Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 46

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP HCM

--------

TIỂU LUẬN MÔN: QUẢN TRỊ RỦI RO

THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO THANH


KHOẢN CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM HIỆN
NAY

Giảng viên : HỒ VĂN DŨNG


Lớp học phần : 210705001

TP.Hồ Chí Minh, Tháng 10 năm 2014


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP HCM
--------

TIỂU LUẬN MÔN: QUẢN TRỊ RỦI RO

THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO THANH


KHOẢN CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM HIỆN
NAY

Giảng viên : HỒ VĂN DŨNG

TP.Hồ Chí Minh, Tháng 10 năm 2014


LỜI MỞ ĐẦU

Trong thời kỳ hội nhập vào nền kinh tế thế giới như hiện nay thì thị trường tài chính
giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Hiện nay, thị trường tài chính Việt Nam đang
trên đà phát triển mạnh mẽ, mở ra ngày càng nhiều cơ hội cho các ngân hàng
thương mại, song đi cùng nó cũng kéo theo rất nhiều rủi ro. Trong các loại rủi ro thì
rủi ro thanh khoản được xem là rủi ro nguy hiểm nhất. Thanh khoản và quản lý rủi
ro trong thanh khoản là yếu tố quyết định đến sự an toàn trong hoạt động của bất kỳ
ngân hàng thương mại nào.

Thực tế chỉ một hay hai ngân hàng gặp rủi ro về thanh khoản có thể lây lan ngay
sang ngân hàng khác. Trong khi đó, bản thân một ngân hàng thương mại sẽ không
đủ sức chống đỡ được rủi ro hệ thống. Điển hình là hậu quả của cuộc khủng hoảng
tài chính thế giới lớn nhất trong một thế kỷ qua đã và đang tiếp tục tác động đến thị
trường tài chính Mỹ và gây ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường tài chính của các
nước khác trong đó có Việt Nam.

Tại Việt Nam, sau đợt căng thẳng thanh khoản đầu năm 2008, nhờ những can thiệp
của Ngân hàng Nhà nước, tình hình thanh khoản đã cải thiện đáng kể, song khó
khăn vẫn còn ở phía trước. Đặc biệt, 5 tháng đầu năm 2011, tình hình thanh khoản
của các ngân hàng thương mại Việt Nam lại trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết.
Chính vì thế, bên cạnh những hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước, các Ngân hàng
thương mại cần phải quan tâm hơn nữa đến công tác quản trị rủi ro thanh khoản,
không chỉ vì an toàn của chính Ngân hàng mình mà còn vì an toàn chung của hệ
thống tài chính tiền tệ.

Đó là lý do mà nhóm chúng em chọn đề tài: "Thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản
của các NHTM Việt Nam hiện nay".

Ngoài ra, trên cơ sở thực trạng về rủi ro thanh khoản và quản trị rủi ro thanh khoản
trong ngân hàng thương mại nhóm chúng em sẽ đưa ra một số giải pháp nhằm nâng
cao năng lực quản trị rủi ro thanh khoản tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
Rất mong được thầy tận tình góp ý chỉ bảo thêm để chúng em có thêm kinh nghiệm
trong những đề tài sau này!

Xin gửi lời cảm ơn đến thầy!


Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU.....................................................................................................V

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI................................................................................................ V
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU........................................................................................... V
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU........................................................................................ V
PHẠM VI NGHIÊN CỨU............................................................................................. V
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU................................................................................... VI

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO THANH


KHOẢN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NHTM....................................................1

1.1 RỦI RO THANH KHOẢN......................................................................................1


1.1.1 Khái niệm thanh khoản và rủi ro thanh khoản..........................................1
1.1.2 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản.................................................1
1.1.3 Tác động của rủi ro thanh khoản đến hoạt động của NHTM....................2
1.2 NỘI DUNG QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TRONG NHTM............................3
1.2.1 Nhận dạng và phân tích nguyên nhân rủi ro thanh khoản ở NHTM.........3
1.2.2 Các phương pháp đo lường trạng thái thanh khoản của NH....................5
1.2.3 Kiểm soát và phòng ngừa rủi ro thanh khoản...........................................5
1.3 VAI TRÒ CỦA QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THANH
KHOẢN CỦA NHTM................................................................................................7

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN CỦA


CÁC NHTM VIỆT NAM HIỆN NAY...................................................................8

2.1 TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM....................8
2.1.1 Khái quát chung........................................................................................8
2.1.2 Các rủi ro thường gặp phải....................................................................10
2.2 TÌNH HÌNH RỦI RO THANH KHOẢN CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM TRONG NHỮNG
NĂM GẦN ĐÂY.......................................................................................................12

2.2.1 Thực trạng rủi ro thanh khoản................................................................12


2.2.2 Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản đến kết quả hoạt động kinh doanh của
các ngân hàng thương mại Việt Nam...............................................................15

ii
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

2.2.3 Nguyên nhân gây RRTK của các NHTM Việt Nam trong mấy năm gần
đây................................................................................................................... 17
2.3 VÀI VỤ VIỆC TIÊU BIỂU VỀ RỦI RO THANH KHOẢN CỦA NHTM.....................19
2.3.1 Rủi ro thanh khoản của Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB)
năm 2003.........................................................................................................19
2.3.2 Rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam chi nhánh Hà Nội
(2005)..............................................................................................................21
2.4 ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG RỦI RO THANH KHOẢN TẠI CÁC NHTM
VIỆT NAM HIỆN NAY.............................................................................................22
2.4.1 Kết quả đạt được....................................................................................22
2.4.2 Những điểm tồn tại.................................................................................23
2.4.3 Nguyên nhân của những tồn tại..............................................................24

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ
RỦI RO THANH KHOẢN TRONG HỆ THỐNG CÁC NHTM VIỆT NAM..26

3.1 VỀ PHÍA CHÍNH PHỦ..................................................................................26


3.1.1 Một ngân hàng trung ương độc lập và đủ mạnh.....................................26
3.1.2 Hoàn thiện hệ thống luật pháp đáp ứng yêu cầu hội nhập......................26
3.1.3 Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước...27
3.2 VỀ PHÍA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.....................................................27
3.2.1 Đảm bảo vốn tự có ở mức cần thiết........................................................27
3.2.2 Đảm bảo tỷ lệ cân đối giữa tài sản có và tài sản nợ...............................27
3.2.3 Tăng cường công tác dự báo các điều kiện kinh tế vĩ mô.......................28
3.2.4 Xây dựng và hoàn thiện hệ thống đánh giá nội bộ..................................28
3.2.5 Hoàn thiện và đổi mới công tác quản trị rủi ro thanh khoản..................28
3.2.6 Đẩy mạnh công tác huy động vốn và đa dạng hóa nguồn vốn huy động30
3.2.7 Xây dựng đội ngũ nhân viên có trình độ, năng lực và đạo đức nghề
nghiệp..............................................................................................................31
3.2.8 Các giải pháp về công nghệ...................................................................31
3.2.9 Nâng cao công tác quảng cáo hình ảnh, thương hiệu Ngân hàng.........31

KẾT LUẬN............................................................................................................32

iii
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Vốn điều lệ của một số NHTM Việt Nam từ 2010 – 2011 (Đơn vị: Tỷ
đồng)....................................................................................................................... 18

GIẢI THÍCH TỪ NGỮ

Chữ viết tắt Ý nghĩa

DN Doanh nghiệp

NH Ngân hàng

NHNN Ngân hàng nhà nước

NHTM Ngân hàng thương mại

NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần

NHTW Ngân hàng Trung ương

NHXNK Ngân hàng xuất nhập khẩu

QTRR Quản trị rủi ro

QTRRTK Quản trị rủi ro thanh khoản

REPO (Repossess of property) Thị trường mua bán chứng khoán

RRTK Rủi ro thanh khoản

SMBC (Sumitomo Mitsui Ngân hàng SMBC


Banking Corporation)

SWAP (Spot and forward) Nghiệp vụ hối đoái kép gồm 2 nghiệp
vụ giao ngay (spot) và nghiệp vụ có kỳ
hạn (forward).

TCTD Tổ chức tín dụng

TMCP Thương mại cổ phần

TSC Tài sản Có

iv
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

TSN Tài sản Nợ

USD Đồng đô la Mỹ

WTO Tổ chức thương mại thế giới

v
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

PHẦN MỞ ĐẦU

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong số những rủi ro mà các ngân hàng phải đối mặt, rủi ro thanh khoản được em
là đặc biệt nguy hiểm, có thể gây ra hàng loạt những tác hại nghiêm trọng cho hoạt
động của ngân hàng. Tác hại lớn nhất có thể kể đến là làm cho ngân hàng bị phá
sản, bị quốc hữu hóa hoặc bị sáp nhập. Như vậy công tác quản trị rủi ro về thanh
khoản là không thể không được quan tâm, thậm chí nó trở thành mối quan tâm hàng
đầu của nhiều nhà quản lý ngân hàng ở Việt Nam và thế giới. Tuy nhiên thực tế đã
chứng minh không phải chiến lược quản trị rủi ro thanh khoản nào cũng hợp lý và
thành công. Đặc biệt đối với ngành ngân hàng ở Việt Nam, công tác quản trị rủi ro
thanh khoản còn tỏ ra nhiều yếu kém, bất cập và chưa có hiệu quả. Do vậy cần có
cái nhìn rõ ràng và đúng đắn hơn về công tác này và có biện pháp tổ chức giám sát
thực hiện tốt hơn, tiến bộ hơn trước. Đó chính là lý do chúng em chọn đề tài này.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

1) Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về công tác quản trị rủi ro thanh khoản của
NHTM.
2) Phân tích thực trạng thanh khoản của các NHTM Việt Nam hiện nay và một
vài vụ việc cụ thể.
3) Đưa ra một số bài học kinh nghiệm và một số biện pháp nhằm cải thiện, nâng
cao hiệu quả quản trị rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam hiện nay.

ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu của bài tiểu luận này là hoạt động quản lý rủi ro thanh khoản
tại các NHTM Việt Nam hiện nay.

PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Phạm vi nghiên cứu là hoạt động quản lý thanh khoản của các NHTM Việt Nam
hiện nay.

vi
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Bài tiểu luận sử dụng nhiều phương pháp để nghiên cứu trong đó có thể kể đến:

- Phân tích và tổng hợp


- Thu thập thống kê số liệu
- So sánh
- Mô hình hóa
- Hệ thống hóa

 Kết cấu đề tài


Đề tài này gồm có 3 chương như sau:

Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về quản trị rủi ro thanh khoản trong hoạt động của
NHTM

Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam hiện
nay

Chương 3: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro thanh khoản trong hệ
thống các NHTM Việt Nam

vii
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ RỦI


RO THANH KHOẢN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NHTM

1.1 RỦI RO THANH KHOẢN

1.1.1 Khái niệm thanh khoản và rủi ro thanh khoản

Khái niệm thanh khoản:

 Dưới góc độ tài sản: Thanh khoản là khả năng chuyển hoá thành tiền của tài
sản và ngược lại. Một tài sản được xem là thanh khoản khi đáp ứng các tiêu
chí sau: Có sẵn số lượng để mua hoặc bán, có sẵn thị trường để giao dịch, có
sẵn thời gian để giao dịch, giá cả hợp lý. Trong thực tế, các tài khoản có tính
thanh khoản cao gồm các giấy tờ có giá trị như: Trái phiếu kho bạc, thương
phiếu, hối phiếu... những tài sản có tính thanh khoản thấp như bất động sản,
dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị.

 Dưới góc độ ngân hàng: thanh khoản là khả năng ngân hàng đáp ứng đấy đủ
và kịp thời các nghĩa vụ tài chính phát sinh trong quá trình hoạt động giao
dịch như trả tiền gửi, cho vay, thanh toán và các hoạt động giao dịch tài
chính khác.

Rủi ro thanh khoản là tình trạng ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu sử dụng
vốn khả dụng (nhu cầu thanh khoản). Tình trạng này nhẹ thì gây thua lỗ, hoạt động
kinh doanh bị đình trệ, nặng thì làm mất khả năng thanh toán dẫn đến ngân hàng
phá sản.

1.1.2 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản

Các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính ngân hàng đã chỉ ra 5 nguyên nhân dẫn đến
rủi ro trong tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại trong thời gian qua.

Thứ nhất: tăng trưởng tín dụng quá nóng. Sự tăng trưởng tín dụng quá nóng của
các ngân hàng thương mại đi kèm với cơ cấu đầu tư không hợp lý, tập trung lớn vào
đầu tư bất động sản chạy theo lợi nhuận sẽ phát sinh rủi ro cao khi thị trường đóng
băng, tạo sự mất cân đối về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ do ngân hàng đã sử

1
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

dụng quá nhiều nguồn vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn. Chính điều này đã tạo ra sự
rủi ro thanh khoản cao đối với ngân hàng thương mại”.

