Professional Documents
Culture Documents
Nhóm 1
Nhóm 1
Bước sang ngưỡng cửa của thế kỉ 21, không chỉ riêng nước ta mà nhiều nước trên thế
giới vẫn đang phải đương đầu với thách thức tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em. Bệnh gặp
nhiều nhất ở trẻ em dưới 5 tuổi, biểu hiện ở những mức độ khác nhau, không những gây ảnh
hưởng đến sự phát triển thể chất, tâm thần vận động của trẻ mà còn ảnh hưởng đến sức lao
động của xã hội sau này, trường hợp nặng có thể dẫn đến tử vong. Suy dinh dưỡng ở trẻ em là
vấn đề sức khỏe cộng đồng luôn được các quốc gia quan tâm. Dinh dưỡng không đầy đủ vẫn
là nguyên nhân dẫn đến một nửa số ca tử vong ở trẻ em (khoảng 300 trẻ em chết vì suy dinh
dưỡng mỗi giờ). Theo thống kê của Liên Hợp Quốc, 90% trẻ bị suy dinh dưỡng thấp còi trên
thế giới tập trung ở 36 nước, trong đó có Viêt Nam và phổ biến ở khu vực nông thôn và dân
tộc thiểu số.
Trong năm 2020, trên toàn cầu có 149,2 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể
thấp còi, 45,4 triệu trẻ gầy còm, châu Á là nơi sinh sống của hơn ¾ tổng số trẻ em bị gầy còm
trầm trọng. WHO dự báo số trẻ bị suy dinh dưỡng do hậu quả của covid-19 sẽ tăng 14%
trong năm nay tương đương với 6,7 triệu em, thêm 10000 trẻ em tử vong mỗi tháng vì suy
dinh dưỡng do hậu quả của covid. Theo kết quả của tổng điều tra dinh dưỡng năm 2019-
2020, ở Việt Nam tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi (chiều cao/tuổi) ở trẻ em dưới 5 tuổi trên
toàn quốc là 19,6% - được xếp vào mức TRUNG BÌNH theo phân loại của tổ chức y tế thế
giới. Mặc dù tỷ lệ có giảm so với những năm trước đây nhưng nhìn chung nó vẫn còn đang
chiếm tỷ lệ khá cao và chưa đồng đều ở một số khu vực trong nước như giữa đồng bằng miền
núi, nông thôn thành thị. Theo kết quả nghiên cứu mới nhất (2015) cứ 6 trẻ dưới 5 tuổi thì có
1 trẻ bị suy dinh dưỡng. Cứ 10 trẻ thì có 7 trẻ thiếu kẽm, cứ 2 trẻ thì có 1 trẻ thiếu máu. Hiện
nay, Việt Nam đang trên đà đạt mục tiêu dinh dưỡng toàn cầu là giảm 40% suy dinh dưỡng
thấp còi ở trẻ em đến năm 2025.
Suy dinh dưỡng trẻ em Việt Nam xuất hiện rất sớm ngay từ tháng thứ 4, tỷ lệ suy dinh
dưỡng bắt đầu tăng nhanh và chiếm tỷ lệ cao nhất ở trẻ < 2 tuổi, nguyên nhân chính là do trẻ
dưới 2 tuổi có nhu cầu dinh dưỡng cao cho sự phát triển cơ thể, trong khi đó việc cho trẻ ăn
bổ sung lại không hợp lý (thiếu cả về số lượng và chất lượng). Thành phần chủ yếu trong
khẩu phần ăn bổ sung của trẻ ở nông thôn Việt Nam là gạo, ngoài ra có thêm nước mắm, mì
chính. Do vậy, khẩu phần ăn của trẻ thường thiếu protein, lipid, đặc biệt là nghèo về các
vitamin và khoáng chất.
Suy dinh dưỡng trẻ em làm tăng nguy cơ mắc các bệnh nhiễm khuẩn (như viêm phổi,
tiêu chảy...) và làm tăng nguy cơ tử vong. Đối với trẻ dưới 2 tuổi, suy dinh dưỡng ảnh hưởng
rõ rệt đến phát triển trí tuệ, hành vi, khả năng học tập của trẻ, khả năng lao động đến tuổi
trưởng thành. Khi trẻ nhỏ bị suy dinh dưỡng và tăng cân nhanh sau đó, trẻ sẽ có nguy cơ cao
bị mắc các bệnh mạn tính liên quan tới dinh dưỡng như béo phì, tiểu đường...
