộ
Níp-bàn. Hãy tiếp tục với loại niềm tin cuối cùng.
[d] Pasāda-saddhā (Niềm tin do cảm hứng)
“Pasāduppatti pasādasaddhā nāma”.
“Niềm tin đơn thuần từ những hình ảnh và âm thanh
khiến tâm hài lòng thì được gọi là pasāda-saddhā.”
Đây là niềm tin thông thường nơi một điều hay một
người nào đó. Niềm tin này hiện hữu ở những người
có tôn giáo và người không tôn có tôn giáo. Ví dụ,
vẻ ngoài hay hành vi của vị thầy của quý vị là tốt đẹp
và vì thế quý vị có lòng tin nơi vị ấy. Nhưng nếu quý
vị thấy vị ấy phạm một số lỗi hay nếu vị ấy khiến quý
vị phật lòng thì niềm tin của quý vị cũng ra đi.
Quý vị đánh mất niềm tin của mình nơi vị ấy.
Do vậy, loại niềm tin như vậy gọi là pasāda-saddhā.
Loại niềm tin này không thể hỗ trợ quý vị toàn tâm
toàn ý với Tam học; dù rằng tin như vậy có thể đưa
đến sự cúng dường to lớn hoặc thậm chí sự xuất gia
nhưng không thể giác ngộ Níp-bàn nếu chỉ
đơn thuần dựa trên loại niềm tin như vậy.

48
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Người phàm phu có thể phát triển niềm tin


okappana-saddhā và pasāda-saddhā. Nhưng giữa
hai loại niềm tin này, okappana-saddhā là niềm tin
căn bản cho việc toàn tâm với Tam học (Giới học,
Định học, Tuệ học). Đây là điều cấu thành một chi
phần của Padhāniyaṅga. Do đó, quý vị phải nỗ lực
vun bồi okappana-saddhā trong việc hành thiền để
giác ngộ Nibbāna.
Sau niềm tin24, Padhāniyaṅga thứ hai là sức khỏe hay
Appābādha.
2. Appābādha (Sức khỏe)
“Appābādho hoti appātaṅko; samavepākiniyā
gahaṇiyā samannāgato nātisītāya nāccuṇhāya
majjhimāya padhānakkhamāya.”
“Vị ấy khỏe mạnh, không tật bệnh, có sự tiêu hóa
được điều hòa, không quá lạnh, không quá nóng,
trung bình, hợp với việc hành thiền.”
Điều này có nghĩa là quý vị cần phải khỏe mạnh,
không tật bệnh. Nếu quý vị có một số bệnh

24
Điểm khác biệt thực tiễn duy nhất giữa từ “faith” (niềm tin) trong
tiếng Anh và từ “saddhā” trong tiếng Pāḷi là “faith” có thể đề cập
đến niềm tin ở các tôn giáo vốn dựa trên những quan kiến sai lầm
(tà kiến), trong khi đó “saddhā” ám chỉ duy nhất niềm tin ở tôn giáo
dựa trên quan kiến của Đức Phật Toàn Giác. Đối tượng của niềm
tin như vậy có tám: Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng), Tam học, những
kiếp sống quá khứ, những kiếp sống vị lai, những kiếp sống quá khứ
và vị lai, và Lý duyên khởi.

49
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

nghiêm trọng, quý vị không thể hành thiền được và


không thể tập trung vào hơi thở hay kasiṇa. Để đạt
đến mức độ định tâm cao hơn, quý vị phải
khỏe mạnh. Đối với những ai có sức khỏe tốt, việc
hành thiền sẽ dễ dàng hơn. Chẳng hạn, những hành
giả khỏe mạnh nói chung có thể ngồi thiền lâu hơn
so với những vị có tật bệnh hay sức khỏe kém. Nói
chung, hành giả có sức khỏe kém gặp phải nhiều khó
khăn hơn để duy trì mức độ định tốt. Sức khỏe là
một yếu tố mà có thể trì hoãn sự tiến bộ của việc
thiền tập. Sức khỏe tốt là điều cực kỳ có lợi cho việc
hành thiền.
Thỉnh thoảng, một số đệ tử nói: “Bạch Ngài, con
không thể hành thiền được vì con không được khỏe,
con đau nhức, chóng mặt.”
Nhưng nếu tôi hỏi: “Quý vị có thể ăn được không?
Có thể đi đây đi đó được không?”, họ trả lời “có”.
Đó có nghĩa là họ vẫn khỏe mạnh và tôi chỉ yêu cầu
họ tiếp tục tu tập tuỳ thuộc vào khả năng của họ.
Hành giả có thể đạt đến bất kỳ một sự chứng đắc vào
một ngày nào đó nếu tiếp tục thực hành.
Do đó, đừng lo lắng! Hãy cố gắng cải thiện sức khỏe
của quý vị để thực hành thiền tốt hơn.
Liên hệ đến chi phần này, tôi sẽ chia sẻ câu chuyện
sau đây để minh họa cho sự ảnh hưởng của sức khỏe
đến việc thực hành Pháp.

50
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Câu chuyện về Đại đức Godhika


Đại đức Godhika25 sống tại Mỏm đá đen trên Núi
Isigili và nhiệt tâm hành thiền Vipassanā dựa trên
định bậc thiền (jhāna) với quyết tâm mãnh liệt.
Lúc ấy, Ngài bị tấn công bởi một căn bệnh ngăn cản
Ngài nhập vào các tầng thiền.
Đại đức Godhika vốn không phải loại người dễ dàng
từ bỏ. Ngài đã cố gắng chứng thiền đến sáu lần
nhưng bởi vì đau bệnh, Ngài rớt khỏi tầng thiền hết
lần này đến lần khác. Lần thứ bảy, Ngài suy nghĩ:
“Sáu lần rồi ta bị rớt khỏi định tầng thiền. Tương lai
của ta là bất định. Nếu ta chết khi đang nhập định,
ta sẽ được tái sinh làm một vị Phạm thiên. Tuy
nhiên, nếu ta chết mà không nhập định được,
điều đó là không chắc chắn. Ta có thể tái sinh vào
nơi khổ cảnh. Bây giờ là lúc để ta dùng đến con dao.”
Sau khi quán chiếu như vậy, Ngài chấm dứt mạng
sống bằng con dao của chính mình.
Chúng ta không biết được điều gì đưa đến hành
động quyết liệt này nhưng hẳn nó có liên hệ với
nghiệp trong những kiếp sống quá khứ của Ngài.
Sức khỏe yếu kém ảnh hưởng đến khả năng tu tập

25
Saṃyutta Nikāya, Sagāthāvagga, Mārasaṃyutta,
‘Godhikasuttaṃ’ (Kinh Godhika Sutta), cũng có thể thấy trong
Khuddhaka Nikāya, Dhammapada Aṭṭhakathā,
‘Godhikattheraparinibbānavatthu’ (Chú giải Kệ số 57, về Đại đức
Godhika).

51
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

của Ngài và gây nên nhiều sự bế tắc nội tâm. Dù sức


khỏe có tệ đến thế nào đi nữa, tuyệt nhiên việc tự
vẫn26 là điều không đúng đắn. Xin đừng làm theo ví
dụ này. Tôi chỉ dùng câu chuyện này để làm nổi bật
sự quan trọng của sức khỏe tốt đối với việc tu tập.
Trước khi Đại đức Godhika kết liễu cuộc đời, Māra
đã cố gắng khiến Đức Phật ngăn cản Đại đức, bởi
nếu Đại đức Godhika chết theo cách này, Ngài là
người không dính mắc với cuộc sống. Người như vậy
có thể đã chứng được trí tuệ thể nhập và có thể
chứng quả vị A-la-hán. Māra không muốn người
khác nhập Níp-bàn. Rồi Đức Phật nhận ra Māra,
nói rằng: “Godhika đã bứng gốc tham ái và
đã giác ngộ Níp-bàn”.
Đức Phật, được theo sau bởi nhiều vị sư, đã đi đến
nơi Đại đức Godhika nằm xuống, Ngài chỉ vào cột
khói và khối đen trong căn phòng rồi nói: “Này các
tỳ-khưu, đó chính là Māra, kẻ xấu xa, đang tìm kiếm
nơi tái sinh tiếp theo của Godhika”. Nếu một người
phàm qua đời, Māra có năng lực biết được nơi tái
sinh sau đó của họ. Vì Đại đức Godhika đã
chứng đắc A-la-hán và nhập vào Bát Níp-bàn

26
Đức Phật tuyên bố rằng tự vẫn là điều đáng chê trách. Sau biến
cố của năm trăm tỳ-khưu (Vinayapiṭaka, Tatiya-Pārājikaṃ), Đức
Phật tuyên bố đó là điều không phải (ananucchavikaṃ), không hợp
lẽ (ananulomika), không thích hợp (appaṭirūpaṃ), không phải việc
làm của sa môn (assāmaṇakaṃ), không được phép (akappiyaṃ),
không nên làm (akaraṇīyaṃ).

52
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

(Parinibbāna), Māra không thể nào tìm được nơi


Ngài tái sinh. Không còn sự tái sinh để mà Māra
có thể tìm thấy.
Ngay trước khi Đại đức Godhika chết, Ngài đã nhập
vào tầng thiền thành công. Xuất khỏi đó, Ngài tiếp
tục hành Vipassanā và chứng đắc A-la-hán. Thời
điểm đó, Ngài trở thành một vị Samasīsī Arahant27,
vị mà phiền não và thọ mạng chấm dứt cùng một
thời điểm và nhập Bát Níp-bàn.
Người hành thiền không nên so sánh vị tỳ-khưu này
với bản thân mình. Nếu một hành giả cố gắng tự vẫn,
cái chết mà không có sự chứng đắc và sự tái sinh vào
một khổ cảnh là những hậu quả khả dĩ nhất. Chúng
ta cũng biết rằng tại thời điểm cái chết xảy ra, Ngài
đã bồi bổ đầy đủ ba-la-mật để trở thành một vị A-la-
hán. Đây chỉ là một ví dụ về cách mà sức khỏe ảnh
hưởng đến sự tu tập của quý vị như thế nào. Để so
sánh, ta thấy Ngài không thể nhập vào các thiền
chứng khi Ngài đang bệnh. Nhưng khi Ngài

27
Samasīsī = Người mà sự diệt tận các lậu hoặc (āsava) và sự kết
thúc mạng căn xảy ra đồng thời. Có ba loại:
1. Iriyapatha samasīsī (Chứng Bát-Níp-bàn parinibbāna với
một oai nghi cụ thể khi đang lập nguyện và chìm trong Quả
chứng/ Phala-samāpatti);
2. Roga samasīsī (Chứng parinibbāna khi đang chìm trong
Quả chứng/ Phala-samāpatti sau khi bệnh đã được chữa
khỏi);
3. Jīvita samasīsī (Chứng parinibbāna khi sự chấm dứt mạng
căn và Arahatta-Magga xảy ra đồng thời).

53
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

khỏe mạnh, Ngài có thể nhập vào tầng thiền và tiến


hành thiền Vipassanā. Sức khỏe là một yếu tố
quan trọng cho việc tu tập thiền.
Trở lại với Māra, tôi muốn nhắc mọi người rằng
Māra luôn cám dỗ con người với các món dục lạc.
Đó là vì Māra luôn chống đối những người đang tiến
đến sự giác ngộ.
Do đó, quý vị phải ý thức rằng: “Ồ! Māra đang cố
gắng cám dỗ ta!” – và cố gắng để phòng tránh những
hình thức hưởng dục. Ngày nay có rất nhiều thiết bị
mới. Tôi thường không yêu cầu hành giả không sử
dụng chúng, nhưng tôi yêu cầu quý vị hãy quán
chiếu điều kiện và hoàn cảnh của bản thân mình.
Nếu quý vị có thể kiểm soát được tâm của mình,
quý vị có thể sử dụng những thiết bị đó đúng cách.
Chẳng hạn như dùng chúng để đọc Pháp, thỉnh
thoảng liên hệ với gia đình ở nước ngoài hay gửi
những email quan trọng. Còn nếu quý vị không
thiện xảo trong việc kiểm soát tâm của mình, tốt hơn
cả là không dùng bất cứ thiết bị nào. Những thiết bị
điện tử rất bất lợi cho việc hành thiền và giác ngộ
Níp-bàn. Cho nên, thật lý tưởng nếu quý vị có thể
đặt những thiết bị điện tử qua một bên mà hành
thiền Vipassanā cho đến khi giác ngộ Níp-bàn.
Sau khi đạt đến mức độ đảm bảo này, việc sử dụng
các thiết bị cho những mục đích lợi lạc và hữu ích sẽ
an toàn. Trước khi quý vị giác ngộ Níp-bàn, tốt hơn
hết là không sử dụng bất cứ thiết bị nào. Quý vị có
thể làm được không? Hãy tiếp tục chiến đấu

54
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

chống lại Māra. Quý vị có thể thất trận chỗ này chỗ
kia, nhưng điều quan trọng là tiếp tục cố gắng và
thực hành.
Quý vị có thể biết rằng có hai cách thực hành sai lầm,
cách đầu tiên là tự hành hạ hay khắc khổ thái quá,
cách thứ hai là hưởng thụ hay phóng túng trong
dục lạc. Tôi nghĩ hai cách này chính là ý muốn của
Māra nhằm ngăn cản mọi người giác ngộ Níp-bàn.
Nếu quý vị tuân theo ý muốn của Māra, việc
giác ngộ Níp-bàn là không thể nào. Để giác ngộ
Níp-bàn, quý vị nên tránh hưởng thụ dục lạc.
Đây là bản chất của Māra. Māra không muốn người
ta giác ngộ Níp-bàn. Māra sẽ ngăn cản điều này
bằng nhiều hình thức cám dỗ. Nếu quý vị thấy rằng
tâm mình đang chạy theo hai hình thức tu tập
sai lầm này, có nghĩa là Māra đang phá rối quý vị.
Hành giả phải cẩn trọng và không tuân theo ý muốn
của Māra. Đối với những bậc Thánh nhân, họ có thể
dễ dàng xua đuổi Māra như Sūrambaṭṭha đã từng
làm. Chỉ cần ông búng ngón tay, Māra đã chạy mất.
Nếu quý vị muốn chế ngự Māra, quý vị nên cố gắng
giác ngộ Níp-bàn. Khi quý vị lấy Níp-bàn làm
đối tượng an trú của mình, quý vị đang chế ngự
được Māra.
Đã hiểu được tầm quan trọng của một sức khỏe tốt,
tôi sẽ giới thiệu yếu tố Chân thật đối với việc tu tập.

55
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

3. Asaṭha (Chân thật)


“Asaṭho hoti amāyāvī; yathābhūtaṃ attānaṃ
āvikattā satthari vā viññūsu vā sabrahmacārīsu”
“Vị ấy chân thật và chân thành, trình bày đúng về
bản thân đối với bậc Đạo Sư và các vị đồng
phạm hạnh có trí.”
Có những người giả bộ chứng đắc dù chẳng có
chứng đắc gì thực sự cả. Trong một trung tâm thiền,
người hành thiền nên trình bày với các vị thầy về sự
tiến triển trong thiền tập của mình. Khi trình, họ nên
nói một cách chân thật và đúng đắn về những kinh
nghiệm thiền của họ. Chỉ khi đó vị thầy mới có thể
cho những lời khuyên và hướng dẫn thích hợp.
Ví dụ, “Bạch Ngài! Con có thể tập trung trên đối
tượng được khoảng một giờ, v.v…” Sau đó vị thầy
trả lời: “Tốt! quý vị có thể tiếp tục thiền như vậy để
phát triển sự tập trung lâu hơn và sâu hơn.”
Nhưng các thầy đã chứng kiến sự gian dối từ nhiều
thiền sinh. Dù họ không thể tập trung trên đề mục,
họ trình rằng họ có thể. Như vậy không phải là đang
nói sự thật. Sự chân thật là điều quan trọng trong
việc phát triển thiền và thực hành Pháp. Nếu hành
giả mô tả kinh nghiệm của họ một cách chân thật,
vị thầy có thể cho những hướng dẫn thích hợp để
tiếp tục thực hành. Nếu không chân thật với vị thầy,
không thể nào tiến bộ được.