Thứ hai: công tác dự báo và phân tích thị trường của các ngân hàng thương mại
(NHTM) Việt Nam còn nhiều hạn chế. Các NHTM còn có tư tưởng ỷ lại quá nhiều
vào cơ chế nhà nước, trong khi các ngân hàng nước ngoài, ngoài việc chấp hành
nghiêm túc các tỷ lệ an toàn còn thường xuyên nghiên cứu, dự báo sát các diễn biến
của thị trường nên đã dự phòng vốn thanh khoản và điều chỉnh kịp thời, không bị
động trước những tác động thị trường.

Thứ ba: tính liên kết hệ thống giữa các NHTM để đảm bảo an toàn thanh toán còn
yếu, tạo sự cạnh tranh không lành mạnh, đẩy lãi suất lên cao tạo khe hở cho khách
hàng gửi tiền “làm giá, tăng lãi suất” hoặc rút tiền chuyển sang các NHTM khác dẫn
đến làm suy yếu khả năng chống đỡ thiếu hụt thanh khoản của hệ thống.

Thứ tư: vấn đề quản trị thanh khoản tại các NHTM chưa tốt. Do sự yếu kém từ
quản trị tài sản nợ, có của các NHTM và sự thiếu hụt của các công cụ quản lý hữu
hiệu… Ngân hàng Nhà nước cũng khó nắm bắt chắc chắn tình hình thanh khoản
cũng như sự thay đổi lớn trong tài sản của mỗi NHTM để điều chỉnh quy định của
mình

Thứ năm: xuất phát từ phía khách hàng, đây được đánh giá là nhóm nguyên nhân
khiến các ngân hàng khó có thể dùng công cụ thị trường để điều tiết có hiệu quả
thanh khoản của các ngân hàng. Trong điều kiện thông tin bất cân xứng, lại chưa
minh bạch, một số khách hàng (kể cả pháp nhân) đã rút tiền ra khỏi ngân hàng này
và chuyển sang ngân hàng khác, dân cư rút tiền để mua vàng, mua đô la Mỹ để tích
trữ… đã làm tăng tính bất ổn của thị trường, nội và ngoại tệ, gây khó khăn cho
chính khách hàng đã và đang sử dụng dịch vụ gửi và vay tiền tại ngân hàng.

Ngoài những nguyên nhân trên, còn có nhiều nguyên nhân như: do các giao dịch
bằng ngoại tệ tại các NHTM Việt Nam chủ yếu tập trung vào một loại ngoại tệ là
USD; những tác động trực tiếp từ các loại rủi ro khác trong hoạt động ngân hàng
cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới rủi ro thanh khoản; hiện tượng một số tập đoàn,
Tổng công ty Nhà nước chuyển tiền hoặc rút tiền với khối lượng lớn; yếu kém trong
công tác kế hoạch hóa và quản trị điều hành…

2
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

1.1.3 Tác động của rủi ro thanh khoản đến hoạt động của NHTM

RRTK là rủi ro nguy hiểm nhất của ngân hàng, có liên quan đến sự sống còn của
ngân hàng. Một ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được khả năng
thanh toán, tức là phải đáp ứng được các nhu cầu thanh toán trong hiện tại, tương lai
và khác nhu cầu thanh toán đột xuất. Một khi rủi ro thanh khoản xuất hiện không
chỉ nó ảnh hưởng đến bản thân NHTM mà còn ảnh hưởng đến cả một nền kinh tế -
xã hội.

Thứ nhất, nếu RRTK xảy ra, tuỳ theo mức độ nghiêm trọng mà ngân hàng có thể
phải chịu: Chuyển hoá các tài sản có thanh khoản thành tiền với chi phí cao; tiếp
cận với thị trường tiền tệ đang tăng vốn với những điều kiện khắt khe hơn, ví dụ,
phải có tài sản thế chấp, chịu mức lãi suất cao, không được tuần hoàn nợ cũ, hạ mức
tín dụng bị xem xét lại thường xuyên hoặc bị từ chối cho vay, đình trệ hoạt động
dẫn đến giảm thu nhập, mất uy tín dẫn đến mất khách hàng.

Thứ hai, trong trường hợp đặc biệt, RRTK có thể đẩy ngân hàng tới tình trạng mất
khả năng thanh toán, là trạng thái bên bờ vực phá sản ngân hàng. Khi một ngân
hàng mất đi khả năng thanh toán thì sẽ gây nên tâm lý lo ngại đối với không chỉ bản
thân ngân hàng mà còn đối với khách hàng của các ngân hàng khác. Họ sợ rằng
ngân hàng nơi mình gửi tiền cũng có thể bị phá sản nên tìm mọi cách để rút tiền
khỏi ngân hàng đó. Nếu niềm tin của công chúng bị lung lay thì có thể dẫn đến hàng
loạt ngân hàng mất khả năng thanh toán chỉ trong một thời gian ngắn và khiến cả hệ
thống ngân hàng rơi vào tình trạng hỗn loạn, sự hỗn loạn này của hệ thống ngân
hàng có thể sẽ dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội – chính trị của một quốc gia.

1.2 NỘI DUNG QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TRONG NHTM

Gồm các vấn đề sau:

1.2.1 Nhận dạng và phân tích nguyên nhân rủi ro thanh khoản ở NHTM

Điều kiện tiên quyết để quản trị rủi ro là phải nhận dạng được rủi ro. Nhận dạng rủi
ro là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các hoạt động kinh doanh của ngân
hàng, bao gồm: Việc theo dõi, xem xét nghiên cứu môi trường hoạt động và toàn bộ
hoạt động của ngân hàng nhằm thống kê được tất cả các loại rủi ro, kể cả dự báo

3
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

những rủi ro mới có thể xuất hiện trong tương lai, để từ đó có các biện pháp kiểm
soát, tài trợ cho từng rủi ro phù hợp.

Không một ngân hàng nào có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng dự trữ thanh
khoản của họ là hợp lý và đủ để không bị rơi và tình trạng RRTK nếu chưa vượt
quá những thử thách của thị trường. Những thử thách này được biểu hiện qua những
dấu hiệu nhận dạng sau:

Lòng tin của công chúng: Sự tin tưởng của công chúng là một trong những dấu
hiệu quan trọng để đánh giá khả năng thanh khoản của một ngân hàng tốt hay xấu.
Nếu công tác quản lý thanh khoản của ngân hàng yếu kém, không duy trì đủ lượng
tiền mặt hoặc không có khả năng hoàn trả các khoản tiền mà khách hàng yêu cầu
ngay lập tức thì điều này sẽ xói mòn lòng tin của công chúng vào ngân hàng. Do
vậy, ngân hàng sẽ mất dần những khách hàng là những người gửi tiền. Ngược lại
nếu một ngân hàng có được sự tin tường của người gửi tiền nghĩa là khách hàng đặt
niềm tin vào khả năng hoàn trả cả gốc và lãi của ngân hàng hay đồng thời với việc
ngân hàng đó thừa nhận là có khả năng thanh khoản cao.

Sự biến động giá cổ phiếu của ngân hàng: Khi giá cổ phiếu của ngân hàng có xu
hướng giảm, chứng tỏ tính hấp dẫn của chúng đối với nhà đầu tư giảm đi, ảnh
hưởng lớn đến tâm lý của người gửi tiền. Người dân có xu hướng rút tiền khỏi ngân
hàng để gửi tiền sang ngân hàng khác hoặc đầu tư vào những kênh có lợi nhuận cao
hơn, trong khi đó các khoản cho vay đến hạn thanh toán không được thanh toán
hoặc không đáp ứng được nhu cầu thanh khoản, dẫn đến cầu thanh khoản lớn hơn
cung thanh khoản khiến cho ngân hàng rơi vào tình trạng RRTK. Ngược lại, giá cổ
phiếu hoặc tăng hoặc giữ nguyên được thì sẽ củng cố lòng tin và tâm lý nơi công
chúng vào khả năng thanh toán của ngân hàng.

Áp dụng mức lãi suất huy động cao hơn thị trường: Tại sao một ngân hàng lại
chấp nhận áp dụng mức lãi suất huy động tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu và chấp nhận
mức lãi suất đi vay cao hơn mức lãi suất trên thị trường một cách bất thường hoặc
phải đi vay với điều kiện về tài sản đảm bảo chặt chẽ hơn? Nếu xảy ra tình trạng
như vậy thì chứng tỏ một dấu hiệu là ngân hàng đang gặp khó khăn thanh khoản
trong hoạt động kinh doanh của mình.

4
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

Lỗ từ việc bán tài sản: Khi ngân hàng bán tài sản một cách vội vã và sẵn sàng chịu
lỗ lớn chứng tỏ ngân hàng đang gặp phải một vấn đề nào đó trong vấn đề thanh
khoản. Bán tài sản có nghĩa là ngân hàng sẽ phải chấp nhận mất đi những khoản thu
nhập tạo ra từ tài sản trong tương lai cũng như các chi phí giao dịch trả cho người
môi giới liên quan đến việc bán tài sản.

Khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng: Cho vay là một trong những
hoạt động quan trọng hất của ngân hàng vì hoạt động này tạo nhiều lợi nhuận nhất
và kéo theo các nghiệp vụ khác phát triển. Do đó, khi ngân hàng không đáp ứng đầy
đủ và kịp thời các cam kết tín dụng thì chứng tỏ ngân hàng đang thiếu nguồn cung
thanh khoản.

Vay vốn từ ngân hàng trung ương: NHTW giữ vai trò là người cho vay cuối chùng
đối với các NHTM. Cho nên, khi một ngân hàng có dấu hiệu buộc phải đi vay
NHTW với khối lượng lớn và thường xuyên thì ngân hàng đó cần phải xem xét lại
chính sách quản lý thanh khoản của mình để lấy lại niềm tin của công chúng.

Nếu như xuất hiện bất cứ một dấu hiệu nào nêu trên đây mà không có các biện pháp
cũng cố khả năng thanh khoản kịp thời thì nguy cơ ngân hàng đó rơi vào tình trạng
mất khả năng thanh khoản là không nhỏ. Các nhà quản trị ngân hàng cần phải tập
trung xem xét lại các chính sách và thực tiễn công tác quản lý thanh khoản của ngân
hàng để giải quyết xem những thay đổi gì cần phải thực hiện để cải thiện khả năng
thanh khoản và lấy lại niềm tin nơi công chúng.

1.2.2 Các phương pháp đo lường trạng thái thanh khoản của NH

Trong những năm gần đây, một số phương pháp đo lường yêu cầu thanh khoản đã
được phát triển bao gồm: Phương pháp tiếp cận nguồn vốn vốn, phương pháp tiếp
cận cấu trúc vốn và phương pháp chỉ số thanh khoản. Mỗi phương pháp nêu trên
đều được xây dựng dựa trên một số giả định là ngân hàng chỉ có thể ước lượng gần
đúng mức cầu thanh khoản thực tế tại một thời điểm nhất định. Đó chính là lý do vì
sao nhà quản lý thanh khoản phải luôn sẵn sàng điều chỉnh mức dự tính về yêu cầu
thanh khoản mỗi khi ngân hàng được thông tin mới.

5
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

1.2.3 Kiểm soát và phòng ngừa rủi ro thanh khoản

Kiểm soát rủi ro là trọng tâm của quản trị rủi ro. Đó chính là việc sử dụng các biện
pháp, ký thuật, công cụ, chiến lược, các chương trình hoạt động để ngăn ngừa,
phòng tránh hoặc giảm thiểu các tổn thất, những ảnh hưởng không mon muốn có
thể xảy ra đối với ngân hàng. Qua nhiều năm, các nhà quản lý ngân hàng đã phát
triển một số chiến lược nhằm giải quyết vấn đề thanh khoản của ngân hàng: Chiến
lược quản lý tài sản Có, chiến lược quản lý Tài sản Nợ và chiến lược quản lý phối
hợp.

Chiến lược quản lý tài sản Có: Đây là phương pháp tiếp cận cổ điển nhất trong
việc đáp ứng nhu cầu thanh khoản của ngân hàng, Ở hình thức đơn giản nhất, chiến
lược này kêu gọi ngân hàng tích luỹ thanh khoản bằng cách nắm giữ các tài sản có
tình thanh khoản cao, chủ yếu là tiền mặt và các chứng khoán dễ bán. Do giữa thanh
khoản và thu nhập luôn có sự đánh đổi nên nếu một ngân hàng duy trì một lượng
lớn tài sản có tính thanh khoản cao thì đồng thời giảm một lượng thu nhập mà các
tài sản này có thể tạo ra.