Việt Nam hiện đã có chương trình phòng chống suy dinh dưỡng Quốc gia với mục
tiêu cải thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi. Sau 10 năm triển khai chương trình đã
thu được những thành công đáng kể, tuy nhiên tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ hiện còn cao và
không đồng đều giữa các vùng.
Xã Lượng Minh là một xã vùng xa thuộc huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An, điều
kiện kinh tế còn khó khăn, trình độ dân trí thấp do vậy việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ cũng
như các phụ nữ trong thời kỳ mang thai còn chưa được quan tâm vì vậy tình trạng suy dinh
dưỡng ở trẻ dưới 2 tuổi còn chưa được cải thiện nhiều. Sau khi liên hệ với trưởng trạm y tế xã
Lượng Minh chúng tôi nhận thấy năm 2018 tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng chiếm 20%, riêng 2
bản Cà Moong và bản Sốp Cháo tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng chiếm trên 40%.... Theo chị Lô
Thị Bông chuyên trách dân số xã Lượng Minh: Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ở xã chiếm tỷ lệ
cao là do các bà mẹ mang thai và nuôi con nhỏ thiếu kiến thức trong việc chăm sóc con. Tiếp
nữa là đời sống khó khăn, không có điều kiện quan tâm chế độ dinh dưỡng cho con, bữa ăn
của trẻ rất nghèo nàn chỉ có cơm và rau. Khi đến thăm gia đình chị Vị Thị Nhưn, xã Lượng
Minh, huyện Tương Dương, Tỉnh nghệ An, chị có 2 con, bé đầu 11 tuổi và bé thứ 2 đã 2 tuổi
nhưng chỉ nặng 7kg. Theo lời chị Nhưn: “ Lúc em sinh bé thứ 2 được hơn 1 tháng thì lên núi
làm rẫy. ở nhà anh chăm em, lúc thì nhai khoai lúc thì nhai cơm cho em ăn. Anh ăn gì em ăn
nấy. Em cũng cai sữa cho bé từ lúc hơn 3 tháng tuổi để lên nương làm rẫy. Trường hợp của
chị Nhưn chỉ là 1 trong số trường hợp ở xã Lượng Minh mà thôi.
Cây vấn đề
Ăn uống bổ sung không Tỷ lệ bệnh tật cao Cân nặng sơ sinh thấp
đầy đủ và cân đối
Bà mẹ không có Thực hành Chăm sóc y Vệ sinh môi Chăm sóc
kiến thức về cho trẻ ăn bổ tế chưa tốt trương kém bà mẹ khi
cách cho trẻ ăn sung chưa có thai
bổ sung hợp lý hợp lý kém
1.Đối tượng
Các bà mẹ mang thai và bà - Người chăm sóc trẻ tại nhà - Các cơ quan, đoàn
mẹ có con dưới 2 tuổi (Ông, bà, các ông bố,…) thể( lãnh đạo chính quyền
- Giáo viên các trường mầm địa phương, hội phụ nữ,
ban văn hóa xã,…)
non
- Trạm y tế xã, cộng tác
viên dinh dưỡng
Đối tượng ưu tiên 1: Các bà mẹ mang thai và bà mẹ có con dưới 2 tuổi
Không cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 Cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
tháng đầu.
Không biết cách cho trẻ ăn bổ sung hợp lý Biết cách cho trẻ ăn bổ sung hợp lý (đủ
(thành phần, số lượng bũa ăn) thành phần dinh dưỡng và số lượng bữa ăn)
Không có thời gian chế biến thức ăn cho trẻ Có đủ thời gian chế biến thức ăn cho trẻ
Không có thức ăn sẵn có để chế biến bữa Có thức ăn sẵn có tại địa phương để chế
ăn hợp lý cho trẻ biến thức ăn cho trẻ.
Đối tượng ưu tiên 2: Những người chăm sóc trẻ ( ông,bà, bố, người trông trẻ, giáo viên mần
non…)
Hành vi hiện tại Hành vi mong muốn
Không biết cách cho trẻ ăn bổ sung hợp lý Biết cách cho trẻ ăn bổ sung hợp lý
Không quan tâm nhiều đến trẻ Quan tâm nhiều đến trẻ
Không ủng hộ bà mẹ cho con bú hoàn toàn Ủng hộ các bà mẹ cho trẻ bú mẹ hoàn toàn
trong 6 tháng đàu. trong 6 tháng đầu
Không có thời gian chế biến thức ăn cho trẻ Có đủ thời gian chế biến thức ăn cho trẻ
Không có thực phẩm sẵn có để chế biến thức Có đủ thực phẩm để chế biến thức ăn cho
ăn cho trẻ trẻ
Đối tượng ưu tiên 3: Cán bộ y tế xã, cộng tác viên dinh dưỡng tại các thôn/xóm, các cơ quan,
đoàn thể.
Không có kiến thức về chế độ ăn bổ sung Có kiến thức đúng về cách cho trẻ ăn bppr
cho trẻ sung hợp lý.
Chưa ủng hộ, động viên các bà mẹ cho con Ủng hộ, động viên các bà mẹ cho con bú
bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu trẻ ăn bổ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và cho trẻ ăn
sung hợp lý bổ sung hợp lý
Chưa nhiệt tình trong công tác truyền Nhiệt tình trong công tác truyền thông giáo
thông, giáo dục dinh dưỡng. dục dinh dưỡng
2.Mục tiêu
Cải thiện thực hành nuôi dưỡng trẻ dưới hai tuổi tại xã Lượng Minh, huyện Tương Dương
, tỉnh Nghệ An nhằm góp phần hạ thấp tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới hai tuổi thông qua
chương trình truyền thông giáo dục sức khỏe cho bà mẹ và người chăm sóc trẻ.
- Đến cuối năm 2021, 90% các bà mẹ thực hành cho con bú sớm ngay trong nửa giờ
đầu sau khi sinh và nuôi con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu
- 95% các bà mẹ có con dưới 2 tuổi thực hành đúng cho trẻ ăn bổ sung hợp lý.
Cây mục tiêu
Giảm nguy cơ mắc các bệnh mạn tính Giảm tỷ lệ tử vong
trong tương lai.
Giảm mắc các bệnh Giảm tỷ lệ trẻ có cân nặng sơ sinh
Cho trẻ ăn bổ sung hợp
nhiễm trùng cấp tính ở trẻ thấp
lý
Nâng cao kiến Nâng cao kỹ Đầu tư Cải thiện vệ Quan tâm
thức về cách cho năng thực hành chăm sinh môi chăm sóc bà
trẻ ăn bổ sung hợp cho trẻ ăn bổ sóc y trường mẹ khi có thai
lý cho các bà mẹ sung hợp lý tế kém
Tăng cường Nâng cao Các bà Cải thiện Nâng cao
truyền thông trình độ mẹ giành an ninh trình độ dân
giáo dục học thức thời gian lương trí
dinh dưỡng của bà mẹ chế biến thực hộ
cho các bà thức ăn gia đình
Tăng đầu tư Nâng cấp Cải thiện thu Thực hiện tốt
cho các giao thông nhập/sức kế hoạch hóa
chương trình tới các thôn, mua thực gia đình
y tế bản phẩm
Bước 3. NỘI DUNG TUYÊN TRUYỀN GIÁO - GIÁO DỤC SỨC KHỎE VỀ DINH
DƯỠNG CHO TRẺ
Xã Lượng Minh, huyện Tương Dương là một địa phương thuộc diện miền núi kém phát
triển trên địa bàn tỉnh Nghệ An vì vậy cơ sở vật chất của địa phương còn gặp nhiều khó khăn
thiếu thốn ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng cuộc sống, tiêu biểu nhất là vấn đề dinh
dưỡng cho trẻ em dưới 2 tuổi
Nguyên nhân suy dinh dưỡng hầu hết xuất phát từ ngoại cảnh như hoàn cảnh sống, điều
kiện kinh tế, thói quen ăn uống và sinh hoạt gây nên. Suy dinh dưỡng thường là hậu quả của
các vấn đề sau:
Bữa ăn nghèo nàn về số lượng và chất lượng của các dưỡng chất: Đây là nguyên nhân
phổ biến gây suy dinh dưỡng ở các nước nghèo.
Khả năng hấp thu các chất dinh dưỡng kém do các bệnh lý đường tiêu hóa hoặc sau
một đợt bệnh nặng, người bệnh cảm thấy không ngon miệng, không muốn ăn mặc dù
được cung cấp thức ăn giàu chất dinh dưỡng. Ói mửa hay đi chảy kéo dài làm mất
chất dinh dưỡng. Bệnh nhân viêm loét dạ dày hoặc các bệnh lý gan mật thường đối
mặt với chứng khó tiêu, làm người bệnh chán ăn, lâu dần cũng gây nên suy dinh
dưỡng. Các bệnh lý nhiễm trùng tại đường tiêu hóa, hoặc việc phải sử dụng nhóm
thuốc kháng sinh làm mất cân bằng giữa lượng vi khuẩn có lợi và vi khuẩn có hại
trong đường ruột cũng làm giảm khả năng hấp thu.
Vấn đề sức khỏe tâm thần: nhiều rối loạn tâm thần kinh ảnh hưởng đến thói quen ăn
uống của người bệnh như trầm cảm, chứng chán ăn tâm thần, chứng ăn ói và các rối
loạn ăn uống khác. Nguyên nhân này cũng có thể gặp phải ở trẻ em. Khi bi gia đình
ép buộc ăn uống quá mức, trẻ dễ có tâm lý sợ hãi sinh ra những nỗi ám ảnh về thức
ăn, dần dần sẽ dẫn tới bệnh chán ăn và gây ra suy dinh dưỡng.
Trẻ sơ sinh không được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu tiên, không bú đủ sữa mẹ
và cho ăn dặm quá sớm. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng không được bú sữa
mẹ trong 6 tháng đầu đời có thể dẫn tới suy dinh dưỡng ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Quan
niệm cho trẻ bú sữa công thức tốt hơn sữa mẹ là không đúng đắn. Những người mẹ
suy dinh dưỡng hoặc không biết cách cho con bú cũng là những nguyên nhân gián
tiếp gây suy dinh dưỡng ở trẻ sơ sinh.
Cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời và kéo dài ít nhất hai năm. Chỉ cân
nhắc cho trẻ sử dụng sữa công thức khi tình trạng không đủ sữa mẹ không giải quyết
nhanh chóng được.
Có biện pháp hỗ trợ phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của người dân.
Hướng dẫn cách lựa chọn thực phẩm một cách kinh tế và đầy đủ.
Ăn thức ăn phong phú các loại, thường xuyên thay đổi món ăn, kích thích ngon miệng
Tăng cường các hoạt động thể chất thường xuyên để kích thích sự thèm ăn
d) Phương hướng kế hoạch đẩy lùi phòng ngừa tình trạng suy dinh dưỡng ở địa phương
Tình trạng suy dinh dưỡng thấp coi ở trẻ em là một tình trạng thường diễn ra ở các địa
phương thuộc diện khó khăn như miền núi, biên giới, hải đảo,… ở nước ta.
Đối với xã Lượng Minh, huyện Tương Dương là một dịa phương nghèo miền núi thì vấn
đề suy dinh dưỡng thấp còi là một hiện trạng chung mà địa phương phải ưu tiên giải quyết
nhanh gọn, dứt điểm
Để giải quyết hiện trạng trên cần phải có một kế hoạch phương hướng rõ ràng cụ thể
khách quan, cùng với sự vào cuộc của các cấp chính quyền, các ban nghành, đoàn thể, tổ
chức có thẩm quyền để nâng cao đời sống tinh thần và vật chất cho trẻ em nói riêng và nhân
dân xã Lượng Minh nói chung:
Tăng cường hoạt động tuyên truyền phòng tránh tình trạng suy dinh dưỡng thấp
còi ở trẻ trên địa bàn xã
Tạo nhiều sân chơi vui vẻ lành mạnh cho trẻ, mở các khóa học tăng cường củng
cố sức khỏe như: tập bơi, cờ vua, đá bóng,…
Kêu gọi nguồn hỗ trợ từ các nguồn lực trong và ngoài địa phương, các tổ chức nhà
hảo tâm
Tăng gia sản xuất, tăng cường đời sống của nhân dân
Bước 4 Xác định nguồn lực, lựa chọn các phương pháp và phương tiện truyền
thông GDSK
I. NGUỒN LỰC
Thực hiện chương trình GDSK về suy dinh dưỡng của trẻ dưới 2 tuổi cần các nguồn lực bao
gồm:
NGUỒN NHÂN LỰC: ai sẽ tham gia vào các hoạt động GDSK?
1. Trung ương:
- Các chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống suy dinh dưỡng.
- Viện Dinh dưỡng Quốc gia.
2. Địa phương:
- Người GDSK: nhân viên y tế của bệnh viện trường Đại học Y Khoa Vinh, 22 thành viên
tổ 3 lớp 19YD trường Đại học Y khoa Vinh
- Bà mẹ có con suy dinh dưỡng ( dưới 2 tuổi) của xã Lượng Minh
- Sở y tế.
- Trung tâm y tế Dự phòng xã Lượng Minh huyện Tương Dương
KINH PHÍ
- Hỗ trợ từ sở y tế
- Kinh phí được trích ra từ quỹ của hội liên hiệp phụ nữ của xã Lượng Minh huyện
Tương Dương
- Kinh phí đóng góp từ các tổ chức trong xã Lượng Minh huyện Tương Dương
-
3 Xây dựng, thử nghiệm, in ấn, phân phối tài liệu, 300.000
lựa chọn kênh truyền thông.
4 Tập huấn cho cán bộ y tế, cộng tác viên TTGD về 100.000
VSATTP
- Địa điểm tổ chức; Tại UBND xã Lượng Minh huyện Tương Dương
- Các trang thiết bị: Loa, mic, điện, máy chiếu, bàn, ghế…
A Số lượng: Chọn ngẫu nhiên 100 người trong 5 thôn (20 người 1 thôn)
Thử nghiệm
Lựa chọn phương pháp GDSK: trực tiếpkết hợp với gián tiếp.
Phương tiện truyền thông là những phương tiện để giúp người giáo dục sức
khỏe chuyển các thông điệp sức khỏe tới đối tượng giáo dục sức khỏe. Có nhiều
loại phương tiện khác nhau được dùng để chuyển tải các thông tin trong giáo dục
sức khỏe ví dụ: các phương tiện thông tin đại chúng như đài, ti vi; tranh ảnh, pa nô,
áp phích . . .
Phương pháp giáo dục sức khỏe: là cách thức người giáo dục sức khỏe chuyển
các thông điệp sức khỏe tới đối tượng giáo dục sức khỏe để giúp họ thay đổi hành
vi. Phân loại theo cách thức chuyển tải thông tin, người ta chia ra làm 2 phương
pháp chính là phương pháp giáo dục sức khỏe gián tiếp và phương pháp giáo dục
sức khỏe trực tiếp. Trong phương pháp giáo dục sức khỏe trực tiếp, tuỳ theo đối
tượng, chủ đề, mục tiêu giáo dục sức khỏe mà có các phương pháp giáo dục sức
khỏe riêng.
Có nhiều loại phương tiện Truyền thông - Giáo dục sức khỏe. Mỗi người làm
công tác Truyền thông - Giáo dục sức khỏe cần phải hiểu rõ các mặt lợi, mặt hạn
chế của từng phương pháp, phương tiện để lựa chọn và sử dụng cho có hiệu quả.
2. 1. Lời nói
Là phương tiện tốt nhất, đơn giản, không tốn kém, dễ làm, linh hoạt, có thể
thích ứng tuỳ theo sự cảm nhận của đối tượng Truyền thông - Giáo dục sức khỏe
Tuy nhiên dùng lời nói cũng có mặt hạn chế là người nghe thường dễ quên, khó
72
Vì thế, muốn đạt được hiệu quả cao, đòi hỏi người nói phải có lượng thông tin
thiết thực vừa đủ và chắc, khi nói cần phải minh hoạ bằng dụng cụ trực quan, lời
nói phải đi đôi với việc làm thực tế, thiết thực.
