Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 19

BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 6 LỚP 66KT4

MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI


CHUNG VÀ CÁI RIÊNG

Thành viên nhóm:


 Nguyễn Phương Trang (Trưởng nhóm)
 Đào Thùy Trang
 Trần Thu Trang
 Nguyễn Thị Phương Thùy
 Vũ Thị Hồng Thu
 Trần Văn Thanh

I. CÁC KHÁI NIỆM


1. KHÁI NIỆM CÁI RIÊNG

● “Cái riêng’’ chỉ một sự vật, hiện tượng hay một quá trình riêng
lẻ của hiện thực khách quan.

VD:
 Một quả xoài ở trên cây là cái riêng A
 Một quả xoài ở trên đĩa là cái riêng B
Kết luận: Cái riêng A khác với cái riêng B

● “Cái riêng’’còn được hiểu là cái đơn nhất, đó là chỉ những mặt,
những thuộc tính chỉ có riêng ở trong một sự vật, hiện tượng hay
một quá trình riêng lẻ và không được lặp lại ở bất cứ một sự vật,
hiện tượng hay quá trình riêng lẻ nào khác.

VD:
 Mỗi cá nhân luôn có một dấu vân tay riêng của mình.
 Mỗi loại quả luôn có nhiều hình dáng khác nhau và vị của chúng
mang những nét đặc trưng riêng.

2. KHÁI NIỆM CÁI CHUNG

 “Cái chung” là phạm trù được dùng để chỉ những mặt, những thuộc
tính chung không những có một kết cấu vật chất nhất định, mà còn
được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ
khác.

VD:
 Chúng ta dù chung sống ở những vùng miền khác nhau, nhưng
đều cùng chung một bầu trời.
 Tất cả mọi người đều có ADN.

3. KHÁI NIỆM CÁI ĐƠN NHẤT

● “Cái đơn nhất” là phạm trù được dùng để chỉ những nét, những
mặt, những thuộc tính,… chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất
định và không được lặp lại ở bất cứ một kết cấu vật chất nào
khác.

● Về mặt ngữ nghĩa,“cái đơn nhất” gần giống với cái cá biệt.

VD:
 Ở Thủ đô Hà Nội có cái đơn nhất mà không nơi nào có như là Hồ
Gươm.

 Bác Hồ là duy nhất của nước Việt Nam mà không đất nước nào
có.
CHÚ Ý : Ta cần phân biệt giữa cái riêng và cái đơn nhất.

=>> NHẬN XÉT:

 Cặp phạm trù cái riêng và cái chung trong triết học gắn liền với “bộ
ba” phạm trù là cái đơn nhất, cái đặc thù, cái phổ biến. Cái đơn nhất
là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính,…chỉ
có ở một sự vật, một kết cấu vật chất. Những mặt, những thuộc tính
ấy không được lặp lại ở bất kỳ sự vật, hiện tượng hay kết cấu vật
chất nào khác. Cái đặc thù là phạm trù triết học chỉ những thuộc tính
chỉ lặp lại ở một số sự vật, hiện tượng hay kết cấu vật chất nhất định
của một tập hợp nhất định. Cái phổ biến là phạm trù triết học được
hiểu như cái chung của tập hợp tương ứng.

II. CÁC MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG

TIÊU ĐỀ: Triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng, trong sự tồn
tại và phát triển của các sự vật, hiện tượng của hiện thực khách quan,
đều bao hàm sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng. Cái chung và
cái riêng đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối quan hệ biện
chứng với nhau.