Chiến lược này được các ngân hàng áp dụng vì nó mang lại ít rủi ro. Nhưng nó lại
không phải là chiến lược QTRR có chi phí thấp. Vì bán tài sản có nghĩa là ngân
hàng chấp nhận mất đi những lợi nhuận mà tài sản đó tạo ra, bên cạnh đó việc bán
tài sản sẽ còn liên quan đến chi phí giao dịch cho người môi giới. Không những
vậy, thường thì để tối thiểu hoá chi phí cơ hội cho việc không nhận được thu nhập
từ tài sảm, ngân hàng trước hết phải bán hết những tài sản có mức thu nhập tiềm
năng thấp nhất. Tuy nhiên việc bán tài sản để tăng cường thanh khoản sẽ làm hình
ảnh của ngân hàng yếu đi thể hiện qua bảng cân đối tài sản. Bởi tài sản bán đi
thường là các chứng khoán ít rủi ro của chính phủ, cái thường tạo cho công chúng
lòng tin rằng ngân hàng lành mạnh về tài chính.

Chiến lược quản lý tài sản Nợ: Chiến lược quản lý tài sản Nợ là chiến lược mà
ngân hàng đáp ứng nhu cầu thanh khoản phát sinh bằng cách vay những nguồn vốn
khả dụng tức thời trên thị trường tiền tệ. Vay thanh khoản có nhiều lợi thế: Ngân
hàng có thể lựa chọn vay khi thực sự cần vốn. Khác với chiến lược trên là ngân
hàng luôn phải dự trữ một số tài sản thanh khoản cao tại bất cứ thời điểm nào làm
giảm thu nhập tiềm năng. Chiến lược này thường được các ngân hàng lớn sử dụng

6
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

do ngân hàng lớn thường có uy tín và năng lực đi vay cao trên thị trường tiền tệ.
Tuy nhiên, vay thanh khoản cũng tiềm ẩn một số rủi ro nhất định, ví dụ nều lãi suất
ngân hàng tăng đột ngột, khi đó phương pháp này tỏ ra kém hiệu quả bởi chi phí đi
vay cũng đồng nghĩa sẽ tăng cao. Thông thường khi đi vay, ngân hàng phải mua
thanh khoản trong điều kiện khó khăn – cả về giá cả và tính sẵn có. Chi phí vay vốn
của ngân hàng thường khó xác định chắc chắn, làm giảm tính ổn định của thu nhập.
Hơn nữa, những ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính thường có nhu
cầu vay thanh khoản lớn nhất, người gửi tiền dần nhận thức được khó khăn của
ngân hàng và bắt đầu thực hiện rút vốn. Cùng lúc đó, các tổ chức tài chính khác
cũng không muốn cho vay đối với ngân hàng vì sợ rủi ro.

Chiến lược quản trị thanh khoản phối hợp: Do những rủi ro trong việc hoàn toàn
dựa vào nguồn vốn vay trên thị trường tiền tệ khi sử dụng chiến lược quản trị TSN
và mức chi phí đáng kể khi sử dụng chiến lược thanh khoản TSC, để đáp ứng các
nhu cầu thanh khoản phát sinh, hầu hết các ngân hàng đã kết hợp sử dụng đồng thời
cả chiến lược quản trị thanh khoản TSC và thanh khoản TSN để có thể phát huy tối
đa mọi lợi thế và hạn chế những rủi ro có thể xảy ra. Theo chiến lược này, một phần
nhu cầu thanh khoản dự tính sẽ được đáp ứng bằng việc dự trữ tài sản thanh khoản
(chủ yếu là các giấy tờ có giá và tiền gửi tại các TCTD khác) trong khi phần còn lại
của nhu cầu thanh khoản sẽ được đáp ứng bằng cách vay vốn trên thị trường tiền tệ.
Những nhu cầu thanh khoản bất thường hoặc mang tính thời vụ thì sẽ được xử lý
bằng việc vay vốn trên thị trường tiền tệ, còn những nhu cầu thanh khoản mang tính
chu kỳ thì sẽ được xử lý bằng việc dự trữ các tài sản mang tính thanh khoản cao.

1.3 VAI TRÒ CỦA QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG THANH KHOẢN CỦA NHTM

Thanh khoản của ngân hàng liên quan trực tiếp đến an toàn và sinh lợi. Duy trì an
toàn thanh khoản – tức khả năng đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản là mục tiêu
quan trọng và xuyên suốt trong hoạt động ngân hàng. Để duy trì nó, ngân hàng phải
chấp nhận một khoản chi phí nhất định. Ngân hàng luôn phải cân nhắc sự đánh đổi
giữa mức độ an toàn của thanh khoản và khả năng sinh lời. Để gia tăng an toàn
thanh khoản, chi phí cũng gia tăng. Do vậy, QTRRTK không phải là nhằm né tránh
rủi ro mà là đối diện với nó, phòng ngừa, kiểm soát và hạn chế được RRTK đối với

7
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

hoạt động kinh doanh ngân hàng. Từ đó đề ra các chiến lược kinh doanh, phát huy
lợi thế cạnh tranh, đo lường vốn tối thiểu và khả năng thanh toán, giúp lãnh đạo ra
quyết định, giúp các phòng ban liên quan định giá lại các khoản mục kinh doanh,
báo cáo và kiểm soát rủi ro, quản lý danh mục đầu tư....

8
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO THANH


KHOẢN CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1 TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT


NAM

2.1.1 Khái quát chung

Từ năm 1986 đến nay đã diễn ra nhiều sự kiên quan trọng đánh dấu bước chuyển
biến lớn của hệ thống NHTM Việt Nam được thể hiện qua các cột mốc tiêu biểu
sau:

Từ năm 1986 đến 1990: thực hiện tách dần chức năng quản lí nhà nước ra khỏi chức
năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, chuyển hoạt động ngân hàng sang hạch toán, kinh
doanh xã hội chủ nghĩa. Cơ chế mới về hoạt động NHTM được hình thành và hoàn
thiện dần: tháng 5/1990, hai Pháp lệnh ngân hàng ra đời đã chính thức chuyển cơ
chế hoạt động của ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp, trong đó: NHNN thực
thi nhiệm vụ quản lí nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán,
ngoại hối và ngân hàng; thực thi nhiệm vụ của ngân hàng trung ương. Cấp NHTM
thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán và dịch vụ ngân hàng trong
toàn nền kinh tế do các định chế tài chính ngân hàng và phi ngân hàng thực hiện.

Năm 1991 đến nay, thực hiện chủ trương đường lối chính sách của Đảng trong thời
kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa hện thống NHTM Việt Nam với các mốc thời gian
quan trọng sau:

Năm 1993, bình thường hóa các mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ thế
giới (IMF, WB). Năm 1997, Quốc hội khóa X thông qua luật Ngân hàng nhà nước
Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng thành lập ngân hàng phát triển nhà Đồng
bằng sông Cửu Long.

Năm 2001, cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTM cũng như ngân hàng
thương mại cổ phần. Mục đích chính của chương trình là cải cách là nâng cao năng
lực cạnh tranh cho từng ngân hàng trong nước và toàn hệ thống để chuẩn bị hội
nhập quốc tế. Điểm cốt lõi của nỗ lực cải cách đối với NHTM là tăng vốn cho các

9
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

ngân hàng này , bao gồm vốn điều lệ và tiến tới đạt hệ số an toàn vốn tối thiểu
(CAR) theo tiêu chuẩn quốc tế là 8%.

Năm 2006 - 2007 chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống NHTM Việt Nam
cả về số lượng và quy mô. Số lượng ngân hàng năm 2007 là 80 ngân hàng. Về quy
mô, đến năm 2007, tổng tài sản toàn hệ thống đã tăng lên hơn 1500 tỷ đồng, bằng
hơn 130% GDP 2007.

Năm 2008, thực hiện cam kết gia nhập WTO, NHNN Việt Nam chính thức cấp giấy
phép thành lập 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, bao gồm ngân hàng ANZ Việt
Nam, Ngân hàng Hong Leong Việt Nam, Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam,
Ngân hàng HSBC Việt Nam, Ngân hàng Shinhen Việt Nam.

Năm 2010, chính phủ đồng ý sửa đổi Luật Ngân hàng Nhà nước để phù hợp với tình
hình kinh tế thị trường.

Năm 2012, việc thiết lập lại ổn định vĩ mô và chủ trương hạ lãi suất về mức hợp lý
đã có những tác động tích cực đối với hoạt động đầu vào của hầu hết các NHTM.
Tuy nhiên, vấn đề tâm lý, nợ xấu và những khó khăn thanh khoản ở một số NHTM
đã cản trở quá trình giảm lãi suất huy động. Tính đến cuối tháng 6 năm 2012, huy
động tiền gửi KH của các TCTD đã tăng tới 6,5% so với cuối năm 2011, trong đó
một số có mức tăng huy động vốn rất cao như BIDV tăng 17%, NHXNK tăng 16%,
NH MB tăng 12%; một số tăng tương đối khiêm tốn, như VCB tăng 6%; ACB tăng
2%; Vietinbank giảm 1,8%...

Như vậy, quá trình cải cách và mở cửa của ngân hàng trong những năm qua đạt
được nhiều kết quả đáng khích lệ, hệ thống NHTM Việt Nam ngày càng phát triển
và năng lực cạnh tranh của các NHTM ngày một nâng cao.

Tuy nhiên, mặc dù quá trình cải cách đã thu được những thành quả nhất định,
nhưng hoạt động của hệ thống NHTM Việt nam vẫn còn những tồn tại và hạn chế,
ảnh hưởng không nhỏ đến độ an toàn và hiệu quả hoạt động cũng như năng lực cạnh
tranh của toàn hệ thống.

Tồn tại đầu tiên là sự chi phối quá lớn của NHNN. NHNN vẫn còn can thiệp sâu
vào hoạt động của hệ thống NHTM, dẫn đến hiện tượng thiếu tinh thần trách nhiệm

10
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

và tự chủ trong công tác quản lí hoạt động kinh doanh. Lộ trình cổ phần hóa các
ngân hàng thương mại nhà nước tỏ ra còn chậm và kém hiệu quả.

Điểm yếu thứ hai là quy mô nhỏ của khu vực ngân hàng thương mại cổ phần và quy
mô nhỏ của từng NHTM. Theo tổng hợp từ báo cáo thừng niên hàng năm, phần lớn
các ngân hàng trong nước chỉ có số vốn điều lệ vào cỡ 1000 đến 7000 tỷ đồng trừ
một số ngân hàng lớn như Agribank, Vietcombank. Tính đến đầu năm 2012, vẫn
còn tới hơn chục ngân hàng sẽ phải chạy đua về đích trong cuộc tăng vốn điều lệ lên
3000 tỷ đồng vào cuối năm. Để hấp dẫn nhà đầu tư khi tăng vốn, các ngân hàng
phải đảm bảo mức cổ tức cũng phải tăng tương ứng. Nghĩa là muốn tăng thêm 50%
vốn thì lợi nhuận cũng phải tăng thêm 50%. Thế nhưng điều này là không thể trong
bối cảnh NHNN siết chặt việc cho vay đối với lĩnh vực phi sản xuất và yêu cầu các
tổ chức tín dụng chỉ được xây dựng kế hoạch tăng trưởng tín dụng dưới 20%.

Thứ ba, hệ thống dịch vụ NHTM Việt Nam còn đơn điệu, chất lượng chưa cao,
chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng nề về dịch vụ ngân hàng truyền
thống. Các ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng
nguồn vốn huy động và cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, chiếm
trên 80% tổng thu nhập.

Như vậy, có thể nói nếu muốn tăng năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương
mại Việt Nam thì không còn có cách nào khác là phải tiếp tục cải cách hệ thống
ngân hàng Việt Nam ngày một hoàn thiện hơn.

2.1.2 Các rủi ro thường gặp phải

Do quy mô còn nhỏ cộng với hệ thống NHTM Việt Nam ra đời khá muộn, hoạt
động vẫn còn non kém so với khu vực và quốc tế, cho nên các NHTM Việt Nam
không thể tránh khỏi nhiều rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Có thể thấy một số
rủi ro thường gặp nhất của các NHTM Việt Nam như sau:

2.1.2.1 Rủi ro tín dụng

Theo NHNN, đến cuối tháng 9.2013, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống chiếm 4,62%
trên tổng dư nợ, giảm so với mức 8% của cuối năm 2012. Hiện tại, công ty Quản lý

11
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) đã tích cực mua nợ xấu, tính
đến ngày 20.11 VAMC đã mua 17.700 tỉ đồng nợ xấu của các ngân hàng.