Các cử chỉ và điệu bộ nhằm minh hoạ cho nội dung của lời nói, vì vậy đòi hỏi
các động tác phải chính xác, thị phạm, thuần thục, mang tính giáo dục cao.
2.3. Các phương tiện trực quan và phương tiện nghe nhìn.
Có tác dụng minh hoạ, bổ khuyết cho lời nói, thích hợp với mọi đối tượng, mọi
nơi. Nhưng phải chuẩn bị công phu, sáng tạo, nhiều khi tốn kém. Các phương tiện
Là bản sao, kích thước thường nhỏ hơn vật thật, có tính hấp dẫn dễ hiểu hơn
dùng tranh ảnh, nhưng cũng có mặt hạn chế là dễ làm cho đối tượng Truyền thông
Giáo dục sức khỏe hiểu sai về kích thước thật của vật thật.
Là dụng cụ rẻ tiền, đơn giản nhất trong các phương tiện trực quan và được sử
2.3.3. Áp phích
Được sử dụng rất rộng rãi để Truyền thông - Giáo dục sức khỏe, dễ thu hút sự
chú ý, thông tin ngắn gọn. Yêu cầu kỹ thuật tối thiểu của một áp phích là: Phải đủ
- Treo tại nơi có nhiều người có thể xem được: nơi tụ họp đông người như cửa
- Một áp phích đạt được đúng các yêu cầu trên sẽ phục vụ tốt cho mục tiêu
2.3.4. Tranh vẽ
Hình ảnh và lời minh hoạ nhằm vào một chủ đề.
- Tranh vẽ phải rõ ràng càng đơn giản càng tốt, nên loại bỏ những chi tiết rườm
- Lời minh hoạ cho tranh phải ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ, có thể viết
dưới dạng ca dao, viết ngay phía dưới hay bên cạnh của tranh.
- Tranh vẽ người, vật và cảnh phải phù hợp với đặc điểm của từng địa phương.
73
- Tranh phải mang tính chất khái quát, tính nghệ thuật nhưng không nên quá
trừu tượng.
Tranh vẽ có thể là tranh đơn: từng tờ riêng biệt (truyền đơn); tranh liên hoàn:
nhiều tranh xếp kế tiếp nhau có thể đóng thành sách (sách tranh), hoặc có trụ để
dựng đứng (tranh lật). Nhiều tranh in trên các mặt của tờ giấy được gấp thành
Báo có thể là báo tường hoặc báo sức khỏe... Khẩu hiệu có thể tự viết hoặc in
sẵn.
Có thể kết hợp với đài truyền thanh địa phương, đây là một phương tiện thông
tin nhanh, thuận tiện ít tốn kém, rất thích hợp với điều kiện của tuyến cơ sở, thu
hút được sự chú ý nghe của nhiều người trong cùng một tời điểm. Yêu cầu nội
dung phát thanh phải thiết thực, cụ thể, ngắn gọn, rõ ràng, phù hợp với nhiều trình
độ người nghe.
Cán bộ y tế có thể xây dựng một chủ đề Truyền thông - Giáo dục sức khỏe nhất
định, có sẵn lời chú thích trên phim với nội dung phù hợp với thực tế địa phương,
chiếu trong thời gian 10 - 15 phút, ngoài ra có thể kết hợp sử dụng các phương tiện
Cán bộ y tế cần tham gia chỉ đạo về mặt nội dung vở kịch hay múa rối với nội
dung nhẹ nhàng, hấp dẫn, dễ đi vào lòng người, nhấn mạnh những điểm cần giáo
dục trong khi đạo diễn, diễn viên có thể là người dân địa phương hay cán bộ y tế.
Người làm công tác truyền thông sử dụng những kết quả đạt được trong công
tác GDSK... những kết quả này sẽ được mô tả bằng các loại biểu đồ, hình vẽ, báo
cáo để triển lãm nhằm khuyến khích mọi người cùng tham gia.
Tuy mỗi phương tiện trên đều có những ưu điểm riêng, nhưng cũng đều có mặt