05dam Thi Kim Thu

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 3

VJE Tạp chí Giáo dục, Số 423 (Kì 1 - 2/2018), tr 16-18

MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ - GIAO TIẾP


CHO TRẺ RỐI LOẠN PHỔ TỰ KỈ
Đàm Thị Kim Thu - Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên

Ngày nhận bài: 23/07/2017; ngày sửa chữa: 27/07/2017; ngày duyệt đăng: 04/08/2017.
Abstract: Children with Autism Spectrum Disorders have a lot of difficulties in their life and
learning because they are defective in behavior, language, communication and social interaction.
This article proposes some measures to develop language and communication for children with
autism spectrum disorders. These are bases to help the child can improve their language and be
confident in communication, in learning and integration into the community.
Keywords: Children with Autism Spectrum Disorders, develop, language, communication.

1. Mở đầu Nhưng để việc GT có hiệu quả hơn và truyền tải được


Trẻ rối loạn phổ tự kỉ (RLPTK) có những khó khăn những thông tin mà bạn muốn nói một cách rõ ràng và
đặc trưng về hành vi và ngôn ngữ, giao tiếp (GT); vì vậy, chiếm được cảm tình của người khác là điều mà ai cũng
ở những trẻ này, khả năng đưa ra các thông tin rõ ràng để cần học hỏi.
người khác có thể hiểu được là rất hạn chế. Hiện nay, tỉ Đối với mỗi người, GT là một kĩ năng quan trọng có
lệ trẻ RLPTK có sự gia tăng nhanh chóng, điều đó là một thể ảnh hưởng tích cực đến các mối quan hệ của người đó.
thách thức không nhỏ đối với giáo dục nói riêng và toàn GT là sự chia sẻ ý nghĩ, tình cảm thông tin với một hoặc
xã hội nói chung. Việc đưa ra các biện pháp giúp trẻ nhiều người. Trong GT, chúng ta thường sử dụng lời nói
RLPTK phát triển về ngôn ngữ, GT sẽ giúp trẻ cải thiện để biểu đạt ý nghĩ của mình và để trao đổi thông tin với
các mối quan hệ, giúp trẻ có thể tham gia vào quá trình người khác. Nhưng GT không chỉ đơn giản là nói chuyện
giáo dục một cách dễ dàng hơn; đồng thời, làm giảm bớt với ai đó mà trong đó còn bao hàm rất nhiều các vấn đề
các vấn đề mà trẻ có thể phải đối mặt - là một vấn đề cần khác như: Bạn nói như thế nào? Bạn hiểu đối tượng GT
được quan tâm từ nhiều phía. với mình như thế nào? Làm thế nào để hai bên có thể hiểu
2. Nội dung nghiên cứu rõ về các thông tin cùng trao đổi? Bạn làm thế nào để lần
GT đó đạt được kết quả như bạn mong đợi?...
2.1. Một số vấn đề chung về rối loạn phổ tự kỉ, ngôn
ngữ, giao tiếp 2.2. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ - giao tiếp của
trẻ rối loạn phổ tự kỉ
2.1.1. Trẻ rối loạn phổ tự kỉ
2.2.1. Đặc điểm ngôn ngữ:
Hiện nay, có nhiều khái niệm khác nhau về tự kỉ
(TK). Về cơ bản, có thể thống nhất các nội dung cốt lõi - Ngôn ngữ tiếp nhận
của khái niệm TK như sau: TK là một dạng khuyết tật Mức độ phát triển ngôn ngữ hiểu ở trẻ em TK cũng
phát triển, được đặc trưng bởi ba khiếm khuyết chính về rất đa dạng. Một số trẻ hiểu ngôn ngữ không lời và gặp
GT, tương tác xã hội và có hành vi, sở thích, hoạt động khó khăn trong việc hiểu ngôn ngữ nói. Phần lớn có thể
mang tính hạn hẹp, rập khuôn. hiểu những hướng dẫn đơn giản, hiểu được tên gọi của
RLPTK bao gồm các rối loạn có chung đặc điểm như những vật đơn giản, gần gũi, như “đưa cho mẹ cái cốc”...
trên, song khác nhau về phạm vi, mức độ nặng, khởi phát Quá trình xử lí thông tin thường chậm chạp, khó khăn
và tiến triển của triệu chứng theo thời gian. Theo phiên khi ai đó nói quá nhanh. Vốn từ nghèo nàn, cấu trúc ngữ
bản DSM-V, RLPTK được sử dụng thay cho tên gọi “rối pháp thường bị sai là một trong những nguyên nhân dẫn
loạn phát triển diện rộng”, và không còn xu hướng phân đến việc gặp khó khăn trong việc hiểu những câu nói
chia các dạng “TK” mà thay vào đó là một tên gọi chung phức tạp, chứa đựng nhiều thông tin. Trẻ sẽ dễ hiểu hơn
và tiêu chí chẩn đoán chung cho “RLPTK”. nếu những gì được nói có kèm hình ảnh minh họa.
2.1.2. Ngôn ngữ, giao tiếp - Ngôn ngữ diễn đạt
Ngôn ngữ là phương tiện để biểu đạt ý nghĩ của mỗi Sự khiếm khuyết trong việc sử dụng ngôn ngữ thì rất
người. Khi bạn muốn nói chuyện hoặc trao đổi thông tin phổ biến và được coi là đặc điểm nhận dạng của những
với một ai đó thì bạn phải sử dụng ngôn ngữ để truyền trẻ mắc rối loạn TK. Cứ 4-5 trẻ thì có một trẻ không bao
tải những thông điệp mà bạn muốn bày tỏ. Ngôn ngữ là giờ nói. Một số trẻ chỉ có thể bắt chước tiếng kêu của con
một công cụ GT mà chúng ta luôn sử dụng hàng ngày. vật, phát ra những âm thanh vô nghĩa...