Tính đến thời điểm hiện tại hầu hết các ngân hàng thương mại đã công bố báo cáo
tài chính 2013. Mặc dù theo báo cáo đa số các ngân hàng đều có lãi, tuy nhiên nợ
xấu ở nhiều ngân hàng cũng tăng đáng kể, chất lượng nợ xấu đi. Ngân hàng TMCP
Xăng Dầu (PG Bank) đang là ngân hàng dẫn đầu về tỷ lệ nợ xấu, tính đến hết tháng
9.2013, PGBank có 1.240 tỉ đồng nợ xấu chiếm 9,5% trên tổng dư nợ 13.057 tỉ
đồng...

Tuy nhiên, nếu nhìn vào hoạt động ngân hàng, sẽ thấy nợ xấu vẫn là vấn đề gai góc
khi tình trạng “doanh nghiệp không lừa đảo nhưng kinh tế khó khăn, không bán
được hàng nên không trả được nợ” đang xảy ra thường xuyên.

2.1.2.2 Rủi ro lãi suất

Khi huy động vốn của doanh nghiệp và dân cư, ngân hàng phải trả một khoản lãi,
khi tài trợ, ngân hàng thu lãi. Lãi suất của các khoản cho vay , tiền gửi và chứng
khoán thường biến động, có thể làm gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng và ngược lại
gây tổn thất cho ngân hàng. Tiền gửi vào ngân hàng vẫn là kênh đầu tư khá hấp dẫn
hiện nay và đặc biệt là hầu như không có rủi ro trong khi thị trường chứng khoán tụt
dốc, thị trường bất động sản trầm lắng và việc đầu tư vào tiền tệ có thể gặp rủi ro do
thị trường tự do bị kiểm soát gắt gao.

Lãi suất cơ bản được NHNN ban hành năm 2010 là 9% và đầu năm 2011vẫn duy trì
ở mức này. Còn trần lãi suất bị khống chế ở mức 14%/năm. Tuy nhiên, trần lãi suất
huy động đã bị khống chế ở mức 14%/năm cũng khiến các NHTM quy mô nhỏ gặp
bất lợi so với các ngân hàng lớn trong việc hút vốn vì các ngân hàng nhỏ đang phải
chịu áp lực về tăng trưởng. Điều này đã buộc các ngân hàng này thường xuyên phải
lách luật, châm ngòi cho các cuộc đua lãi suất. Nhiều ngân hàng vẫn áp dụng chiêu
khuyến mại, khách hàng vẫn có thể mặc cả lãi suất tới 16-17%/năm, thậm chí
18%/năm với các món tiền gửi vài tỉ đồng cho kì hạn 1 hoặc 2 tháng.

Lãi suất huy động bình quân của các ngân hàng thương mại cổ phần năm 2013
khoảng 7,5%, lãi suất cho vay trung và dài hạn bình quân khoảng 12,5%.

12
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

2.1.2.3 Rủi ro thanh khoản

Có thể nói, RRTK thực chất là hệ quả của các loại rủi ro nêu trên. Vì những biến
động bất lợi biến động về lãi suất, những thay đổi về tỉ giá, những sự yếu kém trong
thẩm định tín dụng, các NHTM Việt Nam hiện nay vẫn phải thường xuyên đối diện
với RRTK.

2.2 TÌNH HÌNH RỦI RO THANH KHOẢN CỦA CÁC NHTM VIỆT
NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

2.2.1 Thực trạng rủi ro thanh khoản

Giai đoạn 1998-2001, tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt thấp dưới 7%/năm.
Chính phủ đã thực hiện nhiều giải pháp kích cầu nhằm đưa nền kinh tế thoát khỏi
thời kì suy giảm. Không thể phủ nhận những thành công được mang lại từ chính
sách đó. Những nguyên nhân của mức tăng giá “chóng mặt” năm 2004 là do cầu
kéo, có thể được giải thích một phần từ thực thi chính sách được đề cập trên đây.

2.2.1.1 Giai đoạn 2007-2008

Tuy nhiên năm 2007 lại chứng kiến áp lực tăng giá tương tự năm 2004. Tình hình
có vẻ phức tạp hơn khi nền kinh tế Việt Nam đã thực sự bước vào sân chơi lớn
WTO. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2007 lên đến
20,3 tỷ USD tăng 69,3% so với năm 2006. Cùng với vốn đầu tư trực tiếp, đồng vốn
gián tiếp cũng đang đổ vào thị trường chúng khoán, thị trường bất động sản thông
qua các quỹ đầu tư nước ngoài.

Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ nền kinh tế Mỹ từ cuối năm 2007 và năm 2008 đã
khiến hàng tram tỷ USD đã tiêu tan và lây lan nayc vẫn chưa chấm dứt. Việt Nam
cũng chịu ảnh hưởng nhất định từ cuộc khủng này, khi nền kinh tế trong nước ngày
càng hội nhập đầy đủ và sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới.
Chính sách thắt chặt tiền tệ được thực thi khi lạm phát gia tăng cùng với tác động từ
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp nội địa trở nên hết sức khó khan, đặc biệt doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Nguy cơ hàng loạt doanh nghiệp bên vực phá sản dần hiện hữu.

13
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

Chính phủ đã nhân ra vấn đề cấp thiết đó, kịp thời ban hành Nghị quyết số
30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 về những giái pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy
giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đẩm an sinh xã hội. Triển khai Nghị
quyết nêu trên của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước có Chỉ thị số
06/2008/CTNHNN ngày 31/12/2008. Tinh thần chủ đạo của chỉ thị này là điều hàng
chính sách tiền tệ linh hoạt, hiệu quả, vừa ngăn chặn lạm phát trở lại vừa ngăn chặn
suy giảm kinh tế. Các giải pháp áp dụng trong tình huống này là điều chỉnh giảm lãi
suất cơ bản và tỷ lệ DTBB. Đến cuối năm 2008, lãi suất cơ bản bằng đồng Việt
Nam từ 14%/năm xuống còn 8,5%/năm: tỷ lệ DTBB giảm hơn một nửa từ mức
11%xuống còn 5%. Với sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, Ngân hàng Nhà
nước, lạm phát đã được kiểm chế, kinh tế vi mô cơ bản được giữu ổn định, an sinh
xã hội được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2008 đạt 6,23%tỷ lệ lạm phát ở
mức 19,89%.

Với chương trình cải cách được thiết lập toàn diện và những kết quả đạt được tưởng
chừng như hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam vững vàng trước mọi thử
thách. Tuy nhiên, những gì đã diễn ra cuối năm 2007 và những tháng đầu năm 2008
đã chứng tỏ điều ngược lịa. Trước các biện pháp mạnh của Ngân hàng Nhà nước
nhằm kiềm chế lạm phát, điểm yếu thanh khoản của các ngân hàng thương mại dần
lộ rõ. Để đảm bảo khả năng thanh khoản, các ngân hàng đã tăng lãi suất thu hút tiền
gửi của khách hàng. Điều này dẫn tới cuộc chạy đua lãi suất vào giữa tháng 2 năm
2008 và có lẽ không có điểm dừng nếu Ngân hàng Nhà nước không “tuýt còi” bằng
Công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 khống chế trần lãi suất huy động là
12%/năm. Lãi suất vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng có lúc vượt qua con
số 40%/năm, là mức tăng cao nhất chưa từng có trong lịch sử thị trường liên ngân
hàng Việt Nam. Mặc dù, các ngân hàng đều khẳng định khả năng thanh khoản của
ngân hàng mình vẫn đảm bảo. Nhưng cuộc chạy đua lĩa suất không có điểm dừng
không thể chỉ do chính sách thắt chặt tiền tệ mạnh từ Ngân hàng Nhà nước. Đó là
do vấn đề quản trị rủi ro kinh doanh nói chung, quản trị rủi ro thanh khoản nói riêng
chưa được coi trọng; các ngân hàng đã tăng trưởng tín dụng quá nhanh và đàu tư
vào các lĩnh vực có rủi ro cao như chứng khoán, bất động sản. Tỷ lệ tăng trưởng tín
dụng bình quân năm 2007 so với năm 2006 của 33 ngân hàng thương mại là 53,22%
đã minh chứng cho nhận định trên đây

14
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

Ví dụ minh họa

Trường hợp Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là một trong những ngân hàng thương
mại nhà nước. Đến cuối năm 2008, số vốn điều lệ của BIDV hơn 8 ngàn tỷ VND.
Với bề dày phát triển 52 năm, BIDV có mạng lưới rộng khắp cả nước, chỉ xếp sau
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về số điểm giao dịch. Trong năm
2007, 2008, không nằm ngoài xu hướng chung của hệ thống ngân hàng Việt Nam,
tính thanh khoản tại BIDV cũng .có những khó khan nhất định.

Những hạn chế về thanh khoản của BIDV có thể xuất phát từ các nguyên nhân chủ
quan:

- Mặc dù quy định về quản lí thanh khoản đã được ban hành nhưng việc triển
khai áp dụng nhất là tại các chi nhánh chưa được quan tâm đúng mức từ cấp
lãnh đạo đến nhân viên. Hội sở chính chưa có quy định cụ thể về các chỉ số
cho toàn hệ thống phải chăng chưa phù hợp, như tỷ lệ dự trữ tối thiểu chỉ là 8
%.
- Bộ phận hỗ trợ ALCO khi khai báo cung cầu thanh khoản, xây dựng các kịch
bản phải chăng đã kì vọng nhiều vào thị trường nên có những đánh giá khả
quan; từ đó đẩy mạnh cho vay, giảm dự trữ. Ngay cả khi vấn đề khó khan về
thanh khoản qua chưa lâu nhưng dư nợ của BIDV tăng mạnh vào cuối năm
2008.

2.2.1.2 Giai đoạn 2008-2009

Quý I/2008 khi lạm phát có dấu hiệu gia tăng, NHNH sử dụng chính sách tiền tệ thắ
chặt thông qua việc tăng lãi suất cơ bản, tăng dự trữ bắt buộc.

Tháng 3/2008 phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc, LSCB liên tục được điều chỉnh
tăng từ 8,25% lần lượt lên 8,75%, 10%,11%, 12% và tới mức 14% vào đầu tháng
6/2008, NHNN chỉ đạo các NHTM tuân thủ một cách nghiêm ngặt quy định không
được áp dụng lãi suất kinh doanh vượt quá 150% LSCB và không được thu phí đối
với hoạt động cho vay.

Thực tế cho thấy, tình trạng khan hiếm đồng tiền, lãi suất tiền gửi VND liên ngân
hàng tăng lên một cahcs chóng mặt đã đẩy các NHTM vào cuộc đua lãi suất làm

15
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

bằng lãi suất huy động tăng dần lên từ 12% lên tơi 18,6%/ năm 28. Mặc dù lãi suất
huy động tăng cao như vậy nhưng thực tế đồng Việt Nam thu hút về ngân hàng lại
không được như ý muốn của các nhà quản lý và tình trạng thanh khoản vẫn rất căng
thẳng.

Từ quý IV/2008 đến đầu năm 2009, mặc dù NHNN thực thi CSTT nới lỏng nhưng
trước tình trạng dư nợ tín dụng có dấu hiệu tăng mạnh hơn chỉ tiêu định hướng cho
cả năm 2009 là 30%, thì từ tháng 6/2009 đến đầu năm 2010, dù không tuyên bố là
đã chuyển sang CSTT thắt chặt, nhưng những động thái của NHNN rõ rang là có
những biểu hiện của việc thắt chặt tiền tệ dưới dạng định hướng là chủ động ngăn
ngừa lạm phát: Đó là việc chỉ đạo các NHTMNN không được tăng trưởng tín dụng
quá 25%, các NHTM phải kiểm soát tốc độ tăng trưởng. Đồng thời NHNN cũng
thông báo là sẽ kiểm soát chặt lượng cung tiền qua OMO, chỉ đạo không được dung
vốn cho vay đầu tư bất động sản và các hoạt động đầu tư tài chính cũng là một biện
pháp để kiềm chế mức tăng trưởng tín dụng.

Những biện pháp này của NHNN đã kiềm chế được mức tăng dư nợ ở mức 37,7%
(đã có dự báo là tăng trên 40%), đồng thời góp phần kiềm chế mức tăng CPI (cả
năm tăng 6,88%, nhưng tình hình lãi suất và cung ứng cho nền kinh tế lại đang có
vấn đề. Lãi suất huy động VND liên tục trong xu thế bung hết trần.