56
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Cũng có những người đã phạm phải những lỗi lầm


mà không sám hối chúng. Đức Phật dạy chúng ta
phải chân thật, nếu các hành giả cư sĩ có lỗi, làm sai
hay phạm giới, họ phải sám hối những điều này với
một vị thầy và xin giới trở lại.
Nếu hành giả tiếp tục thực hành mà không chân thật,
họ không thể nào thành công trong việc thực hành
thiền. Chân thật và chân thành là những yếu tố cần
thiết để tiến bộ trong thiền. Câu chuyện về Uruvela
sẽ cho ta hiểu thêm về yếu tố chân thật (asaṭha).

57
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Câu chuyện Uruvela


Quý vị có biết rừng U-lâu-tần-loa (Uruvela28) ở Ấn
Độ không? Thái tử Sỹ-đạt-ta (Siddhattha) đã đi đến
rừng Uruvela sau khi xuất gia. Uruvela có nghĩa là
gì? Uru nghĩa là cát, velā nghĩa là ranh giới. Ngữ
nghĩa của từ Uruvela là “đống cát” hay “núi cát”.
Địa danh này có tên như vậy bởi vì có một đống cát
hay một núi cát lớn. Làm cách nào ngọn núi
xuất hiện ở nơi đó?
“Atīte kira anuppanne buddhe dasasahassā
kulaputtā tāpasapabbajjaṃ pabbajitvā.”
“Lâu lắm rồi, trước khi Đức Phật xuất hiện trên thế
gian, một nhóm mười ngàn người đàn ông muốn
từ bỏ thế gian và sống như những ẩn sĩ.”
Những ẩn sĩ này sau đó sống trong rừng. Ngày nọ,
họ họp mặt và cùng nhau lập một cam kết về sự
thực hành của chính mình:
“Kāyakammavacīkammāni nāma paresampi
pākaṭāni honti, manokammaṃ pana apākaṭaṃ.
Tasmā yo kāmavitakkaṃ vā byāpādavitakkaṃ vā
vihiṃsāvitakkaṃ vā vitakketi, tassa añño codako
nāma natthi; so attanāva attānaṃ codetvā

28
Majjhima Nikāya, Mūlapaṇṇāsa Aṭṭhakathā, Opammavagga,
Pāsarāsisuttavaṇṇana (thuộc Chú giải Kinh Pāsarāsisuttavaṇṇana,
giải thích về Uruvela).

58
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

pattapuṭena vālikaṃ āharitvā imasmiṃ ṭhāne


ākiratu, idamassa daṇḍakamma.”
“Những hành vi trên thân và khẩu có thể được
mọi người nhìn thấy, nhưng những hành vi thuộc
ý nghĩ là không rõ ràng đối với người khác. Khi
những dục tầm, sân tầm hay hại tầm xuất hiện trong
tâm trí, không ai có thể phàn nàn hay nhắc bảo cho
chúng ta. Do vậy, nếu những suy tầm này xuất hiện
trong tâm chúng ta, chúng ta cần tự trách móc và
nhắc nhở bản thân như là một hình phạt, chúng ta
nên lấy một ít cát bằng cách dùng lá cây làm một cái
giỏ nhỏ rồi đổ cát ở một nơi cụ thể.”
Không bao lâu sau buổi họp, bất cứ khi nào những
suy nghĩ như vậy xuất hiện trong tâm trí của họ,
họ đều mang một giỏ cát đến đổ vào một nơi đã
quy định. Số cát đó nhanh chóng trở thành một đống
cát lớn. Một núi cát thực sự! Nhiều thế hệ trôi qua,
người ta biến núi cát này thành một bảo tháp (cetiya)
để lễ bái và gọi địa danh này là Uruvela.
Bằng việc nhìn thấy những hành vi sai quấy trên thân
và khẩu, người khác có thể nhắc nhở quý vị bởi vì
chúng rõ ràng. Nhưng đối với những hành vi thuộc
ý nghĩ, chỉ những ai sở hữu khả năng thần thông
mạnh mẽ có thể đọc tâm người khác
(Paracittavijānanā hay Cetopariyañāṇa) mới có thể
thấy được những tâm bất thiện của quý vị.
Nói chung, không ai thấy mà phàn nàn quý vị nếu
những tư duy bất thiện sinh khởi trong tâm quý vị.

59
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Câu chuyện này là một ví dụ tốt về hạnh chân thật


trong thời đại của chúng ta. Nếu chúng ta lập một
giao kết tương tự trong thiền viện này, ví dụ, bất cứ
khi nào một tư tưởng bất thiện sinh khởi, chúng ta sẽ
lau chùi cái phòng này hay cái cốc nọ, nhà vệ sinh
hay thiền đường, thì có thể chỉ trong một thời gian
ngắn, thiền viện này sẽ trở nên rất sạch sẽ. Còn nếu
chúng ta có một giao kết giống như trong câu
chuyện, thì thiền viện của chúng ta có thể biến thành
một ngọn núi cát chỉ trong một thời gian ngắn mất.
Những ẩn sĩ đó quả rất chân thật, bất cứ khi nào
những tư duy bất thiện xuất hiện trong tâm, họ liền
mang một ít cát đến một chỗ định sẵn, làm vậy khiến
cho người khác có thể nhìn thấy lỗi lầm của họ một
cách rõ ràng. Họ rất chân thật và chân thành. Họ sẵn
lòng thừa nhận những suy nghĩ bất thiện và phải chịu
hình phạt cho chính họ. Vì vậy, rất hiếm khi những
người này phạm phải những hành vi sai quấy trên
thân và khẩu. Nếu họ thực hành theo lời dạy của
Đức Phật, họ có thể dễ dàng giác ngộ Níp-bàn. Nếu
hành giả mong muốn giác ngộ Níp-bàn, sự chân thật
và chân thành cần được họ hết lòng giữ gìn.
Chúng tôi cũng có một câu chuyện ở Myanmar. Có
một Sayadaw nổi tiếng sống cách đây khoảng hai
trăm năm. Bất cứ khi nào có phiền não khởi lên trong
tâm, Sayadaw đi đến trước tượng Phật và la lớn:
“Bạch Đức Thế Tôn! Con có loại phiền não
như vậy. Xin hãy giúp con!"

60
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Ông làm như vậy lặp đi lặp lại cho đến khi phiền não
không còn dám xuất hiện trong tâm ông. Quý vị có
thể làm như vậy không? Xin đừng làm vậy trong
thiền đường này vì tiếng hét sẽ quấy rầy người khác
và không ai có thể hành thiền được cả. Nếu muốn
làm như vậy, quý vị có thể tự làm. Nếu không muốn
người khác biết, thì hét một mình ở kuṭi thôi.
Bây giờ, chúng ta hãy xem xét yếu tố tinh tấn
(vīriya).
4. Vīriya (Tinh tấn)
“Āraddhavīriyo viharati akusalānaṃ dhammānaṃ
pahānāya kusalānaṃ dhammānaṃ upasampadāya,
thāmavā daḷhaparakkamo anikkhittadhuro kusalesu
dhammesu.”
“Vị ấy có đại tinh tấn đối với việc loại trừ những
phẩm chất bất thiện và để đạt đến những phẩm chất
thiện lành; vị ấy mạnh mẽ, vững vàng tinh tấn, không
bỏ rơi nghĩa vụ vun bồi các phẩm chất thiện lành.”
Để chăm chút cho việc thiền tập, hành giả cần phải
cố gắng vun bồi chỉ những trạng thái thiện lành và
từ bỏ bất cứ điều gì khác khiến tâm tích tụ những
trạng thái bất thiện. Đây là điều cần thiết bởi vì tâm
thường đi kèm với phiền não. Để có thể làm được
điều này hành giả cần sự nỗ lực hay tinh tấn
mãnh liệt. Hành giả thực hành với ý định trau dồi
cả mười ba-la-mật để giác ngộ Níp-bàn. Níp-bàn
không thể được giác ngộ nếu không trau dồi đầy đủ

61
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

cả mười ba-la-mật. Nếu không giác ngộ Níp-bàn,


việc thoát khỏi tất cả khổ đau là điều không thể.
Người hành thiền không nên từ bỏ việc thực hành.
Họ nên thật cố gắng bền lòng. Từ từ, định tâm sẽ
ngày một mạnh mẽ hơn. Với đủ định tâm, hành giả
có thể hành thiền Minh Sát (Vipassanā). Đến một
ngày khi ba-la-mật chín muồi, họ sẽ chứng ngộ
Níp-bàn như tấm gương của Đại đức Mahāsīva.

62
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Câu chuyện về Đại đức Mahāsīva


Đại đức Mahāsīva29 là thầy của nhiều vị sư. Ngài dạy
thiền và Giáo Pháp trong một thời gian dài. Dưới sự
chỉ dạy của Ngài, ba mươi ngàn đệ tử chứng đắc
quả vị A-la-hán.
Một ngày nọ, một vị đệ tử của Ngài vừa xuất khỏi
quả chứng của bậc A-la-hán (Arahatta-Phala-
Samāpatti), nhớ lại vị thầy của mình và quán chiếu:
“Ta đã trải nghiệm loại hạnh phúc như vậy,
còn thầy ta thì sao?”
Muốn biết về sự chứng đắc của thầy mình, Ngài thấy
rằng vị thầy vẫn chỉ là một phàm phu (puthujjana).
“Ồ! Thầy ta là nơi nương nhờ của người khác nhưng
không phải là nơi nương nhờ cho chính Ngài. Ngài
bận rộn với việc giảng dạy mà không hành thiền.
Ta nên nhắc Ngài mới được!”
Rồi vị đệ tử bay qua không trung mà đi đến nơi vị
thầy ở. Trông thấy đệ tử của mình, Đại đức
Mahāsīva hỏi về nguyên do của cuộc viếng thăm và
vị tỳ-khưu đệ tử trình bày rằng Ngài muốn nghe
Pháp từ vị thầy. Vị đệ tử thỉnh cầu:
“Bạch Ngài! Con muốn nghe Pháp từ Ngài!”

29
Dīgha Nikāya, Mahāvagga-Aṭṭhakathā,
Sakkapañhasuttavaṇṇanā, ‘Mahāsīvattheravatthu’ (Câu chuyện về
Đại đức Mahāsīva).

63
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Đại đức Mahāsīva trả lời:


“Con không có cơ hội nghe Pháp từ ta đâu.”
Đệ tử: “Bạch Ngài! Khi Ngài đi đến hội trường, con
sẽ hỏi một câu hỏi.”
Đại đức Mahāsīva: “Khi ta đi đến đó, người khác sẽ
hỏi ta.”
Đệ tử: “Bạch Ngài, vậy khi Ngài vào làng đi bát,
con sẽ hỏi Ngài một câu trên đường đi.”
Đại đức Mahāsīva: “Khi ta đi bát, nhiều tỳ-khưu sẽ
hỏi ta, ta không có thời gian để trả lời con.”
Vị đệ tử trả lời:
“Antarāmagge, bhante, bhojanasālāyaṃ
bhattakiccapariyosāne, bhante, divāṭṭhāne,
pādadhovanakāle, mukhadhovanakāle, bhanteti?
Tadā aññe pucchantīti.”
“Bạch Ngài! Con có thể hỏi một câu trên đường về
thiền viện không? Bạch Ngài! Con có thể hỏi ở nhà
ăn, sau khi Ngài thọ dụng xong? Khi Ngài đang
ở cốc? Khi Ngài rửa chân? Hay khi Ngài rửa mặt?”
Đại đức Mahāsīva trả lời:
“Ta không có thời gian rảnh để trả lời câu hỏi
của con.”
Theo cách đó, vị tỳ-khưu hỏi hết thời gian biểu của
vị thầy nhưng Đại đức Mahāsīva vẫn trả lời như vậy:
“Này hiền giả! Từ giờ cho tới mờ sáng hôm sau,

64
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

nhiều người sẽ hỏi ta nhiều câu hỏi, ta quả không có


thời gian.” Cuối cùng, vị đệ tử bạch trực tiếp với
vị thầy của mình:
“Bhante, nanu mukhaṃ dhovitvā senāsanaṃ
pavisitvā tayo cattāro pallaṅke usumaṃ gāhāpetvā
yonisomanasikāre kammaṃ karontānaṃ
okāsakālena bhavitabbaṃ siyā, maraṇakhaṇampi na
labhissatha, bhante, phalakasadisattha bhante
parassa avassayo hotha, attano bhavituṃ na
sakkotha, na me tumhākaṃ anumodanāya atthoti.”
ākāse uppatitvā agamāsi.
“Bạch Ngài! Sau khi rửa mặt, ngồi trong cốc, Ngài
nên hành thiền ba hay bốn thời. Nếu như Ngài quá
bận rộn như vậy, làm sao Ngài có thể chuẩn bị cho
cái chết của mình? Ôi! Ngài là nơi nương nhờ của
người khác, nhưng không phải là nơi nương nhờ cho
chính mình. Con không đến đây để hỏi Ngài đâu!”
Sau khi nói những lời này, vị đệ tử bay vào hư không.
Sau đó Đại đức Mahāsīva suy nghĩ: “Ôi! Đệ tử của
ta đến đây không phải hỏi ta mà để nhắc nhở ta nên
có sự kinh cảm.” Ngài tiếp tục giảng dạy vào tối hôm
đó. Sau khi tất cả đệ tử đã trở về lúc tờ mờ sáng, Ngài
đi theo họ vào rừng để hành thiền và không một ai
để ý đến Ngài.
Thero kira “mādisassa arahattaṃ nāma kiṃ,
dvīhatīheneva pāpuṇitvā paccāgamissāmī.”

65
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Vị Đại đức nghĩ: “Ta là thầy của nhiều vị A-la-hán,


ta rất uyên bác, chỉ cần hai hay ba ngày là ta có thể
chứng đắc quả vị A-la-hán thôi. Sau khi chứng đắc
A-la-hán, ta sẽ quay về để giảng dạy các đệ tử
như trước.”
Nhưng sau hai ngày rồi ba ngày, Ngài không thể
chứng đắc quả vị A-la-hán. Ngài nghĩ: “Hay là ta cần
phải tiếp tục thực hành một tháng hoặc hai tháng.”
Rồi cũng một lần nữa, thời gian đã quyết định trôi
qua mà Ngài vẫn chưa chứng đắc một quả chứng
cao thượng nào. Ngài lại quyết định: “Ta sẽ hành
visuddhi-pavāraṇā30 sau hạ.” Ngài lại hành thiền
miên mật, nhưng cuối hạ, Ngài cũng không thể
chứng đắc được gì. Rất nhiều buồn đau sinh khởi
trong Ngài và Ngài đã khóc thật thảm thiết.
Khi hành thiền, quý vị mong muốn chứng ngộ Níp-
bàn. Nhưng quý vị có thể chưa chứng ngộ Níp-bàn
mặc dù đã hành thiền miên mật. Trong những
trường hợp như thế, quý vị có thể buồn đau, thất
vọng và khóc bởi không chứng Níp-bàn. Điều đó
cũng tốt thôi, thậm chí Đại đức Mahāsīva còn
khóc mà. Một số người nói: “Loại nước mắt như vậy
cũng là thuốc vậy!”. Nhưng xin đừng dừng việc
hành thiền sau khi đã khóc. Quý vị nên tiếp tục thực
hành miên mật như Đại đức Mahāsīva.

30
Lời thỉnh cầu thanh tịnh từ các bậc A-la-hán.

66
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Đại đức Mahāsīva nghĩ: “Ta sẽ chứng đắc quả vị


A-la-hán trong hạ tới đây!” Nhưng Ngài vẫn chẳng
thể chứng được gì sau mùa hạ thứ hai và Ngài lại
khóc. Cứ như vậy, Ngài đã cố gắng trong suốt hai
mươi chín năm hết lần này đến lần khác. Ngài thực
hành vô cùng tinh chuyên và quyết định không nằm
xuống từ hạ thứ hai. Dù không đạt được mục tiêu
chứng đắc quả vị A-la-hán theo kế hoạch của mình,
Ngài không bao giờ dừng việc hành thiền. Loại tinh
tấn như vậy được gọi là Āraddha vīriya. Tinh tấn
như vậy là một yếu tố cần được phát triển để
thực hành thiền tập.
Đến trong năm tu tập thứ ba mươi, trước khi mùa hạ
kết thúc, Ngài đã lại khóc, nghĩ rằng: “Có lẽ, ta
không thể nào giác ngộ Níp-bàn với thân xác
này được!”
Và rồi nhiều nước mắt hơn nữa đã tuôn ra từ đôi mắt
của Ngài. Gần đó có một thiên nữ (devi) cũng
khóc lóc thê thảm. Khi Đại đức Mahāsīva nghe được
tiếng khóc, Ngài đi đến và hỏi vị thiên nữ:
“Ko ettha rodasī?”
“Ai đang khóc ở đó?”
“Ahaṃ, bhante, devadhītā.”
“Con là thiên nữ sống gần đây.”
“Kasmā rodasī?”
“Tại sao con lại khóc?”

67
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

“Rodamānena maggaphalaṃ nibbattitaṃ, tena


ahampi ekaṃ dve maggaphalāni nibbattessāmīti
rodāmi, bhante.”
“Bằng cách khóc, người ta có thể chứng đắc
Đạo Quả, Níp-bàn. Vậy nên con khóc để chứng đắc
Đạo Quả, Níp-bàn.”
Đại đức Mahāsīva liền suy nghĩ: “Ôi Mahāsīva ơi!
Ngay cả thiên nữ này cũng đang chế diễu ngươi đấy,
ngươi nên tự lấy làm hổ thẹn!”
Sau đó, Ngài lại tiếp tục hành thiền Vipassanā một
cách miên mật và chứng được quả vị A-la-hán ngay
trong năm đó.
Ba mươi ngàn đệ tử biết được sự chứng đắc của vị
thầy của mình nên đã đi đến đảnh lễ và rửa chân cho
Ngài. Đế thích, vua cõi trời, cũng đã biết về tin này.
Ngài nghĩ: “Đại Trưởng lão Mahāsīva đã chứng đắc
quả vị A-la-hán. Tất cả đệ tử đều muốn rửa chân
cho Ngài. Ta sẽ không có cơ hội để lại gần Ngài.
Ta sẽ nói vợ ta là thiên nữ Sujā đi theo, nhờ đó ta có
cơ hội rửa chân cho Trưởng lão Mahāsīva.
Thật không dễ dàng để lại gần Trưởng lão Mahāsīva
nếu ta đến một mình.”
Rồi ông ta đi cùng người vợ của mình là thiên nữ
Sujā đến đảnh lễ Đại đức Mahāsīva.
Đế thích yêu cầu nàng Sujā băng qua toàn bộ Chư
Tỳ-khưu Tăng trong khi ông nói: “Bạch các Ngài!
Xin hãy tránh đường, có một người phụ nữ ở đây ạ.”

68
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Tất cả các vị A-la-hán phải tránh ra vì thật không


phải lẽ cho một vị tỳ-khưu chạm phải người nữ. Cuối
cùng, Đế thích có được dịp lại gần Đại đức
Mahāsīva. Rồi ông nói: “Bạch Ngài! Con muốn
rửa chân cho Ngài.”
“Này Kosiya (Đế thích), suốt ba mươi năm qua ta
đã không rửa đôi chân này. Mùi của chúng rất
xú uế, chư thiên không thể chịu được mùi của loài
người dù ở xa một trăm do tuần. Làm sao ông có thể
rửa chân cho ta?”
Đây là lý do tại sao các chư thiên ở cảnh giới cao
(không phải chư thiên cảnh giới thấp) không muốn
lại gần con người, bởi họ có thể ngửi thấy mùi con
người ở xa một trăm do tuần.
Đế thích trả lời: “Bạch Ngài, Giới hạnh của Ngài rất
trong sạch. Hương thơm của Giới là hương thơm
cao thượng nhất trên thế gian này. Không có gì cao
thượng hơn Giới hương. Bạch Ngài! Xin hãy để con
rửa chân cho Ngài!” Và rồi Đế thích đã rửa chân cho
Đại đức Mahāsīva.
Đại đức Mahāsīva không bao giờ từ bỏ việc tu tập
của mình. Ngay từ đầu, Ngài chỉ muốn hành thiền
vài ngày rồi quay về nơi ở. Nhưng kết quả không xảy
đến như những gì Ngài ước muốn. Do đó, Ngài tiếp
tục thực hành trong một, hai, ba… cho đến ba mươi
mùa hạ, tất cả thời gian đó đều liên tục tinh cần để
chứng ngộ quả vị A-la-hán.

69
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Quý vị đã tu tập ở đây được bao nhiêu năm rồi nhỉ?


Khi nào quý vị sẽ về nước đây? Phải là sau khi giác
ngộ Níp-bàn, sau khi chứng đắc quả vị A-la-hán
chứ! Nếu hành giả có được loại tinh tấn này, họ có
thể chứng được Níp-bàn. Quý vị nên tu tập càng
nhiều càng tốt, không dừng lại cho đến khi giác ngộ
Níp-bàn. Quý vị phải phát triển loại tinh tấn này.
Chúng ta có thêm một tấm gương về sự tinh tấn qua
câu chuyện về Samaṇa Devaputta.
Câu chuyện về Samaṇa Devaputta
Samaṇa Devaputta31, samaṇa có nghĩa là tỳ-khưu,
devaputta nghĩa là thiên tử. Trước khi được tái sinh
làm một vị thiên tử, Ngài là một vị tỳ-khưu ở kiếp
sống trước đó. Là một tỳ-khưu, Ngài thực hành thiền
miên mật để giác ngộ Níp-bàn. Trước khi Ngài có
thể chứng ngộ Níp-bàn, vì bị bệnh, Ngài qua đời
nhưng vẫn trong tư thế đang ngồi thiền. Ngay lập
tức, Ngài được tái sinh làm một vị thiên tử. Do quả
của nghiệp, một tòa lâu đài lớn và một ngàn thiên nữ
đang đợi sẵn, bao quanh Ngài khi Ngài được tái sinh
làm vị thiên tử.
Sau khi vị tỳ-khưu được tái sinh làm thiên tử, Ngài
vẫn ngồi thiền như vậy với mắt nhắm và không nhận
ra rằng mình đã chết. Chư thiên là những chúng sinh
có sự tái sinh dạng hoá sinh chứ không phải vào

31
Saṃyutta Nikāya, Sagāthāvagga, Devatāsaṃyutta, Ādittavagga,
‘Accharāsuttavaṇṇanā’ (Chú giải Kinh Accharā).

70
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

bào thai của người mẹ, không cần phải lớn lên trong
bụng mẹ chín tháng. Ngài nghĩ mình vẫn là một vị
tỳ-khưu đang hành thiền. Dung mạo Ngài tự động
trông như một chàng trai hai mươi hay hai mươi lăm
tuổi đời. Và vị thiên tử sẽ có nhiều thiên nữ phục vụ
mình. Vì Ngài vẫn tiếp tục hành thiền, tất cả thiên
nữ nhận ra rằng có lẽ vị thiên tử này là một vị
tỳ-khưu ở đời trước. Vậy nên họ cố gắng đánh thức
Ngài bằng cách tạo nên những tiếng ồn.
Samaṇa Devaputta nghĩ rằng: “Kiểu tín nữ gì đã đến
thiền viện của chúng ta vậy? Tại sao họ lại ồn ào như
vậy chứ? Thật là đáng xấu hổ!”
Vì vậy, Ngài mở mắt ra và nói với những thiên nữ
xung quanh mình: “Tại sao các cô lại ở đây? Bây giờ
tôi đang hành thiền.”
Rồi Ngài nhắm mắt lại. Họ mang lại một tấm gương
đặt trước Ngài và cho Ngài xem dung mạo mới của
mình để Ngài hiểu. Khi Ngài nhận ra rằng mình đã
tái sinh làm thiên tử, Ngài trở nên vô cùng thất vọng.
Ngài nói: “Ta hành thiền để giác ngộ Níp-bàn,
không với mục đích tái sinh làm thiên tử.”
Thật may mắn khi được tái sinh làm người, bởi lẽ
con người có thể tránh được những món dục lạc,
nhưng rất khó để tránh né dục lạc ở các cõi trời.
Không có nơi để lẫn tránh khỏi sự hưởng thụ dục lạc
và không có cơ hội để thấy sự già, sự bệnh và sự chết.
Do đó, thật khó và thật hiếm khi sinh khởi
sự kinh cảm (saṃvega). Thật dễ dàng để thấy một

71
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

người chết ở cõi người của chúng ta. Người ta có thể


đi đến bệnh viện hay nhà mai táng. Quý vị cũng có
thể dễ dàng thấy những đám hỏa táng xác chết ở cõi
giới của chúng ta.
Samaṇa Devaputta hiểu tất cả những điều này.
Ngài nghĩ: “Ta nên đi đến diện kiến Đức Phật và
lắng nghe Pháp của Ngài trước khi ta phạm giới
(abrahmacariya sīla).”
Rồi Ngài cẩn kíp đến gặp Đức Phật hiện đang ở cõi
người và lắng nghe Pháp từ Đức Phật. Ngài trở
thành một vị Thánh Nhập Lưu vào lúc kết thúc thời
Pháp và quay về cõi trời của mình. Ngài không cần
phải lo lắng về sự tái sinh nơi cõi dữ vì đã là một vị
Thánh Nhập Lưu và có thể hưởng thụ cả sự an lạc
của các dục lẫn sự hạnh phúc của Pháp.
Đây là những tấm gương đối với yếu tố tinh tấn.
Theo cách này, họ đã không dừng việc hành thiền
của mình cho đến khi họ giác ngộ Níp-bàn. Tinh tấn
là yếu tố cần thiết đối với việc hành thiền.
5. Paññā (Trí tuệ)
“Paññavā hoti, udayatthagāminiyā paññāya
samannāgato ariyāya nibbedhikāya sammā
dukkhakkhayagāminiyā”.
“Vị ấy có trí tuệ; thành tựu trí tuệ về sự sinh diệt
(của các pháp), với sự thể nhập bậc Thánh đưa đến
sự chơn chánh đoạn diệt khổ đau.”

72
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Tâm của quý vị nên phải luôn luôn đi kèm với


trí tuệ. Tất cả phiền não sẽ đi kèm với tâm nếu tâm
không đi với trí tuệ. Yếu tố trí tuệ đặc biệt ám chỉ tuệ
Minh Sát về sự sinh diệt của danh-sắc và các nhân
của chúng (Udayabbaya-Ñāṇa), trong trường hợp
này là một padhāniyaṅga.
Để đạt được tuệ Udayabbaya-Ñāṇa theo Lời dạy
của Đức Phật, quý vị nên thực hành Giới học, Định
học, Tuệ học (Sīla Sikkhā, Samādhi Sikkhā và
Paññā Sikkhā) một cách tuần tự. Theo cách này,
Giới sẽ hỗ trợ Định, khi đủ định tâm, Định sẽ hỗ trợ
quý vị phân tích danh-sắc và các nguyên nhân của
chúng. Rồi quý vị có thể thực hành tuần tự thiền
Minh Sát cho đến giai đoạn Udayabbaya-Ñāṇa. Ở
giai đoạn này, có thể nói rằng hành giả có được
Tuệ chi.
Đối với yếu tố trí tuệ, tôi xin được liên hệ đến
câu chuyện về Đại đức Sāriputta và Đại đức
Moggallāna, lấy từ Kinh Pháp cú (Dhammapada32).

32
Khuddakanikāya, Dhammapada-Aṭṭhakathā, Yamakavagga,
‘Sāriputtattheravatthu’ (Chú giả Kệ số 11 và 12, Câu chuyện về Đại
đức Sāriputta).

73
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Trí tuệ của Đại đức Sāriputta


và Đại đức Mahā Moggallāna
Trong năm giác ngộ của mình, Đức Phật đã đến
Migadāya và đi vào vườn Lộc Uyển rộng lớn, được
gọi là lsipatana gần thành Bārāṇasī. Ở đó,
Ngài thuyết Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhamma-
Cakka-Ppavattana-Suttaṃ) đến Nhóm Năm vị
(Pañca-Vaggiya) tỳ-khưu. Năm vị tỳ-khưu đó là Đại
đức Koṇḍañña, Đại đức Vappa, Đại đức Bhaddiya,
Đại đức Mahānāma và Đại đức Assaji. Tất cả họ
đều trở thành A-la-hán sau khi Đức Phật thuyết
Kinh Vô Ngã Tướng (Anatta-Lakkhaṇa-Suttaṃ).
Vào ngày rằm tháng Phussa, Đức Phật đi đến thành
Vương Xá. Lúc ấy, Sañjaya, vị đại sư của các du sĩ
đang sống với hội chúng hai trăm năm mươi đệ tử.
Trong thời gian này, du sĩ Upatissa và Koḷita (sau
này là những Đại đức Thượng thủ Thinh văn của
Đức Phật, Đại đức Sāriputta và Đại đức Mahā
Moggallāna) đang được huấn luyện bởi Sañjaya về
lối thực hành ẩn sĩ. Từ nhỏ, Upatissa và Koḷita đã là
bạn bè. Sau khi hoàn tất sự huấn luyện của Sañjaya
chỉ trong hai hay ba ngày, họ thấy rằng giáo lý của
Sañjaya không có những yếu tố thâm sâu của
Níp-bàn bất tử. Rồi họ thoái bước và trở về nhà của
mình. Trước lúc chia tay, Upatissa nói với Kolita:
“Này bạn Kolita, bất cứ ai trong chúng ta đạt được
Bất tử trước, phải nói cho người còn lại biết.”
Lập giao kết này rồi, họ chia tay nhau.

