Professional Documents
Culture Documents
Tài Liệu Tu Tập Thích Nhật Quang
Tài Liệu Tu Tập Thích Nhật Quang
MẬT TÔNG
CĂN BẢN
KHÓA 2015
HT THÍCH NHẬT QUANG
I.Quá trình giáo hóa chúng sanh và thực trạng thời mạt pháp:
Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni ra đời nhằm mục đích giáo hóa chúng sanh từ mê lầm đến
giác ngộ, từ sanh tử khổ đau đến chổ an vui giải thoát.
Suốt quãng đường đời độ sanh của Ngài, Ngài phương tiện nói ra rất nhiều pháp môn
(84.000 pháp môn) mà chúng sanh từ vô lượng kiếp mãi lầm đường mê chấp trôi lăn
trong 3 nẻo 6 đường chịu nhiều thống khổ.
Trên lịch trình giáo hóa, Ngài dùng mọi phương chước phù hợp: khế lý, khế cơ; tiểu
thừa, trung thừa, đại thừa; tùy theo căn cơ trình độ của chúng sanh. Pháp môn phương
tiện ấy không những thích nghi tại thời điểm đó mà vẫn thích nghi cho thời mạt pháp sau
này. Thời mà văn minh khoa học vật chất luôn dụ dẫn cuốn hút tâm địa con người chạy
theo vật chất không phút giây dừng nghĩ, căn tánh trở thành si mê đần độn; tham vọng,
móng khởi luôn bừng cháy. Thậm chí khi tụng kinh, niệm Phật, lễ Phật, cúng Phật lòng
tham vọng mong cầu lợi dưỡng cũng biến thành sự trao đổi qua lại 2 chiều. Nói xa hơn
lòng tham muốn “Trực chỉ chơn tâm, thấy tánh thành Phật”, tâm ham muốn niệm Phật
mau được vãng sanh Tịnh độ, lúc trì chú cũng mong 1 vạn biến để đạt thành tựu sở
Trang 2 / 100
nguyện v/v..Tóm lại, giữa tánh năng và sở chưa vắng lặng làm sao kiến tánh thành Phật,
làm sao trở về Di Đà tự tánh, làm sao nhiếp hộ của chư Phật và các chúng bộ thần. Do
tâm bệnh của chúng sanh quá nhiều nên đức Phật định chế ra nhiều pháp môn để trị tâm
bệnh ấy.
Trên phương diện tu trì của hành giả hiện nay, riêng về Việt Nam có 3 pháp môn chính
yếu: 1 là Thiền tông, 2 là Tịnh độ tông, 3 là Mật tông
Pháp môn Tịnh độ (niệm Phật): 1 trong 3 pháp môn trên, là pháp môn xét ra rất dễ tu
và ai ai cũng biết, câu Nam mô A Di Đà Phật, từ già đến trẻ, từ bình dân đến tri thức, từ
chánh tín đến mê tín, ai cũng biết và dùng câu A Di Đà Phật v/v..và có ảnh hưởng rất lớn
đến người Việt chúng ta. Đấy chỉ trên phương diện hình thức. Còn niệm Phật để trở về
với Di Đà tự tánh,…vấn đề này hành giả cần nắm rõ tâm pháp niệm Phật để đạt kết quả,
hành giả phải trải qua khóa học và được ấn ký của vị minh sư (Tịnh độ sư) để trong lúc tu
tập có gặp chướng duyên gì, mau mau trình bạch lên vị minh sư để được hướng dẫn,…
Pháp môn Thiền tông: Thiền tông của Phật giáo Việt Nam, ảnh hưởng khá sâu đậm
trong lòng dân tộc. Trên phương diện hình thức là cách xưng gọi trong chùa chiền Phật
giáo như Thiền môn, chốn am Thiền, cửa Thiền, nhà Thiền, v/v..(chốn tịch tịnh). Nhưng
đứng về ứng dụng pháp môn Thiền hầu như pha trộn trong pháp môn Tịnh độ, còn
chuyên thẳng về Thiền hầu như bị phôi pha khoảng 2,3 thế kỷ trước. Thứ 1, hoàn cảnh
chiến tranh khói lửa, bom đạn, chạy giặc,..Thứ 2 cao trào văn minh vật chất lan tỏa qua
các nước nghèo đói, lạc hậu v/v..Sau chiến tranh, áp lực kinh tế đã khiến thầy trò lo nhiều
về khôi phục kinh tế, khôi phục chùa chiền nên pháp môn Thiền đã không đủ duyên để
an tâm truyền thừa, mở lớp giảng dạy, khai thị, thoại đầu, thị quán, công án,..từ đó tâm
pháp Thiền tông bị nhạt nhòa gần như mất gốc. Tuy nhiên, cũng có khi căn cơ khế ngộ
giữa thầy và đệ tử vẫn được truyền thừa. Như Tịnh độ nói trên, thiếu Thiền sư dẫn đạo.
Pháp môn Mật tông: Riêng về Mật tông không ảnh hưởng nhiều trong Phật giáo Việt
Nam. Có chăng chỉ 1 số thần chú, ấn khuyết và mẫu án tự,..để ứng dụng cho đàn pháp
cần thiết. Pháp đàn trên hầu hết nằm trong Mật tông chính thống do chư Phật, chư Bồ Tát
nói ra nằm rải rác trong các Kinh tạng. Chư tổ nương đấy mà truyền thừa và kế tục đến
nay. Riêng về Mật sư tu chứng cũng có nhưng rất hiếm ví dụ: tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tổ
Chi Cương Lương, Khương Tăng Hội, Không Lộ Pháp Sư, Mật Ứng Đại Sư, Linh Ứng
Đại Sư,..Các Ngài nắm giữ tâm pháp Mật tông (chân ngôn tông) nhằm trợ duyên và hỗ
trợ cho người tu hành thẳng tiến đường tu và thành đạt trong sự nghiệp của cuộc đời và
từ đó mà dẫn dắt họ hộ trì chánh pháp. Tâm pháp Mật tông không truyền thừa rộng rãi
nên ít có ai trong giới tu hành nắm bắt 1 cách rõ ràng để chuyên tu pháp môn này. Vả lại
Trang 3 / 100
pháp môn Mật tông dễ đưa hành giả vào đường thần Đạo, tăng trưởng ngả tướng, danh
vị, quyền lợi và tình cảm. Nên chư Tổ chọn người truyền trao. Ngoài ra chỉ ứng dụng trợ
lực những pháp môn Thiền và tịnh để hành giả mau thằng tiến trên lộ trình giải thoát.
Đa số trí giả, hành giả đặt vấn đề, tất cả các tông pháp của Đức Phật thuyết ra, chúng sinh
nào có duyên với pháp môn đó thì nương theo đó mà ứng dụng tu trì. Riêng về Phật giáo
Việt Nam có 3 tông phái chính yếu, đó là Thiền – Tịnh – Mật được ứng dụng trong chốn
Thiền gia cũng như hành giả tu tập hằng ngày. Nhưng tại sao không hành trì pháp môn
nào cho ra pháp môn đó, mà lại pha trộn 1 lần cả 2,3 pháp?
Thắc mắc nêu trên rất đúng nhưng 3 tông pháp được kết hợp để hành giả ứng dụng, có lẽ
Chư Phật, Chư Tổ muốn cho chúng sanh trong thời mạt pháp nương theo đây mà hành trì
với các lý do sau đây:
1.Thời Đức Phật còn tại thế, con người thuộc hàng lợi căn lợi trì, nên khi Phật thuyết ra
(thoại đầu, công án) họ ngộ ngay. Phật biết chúng sanh thời mạt pháp đa phần thuộc hàng
độn căn, độn trí không thể nào “Trực chỉ chơn tâm, kiến tánh thành Phật” được. Phật vì
thương chúng sanh và cũng nhân nơi Vua Tần Bà Sa La, Phật giới thiệu cảnh giới Tịnh
độ của Đức Phật A Di Đà, cầu vãng sanh về cảnh giới Tịnh độ đó (Tịnh độ tông)
2.Suy luận: từ lòng từ bi của Đức Phật nhằm dẫn dắt chúng sanh từ bờ mê qua bờ giác
Thí dụ: 1 cây cầu độc mộc bắt qua sông để cho người từ bờ bên này sang bờ bên kia để
cho người đi tắt qua bờ giải thoát. Nhưng đối với người có đôi chân cứng cáp, rắn rỗi
(hàng lợi căn) họ trực chỉ qua cầu 1 cách dễ dàng (cây cầu tượng trưng cho trực chỉ chơn
tâm kiến tánh thành Phật)
Đức Phật biết chúng sanh thời mạt pháp (độn căn) như trẻ thơ mới biết đi chập chững,
muốn từ bờ bên đây qua cầu sang bờ bên kia..thử hỏi 10 em qua bờ bên kia được mấy
em? Đức Phật phương tiện tra thêm 1 cây vịn để nương vịn qua cầu, cây vịn ấy là cây
Tịnh độ. Vậy cầu là nhiếp tâm, là trực chỉ, là chơn tâm. Nhiếp tâm (Thiền), niệm Phật
(cây vịn Tịnh độ) thì 10 em sang bờ bên kia chắc chắn 80 – 90% sẽ qua được.
Thêm vào đó, 10 phương Chư Phật, Chư Bồ Tát và các bộ chúng Thiện Thần, tiếp nối
lòng từ bi của Phật lại phát nguyện: Nếu chúng sanh sau này, ai muốn cầu giải thoát 1
cách an tâm và mau lẹ hãy kêu đến tên tôi hoặc đọc lên thần chú này chúng tôi tức khắc
đến trợ giúp cho người đó thành đạt ý nguyện,..
Trang 4 / 100
Phật, Bồ Tát, chúng bộ thần (Mật tông) là những người đã từng quen đi cầu độc mộc, đến
nắm 1 tay trẻ thơ (hành giả) dẫn dắt qua cầu, tất nhiên kết quả trăm phần trăm. Tóm lại:
nhiếp tâm (Thiền), niệm Phật (tịnh), trì chú (Mật). 3 pháp môn không lìa hở như: cầu, vịn
và người nắm tay dìu dắt.
Mật tông là một năng lực nó chỉ có sức mạnh để trợ duyên ví dụ như xe máy, xe ô tô,
máy bay,.. để đưa hành giả đi đến mục đích nhanh nhất. Nhưng nó lệ thuộc vào người
điều khiển. Người điều khiển ngay, đúng thì nó ngay, đúng. Còn người điều khiển vào
gốc cây, hầm hố,..thì nó cũng đưa người và phương tiện sa hầm, sụp hố,..nên thường nói
“Mật tông là con dao 2 lưỡi”, người chánh nó chánh, người tà nó tà. Hơn nữa trong Mật
tông nó có nhiều bí pháp (Kim Cang tạng) cơ cấu lại (thai tạng) trở thành năng lực của
Mật pháp ví như chiếc xe, máy bay,..cấu tạo có nhiều bộ phận như: nơi chứa acquy điện,
nhớt, xăng; bộ khởi động, kèn, xi nhan, thắng trước, sau,..đòi hỏi người điều khiển phải
rành rẽ mọi thao tác. Người tu trì Mật tông cũng vậy.
Có xe tốt (Mật tông) nhưng quan trọng là người điều khiển lúc di hành, nếu không chánh
tâm, nhiếp niệm, không chủ ý để tâm phóng túng, điên đảo vọng tưởng thì khó có thể đến
mục đích như ý muốn mà luôn bị va quẹt, đâm cột đèn, sa xuống hố. Sự chú ý cẩn trọng
nêu trên là Thiền tông. Tâm pháp của Thiền là cục đá, ổ gà, cành cây, cây đinh, sương
mù, ảo giác,..tất cả là nội ma (ngũ ấm), ngoại ma (ngoại chướng) hành giả tu. Thiền phải
hiểu rõ và nắm vững thì đường đến chân tâm kiến tánh (hay Tịnh độ) rất mau lẹ.
Chính yếu là Tịnh độ. Tịnh độ là điểm đến, là mục tiêu có định hướng, xe tốt, người điều
khiển xe có nhiếp tâm nhưng mục tiêu đi về đâu? Đi về điểm chân tâm kiến tánh hay
vãng sanh về cực lạc của Phật A Di Đà hoặc giải thoát v/v..ít ra nó phải có định hướng rõ
ràng, chứ lên xe chạy mà không biết đi đâu thì thử hỏi sẽ như thế nào? Tóm lại, Tịnh độ
là 1 định hướng, là điểm đến. Nhưng từ khởi hành cho đến điểm đích; lộ trình ấy vô cùng
phức tạp; không biết bao nhiêu ngã rẻ; đèn xanh, đèn đỏ; ngỏ hẹp, ngỏ to, đường tốt,
đường xấu. Những cái đó gọi là yếu chỉ tâm pháp Tịnh độ. Người giao thông trên đường
đó không cẩn trọng cũng khó đạt đến mục tiêu.