Từ 1.12.2009, LSCB đã lên 8% và trần lãi suất huy động là dưới 10,5%/năm thì lãi
suất huy động cao nhất đã lên tới 10,499%/năm, lãi suất các kỳ hạn ngắn, trung và
dài hạn đang xích lại gần nhau và hướng đến mức lãi suất trần tối đa được phép, lãi
suất liên ngân hàng lên 12%/năm. Đó là những con số công bố chính thức, còn
trong thực tế thì khoản tiền gửi lớn của tổ chức và dân cư, bằng cách này hay cách
khác, đang được nhiều NHTM lôi kéo, níu giữ bằng các hình thức thường đã khiến
cho lãi suất thực lớn hơn lãi suất danh nghĩa ghi trên biểu lãi suất mà các NHTM
niêm yết từ 1-2%/năm.

16
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

2.2.2 Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản đến kết quả hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam

2.2.2.1 Đối với ngân hàng thương mại

Thứ nhất, thanh khoản của một số NHTM nhỏ bị giảm sút nghiêm trọng. Cuộc chạy
đua lãi suất của các NHTM đã làm mặt bằng lãi suất huy động tăng dần lên từ 12%
lên tới 18,6%/năm. Dù lãi suất huy động tăng cao nhưng khả năng thu hút vốn của
các NHTM Việt Nam xem ra không khả thi.

Thứ hai, các NHTM Việt Nam đứng trước mối nguy về pháp luật. Khi mà NHNN
đã ra quyết định lãi suất huy động tiền gửi là không vượt quá 14%, các NHTM tiếp
tục huy động lãi suất chui bằng những chiêu khuyến mại dành cho khách hàng gửi
tiền trên 12 tháng và là khách hàng quen của NHTM. Một số chiêu lách luật được
các NHTM sử dụng như thông qua hình thức khuyến mại “cào là trúng”, đặc biệt là
sản phẩm huy động VND đảm bảo bằng USD. Ngoài việc tăng lãi suất tiết kiệm lên
kịch trần ở hầu hết các kì hạn như Ngân hàng cổ phần Kiên Long còn tặng thêm ba
lô du lịch, va li kéo, bộ chén, quạt hơi nước... cho khách hàng gửi tiền; ngân hàng
Đông Á cũng làm tương tự với quà khuyến mại là áo mưa, túi du lịch... Ngân hàng
này còn bổ sung thêm ưu đãi về mua ngoại tệ để đi nước ngoài với các khách hàng
gửi tiền có số dư ở mức nhất định. Điều này không chỉ khiến các ngân hàng vướng
phải các vấn đề liên quan đến pháp luật mà còn khiến các ngân hàng này gặp các rủi
ro với các sản phẩm huy động linh hoạt. Đó là các dạng sản phẩm: tiền gửi có kì
hạn “được rút gốc linh hoạt” và khi rút gốc trước hạn “được hưởng lãi suất theo thời
gian thực gửi”; tiết kiệm lãi suất thả nổi” với đặc tính “cho phép ngân hàng được rút
trước hạn mà vẫn được hưởng lãi suất thực nhận rất hấp dẫnvào nguy cơ rủi ro
thanh khoản.

Thứ ba, hoạt động kinh doanh của hầu hết các NHTM bị ảnh hưởng nghiêm trọng,
thậm chí một vài ngành hàng nhỏ bị tê liệt. Việc cho vay đối với khách hàng tại các
ngân hàng hầu như bị đình chỉ, hầu hết các ngân hàng chỉ ưu đãi cấp tín dụng thoe
hạn mức đối với những khách hàng truyền thống, trong khi đó lãi suất cho vay cũng
bị đẩy lên rất cao, ở mức 18%/năm, rồi 21%/năm. Kết quả kinh doanh của các ngân
hàng bị giảm sút một cách nghiêm trọng, nhiều ngân hàng bị lỗ hàng trăm tỉ và hầu

17
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

hết các ngân hàng đều phải điều chỉnh giảm kế hoạch lợi nhuận năm khoảng 30-
40%.

2.2.2.2 Đối với nền kinh tế - xã hội

Thứ nhất, rủi ro thanh khoản (RRTK) gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong
việc sản xuất và kinh doanh. Các giải pháp rút tiền từ lưu thông về tuy được coi là
cần thiết nhưng đối với liều lượng lớn và nhanh một cách gấp gáp đã khiến đãn đến
cuộc đua lãi suất giữa các NHTM bùng nổ, đẩy lãi suất huy động và cho vay liên
tiếp kịch trần, lãi suất liên ngân hàng liên tục gia tăng kỉ lục, buộc các NHTM phải
siết chặt các khoản cho vay ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh
của nền kinh tế. Chi phí vốn cao cản trở các DN tiếp cận nguồn vốn tín dụng. Thêm
vào đó, chi phí nguyên vật liệu đầu vào tăng mạnh khiến môt số DN sản xuất kinh
doanh thua lỗ, đình đốn, nợ xấu gia tăng.

Thứ hai, niềm tin của công chúng đối với độ an toàn của các NHTM đã giảm sút
nghiêm trọng. Hiện nay, tuy các NHTM đã thực hiện nhiều hình thức huy động vố
nhưng theo đánh giá của các chuyên gia, số vốn huy động được không mấy khả thi.
Trong bối cảnh nền kinh tế lạm phát cao như hiện nay, người dân vẫn có xu hướng
gửi tiền ngắn hạn để tìm kiếm những cơ hội đầu tư khác mang lại lợi nhuận cao
hơn.

Tình hình đó đã gây ảnh hưởng nặng nề tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp. Đánh giá ở góc độ vĩ mô của toàn bộ nền kinh tế thì những diễn biến
như trên đã gây ảnh hưởng tiêu cực lớn đến mục tiêu giảm lạm phát, tăng trưởng
kinh tế và ổn định đời sống xã hội.

2.2.3 Nguyên nhân gây RRTK của các NHTM Việt Nam trong mấy năm
gần đây

2.2.3.1 Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, cơ cấu khách hàng và chất lượng tín dụng kém: Về phía các NHTM, điều
kiện kinh doanh thuận lợi trong những năm gần đây đã làm nảy sinh tư tưởng chủ
quan, tăng trưởng tín dụng quá nóng trong khi lại buông lỏng chính sách quản trị rủi
ro làm mất cân đối tương quan cơ bản trong cơ cấu tài sản, không đảm bảo đúng các

18
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

tỷ lệ an toàn theo tiêu chuẩn của NHTM Việt Nam. Ngân hàng chủ yếu tập trung tín
dụng vào một số khách hàng lớn hoặc tỉ trọng tín dụng cho một ngành. Trong bối
cảnh đó, khi thị trường có biến động bất ngờ, khách hàng lũ lượt kéo đến rút tiền thì
ngân hàng khó có thể xoay chuyển kịp thời, dẫn đến bị mất thanh khoản do cơ cấu
đầu tư.

Thứ hai, không cân xứng về kì hạn của Tài sản có và Tài sản nợ. Trong điều kiện thị
trường biến động nhanh, người gửi tiền thường chọn kì ngắn hạn. Do vậy, tỉ trọng
huy động vốn kì ngắn hạn trong tổng số vốn huy động cao, trong khi nhu cầu vay
vốn thường dài hơn, nên nhiều NHTM đã dùng vốn huy động ngắn hạn để cho vay
trung, dài hạn vượt quá tỉ lệ quy định (Theo Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN
quy định về tỉ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của Tổ chức tín dụng (TCTD), tỉ
lệ vốn ngắn hạn tài trợ cho vay trung dài hạn là 40% đối với NHTM và 30% đối với
các TCTD khác ). Do vậy, mất cân đối cơ cấu kì hạn cũng tiềm ẩn RRTK. Thực tế,
tình hình huy động vốn trung và dài hạn của các TCTD còn gặp nhiều khó khăn,
dẫn đến các rủi ro tiềm ẩn do chênh lệch về kì hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn.
Vì thế, ngày 10/8/2009, NHNN đã ban hành Thông tư số 15/2009/TT-NHNN quy
định tỉ lệ đối với các TCTD hoạt động tại Việt Nam là 30%.

Thứ ba, quy mô vốn điều lệ của NHTM Việt Nam còn ít, tiềm lực tài chính còn
chưa đủ mạnh, điều này khiến cho hoạt động của các NHTM trở nên khó khăn, khả
năng đảm bảo tỉ lệ CAR cũng gặp nhiều trở ngại. Sau đây là bảng tổng hợp vốn điều
lệ của một số NHTM trong mấy năm gần đây.

Bảng 2.1: Vốn điều lệ của một số NHTM Việt Nam từ 2010 – 2011
(Đơn vị: Tỷ đồng)

Vốn tự có Vốn tự có
STT Ngân hàng STT Ngân hàng
2010 2011 2010 2011
1 Agribank 21.000 29.605 6 Sacombank 9.179 10.740
2 BIDV 14.903 23.012 7 SHB 3.680 8.866
3 Vietcombank 17.587 25.140 8 ACB 7.705 9.377
4 Vietinbank 16.858 26.217 9 Kienlongbank 2.000 3.000
5 Techcombank 6.932 8.848 10 NamAbank 2.000 3.000
Ngày 22/11/2006, Chính phủ ban hành nghị định số 141/2006/NĐ-CP quy định
mức vốn pháp định đối với NHTMNN đến năm 2008 là 3000 tỷ đồng, còn
NHTMCP đến năm 2008 là 1000 tỷ đồng, đến năm 2010 là 3000 tỷ đồng. TCTD

19
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

được cấp giấy phép thành lập và hoạt động phải có biện pháp đảm bảo có số vốn
điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu tương đương vốn pháp định.

Kết quả tổng hợp cho thấy, sau khi Nghị định số 141/2006/NĐ-CP được ban hành
thì các NHTM Việt Nam đang dần tăng vốn điều lệ lên theo từng năm. So sánh với
các ngân hàng các nước trong khu vực cho thấy mức vốn điều lệ của NHTM Việt
Nam còn khá nhỏ bé, phần lớn các ngân hàng trong nước chỉ có số vốn điều lệ vào
cỡ 1000 đến 7000 tỷ VND. Cá biệt một số ngân hàng có vốn điều lệ tương đối lớn
như: Agribank hơn 29 nghìn tỷ VND năm 2011, Vietinbank là 26 nghìn tỷ VND
tính đến cuối năm 2011, nhưng vẫn chưa bằng một ngân hàng hạng trung bình trong
khu vực là khoảng 1 tỷ USD tương đương hơn 20 nghìn tỷ VND (Tỷ giá theo
NHNN công bố ngày 3/4/2011).

Vốn điều lệ thấp, năng lực tài chính còn hạn chế, khiến các NHTM Việt Nam khó
khăn trong việc đáp ứng hệ số CAR như quy định. Điều này cũng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến RRTK của các NHTM Việt Nam trong mấy năm trở lại
đây.

2.2.3.2 Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, chính sách kinh tế vĩ mô. Để kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô,
NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt bằng công cụ lãi suất: Lãi suất huy
động vốn bằng đồng Việt Nam của các tổ chức (trừ tổ chức tín dụng) và cá nhân
gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức không vượt quá 14%/năm. Khi
lãi suất huy động được ấn định ở mức như vậy thì khả năng thu hút từ dân cư đối
với các NHTM đặc biệt là các NHTM quy mô nhỏ là vô cùng khó khăn. Chưa kể,
khả năng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với NHTM cũng là một trong những nhân tố gây
nên RRTK cho NHTM Việt Nam.

Thứ hai, việc huy động vốn gặp nhiều khó khăn, bởi lãi suất huy động thấp hơn tỷ
suất lợi nhuận của một số kênh đầu tư khác. Trong khi lãi suất tiết kiệm tiền đồng
trong năm 2009 chỉ khoảng 8%/năm, thì giá nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 10,2%,
giá vàng tăng 35,1%, VN-Index tăng 86,02%. Mặc dù mức lãi suất tiết kiệm như
trên không thấp, nhưng các ngân hàng vẫn khó thu hút lượng tiền tiết kiệm mới.

20
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

Trong khi đó, một phần tiền gửi tiết kiệm với lãi suất cao trong năm trước nay đáo
hạn đã không được gửi lại tiết kiệm, mặc dù các NHTM đã tăng lãi suất huy động.

2.3 VÀI VỤ VIỆC TIÊU BIỂU VỀ RỦI RO THANH KHOẢN CỦA


NHTM

2.3.1 Rủi ro thanh khoản của Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu
(ACB) năm 2003

Đầu năm 2003, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (ACB) vẫn đang kinh
doanh hiệu quả. Lợi nhuận 9 tháng đầu năm 2003 của ngân hàng này tăng 20% so
với cùng kì năm 2002 (đạt xấp xỉ 170 tỷ đồng). Chính vì vậy, khi có tin đồn “Tổng
giám đốc của ACB Phạm Văn Thiệt bỏ trốn” đã gây nên một cú sốc trong dư luận
người dân TP.HCM, đặc biệt là những người có tiền gửi ở ACB.

Sau đây là một số diễn biến chính của sự việc:

 Đầu tháng 10/2013, bắt đầu có những lời xì xào, bàn tán đầu tiên rằng tổng
giám đốc (TGĐ) ACB tham lam công quỹ, “thụt két” hết số tiền trong Ngân
hàng rồi bỏ trốn. Thậm chí một số khách hàng còn nhận được tin cho hay
ngân hàng đã “phá sản”.
 Khoảng một tuần sau, vào ngày chủ nhật (12/10) và thứ 2 (13/10), tin đồn lan
rộng trong dư luận TP.HCM.
 Ngày 14/10/2013, tình trạng căng thẳng lên đến đỉnh điểm khi hàng ngàn
người dân đổ xô đi rút tiền ở trụ sở chính của ACB trên đường Nguyễn Thị
Minh Khai và chi nhánh tại số 30 Mạc Đĩnh Chi ( Quận 1 – TP.HCM). Tại
hai địa điểm này dân chúng tập trung đông đến nỗi tràn xuống cả lòng đường
gây ùn tắc giao thông nhiều giờ. Chính điều này đã đẩy tâm lí người dân đến
chỗ hoang mang, lo sợ thực sự. Rất may, xuất hiện kịp thời trước đông đảo
người dân của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Lê Đức Thúy bên
cạnh ông TGĐ Phạm Văn thiệt cùng đại diện chính quyền Thành phố đã là
lời bác bỏ tin đồn hùng hồn nhất.
 Ngày hôm sau, 15/10, mặc dù người dân vẫn kéo đến rút tiền rất nhiều,
nhưng cùng với cá nhân và các cơ quan có trách nhiệm, các cơ quan báo chí
đồng loạt có những tin, bài quan trọng bác bỏ thông tin sai sự thật trên. Vì

21
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

thế, đến cuối ngày, tình hình đã dịu xuống. Khách hàng đã bắt đầu đem tiền
gửi trở lại ACB.
 Ngày 16/10, sự cố gần như đã được dẹp bỏ.
 Sau một tuần, mọi chuyện đã trở lại bình thường. ACB khôi phục lại mọi
hoạt động của mình. Thậm chí lúc này, lượng khách hàng đến gửi tiền còn
đông hơn trước lúc xảy ra sự cố.

Có thể thấy nguyên nhân đặt ACB trước rủi ro thanh khoản trong trường hợp này
xuất phát từ nguyên nhân bên ngoài là “ tin đồn thất thiệt” (TGĐ ACB bỏ trốn) dẫn
đến việc rút tiền hàng loạt. Đây là nguyên nhân được đánh giá khiến “các ngân hàng
khó có thể dùng công cụ thị trường để điều tiết và có hiệu quả thanh khoản của ngân
hàng”.

Sự cố này chỉ thực sự diễn ra trong một thời gian rất ngắn (khoảng 3 ngày) nhưng
có tính chất vô cùng nghiêm trọng. Cũng là lần đầu tiên ngành ngân hàng và nền
kinh tế Việt Nam phải đối phó với một tình huống đặ biệt như vậy. Nếu không nhờ
những biện pháp tích cực, đồng bộ và hợp lý thì nguy cơ xảy ra một hiệu ứng
domino trong toàn ngành ngân hàng ( người dân sẽ rút tiền ở tất cả các ngân hàng)
là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Lúc đó thì hậu quả thật khó mà tưởng tượng nổi.

Ngày 21/08/2012, thị trường tài chính Việt Nam nói chung và Ngân hàng ACB nói
riêng đã rúng động mạnh chưa từng có trước thông tin “Bầu” Kiên – Nguyễn Đức
Kiên, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng sáng lập ACB bị bắt giam để điều tra về các
sai phạm trong hoạt động kinh tế.

Mức độ ảnh hưởng nghiêm trọng của sự việc này, ngay lập tức đã được thể hiện.
Chỉ trong vòng 3 ngày sau đó, vốn hóa thị trường chứng khoán Việt Nam đã bốc
hơi 5,6 tỷ USD, chưa kể đến chuỗi phiên giảm điểm kéo dài sau đó. Hàng nghìn tỷ
đồng đã bị rút khỏi ACB chỉ trong vài ngày.

Sóng gió liên tiếp ập đến với ACB. Ba ngày sau khi Bầu Kiên bị bắt giam, như một
hệ quả, ông Lý Xuân Hải – nguyên TGĐ ACB cũng bị bắt giam. Mức độ nghiêm
trọng của sự việc chưa dừng lại ở đó khi hơn một tháng sau, ngày 27/09/2012,
nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị - Trần Xuân Giá và 3 nguyên Phó Chủ tịch Hội
đồng quản trị ACB lần lượt từ nhiệm và bị khởi tố.

22
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

Từ vụ việc này, Ngân hàng nhà nước kêu gọi người dân gửi tiền tại ACB hoàn toàn
yên tâm. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang theo dõi sát diễn biến thị trường tiền
tệ, trường hợp cần thiết, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản để ổn định và đảm bảo an toàn
hệ thống.

2.3.2 Rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam chi nhánh Hà Nội
(2005)

Trong suốt thời gian hoạt động của Ngân hàng Phương Nam tình trạng căng thẳng
thanh khoản không thường xuyên xảy ra. Tuy nhiên, có những sự cố làm xôn xao
dư luận, ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của Ngân hàng trong một vài thời
điểm nhất định do khách hàng đến rút tiền đông hơn bình thường.

Vào tháng 7/2005, tại Ngân hàng Phương Nam – Phòng giao dịch số 1 Hà Nội cho
vay tiêu dùng đối với cán bộ nhân viên tại một số đơn vị. Tuy nhiên, sau đó có đơn
kiện về việc 40 giáo viên trường tiểu học Xuân Giang huyện Sóc Sơn có tên đứng
vay tại Ngân hàng Phương Nam nhưng thực chất là họ không nhận được tiền. Sự
việc xảy ra vào ngày 22/07/2005 sau khi bản tin thời sự trên VTV3 vào tối hôm
trước đã phát tin về việc có dấu hiệu lừa đảo tại Ngân hàng Phương Nam. Người
dân Hà Nội đã hoang mang và đến chi nhánh Ngân hàng Phương Nam tại Hà Nội
rút tiền tiết kiệm trước hạn. Tuy nhiên vụ việc chỉ diễn ra trong vòng 1 ngày
(22/07/05) và nhanh chóng được Ban Giám đốc chi nhánh hà Nội, phối hợp với đại
diện Ngân hàng Nhà nước tại Hà Nội và bảo hiểm tiền gửi giải quyết. Người dân đa
số là đến tìm hiểu thông tin hơn là đến rút tiền. Bởi thực chất, khả năng thanh khoản
của Ngân hàng Phương Nam tại thời điểm đó rất an toàn (quỹ dự phòng xử lý ruit ro
tại thời điểm đó là 30 tỷ đồng). Đồng thời, sáng hôm xảy ra sự việc, chi nhánh Ngân
hàng Phương Nam tại Hà Nội đã rút 53 tỷ đồng từ tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước
để đề phòng trường hợp khách hàng đến rút tiền quá nhiều, trong khi tổng dư nợ
đến thời điểm đó của các khoản vay tiêu dùng tại trường tiểu học Xuân Giang chỉ
khoảng 500tr đồng.

Sự việc nhanh chóng ổn định nhưng cũng đã ảnh hưởng đến uy tín cũng như khả
năng thanh khoản của Ngân hàng phương Nam trong một thời gian nhất định.

23
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

2.4 ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG RỦI RO THANH KHOẢN


TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM HIỆN NAY

2.4.1 Kết quả đạt được

Thành quả lớn nhất của các NHTM Việt Nam trong việc rủi ro thanh khoản mấy
năm qua là đã có sự phối hợp kịp thời giữa Ngân hàng Nhà Nước và Ngân hàng
Thương mại khi có rủi ro thanh khoản phát sinh. Nếu rủi ro thanh khoản xảy ra tại
một ngân hàng đơn lẻ thì Ngân hàng Nhà nước sẽ ngay lập tức can thiệp và hỗ trợ
thanh khoản để giảm thiểu rủi ro cho Ngân hàng và tránh được hiệu ứng lây lan cho
toàn hệ thống.

Thứ hai, các NHTM Việt Nam trong thời gian qua đã chú trọng hơn trong công tác
an toàn thanh khoản, thể hiện ở chỗ hệ số CAR của các NHTM đã dần được nâng
lên nhằm đạt đúng quy định tối thiểu của NHNN là 9%. Đồng thời, tỷ lệ dự trữ tiền
mặt, chỉ số chứng khoán thanh khoản và lượng dự trữ thanh khoản cũng được tăng
lên từ năm 2008 đến 2010 cho thấy các NHTM đã chủ động hơn trong công tác
quản trị rủi ro thanh khoản.

Thứ ba, các NHTM Việt Nam đã có nhận thức về tầm quan trọng của công tác quản
trị rủi ro thanh khoản thể hiện ở chỗ, mỗi NHTM đã thành lập hội đồng ALCO.
Việc ra đời của ALCO là một trong những yếu tố quan trọng nhằm tăng cường công
tác quản trị rủi ro cũng như đặt ra những yêu cầu mới cho công tác quản trị rủi ro
theo thông lệ quốc tế.

Thứ tư, ngoài các biện pháp đo lường, phân tích và kiểm soát rủi ro thanh khoản,
các NHTM Việt Nam đã chủ động có các biện pháp tải trợ cho rủi ro thanh khoản
để đề phòng trong trường hợp thanh khoản xấu nhất xảy ra thì nó cũng không ảnh
hưởng quá nặng nề đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thông qua việc
NHTM trích lập quỹ dự trữ thanh khoản, ký kết với quỹ Bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam các điều khoản đặc biệt. Bên cạnh đó, bằng việc quản lí vốn tập trung tại Hội
sở chings đã góp phần giúp NHTM giảm thiểu rủi ro thanh khoản cho các chi
nhánh.

24
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

2.4.2 Những điểm tồn tại

Bên cạnh những thành quả đạt được, các NHTM Việt Nam vẫn còn tồn tại rất nhiều
điểm bất cập trong công tác quản trị rủi ro thanh khoản.

Thứ nhất, phương pháp quản trị rủi ro còn lạc hậu và thiếu tính thống nhất.

Thứ hai, một số NHTM Việt Nam chưa áp dụng đúng nội dung của quản trị rủi ro
thanh khoản. Hầu hết các NHTM Việt Nam vẫn còn nhiều thiếu sót trong quản trị
rủi ro. Nếu các ngân hàng có thể đo lường bằng các chỉ số thanh khoản thì khả năng
nhận diện lại còn yếu kém, và ngược lại, một khi nhận diện được rồi nhưng vì
những lí do lợi nhuận, các NHTM vẫn chưa chủ động phòng ngừa cho rủi ro đó.

Thứ ba, hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam còn bị động và chịu nhiều
tác động của chu kỳ kinh doanh cũng như chính sách quản lý vĩ mô của nền kinh tế.
Thời điểm đầu năm 2011, khi NHNN chủ trương chính sách tiền tệ thắt chặt bằng
việc quy định trần lãi suất huy động là 14%, các NHTM đã có những biện pháp chui
lãi suất nhằm tăng nguồn vốn huy động cho bản thân ngân hàng. Đây là một trong
những dấu hiệu cho thấy các NHTM Việt Nam đang đối diện với rủi ro thanh khoản
và là bằng chứng chứng tỏ các NHTM Việt Nam chua chủ động trong công tác quản
trị rủi ro thanh khoản.

2.4.3 Nguyên nhân của những tồn tại

1) Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, nhận thức về quản trị rủi ro thanh khoản của một số NHTM Việt Nam
còn hạn chế: một sự chủ quan, một kế hoạch tăng trưởng tín dụng, mở rộng mạng
lưới quá nhanh so với nội tại của Ngân hàng, khả năng quản lý chưa theo kịp với
biến động nhanh chóng của thị trường là nguyên nhân dẫn đến căng thẳng thanh
khoản trong một số NHTM thời gian qua. Các NHTM chưa có sự phối hợp chặt chẽ
giữa ALCO và bộ phận huy động vốn – giữ vai trò báo cáo chi tiết các nguồn vốn
lớn của tổ chức và cá nhân, với bộ phận giao dịch, thông tin tuyên truyền, quan hệ
quốc tế, tiếp thị và tín dụng. Bản thân công tác quản trị rủi ro thanh khoản còn khá
mới mẻ và chưa nhận được sự lưu tâm của các nhà quản trị ngân hàng. Do sức ép
tăng trưởng và lợi nhuận, các nhà quản trị vẫn thường nhấn mạnh vào rủi ro lãi suất,

25
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

rủi ro rín dụng…mà quên mất rủi ro thanh khoản – rủi ro quan trọng và nguy hiểm
nhất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Thứ hai, trình độ của cán bộ quản trị rủi ro còn yếu kém: Chất lượng nguồn nhân
lực là nguyên nhân sâu xa nhất của những rủi ro mang tính chủ quan trong hoạt
động ngân hàng. Nếu cán bộ quản trị rủi ro thanh khoản còn non kinh nghiệm và
yếu kém về kiến thức thì việc nhận diện, phân tích nguyên nhân, lượng hóa rủi ro
thanh khoản sẽ bị sai lệch, ảnh hưởng đến toàn hệ thống.

Thứ ba, mức độ hợp tác giữa các NHTM vẫn còn hạn chế, thiếu hợp tác trong chia
sẻ kinh nghiệm và chính sách quản trị rủi ro thanh khoản.

2) Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, chính sách tiền tệ còn thiếu nhất quán và còn quá nhiều mục tiêu đã làm
cho NHNN trong một vài trường hợp trở nên khó khăn hơn trong việc lựa chọn
công cụ tác động, nhất là trong điều kiện kinh tế Việt Nam, các công cụ điều tiết vĩ
mô còn chưa hoàn thiện và chưa nhiều.

Thứ hai, đặc trưng của nền kinh tế chuyển đổi: những điểm yếu trong khả năng
thanh khoản nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung của nhóm ngân hàng
được thể hiện ở đặc trưng của nền kinh tế chuyển đổi: Năng lực quản lí và mức độ
tác động của các chính sách tiền tệ của NHNN còn yếu và chưa đồng bộ, quy mô
NHTM Việt Nam còn nhỏ, kỹ năng quản trị thấp, nền tảng công nghệ chưa hiện
đại…là những đặc trưng dễ thấy.

Thứ ba, sự thiếu minh bạch, công khai hóa thông tin: Các thông tin chính xác về
tình hình hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa minh bạch. Ở Việt
Nam hiện nay, ngoài trung tâm thông tin tín dụng của NHNN CIC cũng chưa có
một công ty định mức tín dụng chuyên nghiệp nào cung cấp dịch vụ điều tra, phân
tích luồng thông tin tài chính, định mức tín nhiệm và xếp hạng tín dụng doanh
nghiệp theo các tiêu chuẩn quốc tế nhằm hỗ trợ NHTM trong công tác thẩm định
khách hàng để cho vay. Chính việc thiếu hụt những thông tin đa dạng, chuẩn xác đó
đã khiến cho chất lượng tín dụng của các NHTM không cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro,
gây khó khăn trong việc thu hồi khoản tín dụng, do đó cũng dễ dàng đẩy NHTM
vào trạng thái rủi ro thanh khoản.

26
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

27
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ


QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TRONG HỆ THỐNG
CÁC NHTM VIỆT NAM

Rủi ro thanh khoản không chỉ là nỗi lo của các NHTM Việt Nam mà còn là một mối
quan tâm hàng đầu của các cấp quản lý vĩ mô về tài chính tiền tệ. Trong quy định
của Thống đốc NHNN về xếp loại NHTMCP, khả năng thanh khoản được đưa vào
một trong 5 tiêu chí đánh giá xếp loại NHTM. Như vậy, có thể thấy quản trị rủi ro
trong thanh khoản đóng vai trò vô cùng quan trọng đối vói hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng. Một số giải pháp được đưa ra với Ngân hàng thương mại như sau:

3.1 VỀ PHÍA CHÍNH PHỦ

3.1.1 Một ngân hàng trung ương độc lập và đủ mạnh

Trong đề án phát triển ngân hàng nhà nước, Chính Phủ chưa nêu rõ mô hình Ngân
hàng Nhà nước sẽ theo mô hình nào: trực thuộc Chính phủ hay độc lập với Chính
Phủ. Tuy nhiên, cho dù áp dụng mô hình nào đi nữa, thì ngân hàng cần quan tâm
đến việc nâng cao vị thế và tính độc lập của Ngân hàng nhà nước với Chính Phủ.
Như vậy ngân hàng nhà nước mới có thể đưa ra các quyết định điều hành chính
sách tiền tệ mộtt cách nhanh chóng, nhằm tác động đến nền kinh tế một cách kịp
thời và mang lại hiệu quả.

3.1.2 Hoàn thiện hệ thống luật pháp đáp ứng yêu cầu hội nhập

Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Vì
thế việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống hành lang pháp lý nói chung và hệ thống hành
lang pháp lý về hoạt động ngân hàng nói riêng là cần thiết và cấp bách. Trong thời
gian tới cần tập trung triển khai xây dựng Luật ngân hàng nhà nước, luật các tổ chức
tín dụng, Luật giám sát hoạt động ngân hàng và luật bảo hiểm tiền gửi, rà soát sửa
đổi hệ thống văn bán pháp lý quy định trong lĩnh vực ngân hàng đảm bảo phù hợp
với cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO.

28
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm xây dựng hệ thống ngân hàng thương mại
lành mạnh, minh bạch, vận hành theo cơ chế thị trường có sự kiểm soát hợp lý của
Chính phủ. Cần quy định chức năng, nhiệm vụ của từng loại hình ngân hàng:
thương mại, đầu tư, chính sách phát triển để tránh những đặc điểm riêng có của loại
hình ngân hàng này trở thành lợi thế cạnh tranh không công bằng với loại hình ngân
hàng khác. Trong dự thảo luật bảo hiểm tiền gửi, cần nâng mức tiền gửi được bảo
hiểm làm cho người gửi tiền yên tâm hơn, tránh tình trạng rút tiền hàng loạt. Điều
này sẽ giúp ngân hàng thương mại ổn định được nguồn tiền gửi, nhất là khi xảy ra
tình trạng căng thẳng thanh khoản.

3.1.3 Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước

Tiến hành cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước để tăng năng lực cạnh
tranh và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng. Cùng với tiến trình hội nhập và các
cam kết quốc tế có thể giảm dần tỉ lệ nắm vốn cổ phần của nhà nước trong các
ngân hàng này sau khi cổ phần hóa

3.2 VỀ PHÍA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

3.2.1 Đảm bảo vốn tự có ở mức cần thiết

Ngân hàng thương mại nên duy trì một mức vốn tự có hợp lí, cân đối so với quy mô
và phạm vi hoạt động của ngân hàng. Các ngân hàng thương mại cần xây dựng
phương án tăng vốn để đạt mức vốn cần thiết quy định . Thực hiện việc phát hành
giấy tờ có giá, điều chỉnh cơ cấu cho vay vào các lĩnh vực nhạy cảm và rủi ro như
chứng khoán, bất động sản và tiêu dùng. Các ngân hàng đều phải duy trì một tỷ lệ
dự trữ (bao gồm tiền mặt trong ngân hàng, tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương và
các tài sản có tính lỏng cao khác). Làm như vậy để đảm bảo duy trì dự trữ bắt buộc
của Ngân hàng Trung ương và để đối phó với các dòng tiền đi ra. Việc kết hợp giữa
dự trữ sơ cấp và dự trữ thứ cấp sẽ giúp ngân hàng chủ động vừa đối phó với rủi ro
thanh khoản vừa có thu nhập hợp lý.

29
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

3.2.2 Đảm bảo tỷ lệ cân đối giữa tài sản có và tài sản nợ

Thực hiện việc cơ cấu lại tài sản nợ và tài sản có cho phù hợp. Đây là công việc hết
sức quan trọng để quản lý rủi ro thanh khoản của các NHTM. Các ngân hàng cần
xem lại cơ cấu danh mục tài sản nợ, tài sản có cho phù hợp, nhằm hạn chế thấp nhất
rủi ro có thể xảy ra, đó là cơ cấu lại nguồn vốn huy động và cho vay trên thị trường;
cơ cấu lại dư nợ cho vay ngắn hạn với cho vay trung hạn, giữa nguồn huy động
ngắn hạn dùng để cho vay trung, dài hạn. Gắn rủi ro thanh khoản với rủi ro thị
trường trong quản trị

3.2.3 Tăng cường công tác dự báo các điều kiện kinh tế vĩ mô

Điều kiện kinh tế vĩ mô thay đổi có thể ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng thương mại. Khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ
thắt chặt bằng cách ban hành liên tiếp hàng loạt các giải pháp mạnh như tăng tỷ lệ
dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất cơ bản, áp trần lãi suất huy động ... thì khả năng thanh
khoản của các Ngân hàng thương mại Việt Nam gặp khó khăn. Bởi vì trước đó, có
tình trạng dư thừa vốn khả dụng đã xảy ra ở một số Ngân hàng. Các Ngân hàng này
đã giảm lãi suất huy động tiền gửi. Nhưng khi điều kiện kinh tế vĩ mô thay đổi, các
Ngân hàng này trở nên lúng túng. Điều này chứng tỏ việc tăng cường và nâng cao
hiệu quả của công tác dự báo kinh tế ở các Ngân hàng là cần thiết.

3.2.4 Xây dựng và hoàn thiện hệ thống đánh giá nội bộ

Nâng cao chất lượng công tác kiểm soát nội bộ, để phát hiện những tiềm ẩn rủi ro,
có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Nhưng cũng không nên quá nhấn mạnh đến kiểm
tra, kiểm soát nội bộ dễ làm mất tính sáng tạo trong công việc. Xây dựng hệ thống
khuyến khích hữu hiệu, bằng việc xây dựng mối quan hệ giữa người lao động với
người sử dụng lao động, trên cơ sở cơ chế thu nhập khen thưởng và xử phạt nội bộ
để khuyến khích người lao động năng động, sáng tạo, làm việc với năng suất và
chất lượng cao.

Ngoài ra các NHTM cần nâng cao hiệu quả hệ thống kiểm toán nội bộ. Định kỳ,
kiểm toán nội bộ đánh giá hoạt động kinh doanh, tập trung vào các rủi ro chiến lược
và rủi ro hoạt động, từ đó đưa ra các khuyến nghị để cấp quản lý rà soát, xác định và

30
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

giải quyết. Yêu cầu bộ phận kiểm toán nội bộ phải có hiểu biết toàn diện về toàn bộ
hoạt động ngân hàng, các vấn đề pháp lý và quy định.

3.2.5 Hoàn thiện và đổi mới công tác quản trị rủi ro thanh khoản

Cải thiện hệ thống báo cáo để Ban lãnh đạo cập nhật một cách chi tiết thông tin về
tình trạng vốn tại ngân hàng, đặc biệt về mặt thời gian của các nguồn cung cầu
thanh khoản thông qua việc sử dụng mô hình quản lý theo kỳ hạn của các dòng tiền
vào, dòng tiền ra.

Hoàn thiện mô hình quản trị rủi ro thanh khoản, đảm bảo bộ phận quản trị rủi ro
thanh khoản luôn được cung cấp thông tin kịp thời, chính xác. Đồng thời, tổ chức
bộ máy giám sát, đảm bảo bộ phận quản trị thanh khoản thực hiện có hiệu quả.

Thực hiện tốt quản lý rủi ro lãi suất khe hở lãi suất: Cần hoàn thiện các quy định
liên quan đến huy động và cho vay (nhất là huy động, cho vay trung, dài hạn) theo
lãi suất thị trường; cần có cách giải quyết khoa học để không xảy ra tình trạng các
khách hàng gửi tiền rút tiền trước hạn khi lãi suất thị trường tăng cao hoặc khi có
các đối thủ khác đưa ra lãi suất cao, hấp dẫn khách hàng hơn. Hiện nay, xuất hiện
một thực tế là các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng đến hạn không chịu trả nợ vay
vì họ e ngại sau khi trả sẽ rất khó vay lại được tiền từ ngân hàng. Vì thế, họ sẵn sàng
chịu phạt lãi suất quá hạn ghi trong hợp đồng vì như vậy, so ra vẫn còn thấp hơn lãi
suất cho vay mới. Chính điều này đã gây ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh khoản
của ngân hàng.

- Thực hiện tốt quản lý rủi ro kỳ hạn: Sự không cân đối về kỳ hạn giữa tài sản
nợ và tài sản có của ngân hàng là lý do quan trọng làm cho các ngân hàng
gặp khó khăn thanh khoản trong thời gian qua. Vấn đề sử dụng vốn ngắn hạn
để cho vay trung, dài hạn với tỷ trọng lớn hoặc cùng là ngắn hạn và trung,
dài hạn nhưng thời hạn cụ thể khác nhau (ví dụ như huy động trung, dài hạn
hai năm nhưng cho vay trung hạn ba năm) cũng làm cho ngân hàng khó khăn
trong việc kiểm soát dòng tiền ra và dòng tiền vào của mình.

- Sử dụng các mô hình hạn chế rủi ro: Thị trường tiền tệ phái sinh ở Việt Nam
còn rất hạn chế, tuy nhiên, sau đợt biến động của thị trường tiền tệ trong thời
gian qua, chắc chắn các ngân hàng sẽ quan tâm nhiều hơn và nó sẽ giúp cho

31
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

ngân hàng quản lý tốt hơn tài sản nợ, tài sản có của mình. Thị trường REPO
là công cụ khá hiệu quả trong việc tạo ra tính lỏng cao cho các chứng khoán
nợ và cơ cấu tài sản có nhằm hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng một cách
nhanh chóng. Forward và Future cũng là những công cụ để cầm giữ lãi suất
giao dịch nhằm hạn chế rủi ro khi lãi suất thị trường biến động. Đặc biệt
SWAP là công cụ quan trọng để các ngân hàng có thể cơ cấu lại tài sản nợ,
tài sản có trên bảng cân đối tài sản của mình, nhằm hạn chế các tác động của
rủi ro lãi suất. rủi ro kỳ hạn.

Ngoài ra, có thể áp dụng phương pháp rủi ro thanh khoản của SMBC là “Công khai
thông tin nhằm tăng khả năng thanh khoản”.

Các ngân hàng cần đảm bảo cung cấp thông tin một cách liên tục cho công chúng,
các chủ nợ và đối tác lớn. Công khai thông tin là một phần quan trọng trong việc
quản lý khả năng thanh khoản. Kinh nghiệm cho thấy khi có những dòng thông tin
liên tục về ngân hàng thì việc quản lý uy tín của ngân hàng trên thị trường trong
những giai đoạn khó khăn sẽ dễ dàng hơn.

Ngân hàng phải quyết định cách thức làm việc với báo chí và truyền thông khi có
các thông tin tiêu cực về ngân hàng. Nếu thông tin bất lợi về ngân hàng được công
bố thì ngân hàng cần chuẩn bị sẵn sàng thông báo ngay lập tức về những hành động
chấn chỉnh của mình đang được thực hiện. Điều này sẽ làm giảm bớt sự lo ngại của
các đối tượng tham gia thị trường và chứng minh là các cấp quản lý cao nhất của
ngân hàng đang chú ý giải quyết những vấn đề còn tồn tại.

3.2.6 Đẩy mạnh công tác huy động vốn và đa dạng hóa nguồn vốn huy
động

NHTM nên tăng tỷ trọng tiền gửi dân cư bằng các biện pháp khuyến mãi cho khách
hàng, miễn sao cho đúng qui định về lãi xuất trần huy động mà NHNN quy định
vừa có thể đảm bảo cho ngân hàng không rơi vào tình trạng rủi ro thanh khoản.
Ngân hàng cần tính toán hợp lý giữa mức lãi suất và kỳ hạn đồng thời duy trì mức
dự trữ thanh khoản hợp lý đẻ đảm bảo tôt khả năng thanh khoản khi có nhu cầu.
Ngoài ra, để tăng cường công tác huy động vốn, quản lý tài sản nợ, NHTM nên tập
trung vào thị trường bán lẻ Ngân hàng. Đây là một kênh huy động vốn rất có tiềm

32
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

năng và có thể mạng lại nhiều tiện ích cho Ngân hàng cũng như khách hàng. Ngoài
ra, NHTM có thể đa dạng hóa hình thức huy động vốn như: phát hành trái phiếu, cổ
phiếu, sử dụng các biện pháp khuyến khích thu hút khách hàng, vận dụng linh hoạt
các lãi suất nhằm tăng nguồn vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư đẻ góp phần tăng
trưởng nguồn huy động vốn.

3.2.7 Xây dựng đội ngũ nhân viên có trình độ, năng lực và đạo đức nghề
nghiệp

Đây là yếu tố then chốt để nâng cao khả năng cạnh tranh cho ngành NH. Thực tế ở
VN hiện nay, sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao để quản lý và sử dụng
công nghệ NH đang diễn ra ở hầu hết các NH. Do đó đi đôi với đầu tư công nghệ
phải bằng mọi biện pháp (tạo môi trường cho nguời lao động tự học tập, tổ chức đào
tạo chuyên sâu và nâng cao, có cơ chế thưởng, phạt thỏa đáng trong công việc…) để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giáo dục đạo đức nghề nghiệp. Đây là việc
làm cấp thiết, nếu NH muốn hướng đến việc phát triển ổn định và bền vững.

3.2.8 Các giải pháp về công nghệ

Xây dựng một chiến lược công nghệ dài hạn trên cơ sở chiến lược kinh doanh và
khả năng đầu tư phát triển công nghệ của mình. Chiến lược phát triển hệ thống công
nghệ thông tin cần phải hướng tới 03 mục tiêu:

- Tăng năng lực cung ứng sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao.
- Hỗ trợ thông tin quản lý liên tục, kịp thời cho các cấp.
- Đảm bảo an toàn cho hệ thống khi vận hành.

3.2.9 Nâng cao công tác quảng cáo hình ảnh, thương hiệu Ngân hàng

Ở Việt Nam, có không ít doanh nghiệp có nội lực rất tốt, song cách thể hiện ra bên
ngoài lại không được chuyên nghiệp. Có những sản phẩm - dịch vụ rất tốt, nhưng
lại không được người tiêu dùng đánh giá đúng mức. Chính vì thế, các NHTM nên
chú trọng công tác đổi mới hình ảnh thương hiệu tạo dấu ấn và lòng tin đối với
khách hàng. Đồng thời Ngân hàng nên tham gia các cuộc thi về thương hiệu doanh
nghiệp nhằm mang đến cho khách hàng các thông tin hữu ích về dịch vụ của Ngân
hàng. Ngoài việc xây dựng được hình ảnh thương hiệu tới từng khách hàng cá nhân,

33
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

việc triển khai sản phẩm dịch vụ thẻ thành công cũng khẳng định sự tiên tiến về
công nghệ của một Ngân hàng và định vị được thương hiệu của Ngân hàng đó.
Chính vì vậy, mà sản phẩm dịc vụ thẻ được các Ngân hàng đành giá rất quan trọng
trong cuộc đua nhắm tới thị trường bán lẻ.

Cùng với việc phát triển thương hiệu, việc mở rộng mạng lưới cũng là hoạt động
tích cực hỗ trợ mục đích này.

Thực hiện liên kết hệ thống: Trong hệ thống ngân hàng, nếu một hay hai ngân hàng
rủi ro có thể lây sang ngay các ngân hàng khác. Bản thân một ngân thương mại
không chống đỡ được rủi ro hệ thống, do đó cần tính đến tính đồng đều trong quản
trị thanh khoản. Do vậy, hệ thống ngân hàng thương mại thời gian này cần tập trung
vào xây dựng chiến lược quản trị thanh khoản trong NHTM; tập trung nâng cao chất
lượng hoạt động kinh doanh; liên kết thống nhất giữa các NHTM để đảm bảo an
toàn thanh toán, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh…

KẾT LUẬN

Thanh khoản là yếu tố sống còn của một ngân hàng. Hoạt động quản trị rủi ro thanh
khoản vì thế phải được đầu tư và coi trọng trong hệ thống các nghiệp vụ của
NHTM. Ở Việt Nam, kể từ sau cuộc khủng hoảng thanh khoản 2007-2008 và khủng
hoảng kinh tế thế giới 2008-2009, hoạt động quản lý thanh khoản trở nên nhạy cảm
và có nhiều bước cải tiến, phát triển. Các hệ thống quản lý của nhà nước đã được
xây dựng trên cơ sở các quy chuẩn quốc tế nhằm nâng cao chất lượng quản trị thanh
khoản. Các ngân hàng thương mại cũng từng bước xây dựng hệ thống quản lý riêng
và có những cải thiện đáng kể thể hiện qua các chỉ số thanh khoản. Tuy nhiên, quản
trị rủi ro thanh khoản là một quá trình lâu dài đòi hỏi nhiều đầu tư và kinh nghiệm.
Chính vì thế, trong sự phát triển non trẻ của mình, hệ thống ngân hàng Việt Nam
không thể tránh khỏi một vài hạn chế trong quản lý thanh khoản. Trước những biến
động trên thị trường ngân hàng về nhu cầu thanh khoản thời gian gần đây, một lần
nữa tầm quan trọng của công tác quản lý thanh khoản và tăng cường công tác lại
được nhắc đến như một bài toán hóc búa và quan trọng. Qua bài nghiên cứu này,
chúng tôi đã có cơ hội tìm hiểu các lý thuyết cũng như thực trạng quản lý thanh
khoản tại các NHTM Việt Nam hiện nay đồng thời đưa ra một vài giải pháp tham
khảo. Hy vọng với những kết quả tìm được này, nhóm nghiên cứu có thể góp một

34
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

phần nhỏ bé trong việc nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của quản lý thanh
khoản và việc phát triển những công cụ nhằm dự báo cũng như điều hành quản trị
rủi ro thanh khoản tại các NHTM.

35
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam và những vấn đề đặt ra,
http://www.vietinbank.vn/web/home/vn/research/10/100824.html
2. Hệ thống ngân hàng Việt Nam sau 6 năm hội nhập, PGS.TS Nguyễn Thị Mùi
(2014), https://www.vietinbank.vn/web/home/vn/research/13/he-thong-ngan-
hang-viet-nam-sau-6-nam-hoi-nhap.html
3. Hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản tại các ngân hàng thương mại Việt
Nam - Thực trạng và giải pháp, http://luanvan.net.vn/luan-van/de-tai-hoat-
dong-quan-tri-rui-ro-thanh-khoan-tai-cac-ngan-hang-thuong-mai-viet-nam-
thuc-trang-va-giai-phap-43064/
4. Hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản tại các ngân hàng thương mại Việt
Nam – Thực trạng và giải pháp, maiphuongdc,
http://doc.edu.vn/tai-lieu/khoa-luan-hoat-dong-quan-tri-rui-ro-thanh-khoan-
tai-cac-ngan-hang-thuong-mai-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap-45334/
5. Nguyễn Quang Thu, Quản trị rủi ro, NXB Giáo dục, 1998.
6. PGS. TS Đoàn Thị Hồng Vân, Quản trị rủi ro và khủng hoảng,NXB Lao
động – Xã hội, 2007.
7. Quản lý rủi ro lãi suất ở ngân hàng thương mại, ThS. Nguyễn Tiến,
https://www.vietinbank.vn/web/home/vn/research/13/quan-ly-rui-ro-lai-suat-
o-ngan-hang-thuong-mai.html.
8. Quản trị rủi ro thanh khoản cho ngân hàng ACB trước tin đồn thất thiệt,
http://luanvan.co/luan-van/de-tai-quan-tri-rui-ro-thanh-khoan-cho-ngan-
hang-acb-truoc-tin-don-that-thiet-25068/..
9. Quản trị rủi ro thanh khoản cho ngân hàng ACB,
http://www.slideshare.net/ngocmylk/qun-tr-ri-ro-thanh-khon-ngn-hng-acb
10. Rủi ro thanh khoản và bài học Việt Nam, Diemanh Diemanh,
http://tailieu.vn/doc/rui-ro-thanh-khoan-va-bai-hoc-viet-nam-4606.html
11. Tái cơ cấu ngân hàng thương mại, www.uef.edu.vn/.../So-thang-52013_Tai-
co-cau-ngan-hang-thuong-mai
12. Thực trạng quản lý rủi ro thanh khoản ở các ngân hàng thương mại Việt
Nam, http://123doc.vn/document/177312-thuc-trang-quan-ly-rui-ro-thanh-
khoan-o-cac-ngan-hang-thuong-mai-viet-namx.htm
13. Thực trạng quản lý rủi ro thanh khoản ở các ngân hàng thương mại Việt
Nam, http://123doc.vn/document/177312-thuc-trang-quan-ly-rui-ro-thanh-
khoan-o-cac-ngan-hang-thuong-mai-viet-namx.htm
14. TS. Nguyễn Anh Tuấn, Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại thương, NXB
Lao Động – xã hội, 2006.
15. Vấn đề thanh khoản và rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại
hoạt động ở Việt Nam, baotram, 2013, http://thuvien24.com/van-de-thanh-
khoan-va-rui-ro-thanh-khoan-cua-cac-ngan-hang-thuong-mai-hoat-dong-o-
viet-nam-100031.html

You might also like