1. MỐI QUAN HỆ 1

● Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu
hiện sự tồn tại của mình.
● Điều đó có nghĩa là cái chung thực sự tồn tại, nhưng nó chỉ tồn tại
trong cái riêng, thông qua cái riêng chứ không tồn tại biệt lập, lơ
lửng ở đâu đó bên cạnh cái riêng, ngoài cái riêng.
VD:
 Không có cái cây nói chung tồn tại bên cạnh cây bưởi, hồng, na cụ
thể. Nhưng nhìn chung cây nào cũng có thân, rễ, lá,… Có quá trình
lý hóa để duy trì sự sống. Những đặc tính chung này đều lặp lại ở
những cây riêng lẻ và được phản ánh trong khái niệm cái ‘‘cây’’. Đó
là cái chung của những cái cây cụ thể. Điều đó thể hiện rõ rằng: Cái
chung tồn tại thực sự, nhưng không tồn tại ngoài cái riêng mà
thông qua cái riêng.
2. MỐI QUAN HỆ 2

● Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung, bất cứ cái
riêng nào cũng bao hàm cái chung.
● V.I.Lênin viết: “Cái riêng không tồn tại như thế nào khác ngoài mối
liên hệ dẫn tới cái chung”. Điều này có nghĩa là cái riêng tồn tại độc
lập, nhưng sự tồn tại độc lập đó không phải là hoàn toàn cô lập với
cái khác. Ngược lại, bất cứ cái riêng nào cũng nằm trong mối liên
hệ dẫn tới cái chung và bất cứ cái riêng nào cũng bao hàm trong nó
cái chung.

VD:
 Mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi người không thể tồn
tại ngoài mối liên hệ với xã hội và tự nhiên. Không có một cá
nhân nào không chịu tác động của các quy luật sinh học và quy
luật xã hội.
3. MỐI QUAN HỆ 3

● Cái chung là một bộ phận của cái riêng, còn cái riêng là cái
toàn bộ, nó không gia nhập hết vào cái chung.
● Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung vì ngoài
những đặc điểm, thuộc tính chung được lặp lại ở các sự vật
khác ra thì bất cứ cái riêng nào cũng còn chứa đựng những cái
đơn nhất, tức là những mặt, những thuộc tính,…chỉ có ở nó và
không được lặp lại ở bất cứ một kết cấu vật chất nào khác,
những đặc điểm riêng phong phú đó không gia nhập hết vào
cái chung. Cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối
liên hệ bản chất tất nhiên, lặp lại ở nhiều sự vật, hiện tượng
riêng lẻ, những thuộc tính chung ấy chỉ là bộ phận của cái riêng
nhưng lại sâu sắc hơn cái riêng, vì nó gắn liền với cái bản chất
chung của cả một tập hợp những cái riêng, nó quy định
phương hướng tồn tại và phát triển của những cái riêng đó.

VD:
 Người nông dân Việt Nam bên cạnh cái chung với nông dân các
nước khác trên thế giới là tư hữu nhỏ, sản xuất lẻ tẻ, sống ở
nông thôn,…còn có những đặc điểm riêng là chịu sự ảnh hưởng
của làng xã, các tập quán lâu đời,… Mỗi vùng miền lại có các
phong tục, tập quán rất phong phú.
Cái chung sâu sắc hơn vì người nông dân dù ở đâu cũng rất cần
cù lao động, có khả năng chịu đựng được những khó khăn trong
cuộc sống.

4. MỐI QUAN HỆ 4

 Cái riêng và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá
trình phát triển của sự vật thông qua sự chuyển hoá giữa cái
đơn nhất, cái đặc thù, cái phổ biến.
VD:
 Trong tự nhiên các sự vật, hiện tượng luôn chuyển hóa lẫn nhau.

 Trong hiện thực, cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay một
lúc, ban đầu nó xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất, cái cá biệt ở một
cái riêng nhất định; về sau, theo quy luật tất yếu, cái mới nhất định
phát triển mạnh dần lên và mở rộng ra ở một số cái riêng với tư
cách là cái đặc thù; cuối cùng, cái mới hoàn thiện và hoàn toàn
chiến thắng cái cũ và trở thành cái chung- cái phổ biến. Ngược lại,
cái cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ biến, nhưng về sau cái cũ ngày
càng mất dần thành cái đặc thù, rồi thành cái đơn nhất trước khi
hoàn toàn mất hẳn.

IV. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN


 Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu
thị sự tồn tại của mình, nên chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng,
xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng riêng lẻ, không
được xuất phát từ ý chủ quan của con người bên ngoài cái riêng.

 Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng, nên nhận
thức phải nhằm tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải
dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn
nếu không hiểu biết những nguyên lý chung, sẽ không tránh khỏi rơi
vào trạng thái hoạt động một cách mò mẫm, mù quáng.

 Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất
định cái đơn nhất có thể biến thành cái chung và ngược lại cái
chung có thể biến thành cái đơn nhất, nên trong hoạt động thực tiễn
có thể và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để cái đơn nhất có lợi cho
người trở thành cái chung và cái chung bất lợi trở thành cái đơn
nhất.

Từ việc phân tích mối quan hệ biện chứng, ý nghĩa phương


pháp luận thì thì ta có thể rút ra được các bài học trong nhận
thức và thực tiễn như sau:

1. Xuất phát từ cái riêng để tìm cái chung


 Vì cái chung chỉ tồn tại và thông qua cái riêng nên chỉ có thể tìm hiểu
và nhận thức về cái chung trong cái riêng chứ không thể ngoài cái
riêng.

 Để phát hiện, đào sâu nghiên cứu cái chung ta phải bắt đầu nghiên
cứu từ những sự vật hiện tượng riêng lẻ, cụ thể chứ không thể xuất
phát từ ý muốn chủ quan của con người.

2. Cần nghiên cứu, cải biến cái chung khi áp dụng cái
chung vào từng trường hợp của cái riêng.

 Vì cái chung tồn tại như một bộ phận của cái riêng, bộ phận đó tác
động qua lại với những bộ phận còn lại của cái riêng mà không gia
nhập vào cái chung, nên bất cứ cái chung nào cũng tồn tại trong cái
riêng dưới dạng cải biến.

 Tức là luôn có sự khác biệt một chút giữa cái chung nằm trong cái
riêng này và cái chung nằm trong cái riêng kia. Sự khác biệt đó là
thứ yếu, rất nhỏ không làm thay đổi bản chất của cái chung.

 Do đó bất cứ cái riêng nào khi áp dụng vào từng trường hợp cũng
được cải biến . Nếu không chú ý đến sự cá biệt hóa đem áp dụng
nguyên si cái chung tuyệt đối hóa cái chung thì sẽ rơi vào sai lầm
của những người giáo điều.

 Ngược lại nếu xem thường cái chung tuyệt đối hóa cái đơn nhất thì
lại rơi vào sai lầm của việc chỉ bảo tồn cái vốn có mà không tiếp
thu cái hay từ bên ngoài. Đó là sai lầm của những người xét lai bảo
thủ trì trệ.

3. Không được lảng tránh giải quyết những vấn đề chung


khi giải quyết những vấn đề riêng.

 Vì cái riêng gắn bó chặt chẽ với cái chung, không tồn tại bên ngoài
mối quan hệ dẫn tới cái chung nên nếu muốn giải quyết những vấn
đề riêng một cách hiệu quả thì không thể bỏ qua việc giải quyết
những vấn đề chung.

 Nếu không giải quyết những vấn đề chung- những vấn đề mang ý
nghĩa lý luận- thì sẽ rơi vào tình trạng mò mẫm, tùy tiện. Nếu bắt tay
vào giải quyết những vấn đề chung thì ta sẽ không có định hướng
mạch lạc.

4. Khi cần thiết, cần tạo điều kiện cho cái đơn nhất biến
thành cái chung và ngược lại.

 Vì trong quá trình phát triển của sự vật trong những điều kiện nhất
định, cái đơn nhất có thể biến thành cái chung. Và ngược lại, trong
hoạt động thực tiễn ta cần hết sức tạo điều kiện thuận lợi cho cái
đơn nhất phát triển trở thành cái chung nếu điều này có lợi.

 Tấm gương sáng cần phải noi theo, hủ tục cần bỏ đi là vậy.

 Ngược lại phải tìm cách làm cho cái chung tiêu biến dần thành cái
đơn nhất nếu cái chung không còn phù hợp với lợi ích của số đông
mọi người.

You might also like