Trang 5 / 100
V.Kết luận:
Thiền – Tịnh – Mật là cái kiềng (đỉnh) 3 chân, đều liên đới Mật thiết không thể thiếu
được. Trong Thiền phải có Tịnh độ, trong Tịnh độ phải có Thiền, Thiền – Tịnh cần phải
có phương tiện hay gọi là năng lực, kiên trì mọi cần thiết của sức lực (Mật tông)
Nên Chư tổ thấy trong thời mạt pháp người tu hành cầu giải thoát cần đủ 3 pháp môn,
nên định chế nghi thức tụng niệm trong chốn Thiền gia vào thời kinh (tu trì) phải: Tịnh
tam nghiệp – Tịnh pháp giới – Tịnh khẩu nghiệp chơn ngôn và tụng chú Đại bi,..đó là
Mật tông. Xong mới tụng trì các phần Kinh Di Đà, pháp hoa,v/v..hình thức tụng trì ấy là
Tịnh độ. Sau cùng, phải tụng bát nhã tâm kinh (Thiền tông).Vậy 3 pháp có gắn kết với
nhau không? Lìa 1 có đủ không?
Kính mong quý trí giả bình tâm xét kỹ lời khai thị này, nếu thấy phù hợp thì nương đấy
làm hành trang tu tập.
Trang 6 / 100
Bài 2: Các bài chú căn bản
Dịch nghĩa:
Từ sáng đến tối
Tất cả chúng sanh phải tự trốn tránh
Nếu đôi chân ta đạp nát thân hình
Nguyện cho các người liền sanh Tịnh độ
2. CHÚ BƯỚC ĐI
Nhược cử ư túc, đương nguyện chúng sanh
Xuất sanh tử hải, cụ chúng Thiện Pháp
Dịch nghĩa:
Dỡ chân bước đi cầu cho chúng sanh
Thoát biển sanh tử đủ các pháp lành
Dịch nghĩa:
Khi đi đại tiện ,cầu cho chúng sanh
Bỏ tham sân si dứt hết các tội
Trang 7 / 100
4.CHÚ TIỂU TIỆN
Dịch nghĩa:
Năm trược ô uế
Lìa bỏ nghiệp căn
Nhẹ nhàng an lạc
Thân thể vô ngại
Dịch nghĩa:
Dùng nước rửa tay cầu cho chúng sanh
Được tay thanh tịnh giữ gìn Phật pháp
Dịch nghĩa:
Dùng nước rửa mặt cầu cho chúng sanh
Được tịnh pháp môn, rằng không nhơ bợn
Trang 8 / 100
7. CHÚ XÚC MIỆNG
Dịch nghĩa:
Xúc miệng lắng lòng sạch
Ngậm nước thơm trăm hoa
Ba nghiệp thường trong sạch
Đồng Phật qua Tây phương
Dịch nghĩa:
Lành thay mặc áo giải thoát
Áo bát tra rằng lễ sám
Con nay cuối đầu nhận
Đời đời đều mang mặc
Trang 9 / 100
9. CHÚ ĐỐT HƯƠNG
Dịch nghĩa:
Khói hương kết quyện thông suốt ba cỏi
Năm uẩn thanh tịnh ba độc rủ sạch
Dịch nghĩa:
Nếu được thấy Phật
Cầu cho chúng sanh
Được mắt vô ngại
Thấy tất cả Phật
11. CHÚ CẦM CHUỔI
Nam mô Tây phương cực lạc Thế giới Đại từ Đại bi A DI ĐÀ PHẬT (3 lần).
Dịch nghĩa:
Bồ đề 108, diệt tiêu hà sa tội
Xa lìa khổ tam đồ, xích xiềng biến liên hoa
Sóng ái gợn lao xao, biển khổ gợn ba đào
Muốn thoát đường luân hồi, mau gấp niệm Di Đà
Trang 10 / 100
12. CHÚ QUÁN BÁT KHÔNG
Dịch nghĩa:
Khi thấy chén không, cầu cho chúng sanh
Rốt ráo trong sạch dứt hết phiền não
Dịch nghĩa:
Khi thấy chén đầy cầu cho chúng sanh
Đầy đủ sung túc tất cả thiện pháp
Dịch nghĩa:
Cầm nắm đôi đũa, cầu cho chúng sanh
Gấp trợ tất cả các món thanh lương
Trang 11 / 100
15. KỆ TAM ĐỀ
Dịch nghĩa:
Nguyện đoạn các việc ác
Nguyện tu các việc lành
Nguyện độ tất cả chúng sanh
Dịch nghĩa:
Một tính công nhiều ít so kia đem đến
Hai xét đức hạnh đủ thiếu thọ cúng
Ba gửi lòng không, bỡi nghiệp tham là gốc
Bốn sự ăn là liều thuốc trị bệnh đói gầy
Năm quyết tâm thành đạo nghiệp mới dùng cơm này
Án tư mạ ma ni tóa ha (3 lần).
Trang 12 / 100
Dịch nghĩa:
Bưng bát của Như Lai
Ta nay được mở bày
Nguyện cúng tất cả chúng
Đạt đến tam luân không tịch
Trang 13 / 100
22. CUNG THỈNH TAM BẢO TÔN
Án mâu ni, mâu ni, tam mâu ni, tát phạ hạ./.
Ngàn màng nghìn phố lố mò hò bót lai, ngàn màng nghìn ngàn khiếm ngàn khì,
quây mò này khía, quầy mo nì khì, ngàn khúc khích, hùng hùng hùng, phấn phấn
phấn, tóa ha
Thần chú:
A di rị đa, tất đam bà tỳ, A di rị đa, tỳ ca lan đế, A di rị đa, tì ca lan đa,
Chơn tâm được bao bọc dày đặc bởi ngũ uẩn và màng vô minh từ vô thỉ kiếp
I. Phá màng vô minh khởi đầu bằng việc dứt trừ tham vọng:
Tham lam và móng tưởng của con người là lớn nhất, hầu như ai ai cũng có tâm tham
vọng mong cầu vật chất mọi thứ, để đáp ứng cho sự sống. Lòng tham ấy không lúc nào
vơi cạn (túi tham không đáy), cũng từ lòng tham ấy chất chứa mọi khổ đau.
- Tham được như ý, thì mê mẫn, vùi mài có khi quên ăn mất ngủ, đầu óc luôn có tính tới
không bao giờ biết dừng, lâu ngày sanh ra tâm bệnh lẫn thân bệnh,..là khổ đau
- Tham cầu nếu không được toại ý, thì tâm nghĩ ngợi mông lung, tính toán đủ thứ, dùng
mọi thủ đoạn miễn sao đáp ứng được mọi tham cầu. Từ thân, khẩu, ý,..bất kể tội lỗi nào,
thậm chí biến Tiên, Phật, Thánh, Thần trở thành công cụ,.. phải phù hộ cho ta đạt thành
sở muốn. Nếu ông Tiên, Phật, Thánh, Thần mà ta đã vái lạy không được như ý, thì các vị
đó không linh đành dẹp bỏ và kiếm ông khác thờ, vái lạy, cầu tiếp,..
Trang 16 / 100
Người biết Đạo, phát tâm tu hành đôi khi cũng bị lòng tham muốn, vọng tưởng lôi cuốn.
Tham muốn ở đây không phải vật chất. Ví dụ: tham muốn mau thành Phật, mau giải
thoát, mau vãng sanh, mau chứng đạo quả,...Thoáng nghe qua đều là đúng, bởi có tham
muốn mới có tinh tấn, nếu không có tham muốn “Thôi kệ, ta cứ tu từ từ cũng được” (giãi
đãi). Như trên, lòng tham muốn là động lực đưa người mau thành đạt mục đích, lòng ham
muốn ấy phải có trí tuệ thì rất tốt. Nếu như lòng tham chỉ biết cho mau chóng kết quả là
“tham vọng” mà cái gì “vọng” từ tâm là cái đó không chân thật, coi chừng nó trở thành
ảo “Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhơn hành tà đạo, bất năng kiến Như
Lai” (Kinh Kim Cang) hay là “Niệm Phật, niệm Tâm, Tâm niệm Phật, tham Thiền, tham
Tánh, Tánh tham Thiền”
Vậy người tu trì trước tiên phải cắt đứt tham vọng từ cuộc sống hằng ngày đến tham vọng
chấp cố về đường tu. Tất cả chỉ coi nó là phương tiện để đạt đến cứu cánh (muốn mau
hóa ra chậm)
II. Đoạn diệt lớp vật chất ngoài cùng gồm: Danh – Lợi – Tình
1.Danh: như tên tuổi, tiếng tăm, đề cao danh vị, chức tước v/v..Tất cả nói trên đều xuất
phát từ bản ngã (ngã tướng). Trên cỏi đời này ai cũng chấp vào ngã tướng (cái ta). Ngã
tướng là cái cốt bên trong nó được cấu tạo bằng những chất liệu tứ đại, ngũ đại, lục đại
hòa hợp cùng 12 nhân duyên để thành, tất cả do chất keo bụi vô minh ướp vào làm nên
thân tướng, tinh túy của nó là ngã tướng. Chung quy lại đều giả hợp mà ra. Đã chấp nhận
ngã tướng lại khoát bên ngoài lớp áo danh vị, địa vị, chức tước, đề cao, những cái giả ưu
việt ấy luôn tô bồi cho ngã tướng, lúc bấy giờ nó cảm thấy thích thú, khoái lạc. Bằng
ngược lại nó cảm thấy đau khổ, tủi hờn,..tóm lại danh vị, địa vị, chức tước chỉ là lớp áo là
phấn son tô bồi cho “cái cốt ngã tướng”. Tất cả đều là giả, là không thật có, người tu trì
phải sám hối và đoạn trừ, nếu không hành giả sẽ bị chấp giả cho là thật (nguy hiểm)
2.Lợi: nói chung là tiền của, vật chất, quyền lợi về vật chất dùng tất cả những thứ trên để
vun vén cho xác thân giả huyển,..bởi xác thân thọ bẩm các duyên mà tạo thành, còn gọi
là sắc chất (cỏi dục) mà hình thành, đương nhiên nó phải đòi hỏi nhu cầu về vật chất để
cung phụng cho nó. Chúng sanh mê lầm, chấp chặt của cải vật chất là vật sở hữu của “ta”
từ ấy say mê ôm giữ nó đâu biết rằng vật chất chỉ là cái dáng bên ngoài huyển hóa hợp
tan. Giống như dòng sông (sắc thân) và bèo nổi trên dòng sông (vật chất). Dòng sông vốn
vô thường không dừng trụ, bèo là dáng trên mặt nước có – không – tan – hợp vô định
hướng. Người tu trì phải biết như thế, sớm đoạn diệt tâm ái nhiễm vật chất đừng để vật
chất trói buộc, chỉ xem vật chất (quyền lợi) là phương tiện trợ duyên cho sắc thân giả
huyễn.
Trang 17 / 100
3.Tình: là sự thân thương, yêu kính thành thật hay nịnh hót, vuốt ve cho bản ngã…
Thông thường “tình” là sự thuận ý. Có 2 loại tình, tình riêng và tình chung tất cả đều vừa
lòng cho bản ngã (ta), ngược lại là nghịch ý (tình địch) từ chổ tình có đối đãi, thuận,
nghịch, hợp hoặc bất hòa hợp. Bản ngã (ta) bao giờ cũng ôm ấp cái gì thuận ý, hợp ý cho
đó là tình, rồi luyến ái, xây dựng, củng cố để hậu thuẫn cho bản ngã. Người tu trì nên
quán chiếu “tình cảm” riêng tư chuyển sang “từ bi” bao la (chung) “Nhất thiết chúng sinh
giai hữu Phật tánh”. Phật tánh là một thể, không có thân sơ.