16
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 423 (Kì 1 - 2/2018), tr 16-18

Một trong những khó khăn về ngôn ngữ của trẻ chính - Dành thời gian để quan sát trẻ: để xác định cái trẻ
là việc phát triển ngôn ngữ của chúng chậm hơn bình đang nhìn và cái trẻ thích. Với cách này, chúng ta sẽ biết
thường. Chúng thường bắt đầu bằng việc lặp lại những được ai hay hoạt động nào hay vật gì thu hút sự chú ý của
từ người khác nói, đặc biệt là một vài từ ở cuối câu, thậm trẻ. Đó có thể là điều kiện để người GT với trẻ tận dụng
chí chúng còn bắt chước cả giọng điệu của người nói. để thu hút trẻ khi GT.
Việc lặp lại những ngôn ngữ này có thể có một số ý nghĩa - Hạn chế sự xao nhãng: nếu kĩ năng của trẻ chưa tiến
với trẻ. Những điều mà chúng lặp lại có thể phù hợp với bộ, cố gắng dành thời gian chơi hàng ngày với trẻ trong
một vài tình huống nhất định nhưng trong nhiều trường môi trường khó bị xao nhãng.
hợp chúng sử dụng không phù hợp. Trẻ RLPTK thường gặp khó khăn trong việc nhận
Một số trẻ không bao giờ vượt qua được giai đoạn thức và tư duy rập khuôn, định hình nên để trẻ hiểu một
nhại lời, một số khác chúng cũng chuyển sang giai đoạn địa điểm nhất định được sử dụng để làm gì và loại hành
tiếp theo - bắt đầu nói một số từ và cụm từ mà nó nghĩ ra. vi nào cần phải có ở địa điểm đó. Người lớn nên chủ động
Giai đoạn tiếp theo, chúng cũng có thể nói câu ngắn hành vi GT mà chúng ta mong muốn trẻ có được để trẻ
nhưng thường xuyên bị sai mà điển hình đó là việc sử quan sát và bắt chước. Hoạt động GT diễn ra ở mọi lúc
dụng từ ngược nghĩa. Một số trẻ có hiện tượng sử dụng mọi nơi, do đó chúng ta có thể tận dụng các tình huống
ngôn ngữ một cách máy móc, kì quặc, quá văn phạm, cầu GT tự nhiên với trẻ để phát triển kĩ năng GT.
kì. Trong một số trường hợp, sự phát triển ngôn ngữ có 2.3.2. Định hướng cho trẻ khi giao tiếp
thể bị thoái lui, ban đầu có thể nói nhưng sau đó giảm
Giúp trẻ nhận ra mình đang nói chuyện ở đâu? Khi
dần và có thể mất hẳn. Một số trường hợp khác, đột nhiên
nào? Trong bao lâu? Với ai? Với nội dung gì? Kết cấu rõ
đứa trẻ chưa từng nói gì lại nói một từ hoặc một cụm từ,
ràng và có tính dự đoán được về môi trường xung quanh
thậm chí một câu hết sức rõ ràng, nhưng sau đó không
sẽ mang lại cảm giác an toàn cho trẻ.
bao giờ lặp lại nữa.
Trong khi định hướng GT cho trẻ, người GT với trẻ
2.2.2. Đặc điểm về giao tiếp
sẽ thu hút được sự chú ý của trẻ. Từ đó, trẻ sẽ tập trung
Khó khăn về GT là một trong những khiếm khuyết chú ý tốt hơn vào hoạt động GT. Trẻ có cơ hội hiểu vai
điển hình nhất thường gặp phải ở những trẻ và cả người trò của mình trong hoạt động GT là gì? Nhờ thế sẽ có cơ