74
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Sau nửa tháng, vào ngày trăng tròn tháng Māgha,


Upatissa gặp vị A-la-hán Assaji, Upatissa đã nói với
Ngài:
“Bạch Ngài! Các căn của Ngài thật bình thản và
vắng lặng, nước da của Ngài thật thuần tịnh, trong
sáng. Bạch Ngài! Vì lý tưởng gì Ngài xuất gia? Ai là
thầy của Ngài? Và Ngài theo giáo lý của ai?
Đại đức Assaji trả lời:
“Này người anh em! Tôi xuất gia chưa bao lâu. Tôi
vừa biết tới Pháp và Luật của Đức Phật mà thôi.”
Vị ẩn sĩ Upatissa đáp: “Con là Upatissa; xin hãy nói
nhiều hay ít tuỳ vào khả năng của Ngài; con sẽ hiểu
được ý nghĩa theo một trăm hay một ngàn cách.”
Đại đức Assaji liền đọc bài kệ sau cho Upatissa:
“Ye dhammā hetuppabhavā; tesaṃ hetuṃ
Tathāgato āha, Tesañ ca yo nirodho; evaṃ vādī
mahāsamaṇo”
“Năm uẩn là Sự thật về Khổ (Dukkha Sacca), do
nguồn gốc của sự tham ái (taṇhā) hay Sự thật về
Nguyên nhân của Khổ (Samudaya Sacca). Bậc Đạo
Sư, Người Giác Ngộ đã nói về Sự thật về Khổ và
Sự thật về Nguyên nhân của Khổ. Ngài còn giảng
dạy Sự thật về sự Diệt Khổ (Nirodha Sacca) và Sự
thật về Con đường đưa đến sự Diệt Khổ (Magga
Sacca). Đó là giáo lý của bậc Đại Sa môn, Đạo Sư

75
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

của chúng tôi, người giảng dạy Bốn Sự thật Cao


thượng theo cách phân tích chi tiết33.”
Vừa nghe được nửa đầu của bài kệ trên, du sĩ
Upatissa đã chứng đắc Đạo Quả Nhập Lưu; vị ấy
nghe tiếp nửa cuối bài kệ như là một vị Thánh
Nhập Lưu.
Sau đó, Upatissa gặp bạn của mình là Koḷita và
thông báo với bạn rằng chàng đã chứng đắc trạng
thái Bất tử. Chàng lặp lại bài kệ mà chính Đại đức
Assaji đã đọc. Koḷita cũng được an lập vào quả
Thánh Nhập Lưu sau khi nghe hết câu kệ.
Sau đó, họ quyết định đến gặp Đức Phật. Koḷita và
Upatissa gặp được Đức Phật và trở thành những
Thượng thủ Thinh văn của Ngài. Upatissa trở
thành Đại đức Sāriputta, còn Koḷita trở thành
Đại đức Mahā Moggallāna.
Sau khi được xuất gia, Đại đức Mahā Moggallāna
đã toàn tâm thực hành đời sống phạm hạnh trong
một khu rừng. Ngài nương vào một ngôi làng gọi là
Kalavaputta ở nước Magadha để nuôi mạng. Sau
bảy ngày, khi nghe lời giảng của Đức Phật về việc
thực hành thiền trên các đại (Dhātu-
Kammaṭṭhāna), Ngài trở thành một vị A-la-hán.
Vào ngày rằm tháng Māgha, mười lăm ngày sau khi

33
Vinayapiṭaka, Mahāvagga-Aṭṭhakathā, Mahākhandhakaṃ,
‘Sāriputta- Moggallāna-Pabbajjākathā’ (Về sự xuất gia của Đại đức
Sāriputta và Moggallāna).

76
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

được xuất gia, khi đang ở với Đức Phật trong hang
Sūkarakhata, núi Gijjha-Kūṭa, thành Vương Xá, Đại
đức Sāriputta lắng nghe Pháp thoại của Đức Phật
như được giảng trong kinh Vedāna-Pariggaha Sutta
hay còn được biết tới như là Kinh Dīghanakha Sutta
(Paribbajaka Vagga, Majjhima Paṇṇāsa) và trở
thành một vị A-la-hán. Ngài cũng phân tích mười
sáu giai đoạn của tuệ Vipassanā vô cùng
mạnh mẽ.
Đại đức Sāriputta và Đại đức Mahā Moggallāna đã
thực hành thiền Định (Samatha) và thiền Minh Sát
(Vipassanā) cho đến Tuệ Hành Xả (Saṅkhār-
Upekkhā-Ñāṇa) bao gồm Tuệ Sinh diệt
(Udayabbaya-Ñāṇa) trong rất nhiều đời sống quá
khứ34. Trí tuệ của họ dễ dàng thể nhập Pháp và có
thể giác ngộ Níp-bàn chỉ bằng cách lắng nghe một

34
Trong nhiều kiếp sống quá khứ các Ngài đã tích lũy những nhân
duyên sau:
1. Thiện xảo về Kinh điển (pariyatti): Học thuộc lòng lời dạy
của Đức Phật (Buddha-Vacanassa-pariyāpuṇanaṃ), tụng
đọc Pāḷi (Pāḷyā-sajjhāyo).
2. Nghe (savana): Học Pháp một cách kỹ lưỡng với sự cẩn
trọng và tôn kính.
3. Hỏi (paripucchā): Thảo luận về những đoạn khó trong
Kinh điển Pāḷi, Chú giải, v.v...
4. Thực hành trong quá khứ (pubba-yoga): Thực hành thiền
Định (Samatha) và thiền Minh Sát (Vipassanā) cho đến
Tuệ Hành Xả (Saṅkhār-Upekkhā Ñāṇa).

77
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

bài kệ. Đây là lý do tại sao yếu tố trí tuệ rất quan
trọng trong việc giác ngộ Níp-bàn.
Trong xã hội, con người ta có thể được xem như là
một người được giáo dục nếu họ có bằng cấp và địa
vị. Tuy nhiên, theo Kinh Padhāniyaṅga, chúng ta
không thể nói rằng một người có được yếu tố trí tuệ
bởi những thành tích thuộc thế gian. Đại đa số con
người không có được yếu tố trí tuệ này bởi, ở đây, trí
tuệ phải đi kèm Tuệ Minh Sát. Trí tuệ này thuộc về
sự biết và thể nhập sự thật cùng tột thuộc danh-sắc
và những nhân duyên của chúng. Trí tuệ về sự sinh
diệt (Udayabbaya-Ñāṇa) là yếu tố tối quan trọng đối
với việc chứng ngộ Níp-bàn. Do vậy, hành giả không
thể giác ngộ Níp-bàn mà không có loại trí tuệ này.
Sự giác ngộ Níp-bàn sẽ đến khi trí tuệ Minh Sát chín
muồi. Níp-bàn có nghĩa là sự giải thoát mọi phiền
não và khổ đau. Đó là hạnh phúc thực sự, hạnh phúc
tối thượng.
Với yếu tố trí tuệ, chúng ta kết thúc buổi tìm hiểu về
các padhāniyaṅga hay năm yếu tố cần thiết cho việc
thực hành thiền. Nếu quý vị muốn thành công trong
thiền, muốn thoát khỏi mọi khổ ải và giác ngộ Níp-
bàn, quý vị nên phát triển và duy trì năm yếu tố này:
niềm tin (saddhā), sức khỏe (appābādha), chân thật
(asaṭha), tinh tấn (vīriya) và trí tuệ (paññā).
Quý vị có nhớ khi Đức Phật giảng dạy cho vương tử
Bồ-đề vào cuối thời Pháp thoại, vị vương tử đã hỏi:
“Kính bạch Đức Thế Tôn! Với những ai có Ngài là
người lãnh đạo, phải mất bao lâu để người đó thực

78
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

hành chứng đắc quả vị A-la-hán và thọ hưởng sự


tịnh lạc?”
Đức Phật trả lời rằng người mà có được năm yếu tố
cần thiết cho việc hành thiền này có thể chứng ngộ
A-la-hán Quả dưới sự chỉ dạy của Ngài trong vòng
bảy năm, một năm, bảy tháng, một tháng, nửa
tháng, bảy ngày, hay thậm chí giảng dạy vào buổi
sáng, sẽ chứng đắc vào buổi chiều, hay khi được
giảng dạy vào buổi chiều, sẽ chứng đắc vào
sáng hôm sau.
Do đó, bằng việc bồi bổ năm yếu tố cần thiết cho
việc hành thiền (padhāniyaṅga) này, cầu mong cho
tất cả có thể giác ngộ Níp-bàn sớm nhất có thể.
Sādhu! Sādhu! Sādhu!

79
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Tôi cũng xin được nói về Kinh Meghiya cho những


ai mong muốn tiến bộ trong thực hành thiền. Bằng
sự nghiên cứu và thấu hiểu Kinh Meghiya, quý vị sẽ
thấy rằng bản kinh vô cùng hữu ích cho sự thực hành
thiền cũng như thực hành Pháp.

Kinh Meghiya 35
Trong hai mươi mùa hạ đầu tiên của mình,
Đức Phật không có một vị thị giả (upaṭṭhāka)
cố định nào. Thời kỳ này được gọi là Thời kỳ Giác
ngộ Đầu tiên (Pathama Bodhi). Đại đức
Nāgasamāla, Đại đức Nāgita, Đại đức Upavāna,
Đại đức Sunakkhatta (trước là một vương tử
Licchavi), Đại đức Cunda (em trai của Đại đức
Sāriputta), Đại đức Sāgata và Đại đức Meghiya là
những thị giả tạm thời của Đức Phật.
Vào hạ thứ mười ba của mình, Đức Phật ngự tại đại
tinh xá đồi Cālika. Lúc ấy Đại đức Meghiya là
thị giả tạm thời của Đức Phật.
Một ngày nọ, Đại đức Meghiya đi đến gặp Đức
Phật, đảnh lễ Ngài và đứng một bên. Đại đức
Meghiya bạch với Đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn!
Con xin được đi vào làng Jantu khất thực.”

35
Aṅguttara Nikāya, Navakanipāta, Sambodhivagga,
‘Meghiyasuttaṃ’ và Khuddaka Nikāya, Udāna, Nandavagga,
Meghiyavagga, ‘Meghiyasuttaṃ’ (Kinh Meghiya).

80
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Đức Phật trả lời: “Này Meghiya! Thầy có thể làm


những gì Thầy cho là hợp thời.”
Sau đó Đại đức Meghiya đi vào làng Jantu để
khất thực. Sau khi kết thúc bữa ăn, Ngài rời Jantu và
đi đến bờ sông Kimikāḷā. Trong khi đang đi qua lại
thư giãn chân tay, Ngài nhìn thấy một khu vườn xoài
xinh đẹp vừa ý. Trông thấy vậy, Ngài nghĩ: “Khu
vườn xoài này mới xinh đẹp vừa ý làm sao! Khu vườn
xoài này thật hấp dẫn, dễ chịu và thú vị. Thật là một
nơi thích hợp cho con trai của những lương gia chân
chánh xuất gia để thực hành thiền. Nếu được Đức
Phật cho phép, ta nên quay lại đây để
thực hành thiền.”
Đại đức Meghiya quay về gặp Đức Phật và đảnh lễ
Ngài. Đại đức trình lại sự việc một cách chi tiết từ
lúc đầu khi Đại đức đang ngồi đến khi Đại đức có
ý nghĩ thực hành thiền ở khu vườn xoài.
Đại đức thỉnh cầu:
“Bạch Đức Thế Tôn! Xin hãy cho phép con. Con
mong muốn quay về khu vườn xoài để tinh tấn
hành thiền ở đó.”

81
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Khi được yêu cầu như vậy, Đức Phật trả lời để ngăn
cản36 Đại đức đi đến khu vườn xoài: “Vì chúng ta
chỉ có một mình, này Meghiya, hãy đợi cho đến khi
một tỳ-khưu khác đến.”
Lần thứ hai, Đại đức Meghiya lặp lại lời thỉnh cầu:
“Đức Thế Tôn đã thành tựu quả vị A-la-hán và
không có gì khác cần để hoàn thiện. Còn con phải
hoàn thiện mười sáu bài học trên Đạo lộ dành cho
chính con. Con chưa tu tập những gì cần phải hoàn
thiện. Nếu Đức Phật cho phép, con xin đi để
tinh tấn hành thiền.”
Lần thứ hai, cũng vậy, Đức Phật trả lời: “Vì chúng
ta chỉ có một mình, này Meghiya, hãy đợi cho đến
khi một tỳ-khưu khác đến.”
Lần thứ ba, Đại đức Meghiya thỉnh cầu. Lần này
Đức Phật không ngăn cản mà nói rằng:
“Padhānanti kho, meghiya, vadamānaṃ kinti
vadeyyāmā! Yassa dāni tvaṃ, meghiya, kālaṃ
maññasī’ti.”

36
Đức Phật biết rằng ba-la-mật của Đại đức Meghiya vẫn chưa chín
muồi. Đó là lý do Đức Phật ngăn cản. Ngài nói: “Vì chúng ta chỉ có
một mình, này Meghiya, hãy đợi cho đến khi một tỳ-khưu khác
đến.” Bởi Ngài biết rằng, nếu Ngài nói vậy và nếu Đại đức Meghiya
thất bại trong việc hành thiền, Đại đức sẽ quay trở về không ngượng
ngùng, trái lại, Đại đức sẽ có lòng kính mến Đức Phật. Đức Phật nói
vậy để khiến tâm Đại đức kham nhậm hơn.

82
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

“Này Meghiya, khi Thầy đã nói đến “tinh tấn hành


thiền” thì làm sao ta có thể ngăn cản được nữa? Này
Meghiya, hãy làm những gì Thầy cho là hợp thời!”
Rồi Đại đức Meghiya từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ
Đức Phật và đi đến khu vườn xoài.

83
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Những Tư Tưởng Bất Thiện Khởi Sinh


Trong Tâm Đại Đức Meghiya
Vườn xoài đó là nơi Đại đức Meghiya đã thọ hưởng
vương lạc trong năm trăm kiếp quá khứ liên tiếp làm
vua của mình. Cũng vì vậy mà ước muốn được ở đó
sinh khởi trong Ngài ngay khi Ngài vừa nhìn thấy
khu vườn xoài.
Sau khi đã đi vào khu vườn, Ngài ngồi dưới một gốc
cây để nghỉ ban ngày. Phiến đá ở dưới gốc cây nơi
Đại đức Meghiya đang ngồi cũng chính là phiến đá
khi xưa Ngài đã sử dụng như một sàng toạ, bao
quanh là những vũ công khi Ngài là vua trong những
kiếp sống quá khứ. Vừa ngồi xuống, mọi chuyện
diễn ra như thể cuộc đời phạm hạnh của Ngài đã đi
đâu mất. Đại đức Meghiya rơi vào một trạng thái mơ
mộng như thể Ngài đang đảm nhận vương quyền
trên ngai vàng được bao quanh bởi những vũ công
xinh đẹp.
Rồi cùng sự dính mắc này với những xa hoa
vương giả, những suy tầm bất thiện về dục (kāma-
vitakka) liên hệ đến những đối tượng dục lạc
(vatthu-kāma) từ từ sinh khởi trong Ngài. Cũng vào
lúc đó, như thể Ngài thấy hai tên trộm bị bắt giữ bởi
quân lính đang bị giải đến và đặt trước Ngài. Thấy
những tên trộm, những suy tầm về sân hận
(byāpāda-vitakka) sinh khởi trong Ngài cứ như thể
Ngài đang ra lệnh hành quyết một trong hai tên.
Những suy tầm về nhiễu hại (vihiṃsā-vitakka)

84
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

xuất hiện trong Ngài như chính Ngài đang ra lệnh


tra khảo và tống giam tên còn lại. Theo cách này, ba
loại tư duy bất thiện cứ thay nhau xuất hiện trong
tâm Ngài, tức là dục tầm, sân tầm và hại tầm.
Khi hành thiền, những suy tầm này có xuất hiện
trong tâm trí quý vị không? Bây giờ khi quý vị đang
nghe Pháp, những ý nghĩ bất thiện có thể không
khởi sinh. Nhưng khi quý vị hành thiền, những loại
suy nghĩ như vậy có thể khởi sinh. Lấy ví dụ, quý vị
có thể nghĩ về gia đình mình hoặc những đối tượng
dục lạc khác mà trước đây quý vị đã từng hưởng thụ.
Hoặc khi quý vị cãi nhau với bạn bè, những suy nghĩ
về sân hận và những điều không vừa ý có thể
xuất hiện. Đối với một số người, ngay khi vừa nhắm
mắt hành thiền, những bất thiện tư duy đã bắt đầu
sinh khởi. Điều này có nghĩa là họ vẫn đang phải
chiến đấu với những loại ý nghĩ như vậy. Nhưng dần
dần sau khi hành giả có thể tập trung trên hơi thở
tốt, những loại suy nghĩ như vậy sẽ biến mất. Đó là
lý do chúng tôi khuyến khích hành giả duy trì sự tập
trung trên hơi thở trong một thời gian dài.
Một số thiền sinh có thể tập trung trên hơi thở trong
một giờ hoặc hai giờ. Sau đó tôi hướng dẫn họ duy
trì sự chánh niệm trên hơi thở càng lâu càng tốt, bốn
giờ hoặc năm giờ. Rồi họ than thở với tôi: “Tại sao
con nên tập trung lâu trên hơi thở như vậy?”
Thực ra, bởi vì điều đó có thể giúp quý vị loại trừ
những loại suy nghĩ như vậy. Nếu những loại