Tóm lại, hành giả tu trì Mật Tông nếu không đoạn trừ Danh – Lợi – Tình chắc chắn dễ
lạc vào ma đạo, biến Mật Tông thành Tà Pháp. Đơn cử, thần chú mẫu tự Sanskrit nó có
uy lực mạnh mẻ cho hành giả nào nhiếp tâm tu trì, nếu không chế tâm chỉ 1 câu chú, 1
chú án tự trợ giúp cho tha nhân có kết quả, lời đồn đãi lan truyền,..tên tuổi (danh) mỗi
ngày nổi bậc,..chính đó làm cho “ta khoái” đương nhiên đi theo danh là sở “lợi”. Danh –
Lợi có rồi thì tình cảm cuốn theo (đông nhiều trở thành bè phái tà đạo)
- Sát sanh: ngoài tướng sát, quan trọng nhất là Tâm sát. Ví dụ: ai hơn mình, nếu ai ác với
mình, nếu ai cắn mổ, châm chích mình,..mặc dù ta không giết để trả hận nhưng Tâm
mình luôn: thù hận mong cho người ấy sạt nghiệp, hoặc gặp tai bay họa gởi, hoặc chết
bất đắc kỳ tử v/v..tuy thân không cầm dao sát, tâm khởi ý, niệm trên còn hơn cầm dao
giết. Nên người tu hành phải giữ không cho thân hành động, tâm gợi lên 1 ý niệm về sát.
- Trộm cướp: ngoài việc trộm cắp bằng hành động (thân) cho dù tâm gọi lên mãi mai
chiếm đoạt của cải, vật chất cũng không nên
- Tà dâm: không những thân hành động, lời nói trêu trọc, mắt liếc ngó không chơn chánh,
ý nghĩ tà tâm v/v..cũng không nên
2.Về khẩu nghiệp có 4 gồm: vọng ngôn (nói không chơn thật), ỷ ngữ (trau chuốt lời phù
phiếm, diễn trình để khơi gợi sở thích của người đem lợi dưỡng về mình, lưỡng thiệt (nói
lưỡi đôi chiều, đến đây nói kia,..), ác khẩu (lời nói thô tục, cai nghiệt,..)
3.Về ý nghiệp có 3 gồm: tham (tài, sắc, danh,thực, thùy, ngũ dục lạc); sân hận, bực tức;
si mê, mù quán, tâm tối, mê tín, không phân rõ chánh tà,..
Trang 18 / 100
Tóm lại: cả 3 nghiệp trên phải năng sám hối và giữ gìn cho thanh tịnh, từ thân tướng
hành động cho đến ý nghĩ móng khởi. Có thanh tịnh thì sự tu hành mới mau đạt kết quả.
Người tu trì, 3 nghiệp trên thuộc về thân nếu có, phải sám hối cho thân nghiệp được
thanh tịnh, thì sự tu trì mới mau kết quả hoặc có thể thường trì chú tịnh tam nghiệp
- Khi thân nghiệp nặng hành giả có thể trì thần chú: “Án ta phạ, bà phạ” (mãn 1 hơi)
xong tiếp theo câu “Bà phạ, thuật độ hám”, đọc như trên 3 biến
- Khi khẩu nghiệp nặng hành giả có thể trì thần chú: “Thuật đà, ta phạ” (mãn 1 hơi)
xong tiếp theo câu “Bà phạ, thuật độ hám” , đọc như trên 3 biến
- Khi ý nghiệp nặng hành giả có thể trì thần chú: “Đạt mạ, ta phạ” (mãn 1 hơi) xong tiếp
theo câu “Bà phạ, thuật độ hám” , đọc như trên 3 biến
- Còn nếu cả 3 nghiệp nặng như nhau thì ứng dụng trọn vẹn: “Án ta phạ, bà phạ. Thuật
đà, ta phạ. Đạt mạ, ta phạ. Bà phạ, thuật độ hám”
Trang 19 / 100
Dẫn dụ này không chỉ riêng cho hành giả tu trì Mật Tông mà gồm cả Thiền và Tịnh. Bởi
tam nghiệp mà không đoạn trừ, chẳng khác chiếc thuyền hoặc chiếc xe bị dây buộc ở
phía sau vào gốc cây (chấp ngã). Nếu hành giả chưa tháo gở sợi dây bị buộc vào gốc cây
mà vội vã lên thuyền (xe) chạy đi, không khéo sợi dây tam nghiệp giật trở lại. Càng chèo
nhanh, có khi thuyền (xe) bị lật. Cây tam nghiệp có 10 chùm rể lớn bám sâu vào lòng đất
từ vô lượng kiếp. Chúng ta bị buộc chặt vào nó phải mau tháo gở trước khi bắt đầu tu tập.
Trang 20 / 100
Bài 4 : Phát nguyện tu trì
Trong tất cả các pháp môn, người tu trì bao giờ cũng khởi lòng phát nguyện vì như vậy
hành giả phải nương theo đó mà tinh tấn tu hành, đồng thời làm mực thước để gắn kết ý
chí. Phát nguyện giống như tuyên thệ (lời thề) nung nấu ý chí của hành giả hiện tại và
tương lai.
- Hiện tại phát nguyện: hành giả giữ 1 lập trường không thay đổi, nổ lực tu tập cho đạt
mục đích (sau khi trí tuệ đã chọn lọc kỹ)
- Tương lai phát nguyện: hành giả sau khi đạt được mục đích sẽ thực hiện điều gì đó..cứu
khổ, cứu nạn, cứu bệnh, cứu hoạn hay làm lợi lạc cho chúng sanh v/v..
Trong Mật pháp của Phật chỉ nói ra tất cả vì chúng sanh và hồi hướng cho chúng sanh
(đương nguyện chúng sanh), còn lời giải thích về công năng của thần chú chư Bồ tát, chư
Tổ muốn cho hành giả ham thích mà tinh tấn tu trì vì như cục kẹo khích lệ em bé siêng
năng học hành, như ông trưởng giả dụ các con ra khỏi nhà lửa: “mau ra cha cho các con
đủ thứ xe,..”. Hành giả phải hiểu chổ huyền nghĩa này, đừng tham vọng những vật chất
thế gian mà phát nguyện tham cầu (trong nhà lửa tam giới) mà phải phát nguyện mong
cầu thoát ly tam giới. Không hiểu được ý này, thì Mật tông sẽ đưa hành giả trở thành phù
thủy, thầy bùa, thầy pháp, dị dạng, kỳ hình, ông lên bà xuống, thiên cơ, huyển hoặc và trở
thành ma đạo, tà đạo
Điều hành giả đáng lưu ý nhất khi tu trì Mật pháp:
Có lúc nào đó hành giả do nhiếp tâm, tinh tấn vô tình hoặc vì tác động nào đó mà khởi
lên ý niệm vật chất (cầu mua may, bán đắc, v/v..) để trợ duyên cho sự tu tập, lúc đó sẽ đạt
theo sở nguyện nhưng phải nhớ đừng tham luyến, trái lại nên phát nguyện dõng mãnh
bằng cách chia lợi nhuận đạt được ra làm 3 phần:
2. 1/3 làm vốn tái đầu tư cho việc làm ăn mỗi ngày tăng thêm lợi nhuận
3. 1/3 cúng dường Tam Bảo hay từ thiện giúp đỡ chúng sanh
Ba điều phát nguyện trên hành giả giữ đúng thì cuộc sống y báo cùng chánh báo sẽ được
lâu bền. Bằng ngược lại (quên đi lời phát nguyện) chỉ 1 lúc nào đó nó sẽ tàn lụi hoặc ma
tham dẫn hành giả vào đường tham đắm trụy lạc.
Trang 21 / 100
Bài 5 : Quy tắc đàn pháp trong tu trì Mật Tông
Nghi thức trì chú nằm trong 1 quy tắc của đàn Pháp để cho hành giả tu trì Mật Tông
nương theo đấy mà hành trì. Có 8 điều cần thiết sau đây:
Điều 1: Cần cầu vị Mật Sư khai đạo và thọ ký, ấn chứng. Mật Tông gọi là quán đảnh,
hành giả mới được phép tu trì. Không nên tự ý nghe 1 vài bài giảng, kinh sách, băng đĩa,
hoặc trên mạng rồi áp dụng tu tập rất nguy hiểm
Điều 2: Mật chú là bí mật pháp môn, nói rõ hơn là tín hiệu như tiếng đánh Morse nó
không cần giải thích hay cần phải đúng tiếng (âm thanh tít te) người kia mới nhận được,
tóm lại âm thanh “tít te” là âm thanh trường đoản (ngắn và dài) gỏ bất kỳ vật gì miễn
phát ra âm thanh thì người có học lớp morse sẽ nhận và hiểu được ngay tín hiệu cần thiết.
Vậy thần chú trong Mật Tông, không nhất thiết phải trì tụng bằng tiếng Phạn (Sanskrit)
thì Chư Phật, Thánh, Thần mới hiểu. Còn tụng bằng tiếng Hoa, tiếng Việt thì không có
hiệu quả (Phật không hiểu, không chứng)
Điều 3: Hành giả không nên chấp hoặc lời truyền đạt phải tụng chú bằng tiếng Phạn
(Sanskrit) mới có hiệu lực, rồi vùi đầu học và bám víu vào nó. Hành giả không ý thức
điểm này, không khéo nó đưa ta vào ngả mạn cống cao, bản ngã trồi lên rằng chỉ có
“TA” tụng thần chú chính thống của Phật nói, binh nghiêm gấp 10 lần mấy người tụng
bằng tiếng Hoa, tiếng Việt.
Điều 4: Mật Tông còn gọi là Chân Ngôn Tông, trong đó rất nhiều thần chú và ấn khuyết.
Chư Phật 10 phương, chư Bồ Tát và các bộ chúng thiện thần ủng hộ chúng sanh tuyên
thuyết thần chú cũng rất nhiều. Tuy nhiên thiên ma, tà ma ngoại đạo cũng nương theo
lòng từ bi của Phật nói ra cũng không ít. Vì vậy, kết tập lại thành 1 tạng Mật Tông (Mật
Tạng) tất cả thần chú nói trên đều có oai lực rất lớn, người tu trì Mật Tông phải hết sức
cẩn trọng. Như lời khai thị đã nói: Mật Tông chỉ là năng lực nhằm đưa hành giả đi nhanh
mau đến mục đích. Nhưng mục đích ấy chánh hay tà, chơn hay ngụy đều đáng lưu tâm là
chổ đó, không khéo tu 1 thời gian trở thành tà ma, ngoại đạo, phù thủy, bùa phép, kỳ
hình, dị tướng. Tóm lại, Mật Tông như con dao 2 lưỡi.
Điều 5: Như trên đã nói thần chú trong Mật Tông rất nhiều, hành giả không phải trì tụng
hết hoặc tự ý chọn lựa mấy bài chú bí hiểm trì tụng, hay bài chú đúng chổ tham cầu của
mình mà trì tụng. Trái lại không rõ xuất xứ của Phật, Bồ Tát hay thiên ma, ngoại đạo.
Trang 22 / 100
Điều 6: Quán Án tự: mục đích chính để cho tư tưởng an trụ, không bị phóng dật và loạn
động nhiếp tâm vào 1 điểm (gọi là thiền quán) hành giả không phải quán cho hết 1 bài
mẫu tự chú mà quán chữ nào cũng được
Phép quán phải có Mật sư chỉ dẫn phương pháp, tự ý không nắm bắt phương pháp dễ bị
nhức đầu, loạn óc có khi dẫn đến các bệnh về thần kinh rất nguy hại
Lên cấp nữa quán viên minh bố liệt phạn thơ đồ, quán trì minh tạng nghi quỹ v/v..cấp này
rất cao và sâu mầu,..hành giả trước phải tu trì cấp cơ bản cho thuần thục và hiệu quả, sau
đó cầu vị Mật sư truyền chỉ cho cấp này, không nên tự ý quán định dễ bị nội ma (ngũ ấm)
và ngoại ma (ngoại chướng) quấy nhiễu (tẩu hỏa nhập ma)
Trang 23 / 100
Điều 7: Ấn khuyết là ký hiệu, hay dấu hiệu (Semafoite) chỉ cần ra dấu hiệu không cần
ngôn ngữ, người có am tường Semafoite dấu hiệu đưa lên người kia sẽ nhận được ngay
(như dấu hiệu cho người bị câm điếc)
Trang 24 / 100
Ấn khuyết cũng như thế, nhưng ký hiệu này lưu xuất từ thức thứ 7 (mạc-na thức theo
Duy Thức học). Chư Phật, chư Bồ Tát khi nhiếp chế được mạc-na không còn khởi sanh
đưa các pháp vào chủng tử (A lại da thức) và chuyển thức này thành trí (Bình đẳng tánh
trí). Lúc bấy giờ chỉ cần khởi động (kiết ấn) đều hợp với tất cả chúng sinh, và tất cả
chúng sanh đều cảm thọ được, bởi nó thể nhập tánh bình đẳng chúng. Tóm lại, ấn khuyết
(dấu hiệu – ký hiệu) có 3 trường hợp:
1. Phật ra dấu với chư Phật, chư Bồ Tát và ấn khả cho chúng sanh
3. Không được phép ra dấu đối với chư Phật, chư Bồ Tát
Vậy khi thủ ấn, hành giả phải học và hiểu qua các bộ ấn, ứng dụng đúng lúc đúng chổ,
nếu không biết, ứng dụng bừa bãi sẽ bị tổn giảm phức đức (có tội rất lớn) đồng thời tạo
điều kiện cho thiên ma, ngoại đạo á vị chư Phật quấy nhiễu chúng sanh (trao gậy ông đập
lưng ông) đại trọng tội
Điều 8: Hành giả tu trì Mật Tông trước tiên phải ăn chay, giữ giới đúng mức thì sự tu trì
mau đạt kết quả. Thức ăn không nên kiểu cọ, giả thức ăn mặn: tôm kho tàu, đùi gà, bò,
heo, gà tiềm,..hành giả dễ bị động tâm (tác ý)
Trong khi ăn chay để tu trì, nên kiên cử ngũ vị tân: tỏi, nén, kiệu, hành / hẹ, ớt những
món cay nồng ăn vào những thứ này trì chú kém hiệu quả. Cộng thêm quỷ Tỳ ca nại da
rất khoái thích mùi này, nó sẽ ám dựa để xúi dục đi vào con đường tà đạo.