lớn mắc rối loạn TK, ngay cả những người có trí tuệ và hội bắt chước các hoạt động GT của người khác, đáp ứng
ngôn ngữ phát triển tốt. Trẻ thường ít có và không duy trì lại người khác, sự tương tác xã hội phù hợp với người
được động lực GT. Trẻ mắc rối loạn TK thường ít hoặc khác.
gần như không có nhu cầu GT với người khác một cách 2.3.3. Sử dụng công cụ giao tiếp đa dạng, phù hợp với trẻ
thường xuyên. Khi trẻ muốn GT, chúng lại gặp hàng loạt
những vấn đề về kĩ năng GT. Khó khăn trong việc hiểu Trẻ RLPTK ở nhiều mức độ khác nhau như: rất nặng,
và sử dụng công cụ GT, cả công cụ GT có lời và công cụ nặng, trung bình, nhẹ. Với những mức độ GT khác nhau:
GT không lời (cử chỉ, nét mặt, ngôn ngữ cơ thể...). mức độ GT phi biểu tượng, phi ngôn ngữ; mức độ GT
tiền biểu tượng, tiền ngôn ngữ; mức độ GT biểu tượng
Khó khăn trong việc hiểu mục đích của GT cũng như và ngôn ngữ. Trẻ RLPTK hạn chế nhiều về phát triển trí
những nguyên tắc trong GT (luân phiên, “ngôn ngữ tuệ, nhận thức, trí nhớ, tư duy. Trẻ cũng có hạn chế về
thầm”...). Trẻ thường GT với người khác một cách “kì khả năng quan sát, vận động... gây nhiều khó khăn trong
cục” vì chúng không hiểu được những nguyên tắc tương việc sử dụng ngôn ngữ nói cũng như trong việc thể hiện
tác xã hội thường được dùng trong khi GT với người được mình. Tùy vào khả năng và nhu cầu của từng trẻ
khác. GT là một vấn đề lớn ở phần lớn trẻ em và những mà chúng ta lựa chọn những công cụ GT khác nhau
người lớn có rối loạn TK.
nhưng phải đảm bảo các nguyên tắc tương tác, thể hiện,
2.3. Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ - giao tiếp và thực tế.
cho trẻ rối loạn phổ tự kỉ - Bắt chước: Đối với trẻ TK, việc dạy kĩ năng bắt
2.3.1. Tạo môi trường giao tiếp cho trẻ chước là rất quan trọng. Trẻ có kĩ năng bắt chước nghĩa
GT phải diễn ra trong một môi trường xã hội của trẻ là trẻ có khả năng diễn đạt hành động của người khác và
RLPTK. Trên cơ sở đó, trẻ sẽ được tham gia vào các trải từ đó biết cách để bắt chước người khác. Để học bắt
nghiệm lặp đi lặp lại, nhờ đó GT sẽ trở nên có ý nghĩa chước, trẻ phải có khả năng thực hiện ít nhất ba việc: chơi
với trẻ. Điều quan trọng là trẻ cần học GT để thể hiện theo lượt, tham gia vào các hoạt động chơi, và lặp lại các
những mong muốn, nhu cầu, tình cảm một cách trực tiếp đặc tính nổi bật của hoạt động chơi đó. Trẻ TK học
phù hợp trong chính môi trường sống của mình. Để làm hiểu/nhận thức và học kĩ năng tiền GT khác hẳn trẻ phát
được điều đó, cần chú ý: triển bình thường và điều quan trọng đối với trẻ TK là

17
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 423 (Kì 1 - 2/2018), tr 16-18

học các kĩ năng nhận thức này, nó sẽ không yêu cầu rằng sở để giúp trẻ có thể tiến bộ, tự tin hơn trong GT, trong
trẻ phải sử dụng một cách thành thạo các kĩ năng đó trước học tập và hòa nhập cộng đồng.
khi bắt đầu dạy các cách GT dùng biểu tượng. Việc dạy
kĩ năng tiền GT có thể được dạy đồng thời với việc dạy Tài liệu tham khảo
chiến lược GT biểu tượng như PECS, ngôn ngữ kí hiệu
và lời nói, một cách tương ứng. [1] Nguyễn Xuân Hải (2009). Giáo dục học trẻ khuyết
tật. NXB Giáo dục.
- Tiến hành GT trong tình huống cụ thể: Khi trẻ đã [2] Vũ Thị Bích Hạnh (2007). Tự kỉ - phát hiện sớm và
quen với một số công cụ GT và có thể sử dụng GT hoặc can thiệp sớm. NXB Y học.
có thể bắt chước khi được kích thích, ta có thể chủ động [3] Trung tâm Nghiên cứu giáo dục và chăm sóc trẻ em
tiến tới GT với trẻ bằng những công cụ GT trong những (2011). Hỗ trợ kiến thức về chăm sóc và giáo dục trẻ
tình huống cụ thể. Điều này sẽ cho trẻ cơ hội hiểu được mắc hội chứng tự kỉ. NXB Đại học Sư phạm.
ý nghĩa của từng hành động trong hoạt động GT. Trẻ sẽ [4] Nguyễn Thị Hoàng Yến (2013). Tự kỉ - những vấn
học được cách sử dụng các phương tiện GT này thông đề lí luận và thực tiễn. NXB Đại học Sư phạm.
qua việc bắt chước, lặp lại trong các tình huống tương tự. [5] Hội Tâm thần học Hoa Kì (2013). Cẩm nang Chẩn
Dần dần, trẻ hiểu và biết cách sử dụng GT trong các tình đoán và Thống kê rối loạn tâm thần (DSM-5).
huống xã hội một cách phù hợp. Ví dụ: cung cấp cho trẻ
một bảng tranh thể hiện các bước để thực hiện kĩ năng
đánh răng và hướng dẫn trẻ cụ thể. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO...
- Tiếp cận cá nhân: Với biện pháp tiếp cận cá nhân, (Tiếp theo trang 10)
người lớn sẽ định hướng GT cho trẻ một cách rõ ràng
hơn. Nhờ đó, trẻ có cơ hội tập trung chú ý, có cơ hội lặp đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình. Qua
lại hoạt động mẫu (bắt chước người khác). Trẻ cũng có đó, góp phần giữ nghiêm nguyên tắc lãnh đạo của Đảng,
cơ hội học cách phản hồi của người khác, trẻ cũng dần xây dựng các tổ chức đảng ở Đảng bộ Nhà trường trong
hiểu và thực hiện sự lần lượt trong GT để đáp ứng lại sạch, vững mạnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
người khác. 3. Kết luận
2.3.4. Tổ chức các hoạt động trò chơi nhằm phát triển Các biện pháp cần phải thực hiện đồng bộ, toàn diện
các kĩ năng bắt chước và luân phiên cho trẻ ở các bộ phận, đơn vị trong Trường Sĩ quan Chính trị để
Chơi là cách để trẻ khám phá thế giới. Đó cũng là phát huy được hiệu quả. Từ đó, các biện pháp trên sẽ góp
hoạt động mà trẻ có thể chia sẻ với mọi người. Bằng cách phần khắc phục những hạn chế hiện tại, góp phần nâng
cùng nhau thực hiện các hoạt động trong đó có kích thích cao chất lượng thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá
khả năng tập trung chú ý, trẻ sẽ học được các kĩ năng GT nhân phụ trách của các tổ chức đảng trong Đảng bộ
bao gồm: GT không lời, luân phiên, bắt chước. Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay.
Điều quan trọng là trẻ phải được chơi theo nhiều cách
và có người khác cùng tham gia. Giáo viên, cha mẹ hay Tài liệu tham khảo
người hướng dẫn trẻ cần có những biện pháp lôi cuốn trẻ [1] Đảng bộ Trường Sĩ quan Chính trị (2015). Văn kiện
vào hoạt động chơi, các trò chơi có luật lệ với người, vật, Đại hội đại biểu Đảng bộ Trường Sĩ quan Chính trị
hành động,... Trẻ phải được tự do khám phá, tìm các kĩ lần thứ IX.
năng mới và ôn lại các kĩ năng cũ trong quá trình chơi. [2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Điều lệ Đảng
Trẻ học cách chơi tốt hơn nếu có người khác cùng chơi Cộng sản Việt Nam (khóa XII). NXB Chính trị Quốc
và nhờ đó trẻ có thể học được các kĩ năng bắt chước, luân gia - Sự thật.
phiên, lần lượt để GT. [3] Đảng ủy Trường Sĩ quan Chính trị (2016). Nghị
3. Kết luận quyết số 94-NQ/ĐU ngày 30/3/2016 về xây dựng đội
Để trẻ RLPTK có thể phát triển tốt về ngôn ngữ - GT ngũ cán bộ giai đoạn 2016-2020.
rất cần các biện pháp tác động phù hợp từ giáo viên, bên [4] Đảng ủy Trường Sĩ quan Chính trị (2016). Nghị
cạnh đó cần có sự phối hợp thống nhất giữa nhà trường - quyết số 130- NQ/ĐU ngày 22/8/2016 lãnh đạo thực
gia đình - xã hội. Mặc dù trẻ RLPTK có những khiếm hiện nhiệm vụ năm học 2016-2017.
khuyết làm cản trở tới sự hình thành, phát triển nhân cách [5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội
của trẻ nhưng chúng ta phải luôn tin tưởng vào sự tiến bộ đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB Chính trị Quốc
của trẻ nếu trẻ được quan tâm, can thiệp sớm. Đó là cơ gia - Sự thật.

18

You might also like