85
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

suy nghĩ như vậy luôn xuất hiện trong tâm, quý vị
không thể nào chứng đắc bất kỳ sự định tâm nào.
Vì Đại đức Meghiya bị bủa vây bởi ba loại tư duy
bất thiện, Ngài không thể hành thiền đúng cách
được. Đại đức lấy làm lạ và quyết định quay về hỏi
Đức Phật.
Đức Phật không bao giờ giáo giới đệ tử của Ngài mà
không có nguyên do. Ngài biết những gì sẽ xảy đến
đối với Đại đức Meghiya. Nhưng tại sao Đức Phật
lại cho phép Đại đức Meghiya đi đến khu vườn xoài?
Bởi vì Đức Phật biết rằng Đại đức sẽ đi đến đó dù
không được Đức Phật cho phép. Nếu Đại đức bị
ngăn cản không được đi, Đại đức có thể nghĩ sai và
hiểu nhầm Đức Phật rằng: “Đức Phật không cho
phép ta vì Ngài chỉ mong muốn một điều, tức là sự
phục vụ của ta.” Đức Phật cũng biết rằng nếu
Đại đức Meghiya có suy nghĩ sai lầm như vậy, Đại
đức có thể chỉ trích Đức Phật. Chính tư tưởng sai lạc
này sẽ khiến cho Đại đức chịu đau khổ dài lâu và có
thể ngăn cản sự chứng đắc của Ngài. Chính vì vậy
Đức Phật mới cho phép.
Thỉnh thoảng, một số thiền sinh muốn về nước
nhưng tôi lại ngăn cản họ. Điều này là để giúp cho
thiền sinh không rơi vào những thói quen bất thiện.
Chẳng hạn, một thiền sinh từ Mỹ muốn về nước.
Sau khi về, anh ta có thể quay về với những thói quen
cũ, hưởng thụ dục lạc, đi đến các câu lạc bộ ban
đêm, v.v… Rồi anh ta sẽ quên đi việc thực hành
thiền. Đây là lý do tại sao quý vị nên suy xét để

86
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

không về nước. Trung tâm của chúng ta là một nơi


thích hợp cho việc thực hành thiền. Hãy ở lại đây và
tu tập cho đến khi quý vị chứng ngộ Níp-bàn.
Sau khi đảnh lễ Đức Phật, Đại đức Meghiya ngồi ở
một nơi thích hợp và bạch lại những gì đã xảy đến
đối với Ngài.
“Acchariyaṃ vata bho, abbhutaṃ vata bho!
Saddhāya ca vatamhā agārasmā anagāriyaṃ
pabbajitā. Atha ca panimehi tīhi pāpakehi akusalehi
vitakkehi anvāsattā, seyyathidaṃ – kāmavitakkena,
byāpādavitakkena, vihiṃsāvitakkena.”
“Ôi! Thật là kỳ lạ! Ôi! Thật là hiếm thấy! Chúng
con37 là những người đã từ bỏ thế gian và gia nhập
Tăng Đoàn bởi đức tin, vậy mà chúng con vẫn còn
bị xâm chiếm bởi ba ác bất thiện tư duy, tức là:
dục tư duy, sân tư duy và hại tư duy.”
Đức Phật giáo giới Đại đức Meghiya
Khi Đại đức Meghiya đã trình bày với Đức Phật
những gì đã diễn ra, Đức Phật thuyết một Pháp thoại
thích hợp đến Đại đức:
“Aparipakkāya, meghiya, cetovimuttiyā pañca
dhammā paripākāya saṃvattanti. Katame pañca.”

37
Đối với văn phong lịch sự, thông thường đại từ “chúng con/ chúng
tôi” được sử dụng thay vì “con/ tôi”.

87
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

“Này Meghiya! Khi tâm giải thoát chưa được


viên mãn, có năm pháp đưa đến sự viên mãn.
Thế nào là năm?”38
“Idha, meghiya, bhikkhu kalyāṇamitto hoti
kalyāṇasahāyo kalyāṇasampavaṅko. Aparipakkāya,
meghiya, cetovimuttiyā ayaṃ paṭhamo dhammo
paripākāya saṃvattati.”
(1) “Ở đây, này Meghiya, vị tỳ-khưu có
thiện bằng hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình.
Khi tâm giải thoát chưa được viên mãn, thời đây là
pháp đầu tiên đưa đến sự viên mãn.”
Khi được thân cận những người bạn thiện lành,
ba-la-mật của quý vị sẽ được trưởng thành.
“Puna caparaṃ, meghiya, bhikkhu sīlavā hoti,
pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharati ācāragocara-
sampanno, aṇumattesu vajjesu bhayadassāvī,
samādāya sikkhati sikkhāpadesu. Aparipakkāya,
meghiya, cetovimuttiyā ayaṃ dutiyo dhammo
paripākāya saṃvattati.”
(2) “Lại nữa, này Meghiya! Vị tỳ-khưu có
giới hạnh, sống chế ngự với sự chế ngự của
giới bổn Pātimokkha39, thành tựu phẩm hạnh và
hành xứ thích hợp, thấy nguy hiểm trong những lỗi

38
Có tham khảo bản dịch Kinh Meghiya của HT Thích Minh Châu
– ND.
39
227 giới của Tỳ-khưu.

88
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học các học pháp. Khi tâm
giải thoát chưa được viên mãn, thời đây là pháp thứ
hai đưa đến sự viên mãn.”
“Puna caparaṃ, meghiya, bhikkhu yāyaṃ kathā
abhisallekhikā cetovivaraṇasappāyā
ekantanibbidāya virāgāya nirodhāya upasamāya
abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati,
seyyathidaṃ – appicchakathā, santuṭṭhikathā,
pavivekakathā, asaṃsaggakathā,
vīriyārambhakathā, sīlakathā, samādhikathā,
paññākathā, vimuttikathā,
vimuttiñāṇadassanakathā; evarūpāya kathāya
nikāmalābhī hoti akicchalābhī akasiralābhī.
Aparipākāya, meghiya, cetovimuttiyā ayaṃ tatiyo
dhammo paripākāya saṃvattati.”
(3) “Lại nữa, này Meghiya! Vị tỳ-khưu được nghe
như ý muốn một cách dễ dàng, không có khó khăn,
những lời nói liên hệ đến cuộc sống phạm hạnh,
thuận lợi cho sự mở mang nhận thức, tức là lời nói
về thiểu dục, lời nói về tri túc, lời nói về viễn ly,
lời nói về độc cư, lời nói về tinh tấn, lời nói về giới,
lời nói về định, lời nói về tuệ, lời nói về giải thoát,
lời nói về giải thoát tri kiến. Khi tâm giải thoát chưa
được viên mãn, thời đây là pháp thứ ba đưa đến
sự viên mãn.”
“Puna caparaṃ, meghiya, bhikkhu āraddhavīriyo
viharati, akusalānaṃ dhammānaṃ pahānāya,
kusalānaṃ dhammānaṃ upasampadāya, thāmavā
daḷhaparakkamo anikkhittadhuro kusalesu

89
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

dhammesu. Aparipakkāya, meghiya, cetovimuttiyā


ayaṃ catuttho dhammo paripākāya saṃvattati.”
(4) “Lại nữa, này Meghiya! Vị tỳ-khưu sống
nhiệt tâm tinh cần ngăn ngừa bất thiện pháp,
thâu hoạch thiện pháp, kiên trì, bền bỉ, không từ bỏ
gánh nặng tu tập các thiện pháp. Khi tâm giải thoát
chưa được viên mãn, thời đây là pháp thứ tư đưa đến
sự viên mãn.”
“Puna caparaṃ, meghiya, bhikkhu paññavā hoti
udayatthagāminiyā paññāya samannāgato ariyāya
nibbedhikāya sammā dukkhakkhayagāminiyā.
Aparipakkāya, meghiya, cetovimuttiyā ayaṃ
pañcamo dhammo paripākāya saṃvattati.
Aparipakkāya, meghiya, cetovimuttiyā ime pañca
dhammā paripākāya saṃvattanti.”
(5) “Lại nữa, này Meghiya! Vị tỳ-khưu có trí tuệ,
thành tựu trí tuệ về sự sinh diệt, với sự thể nhập
bậc Thánh đưa đến sự chơn chánh đoạn diệt
khổ đau40. Khi tâm giải thoát chưa được viên mãn,
thời đây là pháp thứ năm đưa đến sự viên mãn.”
Theo giải thích ở bộ Nhân Chế định
(Puggalapaññatti) và Tăng Chi Bộ Kinh (Aṅguttara

40
Chú giải Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya Aṭṭhakathā) giải thích
điều này có nghĩa là vị ấy có khả năng thâm nhập vào sự sinh khởi
và hoại diệt của năm uẩn bằng cách đàn áp (vikkhambhana-vasena)
với Tuệ Minh Sát (vipassanā-paññā), và bằng cách nhổ tận gốc rễ
(samuccheda-vasena) với Đạo Tuệ (Magga-paññā).

90
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Nikāya), thiện bằng hữu là những ai thành tựu


tám phẩm chất sau: niềm tin, giới hạnh, trí tuệ về
Pháp, tâm hào sảng, tinh tấn, chánh niệm, định tâm
và trí tuệ.
Theo Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi Magga), cơ hội
để gặp được thiện bằng hữu theo thứ tự giảm dần
như sau:
1. Đức Phật,
2. Đại Đệ tử của Đức Phật,
3. Một vị A-la-hán,
4. Một vị Bất Lai,
5. Một vị Nhất Lai,
6. Một vị Nhập Lưu,
7. Một phàm phu đắc thiền (jhāna),
8. Một vị biết ba Tạng (Piṭaka),
9. Một vị biết hai Tạng,
10. Một vị biết một Tạng,
11. Một vị quen thuộc với một Bộ Kinh (Nikāya)
cùng Chú giải (Aṭṭhakathā),
12. Một người có giới.
Rồi Đức Phật giải thích thêm:
“Kalyāṇamittassetaṃ, meghiya, bhikkhuno
pāṭikaṅkhaṃ kalyāṇasahāyassa
kalyāṇasampavaṅkassa yaṃ sīlavā bhavissati,
pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharissati,
ācāragocarasampanno, aṇumattesu vajjesu
bhayadassāvī, samādāya sikkhissati sikkhāpadesu.”

91
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

“Này Meghiya! Khi một tỳ-khưu có được thiện bằng


hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình, được
kỳ vọng là:
(6) Vị ấy có giới hạnh, sống chế ngự với sự chế
ngự của giới bổn Pātimokkha;
(7) Thành tựu phẩm hạnh và hành xứ thích hợp;
(8) Thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt,
thọ lãnh và tu học các học pháp.
Có ba loại hành xứ (gocara) tốt hay thích hợp:
1. Hành xứ tương hỗ (Upanissaya Gocara):
Là hành xứ có thể cung cấp đầy đủ những điều kiện
tu tập các phẩm chất thiện lành như giới hạnh, v.v…
Người bạn lành sử dụng mười loại lời nói liên hệ đến
sự giải thoát khỏi khổ luân hồi (saṃsāra) mang lại
năm lợi ích như là: nghe những Pháp chưa từng được
nghe trước đây, điều chỉnh điều đã được nghe, xua
tan nghi hoặc, chấn chỉnh tri kiến, đạt được niềm tin
hoặc vị ấy khiến cho người khác tiến bộ trong năm
phương diện: tín, giới, văn, thí và tuệ.
2. Hành xứ bảo vệ (Ārakkha Gocara): Là hành
xứ bảo vệ tâm của vị tỳ-khưu khỏi sự nguy hiểm của
những tư duy bất thiện. Một vị tỳ-khưu an trú trong
hành xứ của sự chánh niệm, đi vào làng hay thị trấn
khất thực với mắt nhìn xuống một tầm cày, thu thúc,
không nhìn voi, không nhìn ngựa, không nhìn xe,
không nhìn người đi bộ, không nhìn phụ nữ,
không nhìn đàn ông, không nhìn lên, không nhìn
xuống, không nhìn chằm chằm theo hướng này hay

92
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

hướng khác, hoặc hướng về bất kỳ hướng nào trong


tám hướng và tiếp tục đi.
3. Hành xứ neo cột (Upanibandha Gocara):
Chính là thiền Tứ Niệm Xứ (Satipatthāna
Kammatthāna) – nơi tâm được neo cột lại.41
Thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt
(aṇumattesu vajjesu bhayadassāvī) ám chỉ đến sự sở
hữu thói quen tốt hay hành vi đạo đức trong việc
thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt. Điều này
có thể là những vi phạm không cố ý đối với những
điều học nhỏ thuộc Pātimokkha hay sự sinh khởi
những tư duy không có lợi. Lấy ví dụ, khi muốn ra
ngoài, quý vị cần phải suy xét: “Nếu ta đi ra ngoài,
ta sẽ phải nhìn thấy nhiều đối tượng, điều này làm
giảm sút việc hành thiền và xao nhãng định tâm.”
Do vậy, theo cách này, quý vị thấy nguy hiểm trong
những điều nhỏ nhặt nhất có thể cản trở việc
hành thiền của mình.
(9) “Này Meghiya! Khi vị tỳ-khưu có được thiện
bằng hữu, (kalyāṇamitta), thiện bạn đãng
(kalyāṇasahāya), thiện thân tình
(kalyāṇasampavaṅka), được chờ đợi là vị ấy được
nghe như ý muốn một cách dễ dàng, không có khó
khăn, những lời nói thực sự nghiêm túc, đưa đến sự
yểm ly hoàn toàn (ekantanibbidāya), ly tham

41
Saṃyutta Nikāya, Mahāvagga, Satipaṭṭhānasaṃyutta,
Ambapālivagga, 'Sakuṇagghisuttaṃ' (Kinh Chim ưng).

93
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

(virāgāya), diệt tận (nirodhāya), an tịnh


(upasamāya), thắng trí (abhiññāya), giác ngộ
(sambodhāya) và Níp-bàn (Nibbānāya). Tức là lời
nói về thiểu dục, lời nói về tri túc, lời nói về viễn ly,
lời nói về độc cư, lời nói về tinh tấn, lời nói về giới,
lời nói về định, lời nói về tuệ, lời nói về giải thoát,
lời nói về giải thoát tri kiến.”
Mười loại lời nói thích hợp cho sự giải thoát:
(dasa-kathāvatthūni)42:
1. Appiccha-kathā [lời nói về sự ít muốn];
2. Santutthi-kathā [lời nói về sự biết đủ đối với
những gì có được], đặc biệt liên quan đến bốn
vật dụng như y phục, vật thực, chỗ ở và
thuốc men;
3. Paviveka-kathā [lời nói về sống viễn ly];
4. Asaṃsagga-kathā [lời nói về độc cư,
(không vướng bận)];
5. Vīriyārambha-kathā [lời nói về tinh tấn];
6. Sīla-kathā [lời nói về giới];
7. Samādhi-kathā [lời nói về sự định tâm];
8. Paññā-kathā [lời nói về Tuệ Minh Sát
(Vipassanā) và các Đạo Tuệ];
9. Vimutti-kathā [lời nói về sự giải thoát
(các trạng thái tâm Quả)];

‘Dhammadāyādasuttavaṇṇanā’ (Chú giải Kinh Người thừa tự


42

Pháp). Majjhima Nikāya, Mūlapaṇṇāsa-Aṭṭhakathā,


Mūlapariyāyavagga.

94
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

10. Vimuttiñānadassana-kathā [lời nói về Tuệ


Xét duyệt Đạo, Quả (Paccavekhanā-ñāṇa)].
Có bốn loại thiểu dục hay vô dục (appiccha),
đó là:
1. Có ít hoặc không có mong muốn đối với bốn
vật dụng (paccaya-appiccha);
2. Có ít hoặc không có mong muốn người khác
biết rằng mình đang thực hành những hạnh
(paṭipadā) cao thượng (dhutaṅga-appiccha);
3. Có ít hoặc không có mong muốn người khác
biết rằng mình học rộng biết nhiều Pháp
(pariyatti-appiccha);
4. Có ít hoặc không có mong muốn người khác
biết rằng mình đã giác ngộ Pháp siêu thế,
thuộc về Đạo-Quả (adhigama-appiccha).
Có ba loại viễn ly (viveka), đó là:
1. Viễn ly về thân (kāya-viveka), tức là tránh xa
sự giao thiệp;
2. Viễn ly về tâm (citta-viveka), tức là tránh xa
những dục tư duy, đặc biệt ám chỉ đến
định bậc thiền;
3. Viễn ly sinh y (upadhi-viveka), tức là
Níp-bàn, vốn không có bốn sinh y (upadhi).
Bốn loại sinh y (upadhi) là:
1. Dục sinh y (kāmupadhi),
2. Uẩn sinh y (khandhupadhi),
3. Phiền não sinh y (kilesupadhi),

95
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

4. Thắng hành sinh y (abhisaṅkhārūpadhi).


Đức Phật tiếp tục giảng giải:
(10) “Lại nữa, này Meghiya! Khi vị tỳ-khưu có
được thiện bằng hữu, thiện bạn đãng, thiện thân
tình, được kỳ vọng là vị ấy sẽ sống nhiệt tâm tinh cần
(āraddhavīriyo viharissati), ngăn ngừa bất thiện
pháp (akusalānaṃ dhammānaṃ pahānāya), thâu
hoạch thiện pháp (kusalānaṃ dhammānaṃ
upasampadāya), kiên trì (thāmavā), bền bỉ
(daḷhaparakkamo), không từ bỏ gánh nặng tu tập
các thiện pháp (anikkhittadhuro kusalesu
dhammesu).”
Quý vị nên thực hành thiền để loại trừ những pháp
bất thiện và chứng đạt những pháp thiện. Nếu không
hành thiền, quý vị không thể nào loại bỏ những
phiền não, cấu uế trong tâm. Dù có gặp khó khăn
trong sự thực hành, quý vị cũng không nên dừng lại.
Quý vị nên có sự tinh tấn mãnh liệt, không ngưng
nghỉ, rằng: “Cho đến khi ta chưa giác ngộ Níp-bàn,
ta sẽ không bao giờ từ bỏ sự tu tập.”
(11) “Lại nữa, này Meghiya! Vị tỳ-khưu có được
thiện bằng hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình,
được kỳ vọng là vị ấy có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về
sự sinh diệt (udayatthagāminiyā paññāya
samannāgato) của danh sắc và các nhân của chúng,
vốn thuộc bậc Thánh (Ariyāya), mang tính thể nhập
(nibbedhikāya), đưa đến sự chơn chánh đoạn diệt
khổ đau (sammā dukkhakkhaya-gāminiyā).”

96
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Có được một người bạn tốt là điều vô cùng quan


trọng. Một lần nọ, Đại đức Ānanda quán chiếu đến
cách một người có thể thành công trong cuộc đời
phạm hạnh (brahma-cariya)43. Ngài nghĩ rằng sự
thành công trong cuộc đời phạm hạnh một nửa nhờ
vào thiện bằng hữu và một nửa nhờ vào nỗ lực tự
thân. Nhưng khi Ngài trình điều này lên Đức Phật,
Đức Phật giáo giới Ngài:
“Mā hevaṃ, ānanda, mā hevaṃ, ānanda!
Sakalamevidaṃ, ānanda, brahmacariyaṃ, yadidaṃ
– kalyāṇamittatā kalyāṇasahāyatā
kalyāṇasampavaṅkatā. Kalyāṇamittassetaṃ,
ānanda, bhikkhuno pāṭikaṅkhaṃ kalyāṇasahāyassa
kalyāṇasampavaṅkassa – ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ
maggaṃ bhāvessati, ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ
bahulīkarissati.”
“Chớ có nói vậy, này Ānanda! Chớ có nói vậy, này
Ānanda! Toàn bộ Phạm hạnh này, này Ānanda, là
thiện bằng hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình.
Với tỳ-khưu thiện bằng hữu, thiện bạn đãng,
thiện thân tình, này Ānanda, thời được chờ đợi
Thánh đạo Tám ngành được tu tập, Thánh đạo
Tám ngành được làm cho viên mãn.”
“Tadamināpetaṃ, ānanda, pariyāyena veditabbaṃ
yathā sakalamevidaṃ brahmacariyaṃ, yadidaṃ –

43
Saṃyutta Nikāya, Maggasaṃyutta, ‘Upaḍḍha-Suttaṃ’
(Kinh Một nửa).

97
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

kalyāṇamittatā kalyāṇasahāyatā
kalyāṇasampavaṅkatā. Mamañhi, ānanda,
kalyāṇamittaṃ āgamma jātidhammā sattā jātiyā
parimuccanti; jarādhammā sattā jarāya
parimuccanti; maraṇadhammā sattā maraṇena
parimuccanti; sokaparideva-
dukkhadomanassupāyāsa- dhammā sattā
sokaparidevadukkhadomanassupāyāsehi
parimuccanti. Iminā kho etaṃ, ānanda, pariyāyena
veditabbaṃ yathā sakalamevidaṃ brahmacariyaṃ,
yadidaṃ – kalyāṇamittatā kalyāṇasahāyatā
kalyāṇasampavaṅkatā.”
“Này Ānanda, chính với pháp môn này, các Thầy
cần phải hiểu thế nào toàn bộ Phạm hạnh này là
thiện bằng hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình.
Do nương nhờ Ta (Đức Phật – ND) là thiện bằng
hữu, này Ānanda, nên các chúng sinh bị sinh được
giải thoát khỏi sinh; các chúng sinh bị già được giải
thoát khỏi già; các chúng sinh bị chết được giải thoát
khỏi chết; các chúng sinh bị sầu, bi, khổ, ưu, não
được giải thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não. Chính với
pháp môn này, này Ānanda, các Thầy cần phải hiểu
thế nào mà toàn bộ Phạm hạnh này là thiện bằng
hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình.”
Đó là lý do tại sao Đức Phật giải thích tầm quan
trọng của việc có những người bạn tốt. Sau khi xác
lập những điều này, Đức Phật cũng giải thích thêm
rằng vị tỳ-khưu nên phát triển bốn đức tính nữa:
“Asubhā bhāvetabbā rāgassa pahānāya.”

98
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

(12) “Thiền bất tịnh nên được tu tập để loại trừ


tham dục”
Lấy ví dụ, một số hành giả đang thực hành thiền
Vipassanā, nhưng vì chưa thể loại trừ tất cả phiền
não, tham dục (rāga) có thể khởi sinh trong tâm họ.
Vào lúc đó, họ nên thực hành thiền bất tịnh. Ở cả
giai đoạn thiền Định và thiền Minh Sát, hành giả đều
có có thể hành thiền bất tịnh, như là ba hai thân
phần, v.v… Rồi họ có thể loại trừ được tham dục
khỏi tâm của mình.
“Mettā bhāvetabbā byāpādassa pahānāya.”
(13) “Thiền tâm từ nên được tu tập để loại trừ
sân hận.”
Khi hành thiền, sân hận có thể xuất hiện trong tâm
của quý vị. Vào lúc đó, quý vị nên thực hành thiền
tâm từ để loại trừ tâm sân. Chẳng hạn, khi đang ở
giai đoạn thiền hơi thở, nếu tâm sân hận hay tâm
bất mãn (byāpāda) xuất hiện trong tâm, hành giả
không thể thiền tốt được. Hành giả có thể ngưng việc
hành thiền hơi thở một lúc và tu tập thiền tâm từ.
Làm cách nào để tu tập tâm từ? Hành giả nên hướng
sự tác ý đến tất cả chúng sinh một cách chung
chung. Mường tượng ra khuôn mặt đang tươi cười
của họ rồi cố gắng rải tâm từ: “Cầu mong cho tất cả
chúng sinh thoát khỏi hiểm nguy, thoát khỏi khổ
tâm, thoát khỏi khổ thân, được an vui, hạnh phúc.”
Câu này trong tiếng Pāḷi là: “Sabbe sattā avera
hontu, abyāpajja hontu, anīgha hontu, sukhī

99
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

attānaṃ pariharantu.” Khi rải tâm từ theo cách này,


quý vị có thể loại bỏ hận sân từ trong tâm của mình.
Nhưng đối với những ai có thể thực hành thiền tâm
từ cho đến tam thiền, sẽ dễ dàng hơn để tu tập
tâm từ44 khi sân hận xuất hiện trong tâm trí họ.
“Ānāpānassati bhāvetabbā vitakkupacchedāya.”
(14) “Niệm hơi thở nên được tu tập để loại trừ
những tư duy tản mạn.”
Khi hành thiền, nhiều loại suy nghĩ có thể xuất hiện
trong tâm quý vị. Lấy ví dụ, trong trường hợp của
Đại đức Meghiya, ba loại tư duy bất thiện đều sinh
khởi, tức là: dục tư duy, sân tư duy và hại tư duy.
Nếu điều này xảy đến với chính mình thì quý vị
không thể nào tiếp tục hành thiền tốt được. Vậy thì
phải làm như thế nào? Quý vị nên tu tập thiền niệm
hơi thở. Khi cố gắng tập trung trên thiền hơi thở lặp
đi lặp lại nhiều lần, định tâm của quý vị sẽ trở nên
mạnh mẽ, quý vị có thể loại trừ những tư duy
tản mạn trong tâm. Bởi lý do này nên Đức Phật cũng
khuyến khích Đại đức Meghiya thực hành thiền
niệm hơi thở.
Một số người có nhiều phóng tâm khi họ thiền niệm
hơi thở, rồi họ dừng việc hành thiền lại, họ muốn
thay đổi đề mục thiền khác. Tuy nhiên, Đức Phật đã

44
Xin tham khảo cuốn “Biết và Thấy” của Đại Trưởng lão Pa-Auk
Sayadaw để có thêm giải thích chi tiết hoặc tìm gặp các vị thiền sư
có năng lực.

100
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

giải thích rằng thiền niệm hơi thở có thể loại trừ
những suy nghĩ tản mạn. Đó là lý do tại sao quý vị
nên tiếp tục việc thực hành cho đến khi có thể chứng
đắc mức độ định tâm mạnh mẽ, lúc ấy, quý vị có thể
loại trừ sự phóng tâm ra khỏi tâm trí của mình.
“Aniccasaññā bhāvetabbā
asmimānasamugghātāya.”
(15) “Tưởng về vô thường nên được tu tập để loại
trừ ngã mạn”
Quý vị có biết tâm ngã mạn (māna) không? Ví dụ,
một số người không thích khi người khác nhắc nhở
về những lỗi của chính họ hoặc khi họ được giáo giới.
Đó là vì họ có tâm ngã mạn. Thực ra, khi họ có thể
quán chiếu như thế này: “Một ngày nào đó, những
người khác sẽ chết, ta rồi cũng như sẽ như vậy.
Người khác là sự kết hợp của những nhóm nguyên
tố, ta cũng như vậy.” Như vậy có thể tạm thời loại
trừ tâm ngã mạn. Nhưng đối với những ai có thể thực
hành lên thiền Vipassanā, họ có thể phân tích tất cả
danh và sắc là vô thường. Do đó, Đức Phật cũng nói:
“Aniccasaññino hi, meghiya, anattasaññā saṇṭhāti,
anattasaññī asmimānasamugghātaṃ pāpuṇāti
diṭṭheva dhamme nibbāna.”
“Này Meghiya! Nhờ tưởng về vô thường, tưởng về
vô ngã trở nên vững chắc. Khi tưởng về vô ngã trở

101
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

nên vững chắc, ngã mạn được tiêu trừ hoàn toàn45,
cũng chính là Níp-bàn trong chính kiếp sống này.”
Theo Chú giải Kinh Phật tự thuyết46 (Udāna), có
mười lăm yếu tố khác có thể hỗ trợ tâm giải thoát
khỏi phiền não được viên mãn (vimuttiparipācanīyā
dhamma). Hay nói cách khác là những yếu tố
đưa đến sự chứng đạt quả vị A-la-hán. Chúng là:
[Ba yếu tố liên hệ đến niềm tin (saddhā)]
1. Không thân cận người không có niềm tin
(assaddhe puggale parivajjayato),
2. Thân cận người có niềm tin (saddhe puggale
sevato bhajato payirupāsato),
3. Quán chiếu những kinh tạo niềm tin
(pasādanīye suttante paccavekkhato)47,
[Ba yếu tố liên hệ đến sự tinh tấn (vīriya)]
4. Không thận cận người lười biếng (kusīte
puggale parivajjayato),
5. Thân cận người tinh tấn (āraddhavīriye
puggale sevato bhajato payirupāsato),

45
Chỉ khi chứng đắc A-la-hán, ngã mạn mới được đoạn trừ
hoàn toàn.
46
Khuddaka Nikāya, Udāna-Aṭṭhakathā, Meghiyavagga,
‘Meghiyasutta- vaṇṇanā (Chú giải Kinh Meghiya).
47
Đọc những Kinh nói về Ân Đức Phật, Pháp, Tăng. Chẳng hạn,
để tăng niềm tin nơi Đức Phật, đọc câu chuyện Maṭṭhakuṇḍalī, có
thể tìm thấy trong Chú giải Kinh Pháp Cú, (Dhammapada
Aṭṭhakathā), Phẩm Song Đối (Yamakavagga).

102
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

6. Quán chiếu những phẩm chất tạo nên chánh


tinh tấn (sammappadhāne paccavekkhato48),
[Ba yếu tố liên hệ đến sự chánh niệm (sati)]
7. Không thân cận người thất niệm (muṭṭhassatī
puggale parivajjayato),
8. Thân cận người có chánh niệm (upaṭṭhitassatī
puggale sevato bhajato payirupāsato),
9. Quán chiếu những Pháp hay Kinh tạo nên
nền tảng của sự chánh niệm (satipaṭṭhāne
paccavekkhato),
[Ba yếu tố liên hệ đến định (samādhi)]
10. Không thân cận người không có định
(asamāhite puggale parivajjayato),
11. Thân cận người có định (samāhite puggale
sevato bhajato payirupāsato),

48
Bốn sự tinh tấn chân chính (sammappadhāna):
1. Tinh tấn thu thúc (saṃvara-padhāna): Nhiệt tâm, tinh cần
thu thúc không tạo tác những bất thiện nghiệp trên
thân, khẩu, ý;
2. Tinh tấn đoạn trừ (pahāna-padhāna): Tinh tấn chấm dứt
bất cứ bất thiện nghiệp nào trên thân, khẩu, ý;
3. Tinh tấn tu tập (bhāvanā-padhāna): Nhiệt tâm, tinh cần cố
gắng phát triển và tạo tác những thiện nghiệp mới trên thân,
khẩu, ý. Cũng là sự cố gắng tu tập ngày càng nhiều
minh (vijjā) và hạnh (caraṇa);
4. Tinh tấn duy trì (anurakkhaṇa-padhāna): Tiếp tục với
bất cứ thiện nghiệp nào được tạo tác qua thân, khẩu, ý.

103
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

12. Quán chiếu đến những kết quả tạo nên các
bậc thiền và sự giải thoát (jhānavimokkhe
paccavekkhato),
[Ba yếu tố liên hệ đến trí tuệ (paññā)]
13. Không thân cận người không có trí tuệ
(duppaññe puggale parivajjayato),
14. Thân cận người có trí tuệ (paññavante
puggale sevato bhajato payirupāsato), và
15. Quán chiếu đến những kinh thâm sâu liên hệ
đến trí tuệ (gambhīrañāṇacariyaṃ
paccavekkhato).
Mười lăm yếu tố này sẽ đưa đến sự thanh tịnh hay
sự viên mãn của năm căn, đó là:
Tín căn (saddhindriyaṃ), tấn căn (vīriyindriyaṃ),
niệm căn (satindriyaṃ), định căn(samādhindriyaṃ)
và tuệ căn (paññindriyaṃ).
Bên cạnh mười lăm yếu tố trên đây, còn có năm
tưởng thể nhập (nibbedhabhāgiyā saññā), đó là:
1. Tưởng vô thường (anicca-saññā),
2. Tưởng khổ (dukkha-saññā),
3. Tưởng vô ngã (anatta-saññā),
3. Tưởng từ bỏ (pahāna-saññā), và
4. Tưởng ly dục (virāga-saññā); không dính mắc
bất cứ điều gì ở đời.
Năm yếu tố đã được dạy trong Kinh cho Đại đức
Meghiya là: thân cận với thiện bằng hữu, có giới
hạnh, lắng nghe và quán chiếu đến mười loại lời nói,

104
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

phát triển sự tinh tấn và có trí tuệ, cũng là tưởng về


bản chất sinh diệt của các pháp (udayabbaya-
saññā); sáu yếu tố từ việc thân cận thiện bằng hữu;
và bốn điều khác cần được tu tập (thiền bất tịnh,
niệm hơi thở, thiền tâm từ và tưởng vô thường).
Chúng cũng tạo thành mười lăm yếu tố hỗ trợ tâm
giải thoát khỏi phiền não được viên mãn
(Vimuttiparipācanīyā dhamma).
Đức Phật đọc tiếp hai bài kệ:
“Khuddā vitakkā sukhumā vitakkā,
Anugatā manaso uppilāvā.
Ete avidvā manaso vitakke,
Hurā huraṃ dhāvati bhantacitto”
“Những suy tầm thấp kém và những suy tầm tản
mạn đi theo tâm trí và làm cho nó bị kích động. Một
người không hiểu được những suy tầm này sẽ không
ổn định về mặt tinh thần và chạy từ đối tượng này
sang đối tượng khác”
Những suy tầm thấp kém ám chỉ ba loại suy tầm xấu
ác: suy tầm về dục lạc, suy tầm về sân hận và suy
tầm về sự nhiễu hại. Những suy tầm tản mạn ám chỉ
những suy tầm về gia đình, làng mạc, những câu
chuyện trong quá khứ, phàn nàn người khác,
danh lợi, v.v…
“Ete ca vidvā manaso vitakke,
Ātāpiyo saṃvaratī satīmā;

105
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Anugate manaso uppilāve,


Asesamete pajahāsi buddho.49”
“Hiểu được những suy tầm này, vị Thánh Đệ tử,
thành tựu tinh tấn và chánh niệm có thể thiêu đốt
phiền não và ngăn chặn những suy tầm đeo bám
khiến tâm bị kích động. Vị Thánh Đệ tử, người liễu
ngộ Tứ Thánh Đế, có thể từ bỏ những suy tầm về
dục và những điều khác một cách hoàn toàn.”
Chúng ta hãy tiếp tục, theo Chú giải Kinh Pháp cú50,
Đức Phật đã thuyết hai câu kệ sau đây đến Đại đức
Meghiya:
“Phandanaṃ capalaṃ cittaṃ,
dūrakkhaṃ dunnivārayaṃ;
Ujuṃ karoti medhāvī,
usukārova tejanaṃ.”
“Như một người thợ làm cho mũi tên được thẳng,
cũng vậy, người trí làm cho tâm mình, vốn hoảng
hốt, dao động, khó hộ trì, nhiếp phục được
ngay thẳng”
Như một người thợ làm tên dũng cảm và kiêu hãnh
uốn những mũi tên cong thành thẳng theo ý muốn
của mình bằng cách hơ nóng chúng, cũng vậy một
người với trí tuệ thể nhập có thể rèn cho tâm của

49
Chữ “Buddho” ở đây được dịch ra là những ai đã thể nhập Tứ
Thánh Đế, như các vị Thánh Đệ tử và các bậc A-la-hán.
50
‘Meghiyattheravatthu’ (Chú giải Câu chuyện về Đại đức
Meghiya), Khuddakanikāya, Dhammapada Aṭṭhakathā, Cittavagga

106
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

mình trở nên chánh trực bằng cách rèn luyện chúng
với phương tiện của sự tinh tấn, cả về thân lẫn tâm.
Tâm vốn bị kích động bởi sáu đối tượng giác quan,
như hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị, sự xúc chạm,
và pháp, do vậy, rất khó kiểm soát. Một cái tâm như
vậy khó có thể được kiểm soát, không cho lang thang
đến những đối tượng giác quan không thích hợp.
“Vārijova thale khitto,
okamokata ubbhato;
Paripphandatidaṃ cittaṃ,
māradheyyaṃ pahātave.”
“Như một con cá khi bị kéo lên khỏi nước và quăng
trên đất vùng vẫy và dao động, cũng vậy, tâm này bị
kích động. Do đó, cần thoát khỏi thế lực của Māra.”
Cũng như loài cá được sinh ra trong nước, khi bị đưa
lên khỏi môi trường sống trong nước và bị quẳng trên
đất, vùng vẫy hoảng hốt. Cũng vậy cái tâm hưởng
thụ năm đối tượng giác quan, khi được đưa khỏi
những món dục lạc, trở nên vật lộn, vùng vẫy khi
hành thiền. Nó nhảy nhót dao động đến những đối
tượng giác quan trong thời thiền cũng như một con
cá đang vật lộn trên mặt đất để quay về với nước vậy.
Khi kết thúc hai câu Pháp cú, Đại đức Meghiya trở
thành một vị Thánh Nhập Lưu cùng với rất nhiều
chúng sinh đang lắng nghe Pháp từ Đức Phật.
Nếu quý vị thực hành thiền lặp đi lặp lại, một ngày
nào đó tâm quý vị sẽ có khả năng trú trên một đối

107
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

tượng thiền trong thời gian dài. Từ tấm gương của


Đại đức Meghiya, cầu mong cho quý vị có thể tu tập
tâm với một đề mục thiền. Cầu mong cho quý vị có
thể bồi bổ tất cả yếu tố giải thoát tâm khỏi phiền não
(Vimuttiparipācanīyā dhamma). Bằng cách bồi bổ
mười lăm hay ba mươi Vimuttiparipācanīyā
dhamma này, cầu mong ba-la-mật của quý vị có thể
chín muồi. Khi ba-la-mật hoàn toàn chín muồi, cầu
mong cho quý vị có thể giác ngộ Níp-bàn sớm nhất
có thể.
Sādhu! Sādhu! Sādhu!

108
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Phụ lục 1
Bốn mươi Đề mục thiền Định
Đức Phật dạy bốn mươi đề mục thiền để chứng đạt
định tâm:
❖ 10 đề mục kasiṇa:
1. Pathavī-kasiṇa (kasiṇa đất),
2. Āpo-kasiṇa (kasiṇa nước),
3. Tejo-kasiṇa (kasiṇa lửa),
4. Vāyo-kasiṇa (kasiṇa gió),
5. Nīla-kasiṇa (kasiṇa nâu/ đen/ xanh),
6. Pīta-kasiṇa (kasiṇa vàng),
7. Lohita-kasiṇa (kasiṇa đỏ),
8. Odāta-kasiṇa (kasiṇa trắng),
9. Āloka-kasiṇa (kasiṇa ánh sáng),
10. Ākāsa-kasiṇa (kasiṇa hư không).
❖ 10 Asubha (Đề mục bất tịnh)
11. Uddhumātaka (tử thi trương phình),
12. Vinīlaka (tử thi bị biến sắc, trở nên xanh,
đen),
13. Vipubbaka (tử thi bị lở loét),
14. Vicchiddaka (tử thi bị cắt ra làm hai,
ba phần),
15. Vikkhāyitaka (tử thi bị gặm nhấm và xé xác
bởi chó, kền kền, v.v…),
16. Vikkhittaka (tử thi bị cắn và làm vung vãi
thành từng miếng bởi chó, kền kền, v.v…),

109
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

17. Hatavikkhittaka (tử thi bị xẻo và cắt bằng dao,


rìu, v.v…, và vứt đi như những miếng thịt),
18. Lohitaka (tử thi đầy máu me),
19. Puluvaka (tử thi bị dòi bọ đục khoét),
20. Atthika (bộ xương).
❖ 10 Anussati (Tuỳ niệm)
21. Buddhānussati (Niệm Ân Đức Phật),
22. Dhammānussati (Niệm Ân Đức Pháp),
23. Saṅghānussati (Niệm Ân Đức Tăng),
24. Sīlānussati (Niệm giới [sīla]),
25. Cāgānussati (Niệm thí [dāna]),
26. Devatānussati (Niệm thiên [deva]),
27. Upasamānussati (Niệm Níp-bàn [Nibbāna]),
28. Maraṇānussati (Niệm sự chết),
29. Kāyagatāsati (Niệm 32 thân phần bất tịnh,
bao gồm: tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân,
xương, tuỷ, thận, tim, gan, màng ruột, lá lách,
phổi, ruột, hoành cách mô, vật thực chưa tiêu
hoá, phân, não, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi,
mỡ, nước mắt, dầu da, nước miếng, nước mũi,
nước khớp xương và nước tiểu),
30. Ānāpānassati (Niệm hơi thở).
❖ 4 Brahma-vihāra (Phạm trú)
31. Mettā (Tâm từ),
32. Karunā (Tâm bi),
33. Mudita (Tâm tuỳ hỷ),
34. Upekkhā (Tâm xả).

110
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

❖ 4 Arūpa Jhāna (Thiền vô sắc):


35. Ākāsānañcāyatana (Không vô biên xứ),
36. Viññāṇañcāyatana (Thức vô biên xứ)
37. Ākiñcaññāyatana (Vô sở hữu xứ),
38.Nevasaññānāsaññāyatana
(Phi tưởng Phi phi tưởng xứ).

39. Āhāre-paṭikūla-saññā
(Tưởng sự nhờm gớm của thức ăn),
40. Catu-dhātu-vavatthāna (Thiền tứ đại).

111
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Phụ lục 2
Hai mươi tám loại Sắc51
Bốn đại chủng (cattāro mahā-bhūtā) là:
1. Nguyên tố đất – địa đại (pathavī-dhātu),
2. Nguyên tố nước – thuỷ đại (āpo-dhātu),
3. Nguyên tố lửa – hỏa đại (tejo-dhātu),
4. Nguyên tố gió – phong đại (vāyo-dhātu).
Mười bốn loại sắc thực phái sinh, trước hết là bốn
loại sắc cảnh giới (gocara rūpa):
5. Màu sắc – sắc (vaṇṇa),
6. Âm thanh – thinh (sadda),
7. Mùi hương – hương (gandha),
8. Vị (rasa).
Màu sắc được nhận thức bởi mắt, âm thanh bởi tai,
mùi hương bởi mũi và vị bởi lưỡi. Sự xúc chạm được
nhận thức bởi cơ thể không được liệt kê ở đây vì sự
xúc chạm không phải là sắc phái sinh. Nó là ba đại:
đất, lửa và gió.
9. Dưỡng chất (ojā),
Dưỡng chất duy trì thân vật lý. Chúng ta có
nó từ vật thực chúng ta ăn.
10. Sắc mạng căn (jīvitindriya),

51
Những chi tiết sau đây được lấy từ Thanh Tịnh Đạo xviii.13
(Visuddhi-Magga xviii, Đoạn 667 'Diṭṭhi-Visuddhi-Niddesa'
(Giải thích về Kiến Thanh tịnh).

112
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Mạng căn duy trì các sắc linh hoạt và do


nghiệp sinh. Khi có sự chết, tức là mạng căn
bị cắt đứt hay nghiệp tạo nên chúng kết thúc.
11. Sắc ý vật (hadaya-rūpa),
Sắc ý vật ở trong máu, một nơi cụ thể của quả
tim, tâm thức nương vào đó. Trong các cõi
ngũ uẩn, danh không thể sinh khởi một mình
mà không có sắc.
Hai loại sắc giới tính (bhava-rūpa):
12. Sắc giới tính nam (purisa bhava-rūpa),
13. Sắc giới tính nữ (itthi bhava-rūpa) .
Sắc giới tính nam xác định những đặc điểm vật chất
của người nam, cách vị ấy di chuyển, v.v… còn sắc
giới tính nữ xác định những đặc điểm vật chất của
người nữ.
Năm loại sắc trong sáng, tịnh sắc (pasāda-rūpa):
14. Nhãn tịnh sắc (cakkhu pasāda),
15. Nhĩ tịnh sắc (sota pasāda),
16. Tỷ tịnh sắc (ghāna pasāda),
17. Thiệt tịnh sắc (jivhā pasāda),
18. Thân tịnh sắc (kāya pasāda).
Các sắc trong sáng là các nguyên tố mà thông qua
đó các đối tượng được nhận thức bởi các căn tương
ứng. Ví dụ: màu được nhận ra thông qua
nhãn tịnh sắc, v.v…
Mười loại sắc không thực phái sinh (sắc y sinh) là:
1. Yếu tố hư không – sắc giao giới (ākāsa-dhātu),

113
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

2. Yếu tố biểu đạt về thân – thân biểu tri


(kaya-viññatti),
3. Yếu tố biểu đạt về khẩu – khẩu biểu tri
(vacī-viññatti),
4. Yếu tố nhẹ – sắc khinh (lahutā),
5. Yếu tố mềm – sắc nhu (mudutā),
6. Yếu tố thích ứng – sắc thích nghiệp
(kammaññatā),
7. Yếu tố được sinh ra – sắc sinh (upacaya),
8. Yếu tố tiếp nối – sắc tiến (santati),
9. Yếu tố già đi – sắc dị (jaratā),
10. Yếu tố vô thường – sắc diệt (aniccatā).