Tóm lại nếu ăn chay trường được càng quý, bằng không chỉ áp dụng những ngày tu trì
mà hành giả đã phát nguyện
Trang 25 / 100
Bài 6 : Nghi thức áp dụng đàn pháp
I.An trí đàn nghi:
Đàn nghi được bày trí gồm: tượng Phật, ảnh Phật bao giờ cũng an trí chính giữa cao hơn,
2 bên Chư Bồ Tát thấp hơn; tất cả đều tôn trí trên bục nghi cao ráo. Bên dưới là lễ vật
cúng, tuyệt đối không được đặt để lễ vật lên cao hơn tượng, ảnh Phật, Bồ Tát
Đàn pháp này gồm có nội giới đàn và ngoại giới đàn gọi là tướng giới
- Tướng nội giới rộng khoảng 1,5 m vuông (vừa chổ hành giả lạy và ngồi trì tụng)
- Tướng ngoại giới là nguyên khuông viên nơi thờ phụng (vuông của phạm vi 4 tấm vãi
biểu tượng tứ phương), trong gia đình hoặc bạn đạo muốn lễ bái thì từ nội giới đàn ra
ngoại giới đàn, không được phép bước vào tướng nội giới, như thế sẽ bị phạm
Trang 26 / 100
II.Lễ vật chuẩn bị cho đàn pháp:
Trang 27 / 100
Bài 7 : Tâm pháp khai đàn nghi quỷ
Hành giả tu Mật Tông, trước hết tập sự kiết các bộ ấn căn bản và thiết lập đàn
tràng thích hợp
I.Kiết Ấn:
Chú ý: hành giả cần phải được Thầy trao Ấn, không tùy tiện kiết Ấn theo phim, ảnh
trên các phương tiện Internet
II.Đàn pháp:
1.Chọn khu vực làm đàn pháp: gọi là NỘI GIỚI ĐÀN, hay còn gọi là NGŨ PHƯƠNG
TẤT ĐỊA MẠN ĐÀ LA
Có thể chọn khu vực thờ Phật làm đàn pháp tùy nghi rộng hẹp theo điều kiện thực tế của
hành giả
2.Sinh hoạt gia đình, người thân biết khu vực đàn pháp như sau:
- Khu vực đàn pháp ở vị trí nào trong khuôn viên nhà, các ranh giới của đàn pháp.
- Kể từ khi kiết giới xong cho đến ngày xả đàn, khu vực này tuyệt đối không ai được
phép bước vào.
2.Quy định thời gian kiết đàn pháp như sau: 1 ngày 1 đêm, 3 ngày 3 đêm, 7 ngày 7
đêm, 1 tháng đến 3 tháng v/v..tùy thời gian của hành giả
- Trong đàn pháp thờ trên hết là đức giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, Đại Nhựt Như
Lai, A Di Đà Như Lai v/v..cấp dưới thờ một trong các ảnh tùy hành giả chuyên trì.
Ví dụ: Trì Đại Bi, thờ ảnh Quán Âm, Trì Uế Tích Kim Cang, Chuẩn Đề v/v..(trì chú nào
thờ ảnh đó)
Trang 28 / 100
- Bốn gốc đàn và chính giữa treo 5 tấm vải màu (nếu thiếu phương tiện hoặc không gian
hẹp có thể may tấm màn kéo ngang đàn pháp, tấm màn ấy cũng đủ 5 màu), trình tự sắp
xếp như sau:
Ghi chú: Nếu điều kiện không cho phép hành giả có thể sử dụng cờ Phật giáo vẫn
được
Chánh thân đoan tọa đương nguyện chúng sanh, tọa bồ đề tòa tâm vô sở trước. ÁN PHẠ
TÂT RA, A NI BÁC RA NI ẤP ĐA DA TÓA HA (3 lần)
Hành giả có thể lựa chọn TỤNG KINH – NIỆM PHẬT – TRÌ CHÚ tùy theo ý nguyện
của mình
IV.Hồi hướng:
Trang 29 / 100
Bài 8: Trì Minh tạng nghi quỷ
Sau khi áp dụng tâm pháp khai đàn nghi quỉ xong. Bước vào đàn hành đúng như pháp
trước đây. Hành giả ngồi ngay thẳng (chánh thân đoan tọa,…), đọc chú và dùng nước hoa
tổng tẩy uế nội đàn.
Thần chú:
ÁN TU RỊ MA RỊ, MA MA RỊ, MA RỊ TU TU RỊ, XÓA HA (3 hơi thở)
Trang 30 / 100
I.An Kính Đàn:
1.Kính đàn để ngang tầm mắt. Mắt chú thần nhìn vào chữ Án (xem hình)
Tay kiết Ấn Chuẩn Đề Thượng miệng xướng danh hiệu
NAM MÔ TỲ LÔ GIÁ NA PHẬT HRỊ (1 hơi thở) xả Ấn phóng vô chữ Án (trong kính
đàn)
2. Kính đàn để ngang tầm mắt. Mắt nhìn vô chữ Chiết (xem hình)
Tay kiết Ấn Chuẩn Đề Trung miệng xướng danh hiệu
NAM MÔ ĐẠI LUÂN MINH VƯƠNG BỒ TÁT HRỊ (1 hơi thở) xả Ấn phóng vô chữ
Chiết (trong kính đàn)
3. Kính đàn để ngang tầm mắt. Mắt nhìn vô chữ Lệ (xem hình)
Tay kiết Ấn Chuẩn Đề Hạ. Miệng xương xanh hiệu
NAM MÔ ĐẠI PHẨN NỘ BẤT ĐỘNG TÔN MINH VƯƠNG BỒ TÁT HRỊ (1 hơi thở)
xả phóng Ấn vô chữ Lệ (trong kính đàn)
4. Kính đàn để ngang tầm mắt. Mắt nhìn vào chữ Chủ: (xem hình)
Tay kiết Ấn Chuẩn Đề Thượng. Miệng xướng danh hiệu
NAM MÔ TỨ TÚY PHẬT THÂN NHƯ LAI HRỊ (1 hơi thở) xả phóng Ấn vô chữ Chủ
(trong kính đàn)
5. Kính đàn để ngang tầm mắt. Mắt nhìn vào chữ Lệ: (xem hình)
Tay kiết Ấn Chuẩn Đề Trung miệng xướng danh hiệu
NAM MÔ BẤT KHÔNG QUYỀN TÁC, QUÁN TỰ TẠI NHƯ LAI HRỊ (1 hơi thở) xả
phóng Ấn vô chữ Lệ (trong kính đàn)
6. Kính đàn để ngang tầm mắt. Mắt nhìn vào chữ Chuẩn (xem hình)
Tay kiết Ấn Chuẩn Đề Hạ. Miệng xướng danh hiệu
NAM MÔ ĐẠI TÔN NA BỒ TÁT HRỊ (1 hơi thở) xả phóng Ấn vô chữ Chuẩn (trong
kính đàn)
7. Kính đàn để ngang tầm mắt. Mắt nhìn vào chữ Đề (xem hình)
Tay kiết Ấn Chuẩn Đề Thượng. Miệng xướng danh hiệu
NAM MÔ KIM CANG TÁT ĐỎA BỒ TÁT HRỊ (1 hơi thở) xả phóng Ấn vô chữ Đề
(trong kính đàn)
Trang 31 / 100
8. Kính đàn để ngang tầm mắt. Mắt nhìn vào chữ Tóa (xem hình)
Tay kiết Ấn Chuẩn Đề Trung. Miệng xướng danh hiệu
NAM MÔ Y CA NẠC TRA BỒ TÁT HRỊ (1 hơi thở) xả phóng Ấn vào chữ Tóa (trong
kính đàn)
9. Kính đàn để ngang tầm mắt. Mắt nhìn vào chữ Ha (xem hình)
Tay kiết Ấn Chuẩn Đề Hạ. Miệng xướng danh hiệu
NAM MÔ PHẠ NHỰT RA NẴNG KHƯ MINH VƯƠNG BỒ TÁT HRỊ (1 hơi thở) xả
phóng Ấn vào chữ Ha (trong kính đàn)
Trang 32 / 100
III.Pháp sám hối
Hành giả quỳ hoặc đứng tùy nghi xướng và lạy
1.Chí tâm đảnh lễ:
- Lô Xá Na Mâu Ni Thế Tôn
- A Súc Thế Tôn
- Bảo Sanh Thế Tôn
- Quán Tự Tại Vương Thế Tôn
- Bất Không Thành Tựu Thế Tôn
- Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Thế Tôn
- Thập Phương Pháp Giới Chư Phật Thế Tôn
- Thất Câu Chi Phật Mẫu Sở Thuyết Đại Chuẩn Đề Đà La Ni
- Thập Phương Pháp Giới Tu Đa La Tạng Nhứt Thiết Đà La Ni Môn
- Tỳ Lô Giá Na Cung Diện Thất Câu Chi Chuẩn Đề Phật Mẫu Bồ Tát Ma Ha Tát
- Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát
- Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát
- Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát
- Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát
- Kim Cang Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát
- Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát
- Trừ Cái Chướng Bồ Tát Ma Ha Tát
- Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát
- Vô Năng Thắng Bồ Tát Ma Ha Tát
- Đại Thế Chí Bồ Tát Ma Ha Tát
- Thập Phương Pháp Giới Nhất Thiết Bồ Tát Ma Ha Tát
- Ma Ha Ca Diếp Tôn Giả Đại Thinh Văn Tăng
- Thập Phương Pháp Giới Nhứt Thiết Tam Thừa Hiền Thánh Tăng
Trang 33 / 100
2.Trì chú:
Lễ xong hành giả ngồi kiết già, bán già. Tay phải lần Châu, tay trái Kiết Ấn Định Tâm,
mắt nhìn tượng Chuẩn Đề Bồ Tát, miệng trì chú Chuẩn Đề (vô đầu 3 lần khể thủ,…) sau
đó Án Chiết Lệ…tùy nghi 108, 200, 300,…
Trang 34 / 100
Bài 9: Đàn pháp Chuẩn Đề
I.Phần tiểu pháp:
A.Yêu cầu chung:
Phần này ứng dụng chung cho hành giả muốn trì tụng Chuẩn Đề mỗi ngày tại nơi thờ
Phật nhỏ hẹp trong gia đình, nghĩa là gia đình còn vướng 5 điều chướng ngại (xem phần
đại pháp bên dưới). Vì phương tiện hạn hẹp trên nên hành giả chỉ áp dụng nghi tắc sau:
Trang 35 / 100
5.Mặc áo tràng (đọc chú): Dịch nghĩa:
Thiện tai giải thoát phục Lành thay mặc áo giải thoát
Bát tra lễ sám y Áo bát tra rằng lễ sám
Ngã kim đãnh đái thọ Con nay cuối đầu nhận
Thế thế thường đắc phi. Đời đời đều mang mặc
NAM MÔ CA SA TRÀNG BỒ TÁT (3 lần).
9.Phụng thỉnh Tam Bảo (kiết ấn + đọc chú), xướng phổ lễ Tam Bảo:
Kiến Phật tướng hảo đương nguyện chúng sanh
Thành tựu Phật thân chứng vô tướng pháp
ÁN MÂU NI, MÂU NI, TAM MÂU NI, TÁT PHẠ HẠ.
10.Phụng thỉnh Kim Cang trấn nhiếp đàn tràng (xướng thỉnh và kiết ấn):
Cung thỉnh Kim Cang Thắng trang nghiêm Ta bà ha
Cung thỉnh Thanh Văn Thắng trang nghiêm Ta bà ha
Cung thỉnh Ma Yết Thắng trang nghiêm Ta bà ha
Cung thỉnh Bạt Xà Ra Thất Rị Dệ Ta bà ha
Trang 36 / 100
11.Đăng bảo tọa (Kiết ấn đọc chú):
Bảo tọa cao cao vô ngại
Thượng hữu thiên thùy bảo cái
Ngả kim đăng đài chánh tọa
Bất chuyển tâm an tánh định
Nam mô Đăng Bảo Tọa Bồ Tát (3L)
13.Hồi hướng:
Trì chú công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng,
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh,
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não,
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu,
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.
Thế thế thường hành Bồ Tát đạo.
Trang 37 / 100
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung,
Cửu phẩm Liên hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức,
Phổ cập ư nhứt thiết,
Ngã đẳng dữ chúng sanh,
Giai cộng thành Phật đạo.
B.Nghi tắc đàn pháp: (các bài chú xem phần tiểu pháp)
1.Tiểu tiện (đọc chú)
2.Rửa tay (đọc chú)
3.Rửa mặt (đọc chú)
4.Xúc miệng (đọc chú)
5.Mặc áo tràng (đọc chú)
6.Đăng đạo tràng (kiết ấn + đọc chú)
7.Đốt hương (đọc chú) và nguyện hương
8.Dâng hương (đọc chú)
9.Phụng thỉnh Tam Bảo (kiết ấn + đọc chú), xướng phổ lễ Tam Bảo
10.Phụng thỉnh Kim Cang trấn nhiếp đàn tràng (xướng thỉnh và kiết ấn)
11.Đăng bảo tọa (Kiết ấn đọc chú)
Trang 38 / 100
12.Bắt đầu trì chú:
Xong kiết ấn Chuẩn Đề Thượng mắt nhìn vào chữ Án (1 trong 3 chữ) miệng
xướng tụng trì:
- Khế thủ quy y Tô Tất Đế
- Đầu diện đảnh lễ thất cu chi
- Ngả kim xưng tán Đại Chuẩn Đề
- Duy nguyện Từ Bi thùy gia hộ đệ tử (tên họ pháp danh)……….
- Nam mô tát đa nẩm tam miệu tam bồ đề cu chi nẩm đát điệt tha. Án
chiết lệ chủ lệ chuẩn đề tóa ha.
Từ đó tụng trì 9 chữ sau cùng cho đến mãn thời trì tụng
Lưu ý:
Tụng thầm trong cổ họng – Kiết ấn Chuẩn Đề Thượng. Khi tê hoặc mỏi chân tay
không nên gắng gượng quá sức (không tốt) mà phải xả ấn vào đảnh đầu rồi co duổi
cho chân tay hoạt động bình thường trở lại. Sau đó tiếp tục kiết ấn trì tụng đến mãn
thời khóa.
13.Hồi hướng:
14.Cung thỉnh chư tôn hồi quy bản vị (kiết ấn xã đàn): Đọc bài kệ hồi hướng
Kiết Ấn xã đàn
Trang 39 / 100
4.Trường chay – Tuyệt Dục (chung mọi sự tham muốn của thế gian) quyết cầu thành đạo
vô thượng bồ đề, dù trụ vào quả vị thinh văn, duyên giác cũng không mống tâm.
5.Tâm bất tham luyến – Ý bất điên đảo – Diệt 6 căn đoạn 6 trần – Phá 6 thức – Chặn
đứng sanh khởi Ngã Chấp, Pháp Chấp của thức Mạt Na, đương nhiên A Lại Da thức
không còn hiện hành các chủng tử, chứng thành pháp giới thể tánh trí
B.Nghi tắc đàn pháp: (các bài chú xem phần tiểu pháp)
1.Tiểu tiện (đọc chú)
2.Rửa tay (đọc chú)
3.Rửa mặt (đọc chú)
4.Xúc miệng (đọc chú)
5.Mặc áo tràng (đọc chú)
6.Đăng đạo tràng (kiết ấn + đọc chú)
7.Đốt hương (đọc chú) và nguyện hương
8.Dâng hương (đọc chú)
9.Phụng thỉnh Tam Bảo (kiết ấn + đọc chú), xướng phổ lễ Tam Bảo
10.Phụng thỉnh ngũ trí Như Lai:
a.Phụng thỉnh:
Kiết Ấn phụng thỉnh ngũ trí Như Lai (ngũ phương tất địa mạn đàn la), đọc bài kệ:
Ngũ phương ngũ Phật đại oai thần
Kiết giới hàng ma biến sát trần
Kim tiêu tỳ lô quang thượng hiện
Nhất kim nhất lẽ tống quy không
(Kiết ấn Khai Đàn Kiết Giới)
Đông phương thế giới A Súc Phật:
Án ma ni hồng – Kỳ thân thanh sắc Án già hồng – Phóng quang minh hồng
hồng Án ma ni hồng - Thủ ấn chấp trì Kim Cang Sử Án ma ni hồng –
Chúng đẳng chí tâm Án gia hồng – Xưng tán lễ hồng hồng Án ma ni hồng.
Trang 40 / 100
Tây phương thế giới A Di Đà Phật:
Án ma ni hồng – Kỳ thân bạch sắc Án già hồng – Phóng quang minh hồng
hồng Án ma ni hồng - Thủ ấn chấp trì Diệu liên hoa Án ma ni hồng –
Chúng đẳng chí tâm Án già hồng – Xưng tán lễ hồng hồng Án ma ni hồng
b.Sám hối:
Thỉnh xong hành giả sám hối xướng 23 danh hiệu Phật, Bồ Tát.
Chí tâm đảnh lễ:
1.Lô Xá Na Mâu Ni Thế Tôn
2.A Súc Thế Tôn
3.Bảo Sanh Thế Tôn
4.Quán Tự Tại Vương Thế Tôn
5.Bất Không Thành Tựu Thế Tôn
6.Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Thế Tôn
7.Thập Phương Pháp Giới Chư Phật Thế Tôn
8.Thất Câu Chi Phật Mẫu Sở Thuyết Đại Chuẩn Đề Đà La Ni
9.Thập Phương Pháp Giới Tu Đa La Tạng Nhứt Thiết Đà La Ni Môn
10.Tỳ Lô Giá Na Cung Diện Thất Câu Chi Chuẩn Đề Phật Mẫu Bồ Tát
Ma Ha Tát
11.Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát
12.Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát
13.Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát
14.Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát
Trang 41 / 100
15.Kim Cang Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát
16.Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát
17.Trừ Cái Chướng Bồ Tát Ma Ha Tát
18.Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát
19.Vô Năng Thắng Bồ Tát Ma Ha Tát
20.Đại Thế Chí Bồ Tát Ma Ha Tát
21.Thập Phương Pháp Giới Nhất Thiết Bồ Tát Ma Ha Tát
22.Ma Ha Ca Diếp Tôn Giả Đại Thinh Văn Tăng
23.Thập Phương Pháp Giới Nhứt Thiết Tam Thừa Hiền Thánh Tăng
Lễ xong đọc 3 biến thần chú sám hối
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô A rị da, bà lô kiết đế, thước
bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa ba da, ma ha ca lô ni ca da,
đát điệt tha, độ rô độ rô, a tây ma tây, ma ha ma rị ni, đổ ba ma rị ni, đồ
bề đồ bề, na mồ na ma, ta bà ha.
1.Kính đàn để ngang tầm mắt, chú thần nhìn vào chữ Án (xem hình)
Tay kiết Ấn Chuẩn Đề Thượng miệng xướng danh hiệu
NAM MÔ TỲ LÔ GIÁ NA PHẬT HRỊ (1 hơi thở) xả Ấn phóng vô chữ Án
(trong kính đàn)
2. Kính đàn để ngang tầm mắt. Mắt nhìn vô chữ Chiết (xem hình)
Tay kiết Ấn Chuẩn Đề Thượng miệng xướng danh hiệu
NAM MÔ ĐẠI LUÂN MINH VƯƠNG BỒ TÁT HRỊ (1 hơi thở) xả Ấn
phóng vô chữ Chiết (trong kính đàn)
3. Kính đàn để ngang tầm mắt. Mắt nhìn vô chữ Lệ (xem hình)
Tay kiết Ấn Chuẩn Đề Thượng. Miệng xương xanh hiệu
NAM MÔ ĐẠI PHẨN NỘ BẤT ĐỘNG TÔN MINH VƯƠNG BỒ TÁT
HRỊ (1 hơi thở) xả phóng Ấn vô chữ Lệ (trong kính đàn)
Trang 42 / 100
4. Kính đàn để ngang tầm mắt. Mắt nhìn vào chữ Chủ: (xem hình)
Tay kiết Ấn Chuẩn Đề Thượng. Miệng xướng danh hiệu
NAM MÔ TỨ TÚY PHẬT THÂN NHƯ LAI HRỊ (1 hơi thở) xả phóng Ấn
vô chữ Chủ (trong kính đàn)
5. Kính đàn để ngang tầm mắt. Mắt nhìn vào chữ Lệ: (xem hình)
Tay kiết Ấn Chuẩn Đề Thượng miệng xướng danh hiệu
NAM MÔ BẤT KHÔNG QUYỀN TÁC, QUÁN TỰ TẠI NHƯ LAI HRỊ (1
hơi thở) xả phóng Ấn vô chữ Lệ (trong kính đàn)
6. Kính đàn để ngang tầm mắt. Mắt nhìn vào chữ Chuẩn (xem hình)
Tay kiết Ấn Chuẩn Đề Thượng. Miệng xướng danh hiệu
NAM MÔ ĐẠI TÔN NA BỒ TÁT HRỊ (1 hơi thở) xả phóng Ấn vô chữ
Chuẩn (trong kính đàn)
7. Kính đàn để ngang tầm mắt. Mắt nhìn vào chữ Đề (xem hình)
Tay kiết Ấn Chuẩn Đề Thượng. Miệng xướng danh hiệu
NAM MÔ KIM CANG TÁT ĐỎA BỒ TÁT HRỊ (1 hơi thở) xả phóng Ấn
vô chữ Đề (trong kính đàn)
8. Kính đàn để ngang tầm mắt. Mắt nhìn vào chữ Tóa (xem hình)
Tay kiết Ấn Chuẩn Đề Thượng. Miệng xướng danh hiệu
NAM MÔ Y CA NẠC TRA BỒ TÁT HRỊ (1 hơi thở) xả phóng Ấn vào chữ
Tóa (trong kính đàn)
9. Kính đàn để ngang tầm mắt. Mắt nhìn vào chữ Ha (xem hình)
Tay kiết Ấn Chuẩn Đề Thượng. Miệng xướng danh hiệu
NAM MÔ PHẠ NHỰT RA NẴNG KHƯ MINH VƯƠNG BỒ TÁT HRỊ (1
hơi thở) xả phóng Ấn vào chữ Ha (trong kính đàn)
Lưu ý: Ứng dụng 1 ấn Chuẩn Đề Thượng, mắt nhìn vào chữ Án miệng
xướng danh hiệu Nam mô tỳ lô giá na Phật hrị 1 hơi thở rồi phóng ấn vô
chữ Án. Rồi đến chữ Chiết cũng dùng 1 ấn Chuẩn Đề Thượng xướng
danh hiệu…..suốt 9 chữ (chỉ dùng 1 mà ấn thôi)
Trang 43 / 100
3.Quán chữ Lệ nơi cổ, ánh sáng màu lưu ly, hiển bày các sắc tướng đầy đủ
Như Lai Trí
4.Quán chữ Chủ nơi ngực, thấy ánh sáng trong trắng như tơ, tâm được
thanh tịnh, mau đến đạo quả vô thượng bồ đề
5.Quán chữ Lệ nơi 2 vai, ánh sáng màu huỳnh kim, thường mặt giáp tinh
tấn
6.Quán chữ Chuẩn nơi rốn, thấy sắc vàng trắng đẹp chống lên diệu đạo
tràng, không thối chuyển bồ đề tâm
7.Quán chữ Đề nơi 2 bắp vế, thấy ánh sáng màu vàng lợt, mau chứng Đạo
Bồ Đề, sớm ngồi tòa kim cang
8.Quán chữ Tóa nơi 2 bắp chân, thấy ánh sáng đỏ rực rỡ, mau chuyển
được pháp luân
9.Quán chữ Ha nơi 2 bàn chân, thấy ánh sáng như trăng tròn mau đến đạo
viên tịch
13.Hồi hướng
14.Cung thỉnh chư tôn hồi quy bản vị (kiết ấn xã đàn): Đọc bài kệ hồi hướng
Kiết Ấn xã đàn
(HT Thích Nhật Quang)
Trang 44 / 100
Bài 10: Yếu pháp thực hành
I.Giai đoạn thai nhi và sơ sinh:
Thai nhi nó chỉ tiếp nhận qua nhĩ căn cùng với âm vang của thinh trần do cha mẹ phát
âm. Lúc đó nó nhận bằng khái niệm đưa vào A lại da thức kết làm chủng tử. Vậy trong
giai đoạn này, cha và mẹ nên tránh:
- Buồn bực: sẽ làm mặt bé sinh ra tối tăm
- Giận dữ: sẽ làm cho bé có thân tướng thô kệch, xấu xí
- Sát sanh: sẽ làm cho bé sinh ra gặp nhiều bệnh tật
- Dâm dục: sẽ làm cho bé dục vọng khởi dậy sớm
- Nói lời thô ác: sẽ làm bé cọc cằn và hay khóc đêm
- Uống rượu: sẽ làm bé ngu si chậm hiểu
Do đó, ba mẹ nên làm những điều sau:
- Ký bán (quy y) với Bồ Tát Quán Thế Âm
- Trì chú Lục Tự Đại Minh chân ngôn khi ăn uống
- Trì chú Chuẩn Đề lúc đi ngủ
- Thường xuyên cho bé nghe các bài nhạc phổ từ chú hoặc kinh
Trang 45 / 100
III.Tuổi trung niên từ 25 đến 50:
Tuổi này là giai đoạn có gia đình và xây dựng sự nghiệp, nên cần phải:
- Luôn luôn lấy câu “Duy Tuệ Thị Nghiệp” làm định hướng
- “Đi với Phật mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”. Kinh tế ra kinh tế, từ bi ra từ
bi, không nên pha trộn hỗn tạp lại với nhau
- Xây dựng các mối quan hệ xung quanh như gia đình, đối nhân xử thế ứng dụng
“Tứ nhiếp pháp” (xem bài giảng trước đó)
- Có gia cư, cơ sở riêng nên thiết trí 1 bàn thờ Phật để ngày đêm cúng Phật, lễ Phật
- Nên quy y Tam Bảo để làm điểm tựa tinh thần
- Cách hành trì Mật Tông:
+ Để an ổn gia đình: thường trì chú An Thổ Địa (xem bài trước)
+ Ký đối tác, hợp đồng: thường trì chú Lục Tự Đại Minh (quán chữ Án)
+ Muôn việc sở cầu: thường trì Như Ý Lục Độ Mẫu (có cầu pháp ấn)
+ Trần nhiếp cạnh tranh ác tâm: thường trì Uế tích Kim Cang (cầu pháp ấn)
+ Hằng đêm theo nghi quỷ tiểu đàn pháp mà ứng dụng chung cho các điều
mong muốn trên
+ Bị yếm đối, trù ẻo, thư,..thường trì “Án Lam” vào ly nước uống, còn dư
sái nhà và xung quanh chổ mua bán
+ Phát nguyện sám hối (ngả tích sở,..)