114
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Phụ lục 3
Mười sáu Tuệ Minh Sát
(Vipassanā Ñāṇa)
1. Nāma-Rūpa Pariccheda Ñāṇa (Tuệ Xác định
Danh Sắc),
2. Paccaya Pariggaha Ñāṇa (Tuệ Nhân duyên),
3. Sammasana Ñāṇa (Tuệ Thấu hiểu),
4. Udayabbaya Ñāṇa (Tuệ Sinh Diệt),
5. Bhaṅga Ñāṇa (Tuệ Hoại diệt),
6. Bhaya Ñāṇa (Tuệ Sợ hãi),
7. Ādīnava Ñāṇa (Tuệ Hiểm nguy),
8. Nibbidā Ñāṇa (Tuệ Nhàm chán),
9. Muñcitu-Kamyatā Ñāṇa
(Tuệ Muốn Giải thoát),
10. Paṭisankhā Ñāṇa (Tuệ Suy tư),
11. Saṅkhārupekkhā Ñāṇa
(Tuệ Buông xả các hành),
12. Anuloma Ñāṇa (Tuệ Thuận theo),
13. Gotrabhu Ñāṇa (Tuệ Chuyển tộc),
14. Magga Ñāṇa (Tuệ Đạo),
15. Phala Ñāṇa (Tuệ Quả),
16. Paccavekkhaṇa Ñāṇa (Tuệ Duyệt xét),

115
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Nguồn Tham Khảo


Tất cả nguồn tham khảo tiếng Pāḷi đều theo Chaṭṭha
Saṅgāyana CD-ROM, Version 3.0, Vipassanā
Research Institute, Dhamma Giri, Igatpuri-422 403,
India.
Khi dịch, ban biên tập đã tham chiếu các bản dịch
Kinh điển sau đây:
1. Vinaya-Piṭaka ~ Book of the Discipline, nhiều
tác giả, I.B. Horner, M.A., PTS (Pali Text
Society, Oxford/ London);
2. Dīgha-Nikāya ~ Dialogues of The Buddha,
nhiều dịch giả, Rhys Davids, PTS, và The
Long Discourses of the Buddha, Maurice
Walshe, WP (Wisdom Publications, Boston);
3. Majjhima-Nikāya ~ Middle Length Sayings,
nhiều dịch giả, I.B.Horner, PTS, và The
Middle Length Discourses of the Buddha,
Bhikkhu Ñāṇamoli/ Bodhi, WP;
4. Saṃyutta-Nikāya ~ Kindred Sayings, nhiều
dịch giả, PTS, và The Connected Discourses
of The Buddha, Bhikkhu Bodhi, WP;
5. Aṅguttara-Nikāya ~ Gradual Sayings, nhiều
dịch giả, PTS, và Numerical Discourses of the
Buddha, Nyanaponika Thera/ Bhikkhu
Bodhi, Vistaar Publications, New Delhi;
6. Dhammapada-Aṭṭhakathā ~ Buddhist
Legends, Eugene Watson Burlingame, PTS;

116
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

7. Udāna and Itivuttaka ~ The Udāna và The


Itivuttaka, John D. Ireland, BPS;
8. The Great Chronicle of Buddhas, Ấn bản
Singapore của Trưởng lão Mingun Sayadaw.
[Một số trích dẫn được lấy trực tiếp và hiếm
khi thay đổi];
9. The Workings of Kamma của Trưởng lão Pa-
Auk Tawya Sayadaw;
10. Một số Chú giải tiếng Anh của các Kinh bản
được đơn thuần trích dẫn từ phần phiên dịch
trực tiếp bởi Ngài U Kumārābhivaṃsa từ
Tam Tạng Miến-Pāḷi ngay trong Pháp thoại.

117
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Tiểu sử Đại đức U Kumārābhivaṃsa


Sinh năm 1975 tại làng Kaing Won, thị trấn Kaw
Lin, Sagaing, Myanmar, Ngài Kumāra được xuất
gia sadi ở Kaw Lin vào năm 1988. Sau đó Ngài thọ
cụ túc giới tỳ-khưu ở Bahan, Yangon năm 1995.
Ngài học Kinh điển Phật giáo Sơ cấp tại Kaw Lin từ
năm 1988 cho đến năm 1993 rồi Kinh điển Phật giáo
Cao cấp tại Trung tâm Giáo dục Mahāvisuddhāyon,
thị trấn Bahan, Yangon từ 1994 – 1998. Năm 1998,
Ngài nhận được bằng Pháp Sư (Dhammācariya) và
trở thành giảng sư tại Trung tâm Giáo dục
Mahāvisuddhāyon thuộc thị trấn Bahan, Yangon
vào năm 1999.
Những năm từ 2001 đến 2004, Ngài tiếp tục học
Kinh điển Phật giáo Cao cấp và giảng dạy tại Trung
tâm Giáo dục Masoeyein mới tại Mandalay. Năm
2003, Ngài nhận được bằng Abhivaṃsa ở Yangon.
Từ 2004 đến 2005, Ngài đến hành thiền tại Trung
tâm Thiền Pa-Auk tại Mawlamyine, tiểu bang Mon.
Sau đó Ngài quay trở về Mandalay và dành hơn bốn
năm giảng dạy cho Chư Tăng tại Trung tâm Giáo
dục Masoeyein. Cũng trong thời gian này, Ngài vẫn
thường đi đến nhiều thiền lâm viện tự thực hành
thiền. Năm 2010, Ngài quay trở lại Pa-Auk Tawya
để hành thiền.
Từ năm 2013, Ngài tổ chức nhiều khoá thiền và
giảng Pháp ở Indonesia, Thái Lan, Malaysia,

118
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Singapore, Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Mỹ,


v.v…
Hiện tại, Ngài là một trong những Thiền Sư
(Kammaṭṭhānācariya) ở Trung tâm Thiền Pa-Auk
Tawya, Tat-Oo Dhamma Yeiktha (mở rộng), Pyin
Oo Lwin, Myanmar.

119
Chia Phước

Idaṃ me puññaṃ āsavakkhayā’vahaṃ hotu.


Idaṃ me puññaṃ nibbānassa paccayo hotu.
Mama puññabhāgaṃ sabbasattanaṃ bhājemi;
Te sabbe me samaṃ puññabhāgaṃ labhantu.

Phước lành này của con,


Nguyện đoạn tận tất cả ô nhiễm trong tâm;
Phước lành này của con,
Nguyện là nhân duyên giác ngộ Níp-bàn.
Con xin chia phần phước này đến
tất cả chúng sinh;
Cầu mong cho tất cả được thọ nhận
đồng đều nhau.

120
Danh Sách Thí Chủ Hùn Phước
Gd Ha Oanh ₫300.000
Gd Hoa Nguyen ₫200.000
Gd Ly Thanh Loc ₫300.000
Gd Oai Tran ₫300.000
Gd Vu Thi Ha ₫200.000
Gd Noname ₫30.000
Gd Trinh Ngoc Trac ₫200.000
Gd Ngoc Dang Pham ₫300.000
Gd Pt Vien Thuy ₫500.000
Gd Pham Mai ₫2.000.000
Gd Co Hue Duc ₫200.000
Gd Nguyen Thao Lien ₫200.000
Gd Minh Ha + Bach Hue + Thao ₫100.000
Gd Song Van ₫500.000
Kusala Citta + Panna Aloka ₫1.000.000
Gd Nguyen Thach Bich ₫200.000
Gd Hoa Xuyen ₫100.000
Gd Duong Thi Lan ₫50.000
Gd Dinh Thang ₫1.000.000
Gd Nguyen Quang Tuan ₫50.000
Gd Son Ha ₫200.000
Gd Le Thi Doan Trang ₫500.000
Gd Mai Chi ₫500.000
Gd Hong Loan ₫200.000
Gd Nguyen Huynh Thuy Vy ₫500.000
Gd Hoang Tuan Anh ₫500.000
Gd Thanh Ngo ₫500.000
Gd Hoang Thi Le Thuy & Co Anh ₫700.000
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Gd Be Do Dai Quang -
Fb Chan Ban Tam ₫2.000.000
Gd Syl Jhanasampada ₫200.000
Gd Vi Thi Ngoc Kieu ₫200.000
Gd Noname 2 ₫1.000.000
Gd Hong Thuy ₫300.000
Gd Quyen Dao ₫100.000
Gd Huynh Thi Tuyet Linh ₫300.000
Gd Chi Nam Vinh ₫200.000
Gd Chau Nguyen ₫100.000
Gd Trinh Thi Kim Dung ₫360.000
Gd Do Thoai Phong ₫500.000
Gd Nguyen Van Duan ₫1.000.000
Gd Tran Thi Phuong Mai ₫200.000
Gd Kim Anh Dao ₫200.000
Gd Sukhagavesi ₫500.000
Gd Mai Loc ₫100.000
Gd Nguyen Minh Tuyen ₫250.000
Gd Le Thi Bich Tin ₫200.000
Nhom Nhu Quynh ₫500.000
Gd Thao Hai ₫500.000
Gd Duy Quang ₫200.000
Gd Neang Soc Nane ₫300.000
Gd Pham Thi Mai Diem ₫500.000
Gd Chi La Giac Mo ₫11.293.000
Gd Comay ₫100.000
Gd Anh Em Moon Shu ₫300.000
Gd Chi Oai Tran ₫1.000.000
Gd Liennh ₫300.000
Gd Mai Tran ₫500.000
Những Yếu Tố Cần Thiết Cho Việc Hành Thiền

Gd Co Dieu Tanh & Phuoc Kim ₫700.000


Gd Linh Nha Trang ₫1.000.000
Gd Huynh Van Tam ₫300.000
Gd Nguyen Huu Hoang ₫2.000.000
Gd Duong Thien Nhac ₫864.000
Nhom Tu Tam Ha Noi ₫200.000
Gd Hua Thi Phuong Mai ₫200.000
Gd Le Dieu ₫100.000
Gd Nguyen Ha Anh ₫200.000
Gd Nguyen Ha My ₫50.000
Gd Nguyen Thanh Khue ₫1.000.000
Gd Kyo Hoang ₫100.000
Gd Tam, Linh, Khoi Nguyen, Tue Lam ₫500.000
Gd Tinh Tri ₫200.000
Gd Quang Lan ₫1.000.000
Gd Vani ₫100.000
Gd Trang Vu ₫500.000
Gd Xuan Yen ₫100.000
Gd Dang Thi Ngoc Bich ₫250.000
Gd Chon My Ngoc ₫300.000
Gd Pham Thi Soi, Nguyen Bich Loc,
Trinh, Chi Pham, Mai Tran ₫3.000.000
Gd Ul ₫200.000
Gd Sen Sen ₫200.000
Gd Di 7 ₫100.000
Gd Very Lucky ₫1.600.000
Gd My Va Duc ₫200.000
Gd Nguyen Thi Thanh Thuy ₫500.000
HỘI LUẬT GIA VIỆT NAM
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC
65 Tràng Thi – Quận Hoàn Kiếm – Hà Nội
Email: nhaxuatbanhongduc65@gmail.com
Điện thoại: 024.39260024 | Fax: 024.39260031

NHỮNG YẾU TỐ CẦN THIẾT CHO VIỆC HÀNH THIỀN


Kinh Padhāniyaṅga và Kinh Meghiya
Đại Đức Kumārābhivaṃsa
Cẩn dịch: Bhikkhu Tikkhañāṇa

Chịu trách nhiệm xuất bản


Giám đốc Bùi Việt Bắc

Chịu trách nhiệm nội dung


Tổng biên tập Lý Bá Toàn

Biên tập
Phan Thị Ngọc Minh

Sửa bản in
Nhóm Tâm Bình An

Trình bày
Minh Anh

Thực hiện liên kết


Nhóm dịch Tâm Bình An

Địa chỉ nhận sách:


171/3/4 Quốc lộ 1A, Khu phố 3, Phường Bình Chiểu,
Quận Thủ Đức, Tp.HCM
Liên hệ: Thiện Tâm 0917293580
In 5.000 cuốn | khổ 145 x 205 mm
tại Xí nghiệp in FAHASA
774 Trường Chinh, P.15, Q. Tân Bình, Tp. HCM.
Số XNĐKXB: 763-2021/CXBIPH/17-14/HĐ.
Số QĐXB của NXB: 598/QĐ-NXBHĐ cấp ngày 12/3/2021.
In xong và nộp lưu chiểu 2021.
Mã số sách tiêu chuẩn quốc tế (ISBN) 978-604-321-957-9
Cuốn s ách này được dựa t r
ên Nhữngki ế
nt hứcđượct ì
mt hấy
nhữngbà iPhápthoạicủaSayadaw trong Ki nh Ti nh Cầ n Chi
U Kuma rābhi
vaṃsa v ề Ki nh

NhữngYếuTốCầnThi
ết
(Padhāniyaṅga Sutt
a)v à Kinh
Padhā niya
ṅg av à Kinh Me ghiy
a “Nà
ycá
cTỳ
-khưu,c
ónămyếutốhỗtr
ợviệ
chà nhthi
ền. Me ghiya(Me ghi
yaSutt
a)cóliên
được t huyếtgiảng ởTr ung tâm hệmậ tthi
ếtđế nviệ
cthựchà nh
thi
ền Pa -
Auk Ta wya Ta t
-Oo Thếnà
olànăm?Saddha(ni
ềmt i
n),
..
.”

ChoViệ
cHà nhThi
ền
thiền.

NhữngYếuTốCầnThi
Dha mmaYe i
khthar( mở r ộng),
PyinOoLwi n, Myanma rcũngnhư Padhāni
yaṅgaSut
ta
ởnhữngnướck hácnhưSing a
pore, Tôihyv ọngcuốns áchnhỏnàycó
Thá iLa nvàViệtNa m. thểhỗt r
ợhà nh giảthành c
ông
trongthiề
n,t
rả inghiệ
ms ựanlạc
,
Chúngt
s
ắ c nhấ
ôix
inbà
t đế
yt
ỏlòngt
n Saya
r
i
da
âns
w U
â
u Pa
dhā
niy
aṅg
aSut
ta hạ nhphúcvàgi ảit
hoát.
Kuma r
ā bhi
vaṃsav
ềnhữnglờidạy & VìtôikhônghàilòngvớibàiPháp
c
c
ủaNg
húngt
àicũngnhưđãc
ôibiênt
ậpt
hànhs
hophé
ách.
p
Me
ghi
yaSut
ta thoạicủamìnhvềha ic
hủđềt rên,
tôiđãkhôngc óýđị nhlàmc uốn

ếtChoVi
Mộts ốc âuc huyệnv àphầ ndị c
h sách này.Tuyvậy,thểtheoy êu
Pāḷi
-Ti ếngAnh t ừ nhiề u nguồn cầuc ủa mộts ố đệtử,tôic ho
khác nha u được li
ệtk ê ở phầ n phéphọghic héplạivàbiê
ns oạn
thamk hảong uồntríchdẫ n.Trong thànhsách.

ệcHànhThi
những Phá p thoạic ủa mì nh,
Saya daw U Kumā r
ābhivaṃs a Cầumongc hotấ
tc ảđộcgiảvà
cũngđãc ungc ấpnhữngt àiliệ
u hànhgiảc óthểápdụngnhững
thuộcv ềChúgi ải
.Chúngt ôicó Pháp ởtrongsách đểgiácngộ
điềuc hỉnhmộts ốđiểm nhỏv ềmặ t Níp-
bàns ớm nhấtc óthể.Cầu
ngônng ữx uyênsuốtc uốns áchđể
mongc hotấtcảchúngsinhđều

ền
độcgi ảc óthểhiểumộtc áchdễ
dànghơn.Chúngt ôix inc ám ơn đượchạnhphúc!
tấtcảnhữnga iđãgi úphi ệuđính

ĐạiĐứcKumār
vàc hol ờikhuyên,tấtcảt híchủv à Sā
dhu!Sā
dhu!Sā
dhu!
nhữngquýv ịt
ham giav àov i
ệclàm
sách,phâ n phốisách.Chúngt ôi
cũngx i
nđượct hứl ỗic hobấ tk ỳ “Ở đây
,nà yMe ghi
ya,vịTỳ-khưu cóthiện bằnghữu, U Kumārābhi
vaṃsa
saisótnà o. Pa
-AukTa
wya(Py
inOoLwin)
thi
ệngi
a okết,
thi
ệnbạnlữ.Khitâm gi
ảithoátchưađược
Mongr ằngc uốn sách nà ysẽlà viê
n mã n,thờiđâyl à phá
p đầ ut i
ên đưa đế ns ự
cảm hứngc honhữnga ichưatừng viê
nmã n..
.”

ābhi
hànhthiền.Mongr ằngc uốnsách
nàyhỗt rợthiềns i
nhv ượtquat ấ
t

vaṃs
cảkhók hănt rongv i
ệct hựchành Meghi
yaSut
ta ĐạiĐứcKumārābhi
vaṃs a
thi
ền.Mongr ằngtấtcảđề ucóthể Cẩndị
ch:
Bhi
kkhuTikkhañāṇa

a
thực hành Phá p để gi ác ngộ

chẤnTốn
g-Kh
ôngMu
aBá
n
Níp-bàn ng a
yt r
ong c hính ki
ếp
sốnghiệntạinà y
.

dhu!Sā
dhu!Sā
dhu! NhàXuấtBảnHồ
ngĐức

You might also like