+ Nếu có con: áp dụng phần I bên trên
Lưu ý: khi có sử dụng ấn pháp bắt buộc phải rửa tay, tẩy uế sạch sẻ (xem tỳ ni nhật
dụng). Người nữ trong kỳ kinh nguyệt thì sau đó 3 ngày mới được phép kiết ấn
Trang 46 / 100
IV.Tuổi Lão niên (trên 50 tuổi):
Hạng tuổi này sắp “xế chiều”, vì vậy cần làm như sau:
- Chỉ bảo gia nghiệp, kinh nghiệm làm ăn, từ từ phó thác cho đứa con nào có chí
nối nghiệp
- Gác bỏ từ từ, giữ tâm không luyến ái
- Hạn chế giao thiệp làm ăn (giới thiệu qua đứa con thừa kế). Chỉ giao thiệp chùa
chiền hoặc bạn đạo để cùng nhau sách tấn
- Thường quán vô thường, khổ không, vô ngã
- Sắp xếp ổn định như 5 yếu tố trước đây (xem bài trước)
- Thường trì tụng kinh, niệm Phật, trì chú
- Được thiết lập Đạo tràng để ứng dụng tu trì
- Phương pháp tu trì:
+ Căn cứ theo nghi quỷ tiểu Đàn pháp
+ Phải miên mật các tiểu chú tỳ ni
+ Phát nguyện trì chú vãng sanh để trừ các nghiệp chướng, năng sám hối
+ Quán kính đàn mục đích để được nhiếp tâm, không nên khởi tâm mong
cầu, sử dụng kính đàn cho mọi người biết (hiện tướng) để lúc sau “ta” được
danh tiếng. Tuyệt đối cắt Danh – Lợi – Tình
+ Lấy chánh niệm: cầu vãng sanh, giải thoát, thành vô thượng chánh giác
+ Từ đây đến cuối đời, hành giả được phép tu trì các thần chú như sau:
* Chú vãng sanh
* Chú Lăng nghiêm, Đại bi, Thập chú, Lục tự đại minh, Lục độ
mẫu,..
* Tụng kinh: Di Đà, Pháp Hoa, Phổ Môn, Địa Tạng, Dược Sư,..
* Tham thiền (tâm pháp sẽ hướng dẫn sau)
* Tịnh độ (niệm Phật): tâm pháp sẽ hướng dẫn sau
Trang 47 / 100
V.Kết luận:
Mật Tông là năng lực trợ duyên cho hành giả tu hành, nó là phương tiện đưa người tu
hành mau đạt đến cứu cánh giải thoát, rốt ráo thành Phật
- Nếu không khéo Mật Tông là chiếc xe mô tô chạy lòng vòng trong cái bồ của
đoàn xiếc mô tô bay, tột cùng là quả vị “tái sanh” (Tu đà hoàn). Bởi tâm còn chứa
nhóm danh (người xem tán thưởng), lợi (bán đủ vé mới vận hành), tình (lưu lại
tình yêu thích cho mọi người)
- Như thế thì Đà La Ni – chân ngôn – thần chú,..của Chư Phật nói ra đều có năng
lực (oai lực) tùy theo nghiệp lực, tu trì, quyết tâm hay giải đải của chúng sanh mà
nó có chậm, nhan, mạnh, yếu
- Hành giả chớ có vọng cầu ham thích những thần chú, Đà La Ni, chân ngôn tối
thượng để tu trì, trong khi khả năng ví như nhận thức của đứa bé 12 tuổi mà ham
phóng lên xe mô tô, ô tô, máy bay,..chắc chắn sẽ có ngày gặp tai nạn. Hay nói rõ
hơn như trẻ thơ mới biết nói mà ham lý luận triết lý với nhà bác học (lựa chú tối
thượng để trì tụng)
- Nơi đây, lời khuyên tha thiết kêu gọi chư hành giả nên đoạn vọng niệm, trừ
nghiệp chướng, phá ngũ uẩn, diệt lục căn, lục trần, lục thức, khử ngả chấp, pháp
chấp,..lúc bấy giờ chỉ cần câu chân ngôn 2 chữ Án Lam – Già Hồng oai lực chấn
động đến mười phương Quốc độ chư Phật. Còn ấn khuyết hành giả “bất vong bổn
tâm” (đừng quên mất bổn tâm) chỉ cần tiếng khải móng tay, 1 động tác co dũi thì
mười phương chư Phật đều biết cả, không cần nắn nót, bẻ quẹo ngón tay (thủ ấn)
mới thành tựu ám hiệu cho Chư Phật biết
Nam mô Hoa tạng Thế giới Vô lượng ức kiếp căn già sa thanh tịnh, pháp thân Tỳ
Lô Giá Na Như Lai tác đại chứng minh.
(HT Thích Nhật Quang)
Trang 48 / 100
Bài 11: Lời giải thích toát yếu
Trước đây trải qua 10 thời thuyết giảng “Tâm pháp của Mật Tông” mà tôi đã trình bày
theo khả năng hiểu biết, ngoài ra lý luận từ ngữ, thuật ngữ, Phạn ngữ,..thì tôi không có
khả năng, trình độ bởi:
1/Mật Tông là pháp môn tối mật nó còn gọi là chân ngôn, thì không thể diễn đạt bằng lời
nói (ngôn ngữ) không thể luận giải qua “mật ý” của Chư Phật, giống như ai uống nước tự
biết “cái đã khát”. Cái đã khát nó không có ngôn từ để diễn đạt, nếu ai bướng bỉnh càng
diễn đạt “đã khát” càng sai lầm
2/Vốn liếng tư liệu của tôi không đầy đủ để tra cứu (tham cứu) chỉ có Thầy Tổ truyền
trao 1 số tâm pháp để tu trì, giống như trao cho tôi ly nước để uống (ngôn ngữ + mật ý
của Thầy Tổ còn dạy thêm: ông đã là người đang khát nước muốn xĩu, thì ly nước này
ông cứ uống đi ở đó đòi hỏi phải nước chanh, nước đường, nước suối, nước cam lồ,..chi
vậy) cũng như kinh Bách Dụ Phật kể câu chuyện đoàn lữ hành đi giữa sa mạc hết nước,
bổng thấy có vũng nước mọi người mừng rỡ xúm nhau uống chỉ có anh chàng ngu si thấy
dòng song do ảo giác anh ta ham mê không chịu uống cứ đi mãi theo dòng sông ảo giác,
cuối cùng anh ta chết khô, chết khát
Vì thế người tu trì Mật Tông mà vọng kiến, cố chấp, dong ruỗi tìm cầu dòng sông trông
thấy hoặc do người tuyên truyền,..thì cuối cùng cũng như anh chàng ngu si đi trong sa
mạc. Tu Mật Tông phải thực tế, dù chỉ câu chân ngôn ngắn gọn, miễn làm sao chuyên
tâm trì ý đoạn diệt bản tâm ô nhiễm (như 10 kỳ giảng trước đây) cũng đạt thành kết quả
tối thượng.
3/Tướng diện: Chư Phật, Chư Bồ Tát, các chúng Bộ Thần, chúng ác Ma, Tà Đạo, chúng
Thiên Ma,…đôi khi Chư Phật, Chư Bồ Tát vì lòng từ bi hóa độ mà hiện thân thô tướng,
ác tướng. Nhưng lời nói (chân ngôn) vẫn hàm xúc từ ái do Đại Bi Tâm, không có gầm
gừ, hung tợn, quát nạt qua giọng điệu (Thân tướng là khắc chế, chân ngôn (lời xuất từ
tâm) là thu phục). Riêng đối với tà đạo, ma đạo, quỷ thần, thầy Pháp, thầy Phù Thủy,..thì
thân tướng múa men, miệng đọc thần chú gầm gừ hung tợn cho “ma dưới” nó sợ nó
khiếp, ra vẽ thị uy, người kế bên nghe cũng nổi gai ốc.
Tóm lại, chân ngôn, đà la ni, khi trì tụng lưu xuất bằng tâm Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ
Bi (hành giả phải hiểu tâm này) chứ không phải lưu xuất bằng giọng gầm gừ nó mới là
chân ngôn Đại Hùng, Đại Lực, coi chừng nó lại là Thầy Pháp trừ Ma, mất đi ý nghĩa Đại
Từ Bi
4/Pháp khí như: chuông, mỏ, kích tử, chập chỏa, linh, trống,..chỉ là nhịp nhàng, giai điệu
để dẫn dắt mọi người đồng tụng có nhịp nhàn trang nghiêm cho buổi lễ.
Trang 49 / 100
Còn thập bát ban binh khí (18 món binh khí) chày Kim Cang, cung tên, giáo, gươm, kiến,
giày,v/v..thấy Chuẩn Đề Bồ Tát, Quan Âm Bồ Tát,..cầm các loại binh khí này không phải
trừ tà, ếm quỷ, thị oai. Ý nghĩa của 18 món binh khí (pháp khí) mỗi chúng sinh ai ai cũng
có 18 món bén nhọn sát thủ từ vô lượng kiếp đến nay nó luôn ấp ủ gắn chặt nơi tâm, chưa
bao giờ buông bỏ ra ngoài, đó là 6 căn, 6 trần cùng 6 thức là 18 món binh khí vô cùng lợi
hại, giết mình, giết người không gớm tay. Chư Bồ Tát tu hành nhận biết lợi hại 18 món
này các Ngài đẩy lui ra ngoài, ý để biểu hiện cho tất cả chúng sanh muốn đạt được đạo,
cần phải pháp dẹp, đoạn trừ, 6 căn, 6 trần, 6 thức.
Vậy hành giả tu trì phải hiểu nghĩa này 1 cách rốt ráo. Chứ không phải sắm mua các loại
pháp khí treo đầy bàn, đầy phòng mà chúng ta không phá dẹp, giải giáp nó thì vô tình
hình dung qua lầm tưởng đạo Phật tu hành mà chấp chứa những hung khí giết người.
Thực nghĩa nó cũng sát nhưng sát ma phiền não từ căn, trần, thức tự thân của mỗi hành
giả. Chuyển các loại binh khí thành “gươm trì tuệ” để trừ khử lũ giặc nội ngoại ma.
5/Năm màu trong Ngũ trí Như Lai tiêu biểu cho (các pháp) màu sắc của vũ trụ vạn vật
không ngoài 5 màu này, nó là tổng hợp của các sự vật từ ngũ căn, ngũ lực mà có các
pháp, khi tu đạt đến cảnh giới thông suốt thì nó chuyển thành Ngũ trí, tiêu biểu qua 5 vị
Phật: A Súc Bệ Phật màu xanh v/v..(quý vị nghiên cứu thêm hạnh nguyện của 5 vị Như
Lai này)
6/Biểu tượng bức họa Mạn Đà La là bức tranh lập thể giống như họa phẩm Picasso, tùy
theo tưởng tượng mà hình dung, Mạn Đà La của Mật Tông nó có khác, nó không do 1
người mà phải tổng hợp của các nhà tu Lạc ma, mỗi vị có cái sở đắc (tức 5 màu của Ngũ
Trí Như Lai) kết lại thành bức họa có quy định gồm họa tiết, hoa văn, phân bổ, kết cấu
v/v..
Như vậy, bức Mạn Đà La nó biểu hiện sư tu của Hội Đồng Lạc Ma đạt ở mức độ nào đó.
Thế thì nó không phải là lá “phù” linh hiển hay là bức họa đồ của “Pháp giới thể tánh trí”
hay “hoa tạng huyền môn”
Tuy nhiên, hành giả cũng vịnh theo đó mà từ từ thể hiện, chứng nghiệm 1 Mạn Đà La của
tự tâm mình
7/Cuối cùng hành giả ứng dụng Mật Tông để giải quyết cho cuộc sống y báo, chánh báo
hiện tiền được tạm ổn định để tu, đương nhiên trì Mật Tông này, đừng khởi tâm tham
vọng chắc chắn phải nhận được kết quả như ý. Thứ nữa, nếu cần tha lực trợ duyên thì
quý vị đến với các bậc minh sư có tu trì mà khẩn cầu nhờ tiếp sức. (1 bình acquy nhỏ
không đủ sức sang, nhờ đâu thêm bình lớn hơn để tiếp sức, nhưng nhớ đấu phải đúng cực
+ - có rà soát ampe kế. Nếu không cẩn thận nổ bình cháy bóng, tối om cả đám.
Trang 50 / 100
Tập tài liệu Mật Tông này là cơ bản sơ đẳng nhất, nó rất tầm thường, không có mỹ từ,
chuyên từ và theo logic,..nó chỉ là cọc cừ ép xuống lòng địa tầng non yếu, để có được
Fondations (nền móng) chắc chắn, ngỏ hầy xây dựng tòa nhà vô thượng Bồ Đề, mà hành
giả muốn đạt được ước nguyện,..Trong đây tôi kính mong quý vị nhận thấy phù hợp đúng
thì nương theo ứng dụng còn cái nào không đúng thì cứ tùy tiện lại bỏ ra (cây cừ nào
dùng được thì dùng). Thứ nữa, cho tôi xin sám hối những bậc cao minh trong lối luận
giảng nếu có phạm thượng
Nam mô Hoan hỷ Bồ Tát
Chùa Long Phước, ngày 26/12/2015
HT Thích Nhật Quang
Trang 51 / 100
Phụ lục 1: Thần chú trợ duyên
1.Kiên Lao Địa Thần Bồ Tát
Áp dụng trong trường hợp: Gia trì gia đình hạnh phúc, con cái hòa thuận, buôn bán
thuận lợi,..tại nơi cư trú hoặc nơi mua bán
Thần chú:
Diêm Phù Đề nội
Thổ Địa Kiên Lao
Khâm thừa Phật sắc cọng giá miêu
Thảo mộc đắc phì nhiêu
Vũ thuận phong điều
Trưởng dưỡng thiện căn cao
Nam mô Kiên Lao Địa Thần Bồ Tát
Nam mô tam mản đa một đà nẩm
ÁN ĐỘ RÔ, ĐỘ RÔ, ĐỊA VĨ, TA BÀ HA (3L)
Trang 52 / 100
5.Thần chú Uế Tích Kim Cang:
Áp dụng trong trường hợp:
- Trần nhiếp cạnh tranh có ác tâm
- Các tai nạn về tự nhiên: sóng, mưa, bão, lũ lụt,…
Thần chú:
Án, bút quát hốt lốt, ma ha bát ra, ngân na, ngái vẫn, trắp vẫn, hê ma ni, vĩ hiệt vĩ,
ma na thê
Án chước cấp ra, ô thâm, mô hốt lốt, hùm hùm hùm,phấn phấn phấn, tóa ha
Cách sử dụng:
Kiết ấn xả giới đàn tràng và đọc chú:
ÁN TU RỊ MA RỊ, MA MA RỊ, MA RỊ TU TU RỊ, TÓA HA. (3L)
2.Tẩy uế các hổn tạp của thức ăn, đồ uống, rau, trái cây bị tà thuật ếm, thư:
Thức ăn, trái cây hoặc đồ uống bị tà thuật ếm, thư,…Để tinh sạch, trước khi ăn ta
kiết ấn tổng tẩy uế, quán án tự Lam vào thức ăn, trái cây, rau, đồ uống,…và đọc
chú ÁN LAM (nhiều lần).
Trang 53 / 100
Phụ lục 2: Đàn pháp Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật
1.Trường hợp áp dụng:
Tháng giêng các Thiền môn thường lập đàn Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật để
hành giả tu tập cầu an. Các đạo hữu có thể áp dụng tuần tự nghi tắc bên dưới để hành trì
Trang 54 / 100
5.Mặc áo tràng (đọc chú): Dịch nghĩa:
Thiện tai giải thoát phục Lành thay mặc áo giải thoát
Bát tra lễ sám y Áo bát tra rằng lễ sám
Ngã kim đãnh đái thọ Con nay cuối đầu nhận
Thế thế thế thường đắc phi. Đời đời đều mang mặc
NAM MÔ CA SA TRÀNG BỒ TÁT (3 lần).
9.Phụng thỉnh Tam Bảo (kiết ấn + đọc chú), xướng phổ lễ Tam Bảo:
Kiến Phật tướng hảo đương nguyện chúng sanh
Thành tựu Phật thân chứng vô tướng pháp
Án mâu ni, mâu ni, tam mâu ni, tát phạ hạ./.
10.Phụng thỉnh Kim Cang trấn nhiếp đàn tràng (xướng thỉnh và kiết ấn):
Cung thỉnh Kim Cang Thắng trang nghiêm Ta bà ha
Cung thỉnh Thanh Văn Thắng trang nghiêm Ta bà ha
Cung thỉnh Ma Yết Thắng trang nghiêm Ta bà ha
Cung thỉnh Bạt Xà Ra Thất Rị Dệ Ta bà ha
Trang 55 / 100
11.Đăng bảo tọa (Kiết ấn đọc chú):
Bảo tọa cao cao vô ngại
Thượng hữu thiên thùy bảo cái
Ngả kim đăng đài chánh tọa
Bất chuyển tâm an tánh định
Nam mô Đăng Bảo Tọa Bồ Tát (3L)
Trang 56 / 100
13.Hồi hướng:
Trì chú công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng,
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh,
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não,
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu,
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.
Thế thế thường hành Bồ Tát đạo.
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung,
Cửu phẩm Liên hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức,
Phổ cập ư nhứt thiết,
Ngã đẳng dữ chúng sanh,
Giai cộng thành Phật đạo.
Trang 57 / 100
Phụ lục 3: Tổng hợp các bộ thủ ấn
1.Ấn Đăng Đàn
Nhìn từ trước
Nhìn từ sau
Trang 58 / 100
2. Ấn Phụng Thỉnh Tam Bảo:
Nhìn từ trước
Nhìn từ sau
Trang 59 / 100
3.Ấn Phổ Cúng Dường
Nhìn từ trước
Nhìn từ sau
Trang 60 / 100
Nhìn từ trước
Nhìn từ sau
Nhìn từ sau
Trang 62 / 100
Nhìn từ trước
Nhìn từ sau
Trang 63 / 100
Nhìn từ trước
Nhìn từ sau
Trang 64 / 100
Nhìn từ trước
Nhìn từ sau
Trang 65 / 100
Hạ phẩm hạ sanh
Trang 66 / 100
Hạ phẩm thượng sanh
Trang 67 / 100
Trung phẩm trung sanh
Trang 68 / 100
Thượng phẩm hạ sanh
Trang 69 / 100
Thượng phẩm trung sanh
Nhìn từ trước
Trang 70 / 100
Nhìn từ sau
Nhìn từ trước
Trang 71 / 100
Nhìn từ sau
12.Ấn Ma Ni Bảo
Nhìn từ trước
Trang 72 / 100
Nhìn từ sau
Nhìn từ trước
Trang 73 / 100
Nhìn từ sau
Trang 74 / 100
Nhìn từ trước
Nhìn từ sau
Trang 75 / 100
Nhìn từ trước
Nhìn từ sau
Nhìn từ sau
Nhìn từ sau
18.Ấn Chuẩn Đề Hạ
Trang 78 / 100
Nhìn từ trước 1
Nhìn từ trước 2
Nhìn từ sau
Nhìn từ trước 2
Trang 80 / 100
Nhìn từ trước 3
Trang 81 / 100
Nhìn từ trước 1
Nhìn từ trước 2
Nhìn từ sau
21.Ấn Xã Đàn
Trang 82 / 100
Nhìn từ trước 1
Nhìn từ trước 2
Nhìn từ sau
Nhìn từ sau
Nhìn từ sau
Trang 87 / 100
a.Kiết ấn lúc hành trì
Nhìn từ trước
Nhìn từ sau
Trang 88 / 100
Nhìn từ trước
Nhìn từ sau
Trang 89 / 100
Nhìn từ trước
Nhìn từ sau
Nhìn từ sau
Nhìn từ sau
Nhìn từ sau
- Ngài Kim Cang Thượng Sư…..(Ghi vị Mật sư hướng dẫn mình tu trì. Ví dụ: HT
Thích Đồng Bổn thì ghi: Thượng Đồng Hạ Bổn, HT Thích Nhật Quang thì ghi:
Thượng Nhật Hạ Quang)
Chứng minh:
Kể từ hôm nay, con tu trì Mật Pháp Đà La Ni Tôn. Con xin phát nguyện suốt đời, cho
đến ngày thành tựu Đẳng Giác. Tâm con không tham luyến vật chất thế gian, ý không
điên đảo do 3 nghiệp lôi cuốn, 1 lòng thanh tịnh tu trì Mật Pháp cho đến ngày xả báo thân
được giải thoát, chứng nhập liên hoa tạng, bước vào huyền môn của Đức Tỳ Lô Giá Na.
Ngưỡng cầu 10 phương các Đức Như Lai thùy từ chứng minh gia hộ.
Trang 95 / 100
Đáp: Đối với thần chú, oai lực của Chư Phật và Bồ Tát hộ trì trực tiếp vì vậy khi trì tụng
chú thì người anh ngang bướng sẽ dần hết. Và đối với Kinh Pháp Hoa khi tụng, không
phải vì Kinh không có oai lực mà làm cho người anh đó trở lại tính nết cũ mà bởi vì đạo
lực của người cha chưa đủ bởi Kinh Pháp Hoa đòi hỏi gia đình phải hiểu thâm ý của Diệu
Pháp Liên Hoa thì mới thấy được oai lực thực sự. Trong phẩm Đà La Ni có nhiều phần
nói về sự hộ pháp của các chúng như La Sát,…và do đạo lực còn yếu đã làm cho người
anh tái đi tái lại. Tuy nhiên, việc này không phải diễn ra liên tục mà nó sẽ giản và giảm
dần đến 1 lúc nào đó sẽ chấm dứt triệt để. Vì vậy, người nên cứ nên tiếp tục duy trì giữa
trì Chú và tụng Kinh Pháp Hoa như thường lệ chứ không nên dừng lại.
6.Hỏi: Kính Bạch Thầy, do nhà ở xa con chưa quy y, quán đảnh nhưng vì ham muốn Mật
Tông nên con cũng muốn tự tu tập. Xin Thầy hoan hỷ cho con được hỏi là những bài
giảng của Thầy từ trước đến nay con có thể áp dụng được phần nào? Và khi con tự tu như
vậy thì làm sao con nhận biết mình chứng đắc ra sao?
Đáp: Khi chưa quy y và quán đảnh thì đạo hữu chỉ phép đọc chú. Các ấn khuyết, quán án
tự và đàn pháp nghi quỷ tuyệt đối không được làm theo. Về việc làm sao nhận biết chứng
đắc vì điều này không thể giải thích được bởi nó thuộc về tâm của mỗi người, người nào
tu nấy chứng, nấy hiểu. Tuy nhiên, về tướng có thể nhận diện ở 1 số đặc điểm như mình
được mọi người thương mến, làm ăn được mọi người ủng hộ, tâm tính hòa đồng vui vẽ
cùng mọi người,…
7.Hỏi: Kính Bạch Thầy, con hiểu rằng cuộc sống mình vốn dĩ do nghiệp lực tạo ra, vô
thường không biết đến lúc nào. Và khi tu, đặc biệt là Mật Tông thì lại không được gấp
gáp kiểu như “tu nhanh kẻo trễ”. Như vậy, con thấy rất khó làm được, khi hành trì tâm lý
rất hoan mang. Con xin bạch Thầy cho con hỏi rằng mình có phương pháp nào để trong
đời này tu Mật Tông và giả sử vô thường có đến thì kiếp sau vẫn sẽ tu trì Mật Tông tiếp
tục. Vậy con phải nguyện những gì và đọc chú gì để được như vậy.
Đáp: Hằng đêm tu tập, sau bài nguyện hương, quý đạo hữu đọc bài phát nguyện (đã biên
soạn) để chúng ta nhờ oai lực của Đức Tỳ Lô Giá Na hộ trì. Và như vậy, cho dù vô
thường có đến thì kiếp sau chúng ta vẫn “nhớ” để tiếp tục tu Mật Tông mà không bị gián
đoạn.
8.Hỏi: Kính Bạch Thầy, con là người khuyết tật do tai nạn đột ngột, tay chân không được
lành lặn. Cuộc sống đối với con như 1 địa ngục, chỉ muốn chết đi. Nhưng con may mắn
tìm đến được Phật pháp, và may mắn hơn là con được nghe các pháp của Thầy về Mật
Tông. Con chỉ có thể đọc chú và nhìn án tự chứ không thể bắt ấn được. Cho con được
hỏi: người khuyết tật như con có thể làm được phần nào trong số các phần đó. Cách làm
có gì đặc biệt hơn không để con có thể theo kịp như người thông thường.
Trang 96 / 100
Đáp: Về phương diện tướng, khi bắt ấn, đọc chú và quán án tự đòi hỏi ngũ căn phải đầy
đủ mới thực hiện được. Tuy nhiên, tu Mật Tông là tu từ tánh bên trong nên người khuyết
tật không quá lo lắng mà vẫn có thể tu hành bình thường.
- Về bắt ấn: người tri thức hoặc Mật sư có thể truyền tâm ấn cho hành giả xem và nhớ
trong tâm từ đó có thể dụng tâm mà bắt ấn. Bởi tâm ấn mới có thể lưu xuất 10 phương
quốc độ. Ngay cả người lành lặn vẫn phải dụng tâm chứ không dụng tướng mà bắt tướng
ấn.
- Về quán án tự và trì chú : tương tự như thế nên dụng tâm mà hành trì
9.Hỏi: Kính Bạch Thầy, các bài chú hằng ngày, con thấy có 2 phần: phần kệ chữ hán –
việt và phần chú. Phần kệ là phần dịch nghĩa con thấy rất ý nghĩa, như vậy để đọc cho
hiểu hay nó có tác dụng gì nữa không ạ hay mình chỉ đọc phần chú thôi thì tác dụng nó
có giảm lại không?
Đáp: Phần Hán – Việt là để cho hành giả biết được tác dụng của câu chú, do vậy khi đã
hiểu được rồi thì có thể chỉ trì phần chú mà thôi.
10.Hỏi: Kính Bạch Thầy, kính đàn, tượng Phật, ảnh Phật,.. mà con bài trí tại nơi tu tập
lâu ngày nếu bị hư hao như rách hoặc bể kính thì con phải làm sao? Con có nên đốt đi
hay mang đến Chùa. Trường hợp có Chùa không nhận thì con phải làm sao, và kính đàn
không thể tiêu hủy được con phải làm sao? Kính mong Thầy hướng dẫn con cách xử lý
để không vi phạm.
Đáp:
- Đối với ảnh Phật, về tướng pháp nếu bị rách hoặc cũ, quý đạo hữu tuyệt đối không được
bỏ thùng rác, chổ ô uế mà nên đốt đi. Sau khi đốt lấy tro đó đem để vào lư hương ở bàn
thờ hoặc đem bỏ xuống sông.
- Đối với tượng Phật bể: nếu Chùa nào có tháp xá lợi (cốt tháp) quý đạo hữu mang đến
nhờ Chùa nhập tháp. Trường hợp không mang vào Chùa được, quý đạo hữu nên đem
chôn thật sâu dưới gốc cây để tránh trường hợp bị người khác dẫm đạp lên mà có tội
- Đối với tranh, ảnh trên gương kiếng hoặc kính đàn có in chữ, vẽ chữ trên đó, quý đạo
hữu dùng dao lam cạo phần chú, án tự hoặc hình ảnh bên trong được sơn hoặc dán bằng
decal, trong lúc cạo đọc chú xã đàn (Hồi hướng nhân duyên tam thế Phật,….). Sau khi
cạo thật sạch, đem phần sơn, decal đó đi đốt và gương (kính) thì mang bỏ ở các gốc cây
tránh để người khác dẫm đạp mà bị thương.
11.Hỏi: Kính Bạch Thầy, nhà con ở là nhà tập thể và chung cư, vì vậy tầng trên, dưới con
ở là nhà người khác, như vậy mỗi lần con kiết ấn và xã ấn nếu xã lên trên hoặc xuống
Trang 97 / 100
dưới chẳng mai phòng trên là phòng ngũ của người khác thì như vậy có tội không thưa
Thầy. Con rất muốn hành trì nhưng còn khó khăn không tìm được chổ tốt nhất nên con
kính mong Thầy chỉ dẫn để con làm được tốt hơn!
Đáp: Cuộc sống hiện đại ngày nay khó tránh khỏi việc ở chật chội như chung cư, nhà tập
thể. Do vậy, hành giả khi tu trì Mật Tông nếu có xả ấn nên dụng tâm mà xả, tức là quán
tưởng xả lên 10 phương chư Phật chứ không có tạp niệm, khởi ác tâm mà xả vào người
này, người nọ, vị trí này, vị trí nọ vì họ ca hát, lớn tiếng,làm khó,… không cho mình tu
tập thì mình sẽ mang tội.
12.Hỏi: Kính bạch Thầy, thần chú và nghi quỷ hiện nay con thấy nhiều vô kể, như vậy về
pháp tướng làm sao con nhận biết đâu là chánh và đâu là tà.
Đáp: Mật Tông không chánh cũng không tà, có thể chánh cũng có thể tà. Nếu dùng Mật
Tông phục vụ cho bản ngã của chúng ta như Danh, Lợi, Tình thì đó là tà pháp. Và nếu
dùng cho mục đích tu tập giải thoát thì đó là chánh pháp. Do vậy, trong quá trình tu tập
hành giả cần phải được Tam Bảo chứng minh, Mật sư hướng dẫn cụ thể thì mới không bị
lạc.
13.Hỏi: Kính bạch Thầy, cho con được hỏi, thần chú nào là đại pháp, thần chú nào là tiểu
pháp. Con thấy rất nhiều hành giả so sánh và lựa chọn chú này, chú kia để hành trì và
phân biệt lớn nhỏ, lợi ít, lợi nhiều,…Xin Thầy giải đáp ạ!
Đáp: Tất cả các thần chú đều có công năng như nhau, đều đưa hành giả về giải thoát.
Tuy nhiên, để (tạm) phân biệt là tiểu pháp và đại pháp là lúc hành giả tu trì sẽ tự mình
nhận biết đồng thời phải được vị Mật Sư chứng minh cho. Thần chú áp dụng tiểu pháp
cũng có thể là đại pháp và ngược lại, như vậy hành giả cần phải thực hành tu trì cùng Mật
Sư thì mới thấy kết quả được.
Trang 98 / 100
Mục lục
Bài 1: Lời khai thị pháp môn Thiền - Tịnh - Mật……………………………..2
Bài 2: Các bài chú căn bản……………………………………………………7
Bài 3: Những điều căn bản cho hành giả tu trì Mật Tông……………………16
Bài 4 : Phát nguyện tu trì……………………………………………………..21
Bài 5 : Quy tắc đàn pháp trong tu trì Mật Tông……………………………....22
Bài 6 : Nghi thức áp dụng đàn pháp…………………………………………..26
Bài 7 : Tâm pháp khai đàn nghi quỷ………………………………………….28
Bài 8: Trì Minh tạng nghi quỷ………………………………………………..30
Bài 9: Đàn pháp Chuẩn Đề……………………………………………………35
Bài 10: Yếu pháp thực hành…………………………………………………..45
Bài 11: Lời giải thích toát yếu………………………………………………...49
Phụ lục 1: Thần chú trợ duyên………………………………………………...52
Phụ lục 2: Đàn pháp Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật…………………..54
Phụ lục 3: Tổng hợp các bộ thủ ấn……………………………………………58
1.Ấn Đăng Đàn………………………………………………………….58
2. Ấn Phụng Thỉnh Tam Bảo…………………………………………...59
3.Ấn Phổ Cúng Dường………………………………………………….60
4.Ấn Hiệp Chưởng………………………………………………………61
5.Ấn Cung Thỉnh Kim Cang…………………………………………….62
6.Ấn Đăng Bảo Tọa……………………………………………………...63
7.Ấn Tịnh Tam Nghiệp………………………………………………….64
8.Ấn A Di Đà Căn Bản………………………………………………….65
9.Ấn Cửu Phẩm Liên Hoa……………………………………………….66
10.Ấn Khai Đàn Kiết Giới………………………………………………72
11.Ấn Kim Cang Sử……………………………………………………..73
12.Ấn Ma Ni Bảo………………………………………………………..74
13.Ấn Diệu Liên Hoa…………………………………………………....75
14.Ấn Luân Tướng Giao………………………………………………...76
Trang 99 / 100
15.Ấn Thiên Phúc Luân………………………………………………..77
16.Ấn Chuẩn Đề Thượng………………………………………………78
17.Ấn Chuẩn Đề Trung………………………………………………...79
18.Ấn Chuẩn Đề Hạ…………………………………………………….80
19.Ấn Định Tâm………………………………………………………..81
20.Ấn Tam Muội……………………………………………………….83
21.Ấn Xã Đàn…………………………………………………………..84
22.Ấn Như Ý Lục Độ Mẫu……………………………………………..85
23.Ấn Uế Tích Kim Cang………………………………………………86
24.Ấn Kiên Lao Địa Thần Bồ Tát………………………………………87
25.Ấn Xã Đàn Kiết Giới………………………………………………...88
26.Ấn Dược Sư Căn Bản………………………………………………..89
27.Ấn Ngũ Bộ Chú……………………………………………………...92
28.Ấn Kim Cang Đại Định……………………………………………...93
29.Ấn Tổng Tẩy Uế đàn tràng…………………………………………..94
Phụ lục 4: Bài phát nguyện tu trì………………………………………………95
Phụ lục 5: Mật Tông vấn đáp………………………………………………...96
Chùa Long Phước, Tháng Giêng năm Ất Mùi
HT Thích Nhật Quang
Website: www.thientinhmat.com
Tài liệu trực tuyến:
http://tailieu.thientinhmat.com/72067c6211e51604f5d7669d99dd2a42.pdf
Mã QR: