Thực Và Phi Thực Trong Truyện Ngắn Công Viên Những Lối Đi Rẽ Hai Ngả Của Jorge Luis Borges Và Cuộc Nổi Lọan Của Người Da Đỏ Của Donald Barthelme

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 22

5/8/2021 THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE

GẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI L…


JUSER: :_LOAD: KHÔNG THỂ NẠP USER VỚI ID: 66

Trang chủ Tin tức Văn hóa và đời sống Góc nhìn văn hóa Đất và người xứ Nghệ Điện ảnh Thể thao Mục lục

THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG


LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI LỌAN
CỦA NGƯỜI DA ĐỎ CỦA DONALD BARTHELME
 
ĐÀO NGỌC CHƯƠNG

Thứ sáu, 03 Tháng 12 2010 21:51

font size

Thích 0 Chia sẻ Tweet

1.

Jorge Luis Borges là nhà văn khai mở nền văn học hiện đại châu Mỹ La Tinh. Cho đến trước khi truyện ngắn  Công viên
những lối đi rẽ hai ngả, hay đúng hơn tập truyện  Công viên những lối đi rẽ hai ngả (El jardin de senderos que se bifurcan)
xuất bản vào năm 1941, Jorge Luis Borges (1899-1986)  vẫn được người đọc Argentine biết đến như một người làm thơ và
viết tiểu luận. Sự ra đời của Công viên những lối đi rẽ hai ngả làm thay đổi sự nghiệp của ông. Jorge Luis Borges trở thành
nhà văn viết truyện ngắn nổi tiếng và được đánh giá là một trong những nhà văn lớn nhất của thế kỷ 20. Với Công viên
những lối đi rẽ hai ngả, ông trở thành một trong những tác giả quan trọng báo hiệu sự xuất hiện của chủ nghĩa hậu hiện đại
trong văn chương thế giới.

Hai mươi năm sau khi Jorge Luis Borges xuất bản Công viên những lối đi rẽ hai ngả thì một nhà văn Mỹ là  
 
Donald Barthelme (1931-1989) mới in truyện ngắn đầu tiên của mình, và trở thành nhà văn đổi mới hình  
thức truyện ngắn với tập Come Back, Dr. Caligari, xuất bản năm 1964. Bốn năm sau, tức 1968, Donald
Barthelme xuất bản tập truyện nổi tiếng Unspeakable Practices, Unnatural Acts; truyện ngắn Cuộc nổi
loạn của người Da Đỏ (The Indian Uprising) gây nhiều tranh cãi mà chúng ta sẽ khảo sát sau đây nằm
trong tập truyện này. Chúng ta có thể nói rằng ngay từ đầu Domald Barthelme đã là nhà văn của chủ
nghĩa hậu hiện đại. Các truyện ngắn của ông tạo ra những phản ứng trái ngược trong người đọc và giới
nghiên cứu phê bình, và cho đến nay vẫn vậy. Có lẽ đó là tình hình chung đối với tất cả những tác phẩm
xuất sắc của chủ nghĩa hậu hiện đại khi biên giới giữa thực và phi thực đã trở nên vô cùng mỏng manh
hay là không có biên giới.
Trong các tác phẩm văn chương hậu hiện đại, hiện thực xuất hiện trước mắt người đọc là một hiện thực ngôn ngữ trong
văn bản, và trước đó cũng như sau đó nó không tồn tại. Đó là thứ hiện thực hoàn toàn giả định và bất định của cảm quan về
một thế giới hỗn mang, bất khả tri nhận. Chính vì thế các nhà văn hậu hiện đại nghi ngờ và phá vỡ toàn bộ những khả năng
nắm bắt hiện thực được cho là chắc chắc của cái nhìn nhân quả trong các tác phẩm hiện thực chủ nghĩa và cả hiện đại chủ
nghĩa. Ngôn ngữ đã từng là phương tiện với chủ nghĩa hiện thực, ngôn ngữ đã từng là chất liệu và mục tiêu của chủ nghĩa
hiện đại thì đến hậu hiện đại ngôn ngữ trở thành trò chơi của chính nó. Trong một số trường hợp, nếu không muốn nói là
phần lớn, các nhà văn hậu hiện đại chủ nghĩa trở thành trò chơi trong tay ngôn ngữ nói chung và ngôn ngữ của họ nói
riêng. Thực ra, đối với các nhà văn hậu hiện đại, không có thứ ngôn ngữ nói chung bởi vì ngôn ngữ nào cũng nhuộm màu
sắc của một riêng biệt nào đó: ký ức hay quan sát, cãi vả hay điên loạn, trốn tránh hay đối mặt, hài hước hay bi đát...hay là
một vài thứ ấy cộng lại hoặc là tất cả...Ngôn ngữ đã tồn tại như thế và luôn luôn là bất định bởi vì nó luôn luôn dịch chuyển,
và chỉ có thứ ngôn ngữ bất định ấy (bằng nhiều phương thức, ví dụ cắt dán...) thì mới có thể nói đến cái bất định của một
hiện thực hỗn mang và luôn luôn là hỗn mang.
 
Trên cơ sở này, các nhà văn hậu hiện đại làm làm cuộc xóa bỏ hay là cắt rời những “đại tự sự”, tức những hệ tư tưởng,
 
những hệ triết học đã từng đặt định, chi phối những cảm quan con người, và vì thế, đã từng đặt định và chi phối hiện thực,
 
đẩy hiện thực đã trở thành huyền thoại – một hướng huyền thoại hóa hiện thực dựa trên một niềm tin bất biến về thế giới.  
Trong cái nhìn toàn cầu hóa hiện nay, dịch chuyển là một tồn tại đang tồn tại, dịch chuyển không gian và dịch chuyển thời
gian. Trên cái bề mặt bé tý của màn hình ở bây giờ, chúng ta chứng kiến, chạm vào (bằng mắt và tai), tham gia (vì bị chi BÀI NỔI BẬT
phối) và sống (hút vào cho ta) trong thứ bao la của thời-không.Và vì thế, hiện thực trở thành một hiện thực ảo, nghĩa là một
hiện thực trong mơ, một hiện thực thực-phi thực. Đến đây thì trò chơi ngôn ngữ hóa thành trò chơi của giấc mơ hay là ngôn Từ «Sự Ðụng Ðộ Giữa Các Nền Văn Minh» v
Nhân Chủng Học nhìn lại Chủ Nghĩa Tương
ngữ giấc mơ. Các nhà hậu hiện đại chủ nghĩa đã bằng chính thứ ngôn ngữ ấy làm một cuộc phục chế cái hiện thực ảo hóa Ðối Văn Hoá
kia như một khả thể, và luôn luôn là một khả thể. Vì không như thế thì hiện thực không còn là hiện thực ảo hóa. Giải thuộc địa và hậu thuộc địa
Hiện tượng đa nghĩa (từ khả thể văn bản) trong sáng tác của các nhà văn hiện thực khác với hiện tượng đa nghĩa của các Nguồn sáng Vũ Ngọc Phan
nhà văn hiện đại chủ nghĩa, và đến lượt mình, hiện tượng đa nghĩa của các nhà văn hậu hiện đại khác với của các nhà văn Hoàng Nguyên, người nhạc sỹ lãng mạn và
hoa
hiện đại chủ nghĩa. Tính đa nghĩa của chủ nghĩa hiện đại dựa trên các tầng giao lưu của ngôn ngữ với hiện tượng liên văn
Lá bài tẩy trong Chiến Tranh Thương Mại M
bản bề mặt, logic, còn hậu hiện đại là hiện tượng liên văn bản phi thực, nghĩa là kết hợp, cắt dán bất định. Chính vì thế mà
Trung
văn bản tác phẩm của chủ nghĩa hậu hiện đại là một khả thể bất định, nghĩa là nó là đầu mối của những diễn dịch bất định, 80 năm thành lập ấp Hà Đông (Đà Lạt): Tổn
từng lúc khác nhau , từng chỗ khác nhau , và cứ thế. Nó phi hệ thống hay là một hệ thống luôn luôn mở. Giấc mơ là một mê đốc Hoàng Trọng Phu có vai trò như thế nà
lộ. Đây là nơi gặp gỡ của truyện ngắn Công viên những lối đi rẽ hai ngả của Jorge Luis Borges  với Cuộc nổi lọan của người Thi tốt nghiệp THPT: Nên hay không?
Da Đỏ của Donald Barthelme*. Nguy cơ từ một nền giáo dục gian lận
Phản biện Huntington: Sự đụng độ của các
2.
định nghĩa
Cả hai truyện ngắn hình như đều khởi đầu với lịch sử, với một sự kiện lịch sử và khép lại cũng với sự kiện lịch sử ấy ở chỗ Những giá trị tích cực và hạn chế trong nhâ
trôi chảy của nó, tức ở chỗ sự kiện lịch sử hoàn tất (trong văn bản và chỉ trong văn bản). Trong truyện ngắn của Borges, sinh quan của người Việt
Nhớ anh Mai Khắc Ứng

www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/1320-thuc-va-phi-thuc-trong-truyen-ngan-cong-vien-nhung-loi-di-re-hai-nga-cua-jorge… 1/22
5/8/2021 THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI L…
nhiệm vụ của Yu Tsun được thực hiện: giết chết Albert để báo tin cho Đức bấy giờ là hãy tấn công thành phố Albert; còn Về video ông Trump chiếu cho ông Kim ở
Singapore
trong truyện ngắn của Donald Barthelme thì cuối cùng người Da Đỏ Comanches đã chiếm được thành phố, vì nhân vật tôi 
(người kể chuyện) bị buộc phải cởi thắt lưng và dây giày. Và vì thế, chúng ta có cảm giác là cả hai truyện hay là diễn biến
của hai truyện là quá trình đi đến chỗ hoàn tất này của lịch sử. THÔNG BÁO GIA HẠN
NỘP HỒ SƠ DỰ TUYỂN PHÓNG VIÊN
Một sự thật lịch sử mở ra Công viên những lối đi rẽ hai ngả* là về Liddell Hart. Liddell Hart có tên đầy đủ là Sir Basil Henry
Liddell Hart (1895-1970), trước khi được phong tước Hiệp sĩ thì ông được gọi là Captain B. H. Liddell Hart, một sử gia và lý Tạp chí Văn hóa Nghệ An gia hạn nộp hồ sơ dự
tuyển phóng viên thêm 1 tháng (từ 03/7-03/8/2019).
thuyết gia quân sự người Anh. Tác phẩm của Liddell Hart viết về cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất là The Real War
Các ứng viên dự tuyển nếu ở xa có thể gửi file mềm
(1914-1918) xuất bản vào năm 1930, về sau nó được in lại có bổ sung mở rộng năm 1934, và có tên là A History of the
hồ sơ qua Email:tapchivanhoanghean@yahoo.com
World War (1914-1918). Trong truyện ngắn của mình, Jorge Luis Borges nhắc đến một sự kiện lịch sử mà ông ghi  trích từ
                                                  VĂN HÓA NGHỆ AN
trang 22 trong quyển sách của Liddell Hart. Đó là kế họach tấn công của 13 sư đoàn Anh vào trận tuyến Serre-Montauban
vào ngày 24 tháng 7 năm 1916 phải hoãn lại đến sáng 29 tháng 7 năm 1916 vì những trận mưa rào như trút nước.  
 
Về số trang trong sách của Liddell Hart, hiện nay có ít nhất là hai bản dịch ra tiếng Anh ghi điểm này khác nhau: bản dịch
của Helen Temple và Ruthven Todd  ghi “In his A History of the Worl War (page 212), Captain Liddell Hart report that…”
trong khi đó bản dịch (mà chúng tôi sử dụng) của Donald A. Yates ghi “ On page 22 of Liddell Hart’s History of World War I
you read that…” Việc ghi số trang là 22 và 212 có lẽ là do người dịch ghi nhầm hoặc do lỗi in ấn . Nhưng nếu so sánh đọan
văn trên của Jorge Luis Borges với nội dung đọan trích từ sách của Liddell Hart, chúng ta sẽ thấy có sự khác biệt rất lớn.
Sau đây là đọan viết trong sách The Real War (1930): “The bombardment began on June 24; the attack was intended for
June 29, but was later postponed untill July 1, owing to amomentary break in the weather…the assaulting troops,…after
being keyed up for the effort, had to remain another forty-eight hours in cramped trenches under the exhausting noise of
their own gunfire and the enemy’s retaliation – conditions made worse by torrential rain which flooded the trenches.”[1] Theo
Robert L. Chibka đọan trích này không phải ở trang 212, cũng không phải ở trang 22 mà là ở trang 233-34 của sách The
Real War, còn trong sách A History of World War thì ở trang 314-15.

Về số trang ghi trên hai bản dịch mà chúng tôi vừa đề cập có thể là do người dịch nhầm hoặc do lỗi in ấn, nhưng từ số trang
233-34 hoặc 314-15 trong sách của Liddell Hart lại trở thành trang 22/212 trong truyện của Jorge Luis Borges là một vấn đề
khác. Ngay cả tên sách của Jorge Luis Borges cũng thế. Ít nhất hiện nay chúng ta có ba tên sách khác nhau trong ba bản
dịch: bản dịch của Nguyễn Trung Đức là Lịch sử chiến tranh châu Âu, bản dịch của của Helen Temple và Ruthven Todd là A
History of the Worl War và bản dịch của Donald A. Yates là History of World War I. Đặc biệt, về ngày tháng và cách thức của
cuộc tấn công, chúng ta cần chú ý đến độ lệch giữa sự thật lịch sử với những gì được nhân vật người kể chuyện thứ nhất
trong truyện ngắn của Borges trích dẫn.

Đây là lịch sử theo Liddell Hart: “Cuộc đánh pháo bắt đầu vào ngày 24 tháng sáu; cuộc tấn công được trù họach là ngày 29
tháng sáu, nhưng về sau bị hoãn lại cho đến ngày 1 tháng bảy do sự thay đổi  nhất thời của thời tiết…” Nghĩa là bị hoãn 48
tiếng đồng hồ vì “các điều kiện trở nên tồi tệ do cơn mưa như trút làm ngập các chiến hào”. Và như thế cuộc đánh pháo kéo
dài thành bảy ngày thay vì năm ngày như kế hoạch: “Trận chiến được tiến hành bằng bảy ngày đánh pháo trước, quân Anh
đã bắn hơn 1,7 triệu quả đạn pháo”[2] Ngay sau ngày đánh pháo cuối cùng thì cuộc tấn công nổ ra vào ngày 1 tháng 7 năm
1916 mở màn với Trận đánh Albert (Battle of Albert) kéo dài từ ngày 1 tháng 7 đến ngày 13 tháng 7 năm 1916.

Sự thật lịch sử khúc xạ trong truyện ngắn của Borges như thế đã hàm chứa trong nó cái nhìn lịch sử/cái nhìn về lịch sử hay
là cái nhìn về mối quan hệ giữa lịch sử với hư cấu, tức cái nhìn về biên giới giữa thực với phi thực trong cảm thức thế giới
về thế giới (cảm thức mang tính thế giới về thế giới). Chúng ta cần nhớ là toàn bộ nỗ lực của Yu Tsun với tư cách là một
gián điệp của Đức là thông báo địa điểm bãi pháo của quân Anh mà theo Yu Tsun là Albert (và cuối cùng Yu Tsun giết Albert
như là một cách nhờ báo chí thông báo địa điểm ấy). Toàn bộ nỗ lực của Yu Tsun là vô nghĩa vì trận đánh vẫn được tiến
hành đầu tiên tại Albert, bắt đầu từ ngày 1/7/1916.

Trong Cuộc nổi lọan của người Da Đỏ, Donald Barthelme khởi đầu bằng một sự kiện lịch sử có thật trong lịch sử Mỹ - cuộc
nổi dậy của người Mỹ bản địa Comanche. “Chúng tôi phòng thủ thành phố bằng hết sức có thể. Những mũi tên của người
Comanche bay dày đặc. Những cây chùy của người Comanche gõ cành cạch trên hè phố vàng và mềm. Có những công sự
bằng đất dọc theo đại lộ Mark Clark và các hàng rào được viền bằng dây kẽm sáng lóa.” Hiện nay tộc người Comanche có
khoảng 14.105 người, khoảng một nửa là sống ở Oklahoma, phần còn lại thì tập trung ở Texas, California và New Mexico,
nói tiếng Uto-Aztecan*. Người Comanche vốn làm nghề săn bắn và hái lượm, sống tại những đồng bằng và những ngọn đồi
thấp nơi thảo nguyên rộng lớn của vùng Bắc Mỹ. Trong lịch sử Mỹ, cuộc chiến tranh Texas-Da Đỏ, tức cuộc chiến tranh
giữa những người thực dân  với các tộc người Da Đỏ sống tại thảo nguyên Bắc Mỹ, kéo dài nửa thế kỷ từ  1820 đến 1875.
Trận đánh cuối cùng là do vị tù trưởng cuối cùng của nhóm những người thuộc bộ tộc Comanche là Quanah Parker chỉ huy.
Trong lịch sử, Quanah Parker không thất trận và ông không hề bị bắt nhưng cuối cùng vào ngày 2 tháng 6 năm 1875 ông
quyết định đầu hàng và cùng với nhóm bộ tộc Comanche đi đến Fort Sill, nơi dành riêng cho người Da Đỏ tại Oklahoma.
Quanah Parker mất tại đây vào năm 1911.

Rất có thế cuộc nổi dậy của người Comanche mà Donald Barthelme đề cập tới là  trận chiến cuối cùng được chúng tôi nhắc
đến trên đây. Nhưng toàn bộ trận đánh không diễn ra trong một thành phố hiện đại như được miêu tả trong Cuộc nổi lọan
của người Da Đỏ. Hơn nữa kết thúc của trận đánh cuối cùng này là nhóm người Comanche đầu hàng chứ không phải họ
chiến thắng như trong truyện ngắn của Donald Barthelme. Những dịch chuyển như thế của lịch sử trong truyện ngắn của
Donald Barthelme là xảy ra dưới áp lực của những tác động hiện tại/ hiện đại (ví dụ, cuộc chiến tranh Việt Nam, phong trào
đòi bình đẳng của người Da Đen bấy giờ…).Chính áp lực này tạo thành thứ không gian cong (theo kiểu của Einstein) trên
đó các sự kiện lịch sử của thứ thời gian quá khứ hiện lên thành ra biến dạng, thậm chí lộn đầu.

Lịch sử là vấn đề của thời gian. Mọi lịch sử đều bất định trong thời gian và trong không gian. Đó là một sự thật lịch sử. Vì
thế viết về lịch sử bao giờ cũng là một khả thể bởi vì bản thân lịch sử là một khả thể, nó tồn tại trong những diễn dịch khác
nhau khi những mối quan hệ là vô hạn. Jorge Luis Borges  nói như thế và Donald Barthelme cũng nói như thế. Từ đây, cái
nhìn thực-phi thực của chủ nghĩa hậu hiện đại xuất hiện như một thái độ và cách ứng xử dân chủ đối với các mối quan hệ
văn bản (ví dụ, người đọc với văn bản, hiện thực với văn bản, lịch sử với văn bản, nhà văn với văn bản…).

Trong Công viên những lối đi rẽ hai ngả, lịch sử luôn luôn được đính chính là vì thế; các sự kiện hình như luôn xuất hiện bất
ngờ, không trùng khớp là vì thế, và cũng vì thế mà đôi khi chúng được thay thế đến buồn cười, ví dụ trường hợp tên nhân
vật Stefan Albert với địa danh Albert thuộc khu hành chánh Somme ở miền bắc nước Pháp. Chúng tôi chỉ xin nêu ra một số
trường hợp đính chính:

-                                        Theo người kể chuyện thứ nhất thì nguyên nhân sự chậm trễ hay là hoãn cuộc tấn công như Liddell Hart
chú thích là do trận mưa như trút nước, và sự trì hoãn đó là vô nghĩa. Sự kiện trì hoãn này hay là nguyên nhân của sự trì
hoãn này đã được đính chính bằng những tường trình của Yu Tsun mà theo người kể chuyện thứ nhất (có thể là tác giả) là
đã rọi thứ ánh sáng không nghi ngờ lên toàn bộ sự vụ. Nhưng ngay khi được khẳng định như thế, tức là khẳng định những
lời tường trình của Yu Tsun sẽ rọi thứ ánh sáng sáng rõ lên toàn bộ sự vụ, thì sự kiện cũng lập tức được đính chính là “Tài
liệu thiếu mất hai trang đầu”. Và như thế, cái nếp gấp vừa nêu trên của truyện là cái nếp gấp của đính chính lịch sử hay là
cái nếp gấp đẩy cái tưởng là thực vào phi thực hoặc đem cái phi thực tưởng là thực để đính chính cho cái thực (có nhưng
không chính xác).

www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/1320-thuc-va-phi-thuc-trong-truyen-ngan-cong-vien-nhung-loi-di-re-hai-nga-cua-jorge… 2/22
5/8/2021 THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI L…
-                                        Ngay trong phần đầu lời tường trình của Yu Tsun, tình hình đính chính, diễn dịch lại xảy ra liên tục. Ví dụ,
về sự có mặt của đại uý Richard Madden, một sĩ quan Anh, trong căn phòng của Viktor Runeberg, một gián điệp người Đức
hoạt động cùng với Yu Tsun, đã được Yu Tsun diễn dịch từ giọng trả lời qua điện thoại và cho rằng như thế (tức sự hiện
diện của Richard Madden trong phòng của Viktor Ruenberg) là “chấm dứt những lo lắng của chúng tôi”, rồi lại đính chính
“nhưng điều đó đã hình như là, hoặc có thể đã hình như là, rất không quan trọng đối với tôi”, rồi tiếp tục diễn dịch “cũng có
nghĩa là chấm dứt cuộc đời chúng tôi”. Sau đó, lại diễn dịch lần nữa, “Có nghĩa là Runeberg đã bị bắt và bị giết rồi.”
(“Madden’s presence in Viktor Ruenberg’s apartment meant the end of our anxieties and - but this seemed, or should have
seemed, very secondary to me - also the end of our lives. It meant that Runeberg had been arrested or murdered”). Điều thú
vị là ngay chi tiết này lại được người xuất bản/người biên tập (editor) chú thích có tính đính chính: “ (Một) giả thuyết oán hận
(hateful/đáng ghét) và nực cười. Điệp viên người Phổ tên là Hans Rabener với biệt danh là Viktor Ruenberg, bằng một khẩu
súng lục tự động tấn công kẻ phát ngôn lệnh bắt, đại uý Richard Madden. Người này, để tự vệ, đã gây cho anh ta nhiều vết
thương đưa đến cái chết (Ghi chú của người xuất bản)”. Và cứ thế, cả tác phẩm liên tục những đính chính, diễn dịch lại. Xin
hãy đọc đoạn cuối bản tường trình của Yu Tsun: “Những thứ khác là không có thật, là vô nghĩa (Người viết nhấn mạnh).
Madden cắt ngang câu chuyện và bắt ta. Ta bị phán quyết tội chết treo. Ta đã thắng một cách ghê gớm; ta kịp thời thông
báo cho Berlin biết tên bí mật của thành phố cần phải tấn công. Hôm qua máy bay đã dội bom nó; ta đọc tin đó trên chính
những tờ báo đã đặt cho nước Anh sự kiện đau đớn này: nhà ngôn ngữ học thông thái Stefan Albert đã chết vì bị một kẻ lạ
mặt hạ sát, kẻ đó là Vũ Tuấn (Yu Tsun). Thủ Lĩnh đã giải được sự kiện đau đầu ấy. Người biết rằng vấn đề của ta là chỉ ra
(thông qua tiếng nổ vang dội của chiến tranh) cái thành phố được gọi tên là Albert và rằng ta không có biện pháp nào hơn là
việc phải giết một người mang cái tên ấy. Người không hiểu (không một ai có thể hiểu) nỗi hối hận và mệt mỏi vô bờ
của ta.” (Người viết nhấn mạnh). Những lời đính chính cuối cùng này của Yu Tsun khiến cho câu chuyện về Stefan Albert,
về cái chết của Stefan Albert, về con người của Yu Tsun, về sự kiện dội bom thành phố Albert của quân Đức (mà thực tế là
không xảy ra)..., tất cả hiện ra dưới một thứ ánh sáng vô định.

-                                        Chúng tôi xin trở lại chỗ nếp gấp của truyện, tức từ chỗ chuyển từ lời của nhân vật thứ nhất (người kể
chuyện, có thể là tác giả) sang lời của Yu Tsun (Vũ Tuấn), mà trên đây chúng tôi gọi là nếp gấp của đính chính, để có thể rõ
thêm về bản tường trình của Yu Tsun. Trước hết, chúng tôi ghi ra đây một đoạn trong bản tiếng Anh mà chúng tôi sử dụng
để so sánh khi cần thiết: “The following statement, dictated, reread and signed by Dr. Yu Tsun, former professor of English at
the Hochschule at Tsingtao, throws an unsuspected light over the whole affair. The first two pages of the document are
missing.” Chúng ta có thể hình dung là toàn bộ phần còn lại của truyện Công viên những lối đi rẽ hai ngả là lời cung khai
của Yu Tsun. Để có được lời cung khai (mà người kể chuyện gọi là bản tường trình/báo cáo) này thì Yu Tsun đã đọc cho
người khác ghi (dictated), rồi Yu Tsun đọc lại (reread) và cuối cùng đồng ý với những nội dung mình đã cung khai trên nên
Yu Tsun đã ký tên (signed). Lời cung khai đầy những đính chính như chúng ta đã thấy của Yu Tsun nhưng nhân vật người
kể chuyện lại cho là đã rọi một ánh sáng sáng rõ lên toàn bộ sự vụ. Hơn nữa trong lời cung khai của Yu Tsun có cả câu
chuyện của tổ tiên Yu Tsun là  Ts’ui Pên (Thôi Bân) tưởng/nghĩ như không có gì liên hệ tới sự vụ làm gián điệp của Yu Tsun
vẫn được ghi chép đầy đủ. Và như thế, những sự kiện lịch sử bị phủ lên một màn sương mù phi thực, mặc dù, nếu cố gắng
chúng ta cũng có thể liên hệ câu chuyện mê lộ (labyrinth) với thứ chiến hào chằng chịt tại mặt trận Albert bấy giờ. Nhưng đó
cũng có thể là một liên hệ khiên cưỡng. Thực ra, từ labyrinth (mê lô) này bấy giờ đã được sử dụng trong ít nhất là một tin
trên tờ Daily Mirror về mặt trận Somme (The Battle of the Somme) được phát hành vào ngày 31 tháng 7 năm 1916: “We
break into German forward defences on front of 16 miles. Serre, Montauban, La Boiselle and Fricourt taken: German
labyrinth of trenches on seven-mile front to depth 1,000 yards captured. Prisonners: 3,500.”[3] Rất có thể Jorge Luis Borges
đã đọc được một trong những tin như thế, và chính từ labyrinth tình cờ trong một cái tin nào đó đã bừng lên một con đường
đi vào Công viên những lối đi rẽ hai ngả. Nhưng đó có thể là một suy diễn khiên cưỡng. Dù vậy, ở đây chúng ta lại bắt gặp
sự khúc xạ của lịch sử trong cái nhìn sáng tạo của người nghệ sĩ hậu hiện đại là Jorge Luis Borges để cái thực và phi thực
hiện ra đồng thời, dắt dẫn một cuộc đồng hành của quá khứ với hiện tại, hay đúng hơn của quá khứ với một quá khứ khác
trên cái nền những vấn đề hiện tại, của vô thức với thứ ý thức đã lọc qua màn hư cấu của sáng tạo. Cuộc đồng hành đó,
theo chúng tôi, là sự đính chính mang tính lịch sử về hành trình sáng tạo của người nghệ sĩ và là sự đính chính về sự thực
lịch sử của những hành trình đời người và thế giới. Những điểm này nảy sinh từ câu chuyện mê lộ và quyển tiểu thuyết
dang dở của Ts’ui Pên.

-                                        Tại đây, chúng ta có thể nói thêm về chuyện Yu Tsun tìm đến Stefan Albert. Chúng ta có thể hình dung là
sau khi nắm được Bí Mật (the Secret*), tức là địa đểm bãi pháo mới của quân Anh, Yu Tsun tìm cách để thông báo cho Thủ

Lĩnh (the Chief) ở Berlin – một Thủ Lĩnh được Yu Tsun miêu tả là con người bệnh họan, đáng ghét và vô cảm, không biết gì

về Yu Tsun và Ruenberg ngoại trừ việc cả hai đang sống ở Staffordshire – trong tình trạng chính Yu Tsun đang bị Madden

truy đuổi. Thế là Yu Tsun nảy ra một ý định, nảy ra một kế họach và lục lại cái túi lấy ra đủ thứ bà chằng với khẩu súng lục

có một viên đạn; kế họach hiện ra rõ hơn: “Ta lơ mơ nghĩ rằng: tiếng súng lục có thể nghe được từ rất xa. Trong mười phút,

kế họach của ta đã chín muồi.” Và ngay lúc ấy Yu Tsun đọc thấy tên của Stefan Albert trong quyển sổ ghi số điện thoại (the

telephone book*). Chúng ta có thể nói rằng (theo logic thông thường của cách kể chuyện truyền thống) những ý tưởng,

những ý kiến nhận xét, đánh giá của Yu Tsun về viên Thủ Lĩnh ở Berlin, về nước Đức là xuất phát từ tình thế bị bắt phải

cung khai của Yu Tsun lúc đó (tức lúc đã bị bắt và buộc phải viết bản cung khai này) nhưng cái cách Yu Tsun gắn tên của

thành phố Albert với tên của một người Anh sống ở Pháp (theo Yu Tsun) và tình cờ tìm ra chỗ ở của Stefan Albert từ cái

danh sách trên sổ danh bạ điện thoại là hoàn toàn ngẫu nhiên – cái ngẫu nhiên khiến biên giới thực-phi thực thành bất định

(vì tạo sự nghi ngờ nơi người đọc). Và sự bất định lại được đẩy đến cao độ khi ta nghe lời cung khai có tính đánh giá của

Yu Tsun về Stefan Albert và sự gắn kết cục diện cuộc chiến tranh do Đức tiến hành bấy giờ với một người da vàng mang vô

vàn những vị tổ tiên của gia đình, chủng tộc trong người là Yu Tsun: “Hơn nữa, ta biết một ông người Anh – một con người

khiêm tốn mà với ta, ông không kém Thi sĩ Goethe. Trước một giờ ta đã không nói chuyện với ông, nhưng trong khỏang một

giờ nữa ông sẽ là Goethe**…Ta làm điều đó vì cảm thấy rằng Thủ Lĩnh hơi sợ những người thuộc chủng tộc*** ta – sợ vô

vàn những bậc tiền bối vốn hội tụ trong ta. Ta muốn chứng minh cho Người biết rằng một người da vàng có thể cứu quân

đội của ngài.” Rõ ràng đây là cuộc dịch chuyển bất định chuẩn bị cho sự xuất hiện của câu chuyện mê lộ và quyển tiểu

thuyết của Ts’ui Pên. Chuyến đi đến làng Ashgrove của Yu Tsun như chuyến đi của Jung trong một giấc mơ mà ông đã kể

với Freud- chuyến đi xuống dần và ngược thời gian. Chúng ta cũng cần để ý thêm rằng những địa danh như Staffordshire*,

Fenton, Ashgrove…được Borges đưa ra ở đây là không đáng tin cậy, chỉ là sự gắn kết tình cờ và bất định, kể cả cái chuyện

những con người mà Yu Tsun gặp trên đường, có người đọc cả Annals của Tacitus**. Tất cả hiện ra ngẫu nhiên, tình cờ,

www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/1320-thuc-va-phi-thuc-trong-truyen-ngan-cong-vien-nhung-loi-di-re-hai-nga-cua-jorge… 3/22
5/8/2021 THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI L…
đứt gãy như trong một giấc mơ. Cái biên giới của thực và phi thực trở nên mong manh hơn bao giờ hết hay là không có thứ
biên giới như thế. Nhà văn hậu hiện đại hình như hướng đến cách tạo ra các tình huống gắn kết các chi tiết, yếu tố kiểu đó
để người đọc tự đính chính và xây dựng một văn bản của riêng họ-một văn bản phi đại tự sự.

Lịch sử hay là những sự kiện lịch sử, như chúng ta đã thấy, cũng xuất hiện dưới dạng thực-phi thực trong Cuộc nổi lọan của
người Da Đỏ, nhưng thay vì bị đính chính, lịch sử ấy luôn bị cắt dán bất định. Có lẽ cái kỹ thuật cắt dán (collage) đã được
Donald Barthelme vận dụng đến chỗ gần như tận cùng của nó, và vì thế lịch sử đi xuyên qua thời gian, xuôi ngược, đứt nối
bất định.

- Trước hết, chúng tôi xin lần lượt chú thích sơ lược các tên riêng được Donald Barthelme nhắc đến trong truyện ngắn Cuộc
nổi lọan của người Da Đỏ. Đây là công việc làm thủ công như một kiểu tái tạo:

 Mark Clark: Mark Wayne Clark (1896-1984) là vị tướng Mỹ phục vụ trong Thế chiến hai và trong cuộc chiến tranh Triều
Tiên.

Gabriel Urbain Fauré (1845-1924) là một tác gia âm nhạc người Pháp nổi tiếng nhất trong thế hệ của ông; phong cách
nhạc của ông có ảnh hưởng đến nhiều tác giả âm nhạc thế kỷ 20.

Alfred Habdank Skarbek Korzybski (1879-1950) là một triết gia và đồng thời là nhà khoa học người Mỹ gốc Ba Lan. Ông
là người phát triển lý thuyết ngữ nghĩa học.

Zouave là tên gọi những trung đoàn bộ binh Pháp phục vụ tại Bắc Phi vào giữa những năm 1831-1962. Tên gọi này cũng
được những đơn  vị quân đội khác sử dụng từ thế kỷ 19, đặc biệt những đoàn quân tình nguyện phục vụ trong cuội Nội
chiến Mỹ.

Chester William Nimitz (1885-1966) là một Đô đốc Hải quân Hoa Kỳ. Ông là Tổng tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương của
Mỹ và là Tổng tư lệnh khu vực Thái Bình Dương của lực lương hải, lục không quân của Mỹ và đồng minh trong Thế chiến
hai…

IRA: Quân đội Cộng hòa Ailen.

George Calett Marshall, Jr. (1880-1959) là nhà lãnh đạo quân đội Mỹ, Bộ trưởng Quốc phòng. Trong Thế chiến hai, ông là
“người tổ chức chiến thắng”; cùng với Winston Churchill, ông làm nên thắng lợi của quân Đồng minh. Ông từng là cố vấn
quân sự cao cấp cho Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt. Và với kế họach Marshall, ông nhận được giải Nobel Hòa Bình
năm 1953.

Jonathan Mayhew “Skinny” Wainwright IV (1883-1953) là sĩ quan quân đội Mỹ, chỉ huy lực lượng Đồng minh tại
Philippines trong thời Thế chiến thứ hai khi Philippines đầu hàng phát xít Nhật.

Abraham Lincoln Brigate là những người Mỹ tình nguyện trong Lữ đoàn Quốc tế phục vụ cuộc Nội chiến Tây Ban Nha,
chống phát xít Franco.

Benjamin Franklin Wedekind (1864-1918) thường được gọi là Frank Wedekind, là một kịch tác gia người Đức. Tác phẩm
của ông được coi là dự báo cho sự ra đời của chủ nghĩa biểu hiện, và ông có một ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển
của sân khấu sử thi.

Gustave Aschenbach: Còn gọi là von Aschenbach, nhân vật trong tiểu thuyết Death in Venice (1912) của Thomas Mann. 
Trong nhật ký, Thomas Mann đã kể việc ông chống lại sự lôi cuốn của tính dục như thế  nào, và sự ciệc ấy được phản ánh
trong các tác phẩm, các nhân vật của ông , đặc biệt trong nỗi ám ảnh của nhân vật Gustave Aschenbach.

Jean-Luc Godard (sinh năm 1930) là một đạo diễn người Pháp

Chúng ta có thể nhận ra rằng trừ một số tên tuổi liên quan đến các lĩnh vực ngôn ngữ, nghệ thuật, tất cả những tên tuổi còn
lại đều liên quan đến chiến tranh. Cuộc nổi dậy của người Da Đỏ Comanche của thế kỷ 19 đã hiện lên trên cái nền hiện đại
với các tên tuổi của Mỹ gắn với những cuộc chiến tranh của thế kỷ 20, đặc biệt Thế chiến hai. Đây là lớp cắt dán đầu tiên,
tạo tầng nền cho một cách đọc lịch sử: một lịch sử đã bị khúc xạ hiện lên trên cái nền lịch sử khác khi mà một vấn đề lịch sử
tương tự đang được đặt ra: cuộc nổi dậy/ cuộc khởi nghĩa của người Việt Nam trong chiến tranh Việt Nam bấy giờ. Donald
Barthelme đã từng phát biểu về chiến tranh Việt Nam khi ông đề cập đến những vấn đề của Cuộc nổi loạn của người Da
Đỏ. Donald Barthelme cho rằng “Nó (tức truyện ngắn Cuộc nổi lọan của người Da Đỏ) phần nào đó là một phản ứng đối với
chiến tranh Việt Nam”[4]. Trong trường hợp này, lịch sử không yêu cầu đính chính hoặc thực hiện các kết nối bất ngờ như
trong Công viên những lối đi rẽ hai ngả của Jorge Luis Borges mà nó đòi hỏi sự nhìn nhận nó thông qua cách suy tưởng lộn
đầu, nghĩa là nhìn nhận nó thông qua một lịch sử khác tác động lên một lịch sử khác nữa. Chúng ta có thể hình dung là
chính đời sống hiện đại của Mỹ trong một bối cảnh có những cuộc đòi bình đẳng của người Da Đen, có những tiếng nói
phản chiến (ví dụ trường hợp Jane Fonda – Hanoi Jane) đã tác động đến thái độ của xã hội, cách nhìn nhận của Donald
Barthelme về chiến tranh Việt Nam đã làm lộn đầu cuộc nổi dậy của người Da Đỏ Comanche ở thế kỷ 19. Đến đây, lịch sử
đã được nhìn nhận ít nhất từ ba tầng tác động: sự chiến thắng của người Da Đỏ Comanche, cuộc nổi dậy của người
Comanche xuất hiện trong xã hội hiện đại Mỹ, cuộc nổi dậy ấy đồng thời xuất hiện trong bối cảnh một cuộc khởi nghĩa khác
đang thu hút nhiều chú ý (nhưng không được nhắc đến trong truyện): cuộc nổi dậy của người Việt Nam trong chiến tranh
Việt Nam. Lịch sử cuộc nổi dậy của người Da Đỏ Comanche được nhìn nhận lại như một dự báo về cuộc chiến tranh Việt
Nam hay là cuộc chiến tranh Việt Nam với những tác động của nó đã tạo nên những nhìn nhận lại cần thiết của lịch sử. Con
đường đi của cái nhìn thực-phi thực về lịch sử đã xuất hiện như thế.

Chúng tôi chỉ mới chú ý đến hiện tượng xếp chồng lên nhau của các yếu tố lịch sử. Nếu chúng ta chú ý đến các yếu tố khác
gắn kết với cuộc nổi dậy của người Da Đỏ Comanche thì tình hình sẽ trở nên phức tạp hơn, nghĩa là tính bất định trở nên
đậm đặc. Mở đầu truyện là mũi tên của người Comanche: “Những mũi tên của người Comanche bay dày đặc.” Và ở một
nơi khác, “những mũi tên bốc lửa soi đường tôi đi tới trụ sở bưu điện ở quảng trường Patton nơi những thành viên của
Abraham Lincohn Brigade mời chào những lá thư, bưu thiếp, những tấm lịch cuối cùng tả tơi của họ. Tôi mở một lá thư ra
nhưng bên trong là một đầu mũi tên bằng đá lửa của người Comanche do Frank Wedekind trình bày trong một sợi dây
chuyền vàng trang nhã cùng những lời chúc mừng.”

Chúng ta có thể hình dung (cùng một số chú thích bắt buộc của chúng tôi) những thứ được Donald Basrthelme viết ra trong
đoạn văn trên như sau đây: Cuộc chiến (trong thời hiện đại) như đang diễn ra với những mũi tên bay dày đặc của người
Comanche (tại một thành phố bất kỳ nào đó của Mỹ), và những mũi tên bốc lửa dẫn đường (như là thứ ánh sáng hay đèn
điện soi đường) nhân vật người kể chuyện thuộc nhóm người (có lẽ là những ngượi thực dân Anh thời đó hay là những
người Mỹ da trắng hiện đại của những năm 1960) chống lại người Comanche đi đến một quảng trường bất kỳ nào đó có tên
là Patton (quảng trường Patton có ở nhiều thành phố khác nhau của Mỹ), và tại đây nhân vật lại gặp nhóm người Mỹ tình
nguyện trong Lữ đoàn Quốc tế phục vụ trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, chống phát xít Franco (của những năm 1937-
1939). Nhưng những người lính tình nguyện này đang mời chào những bưu thiếp, những bức thư, những tấm lịch (cần chú
ý sự khác nhau của mấy thứ này), và trong một trong những bức thư (có thể có giá trị mang một thông điệp) như thế, nhân
vật xưng tôi mở ra và bắt gặp một đầu mũi tên bằng đá lửa của người Comanche (lại mũi tên và lửa/đá lửa), nhưng mũi tên
đá lửa này đã được một kịch tác gia người Đức, sinh năm 1930, mà tác phẩm của ông được coi là dự báo của chủ nghĩa

www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/1320-thuc-va-phi-thuc-trong-truyen-ngan-cong-vien-nhung-loi-di-re-hai-nga-cua-jorge… 4/22
5/8/2021 THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI L…
biểu hiện và có ảnh hưởng đến sự phát triển của sân khấu sử thi, là Fank Wedekind “trình bày trong một sợi dây chuyền
vàng trang nhã với những lời chúc mừng” (mũi tên đá lửa của người Comanche đã chuyển công năng, trở thành một thứ
trang sức kèm lời chúc mừng, và dĩ nhiên chúng ta sẽ không bao giờ biết là chúc mừng gì).

Chúng ta thử tiếp tục thao tác như vậy đối với việc tra tấn tù binh Comanche và buộc cung khai sau đây: “Chúng tôi nối dây
điện vào hòn dái tên Comanche bị bắt... Khi chúng tôi gạt cầu dao thì y nói. Tên y là, y nói, Gustave Aschenbach. Y ra đời ở
L., một thị trấn thuộc tỉnh Silesia. Y là con của một viên chức cấp cao của ngành tư pháp, tổ tiên của y đều là  các quan
chức, thẩm phán, viên chức cấp bộ...” Chuyện tra bằng điện thôi thì không có vấn đề gì nhưng tại sao lại ghim dây điện vào
hòn dái (trò tra tấn hay là trò chơi của thứ ức chế tính dục). Và tên của một tù binh Comanche lại trùng tên với nhân vật
trong tác phẩm của Thomas Mann, đặc sệt châu Âu; còn xứ sở Silesia của y là bất định (vì Silesia có thể ở Montana nhưng
cũng có thể là vùng đất cổ của Slovekia…), và tổ tiên y đều là quan chức của chính quyền (Mỹ) (là một điều không thể tin
được)

 Và cứ thế, lịch sử cứ được chồng lên bởi những thứ phi lịch sử hay là những thứ lịch sử phi lịch sử (theo nghĩa chúng ta
thường hiểu đối với từ lịch sử là những thứ thăng trầm gắn liền với số phận một quốc gia), cứ bị đính chính (nhân vật đính
chính, người biên tập đính chính, người kể chuyện đính chính…), cứ bị đứt nối, cứ bị cắt dán bất định… Và cứ thế, cái nhìn
thực-phi thực hiện ra qua thứ ngôn ngữ của giấc mơ: gắn kết bất định của những ám ảnh, do những ám ảnh - ám ảnh cá
nhân và cả ám ảnh tập thể. Cả hai truyện ngắn , một của Jorge Luis Borges và một của Donald Barthelme, đều là như thế,
đều là siêu hư cấu/siêu truyện (metafiction). Cả hai đều cho thấy rằng tác giả của chúng hướng tới tác động “bất khả tín” đối
với người đọc : “Làm gì có chuyện như thế”, người đọc nói. Thế là ngay lúc ấy người đọc được đẩy tới trạng thái tỉnh táo
cùng cực và nhận ra rằng tác phẩm là một văn bản hư cấu, một thứ trò sáng tạo ngôn ngữ; tất cả những thứ được nói đến
trong nó chỉ tồn tại trong ngôn ngữ của nó, trước đó chưa có và sau đó cũng không có. Và tác phẩm, như thế, là một siêu
hư cấu khi nó, “một cách tự ý thức và có hệ thống đã thu hút sự chú ý (của người đọc…) đối với bản thân nó như là một thứ
tạo tác nhằm đặt ra những câu hỏi về mối quan hệ giữa hư cấu với hiện thực.”[5]

3.

Trên đây chúng tôi đã phần nào khảo sát “cách đọc” lịch sử của Jorge Luis Borges trong truyện ngắn Công viên những lối đi
rẽ hai ngả và của Donald Barthelme trong truyện ngắn Cuộc nổi loạn của người Da Đỏ bằng thứ ngôn ngữ giấc mơ, đứt nối
bất định theo nhiều cách khác nhau và đi đến việc chỉ ra rằng cả hai đều là siêu hư cấu/siêu truyện (metafiction). Trong thực
tế từ sau khi thuật ngữ siêu hư cấu được William H. Gass đưa ra trong tiểu luận “Triết lý và hình thức hư cấu” (Philosophy
and the Form of Fiction), năm 1970, thì những công trình nghiên cứu đối tượng này đã đạt được rất nhiều thành tựu và đã
cho thấy rằng hiện tượng siêu hư cấu đã có từ lâu trong văn chương với nhiều dạng khác nhau[6]. Thực ra, hiện tượng này
đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập, khảo sát trước đó nhưng cho đến khi thuật ngữ ra đời thì nó thực sự trở thành mối
quan tâm của trần thuật học, đặc biệt đối với các tác phẩm văn xuôi hậu hiện đại.

Có lẽ sự khác biệt giữa hiện tượng siêu hư cấu của hậu hiện đại với các khuynh hướng/trào lưu khác là ở chỗ siêu hư cấu
của hậu hiện đại được triển khai trên một kiểu văn bản đặc biệt, đó là siêu văn bản* (hypertext).

Tôi xin chép ra đây một định nghĩa hypertext trên Từ điển vi tính trên máy tính hiện nay:

“Siêu văn bản

 Văn bản của một tài liệu truy tìm không theo tuần tự. Người đọc tự do đuổi theo các dấu vết liên quan qua suốt tài liệu đó
bằng các mối liên kết xác định sẵn do người sử dụng tự lập nên.

 Trong một môi trường ứng dụng hypertext thực sự, bạn có thể trỏ vào (highlight) bất kỳ từ nào của tài liệu và sẽ tức khắc
nhảy đến các tài liệu khác có văn bản liên quan đến nó. Cũng có những lệnh cho phép bạn tự tạo cho riêng mình những
dấu vết kết hợp qua suốt tài liệu. Các trình ứng dụng hypertext rất hữu ích trong trường hợp phải làm với một số lượng văn
bản lớn, như các bộ từ điển bách khoa và các bộ sách nhiều tập.”

Và một định nghĩa khác từ Wikipedia:

“Hypertext is text, displayed on a computer, with references (hyperlinks) to other text that the reader can immediately
follow, usually by a mouse click or keypress sequence. Apart from running text, hypertext may contain tables, images and
other presentational devices. Any of these can be hyperlinks; other means of interaction may also be present, e.g. a bubble
with text may appear when the mouse hovers somewhere, a video clip may be started and stopped, or a form may be filled
out and submitted.
The most extensive example of hypertext today is the World Wide Web.”
Chúng ta tạm thời rút ra một số điểm cần thiết về hypertext:
-                                        Tính chất phi tuyến tính trong cấu trúc văn bản và phi cô lập của  văn bản,
-                                        Tính chất tương tác giữa các văn bản liên quan,
-                                        Sự tự do chọn lựa của người sử dụng,
-                                        Tùy theo người sự dụng, văn bản có thể hiện lên theo một chủ đề bất định/tự chọn,
-                                        Văn bản hypertext, vì thế, rất lớn có nhiều mối quan hệ đa dạng. Nó vừa tỉnh vừa động. Văn bản luôn
luôn là một khả thể mà những hiện thể nằm nơi các con chuột/cái kích tay của người sử dụng hay là sự chọn lựa tự do.
-                                        …
Trên đây chúng tôi đã làm một thao tác là đọc theo chủ đề lịch sử đối với hai truyện ngắn trên của Jorge Luis Borges và
Donald Barthelme, nay chúng tôi xin quay lại với câu chuyện. Hiện tượng truyện trong truyện của truyện ngắn Công viên
những lối đi rẽ hai ngả với tư cách là một siêu hư cấu thì quá rõ: câu chuyện về Yu Tsun trùm trên câu chuyện về Ts’ui Pên,
câu chuyện về Albert; câu chuyện về Yu Tsun đánh giá câu chuyện về Ts’ui Pên rồi câu chuyện về Albert đánh giá về câu
chuyện của Ts’ui Pên…Hiện tượng này trong truyện ngắn Cuộc nổi lọan của người Da Đỏ của Donald Barthelme thì khó
nhận thấy hơn. Các nhà nghiên cứu thường đề cập đến hiện tượng song hành và tương tác giữa hai câu chuyện – chiến
tranh của người Comanche và chuyện tình ái của nhân vật người kể chuyện. Hiện tượng song hành này  đủ để cho thấy
tính siêu hư cấu của tác phẩm nhưng, theo chúng tôi, tính siêu hư cấu của truyện còn lộ ra ở điểm tương tác giữa hai câu
chuyện. Ngay từ đoạn văn đầu tiên của truyện chúng ta đã bắt gặp điều này, nó báo hiệu một sự phát triển theo kiểu cấu
trúc siêu hư cấu và siêu văn bản:

“Chúng tôi phòng thủ thành phố bằng hết sức có thể. Những mũi tên của người Comanche bay dầy đặc. Những cây chùy
của người Comanche gõ cành cạch trên hè phố vàng và mềm. Có những công sự bằng đất dọc theo đại lộ Mark Clark và
các hàng rào được viền bằng dây kẽm sáng loá. Mọi người đang cố gắng để hiểu. Tôi nói với Sylvia. “Em có nghĩ cuộc sống
này là tốt đẹp không?” Cái bàn bày đầy những táo, sách, đĩa nhạc. Nàng nhìn lên “Không.””

Không kể đến những hình ảnh chưa có gì rõ ràng về một đời sống hiên đại từ những dòng đầu tiên, ví dụ “hè phố vàng và
mềm”, “hàng rào được viền bằng dây kẽm sáng lóa” hoặc tên đường Mark Clark, chúng ta thử chuyển chú ý đến câu
chuyển hay là một câu có ý định chuyển để nối kết và đồng thời để tạt qua một nẻo khác: “Mọi người đang cố gắng để hiểu”
– một câu viết lấp lửng, tưởng như không có đối tượng, và ngay sau đó là câu hỏi của nhân vật người kể chuyện với Sylvia

www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/1320-thuc-va-phi-thuc-trong-truyen-ngan-cong-vien-nhung-loi-di-re-hai-nga-cua-jorge… 5/22
5/8/2021 THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI L…
(mà sau này chúng ta biết là người tình của nhân vật người kể chuyện). Chúng ta thử (một lần nữa) bố trí theo một hướng
có thể chấp nhận được như sau:

-                                        Nhân vật người kể chuyện hỏi Sylvia là có thấy cuộc sống này tốt đẹp,

-                                        Cuộc sống này được bày ra bằng những hình ảnh (mang tính hiện đại): cái bàn (bày đầy), táo, sách, đĩa
nhạc. (Rồi ra, và vì thế, tác phẩm hay là Donald Barthelme cứ trở đi trở lại với cái bàn.)

-                                        Và câu trả lời của Sylvia: “Không”

Thế là đến đây chúng ta hình như cảm nhận một tương tác trong hai câu chuyện, sự chồng lên nhau của hai câu chuyện,
sự tác động đâu đó của ký ức với lịch sử và hiện đại. Nó như là một đặt định đầu tiên của sự phát triển song hành, tương
tác, đan cài, mở rộng một siêu tự sự thành một siêu văn bản.

Trong một cách nhìn nhất định, siêu văn bản là một mê lộ. Người đầu tiên đưa ra khái niệm siêu văn bản vào năm 1963 là
Ted Nelson.(Tên đầy đủ của ông là Theodor Holm Nelson, sinh năm 1930, là một nhà xã hội học, một triết gia người Mỹ và
là người tiên phong của ngành công nghệ thông tin). Hai năm sau, tức năm 1965, khái niệm siêu văn bản lần đầu tiên được
xuất hiện trong một văn bản in là một bài báo viết về bài thuyết trình của Ted Nelson: “Computers, Creativity, and the Nature
of the Written Word” (Máy vi tính, tính sáng tạo, và bản chất của chữ viết). Sau đó, Ted Nelson phổ biến khái niệm hypertext
trong quyển sách Những cổ máy văn chương (Literary Machines). Bấy giờ theo Ted Nelson siêu văn bản là “ văn bản phi-
liên tục mà những liên kết là do ngươì đọc kiểm soát” (non-sequential with reader-controlled links). Các nhà lý thuyết về siêu
văn bản đã tìm thấy ở truyện ngắn Công viên những lối đi rẽ hai ngả của Jorge Luis Borges một minh hoạ thú vị. Về vấn đề
này, chúng tôi xin trích dịch một đoạn khá dài trong một tiểu luận của Luke Korzun Martin:

“Vận dụng tính siêu văn bản vào truyện ngắn Công viên những lối đi rẽ hai ngả của Jorge Luis Borges, tác phẩm thường
được các nhà lý thuyết siêu văn bản vận dụng, đã chỉ ra cách thức siêu văn bản làm phân hủy những hình thức tự sự tuyến
tính. Tại đây, người kể chuyện so sánh hình thức tự sự tuyến tính, “ Trong tất thảy mọi hư cấu, khi con người đứng trước
những thay đổi khác nhau anh ta chọn một và bỏ đi những cái khác”, với mê lộ ảo rẽ hai liên tục đan dệt giữa một số lượng
vô hạn những thế giới khả thể trong một quyển sách của nhà triết học Trung Hoa là Ts’ui Pên:

“Trong cái hầu như sâu thẳn vô đáy Ts’ui Pên, ông chọn tất cả - cùng một lúc. Như thế, ông sáng tạo  ra những tương lai
khác nhau, những thời gian khác nhau mà những thời gian khác nhau này bắt đầu những thời gian khác rồi đến lượt mình
những thời gian khác này phân nhánh và rẽ hai trong những thời gian khác…Trong tác phẩm của Ts’ui Pên, tất cả mọi kết
thúc khả thể đều xảy ra, mỗi một kết thúc là điểm khởi đầu cho những rẽ hai khác.”

Trong mê lộ của Ts’ui Pên, giống như trong mô hình siêu văn bản, hình thức tự sự (narrative) không phải là một chuỗi
những lựa chọn nhị phân, mà là một mạng vô tận và biến động những rẽ đôi và những hội tụ mà trong đó “tất thảy những
kết thúc khả thể đều xảy ra”. Thay vì nhấn mạnh đến cấu trúc văn bản, siêu văn bản trình diện bản thân như sự vắng  của
chính nó bằng cách mở ra tiềm năng tự sự cho “tất cả mọi khả năng”. Những đối lập nhị phân được tạo ra để cùng tồn tại
trong hình thức tự sự/ truyện lại mâu thuẫn nhau và làm cho nhau bất ổn định, bày ra một văn bản mà trong đó hình thức tự
sự/câu chuyện tự xóa bản thân. Borges thấy trước nghịch lý này của việc tự xóa bản thân trong việc ông miêu tả cách thức,
nơi tác phẩm của Ts’ui Pên, người ta có thể cùng một lúc sống và chết: “Trong [thế giới]* này, trong đó nhờ duyên may giúp

tôi, anh đã đến cổng vườn tôi. Trong lúc/nơi khác, anh, lúc đi ngang qua khu vườn, đã thấy tôi chết rồi. Trong lúc/nơi khác

nữa, tôi nói chính những lời này, nhưng tôi là một sai lầm, một bóng ma”. Sự tự xóa bản thân gắn liền với mô hình siêu văn

bản cung cấp cho nó một dạng giống như quang phổ và sáng tạo cái mà chúng ta có thể nghĩ về nó như thể một văn bản

“ma”, một kết cấu văn bản xốp đến nỗi chúng ta chẳng bao giờ có thể hoàn toàn chắc chắn rằng nó có ở đó hay không.”

 Có lẽ chúng ta cần chú ý đến mấy điểm sau đây:


-                                        Jorge Luis Borges hình như vi phạm đến điều mà chính ông đưa ra thông qua cuộc đối thọai giữa Yu
Tsun với Stefan Albert về bí mật của câu đố. Jorge Luis Borges liên tục nói đến thời gian (dĩ nhiên thông qua cách lý giải của
Stefan Albert) khi đề cập đến Công viên những lối đi rẽ hai ngả “là một câu đố vĩ đại, hay là một ngụ ngôn mà đề tài của nó
là thời gian”.

-                                        Có hai tác phẩm : tiểu thuyết Công viên những lối đi rẽ hai ngả của cụ cố của Yu Tsun là Ts’ui Pên và
truyện ngắn Công viên những lối đi rẽ hai ngả của Jorge Luis Borges. Tác phẩm của Jorge Luis Borges như một lời chú
thích. Đây là hiện tượng lặp lại theo lối vòng tròn xoắn trôn ốc của sự kiện và thời gian. Đây là cách đọc của một metafiction
(truyện lý giải truyện) theo lối đi của siêu văn bản.

-                                        Công viên những lối đi rẽ hai ngả của Borges không chỉ là thứ lý thuyết về siêu văn bản với tư cách là một
mê lộ mà bản thân nó là một mê lộ với những ngả rẽ đính chính, với những nếp gấp bất ngờ, với những ám ảnh hóa thật
mà phi thật như Yu Tsun và cơn ám ảnh mê lộ trước khi gặp Stefan Albert…mà chúng tôi đã có dịp trình bày trên đây. Công
viên những lối đi rẽ hai ngả của Borges là một mê lộ thời gian, vì thế Stefan Albert của hư cấu hóa thành Albert Einstein với
những quan niệm mới mẻ về thời gian, hay đúng hơn về không-thời của vật lý hiện đại. (Chính vì thế, Borges đã nhắc tới
Newton và Shopenhauer). Đây là một cuộc gặp gỡ Đông –Tây thú vị trong siêu văn bản thời-không.

-                                        Chúng ta có thể đọc tác phẩm này từ đầu mối không-thời* của  Albert Einstein (Stefan Albert) thì bấy giờ
số phận vòng tròn đã được biết trước của Yu Tsun, những khác biệt giữa tư liệu thực của Liddell Hart với trích dẫn của
Borges trong lời nhân vật kể chuyện thứ nhất, bức di thư của Ts’ui Pên, di sản cuốn tiểu thuyết của Ts’ui Pên và mê lộ là
một… sẽ hiện ra dưới ánh sáng mới của siêu văn bản.

Trong Cuộc nổi lọan của người Da Đỏ của Donald Barthelme, siêu văn bản hiện lên như chính nó. Nói một cách khác, trên
sự tương tác của hai câu chuyện mà chúng tôi đã đề cập trên đây, chúng ta có thể lần theo từng đầu mối riêng biệt theo sự
chọn lựa nào đó như cái kích con trỏ của người sử dụng. Đó là bước nhảy của không gian, là lối rẽ của không gian mà
bước nhảy ấy, lối rẽ ấy cũng chính là thời gian; một cách khác thời gian chính là bước nhảy, lối rẽ bất tận của không gian,
thời gian trở nên vô cùng và không gian trở nên vô tận. Những bước nhảy, những liên kết như thế được thực hiện một cách
tự do trong siêu văn bản; tùy theo quyết định của người đọc mà thế giới hiện ra và mất đi trong văn bản và chỉ trong văn
bản. Đó là một trò chơi của thực-phi thực, trò chơi của ngôn ngữ. Chính tại đây hậu hiện đại phá hủy toàn bộ “huyền thoại
văn chương” hay là phá hủy hiện tượng văn chương như một huyền thoại. Đây là  cách hậu hiện đại giải đại tự sự.

Theo cách kết nối tự do của siêu văn bản, chúng ta thử kết nối những phát ngôn về (hình ảnh) cái bàn, tức hình ảnh đầu
tiên hiện ra trong sự nối kết giữa lịch sử (ký ức) với hiện đại/tại (cái đang chạm vào đầy ám ảnh) như trên đây chúng tôi đã
đề cập đến.

1.                                                   …Mọi người đang cố gắng để hiểu. Tôi nói với Sylvia. “Em có nghĩ cuộc sống này là tốt đẹp
không?” Cái bàn (người viết nhấn mạnh, những từ “cái bàn” trong các dòng trích sau đều do người viết nhấn mạnh) đầy
những táo, sách, đĩa nhạc. Nàng nhìn lên “Không”

www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/1320-thuc-va-phi-thuc-trong-truyen-ngan-cong-vien-nhung-loi-di-re-hai-nga-cua-jorge… 6/22
5/8/2021 THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI L…
2.                                                   Và khi họ quay cảnh dưới vòi sen tôi chà giấy nhám cánh cửa ruột lõm một cách cẩn thận để đạt
bằng những minh họa trong văn bản và những chỉ dẫn thầm thì của một tay đã giải quyết được vấn đề này. Tôi đã làm tất
cả những cái bàn khác, một cái khi sống với Nancy, một khi sống với Alice, một khi sống với Eunice, một khi sống với
Marianne.

3.                                                   Chính những khi ở bên em tôi được sung sướng nhất, và chính vì em mà tôi làm cánh cửa ruột lõm
này cái bàn với những chân bằng sắt uốn.

4.                                                   Không tin rằng thân xác bạn vốn dĩ thông minh và tinh thần to béo, tuôn chảy của bạn vốn dĩ phẫn
nộ và xuất chúng là những khối lượng ổn định mà người ta có thể theo điện tín để trở về đó hơn một lần, hơn hai lần, hay
hơn một số lần nào đó nên tôi nói “Thấy cái bàn không?”

5.                                                   Tôi cho Nancy xem cái bàn. “Thấy cái bàn không?” Cô lè cái lưỡi đỏ như mũ hồng y ra. “Tôi đã từng
làm một cái bàn như vậy,” Block nói thẳng “Khắp cái nước Mỹ này người ta đã làm những cái bàn như thế. Tôi e rằng chẳng
có ai bước vào một căn nhà của người Mỹ mà không tìm thấy ít nhất một cái bàn như thế, hay những dấu vết của cái bàn
đã từng có mặt ở đó, như những chỗ phai màu trên tấm thảm chẳng hạn.”

  Một đề nghị có phần ngớ ngẩn là chúng ta thử cô lập từng phát ngôn về (hình ảnh) cái bàn và sau đó chúng ta nối kết
chúng lại như kiểu xâu chuỗi hay là đặt chúng kề nhau theo từng chuỗi:

1.                             Cuộc sống này – cái bàn.

2.                             Cảnh quay dưới vòi sen –cái bàn; (Tôi làm) những cái bàn khác: cái bàn – Nancy, cái bàn – Alice, cái bàn –
Eunice, cái bàn – Marianne.

3.                             Em* – cái bàn.

4.                             (Không tin) thân xác-tinh thần-khối lượng ổn định – cái bàn (Thấy cái bàn không?)

5.                             (Tôi cho xem) Nancy – cái bàn (Thấy cái bàn không?); Block (làm) – cái bàn; khắp nước Mỹ - cái bàn; căn
nhà Mỹ - cái bàn/ dấu vết của cái bàn trên tấm thảm.

6.                              Emery Roth & Sons* –  cái bàn (Thấy cái bàn không?) – dẹp cái bàn (đi).

(Hình ảnh) cái bàn đã tồn tại trong những phát ngôn về cái bàn như trên, nếu tạm thời được xâu chuỗi lại, cái bàn sẽ hiện ra
theo các mối quan hệ giả định như cái bàn – cuộc sống Mỹ/gia đình Mỹ/văn hóa Mỹ (1, 2, 5, 6), cái bàn – ký ức về những
người phụ nữ/yêu thương (2, 3, 5), cái bà – thân xác/tinh thần/khối lượng ổn định (4), cái bàn – sự nhận thức về tồn tại/văn
hóa (4, 5, 6 “Thấy cái bàn không?”), cái bàn – một nỗ lực thay đổi cái nhìn hay là một phản ứng văn hóa (6, “Ồ, dẹp cái bàn
thổ tả của anh đi nào!”).

Những phát ngôn về cái bàn như thế tồn tại song song với câu chuyện về chiến tranh và về nhiều thứ khác, ví dụ ngôn ngữ,
điện ảnh…Nếu chỉ lưu ý đến chiến tranh, tức cuộc nổi lọan của người Da Đỏ, thì chúng ta sẽ có thể nhận ra rằng cái bàn
gắn với ý nghĩa của một nỗ lực thay đổi cái nhìn hay là một phản ứng văn hóa chỉ hiện ra khi những cảm nhận, nỗi ám ảnh
về cuộc nổi lọan của người Da Đỏ thực sự chuyển hướng: những vấn đề văn hóa của cư dân bản địa, đặc trưng và số phận
của nó.

Và trong bất ngờ, những phát ngôn về (hình ảnh) cái bàn trên đây của Donald Barthelme như là tương ứng với bài thơ Một
cái bàn của Gertrude Stein (1874-1946) trong tập Tender Buttons (1914). Gertrude Stein là một nhà văn nữ người Mỹ,
nhưng chủ yếu sống ở Pháp. Bà được coi là một trong những tác giả mở đầu cho khuynh hướng hiện đại chủ nghĩa. Tập
thơ Tender Buttons (1914) của Gertrude Stein gồm ba phần: Objects, Food, Rooms. Bài thơ A Table nằm trong phần
Objects:

A         TABLE.

A table means does it not my dear it means a whole steadiness. Is it likely that a change.

A table means more than a glass even a looking glass is tall. A table means necessary places and a revision a revision of a
little thing it means it does mean that there has been a stand, a stand where it did shake.

Chúng tôi xin tạm dịch như sau:

MỘT CÁI BÀN

Một cái bàn có nghĩa là nó không phải điều thân thiết của tôi nó có nghĩa là một toàn thể vững chắc. Có thể chăng là một sự
đổi thay.

Một cái bàn có nghĩa là nhiều hơn một cái ly thậm chí một tấm gương soi cao. Một cái bàn có nghĩa là những địa điểm cần
thiết và một sự xem lại một sự xem lại một thứ nhỏ bé nó có nghĩa là nó hẳn có nghĩa là đã từng tồn tại một vị trí, một vị trí
nơi nó đã rung lắc.

Trong một siêu văn bản, chúng ta cũng có thể nối kết các điểm của một chủ đề ở nhiều lĩnh vực khác nhau như ngôn ngữ,
điện ảnh, hội họa, thiết kế, kiến trúc… Trong Cuộc nổi lọan của người Da Đỏ, Donald Barthelme có nhắc đến trường hợp
nhà ngôn ngữ học Korzybski và cách hành xử của nhân vật xưng tôi: “Tôi chẳng buồn đánh giá những nhận xét đó như
Korzybski chỉ dẫn”. Sở dĩ chúng tôi quan tâm đến trường  hợp này bởi một phát ngôn khác liên quan đến ngôn ngữ và chức
năng của nó trong sự kết nối thế giới: “Những chuỗi ngôn từ bung ra theo mọi hướng để buộc thế giới lại thành một khối
dung tục, quay cuồng.” Xin hãy coi như đây là một đầu mối, và lần theo.

Alfred Habdank Skarbek Korzybski (1879-1950) là một triết gia, một nhà khoa học người Mỹ gốc Ba Lan. Ông là người khai
sinh một hệ thống triết học ngôn ngữ là Ngữ nghĩa học đại cương (Gereral semantics).

Chúng ta cần thiết dừng lại ở một vài điểm liên quan của hệ thống này. Trước hết là quan niệm của Korzybski về hiện tượng
phản ứng ngữ nghĩa (semantic response). Theo Korzybski, phản ứng ngữ nghĩa là một  phản ứng tòan bộ đối với bản sự
vật (thing-event, tức sự vật như nó vốn là) chứ không phải chỉ nghĩa của từ, và về sau ông gọi là phản ứng đánh giá
(evaluative). Phản ứng toàn bộ là phản ứng của hệ thần kinh, của xúc cảm, tri nhận, ngữ nghĩa và hành vi ứng xử đối với
bản sự vật. Có lẽ vì vậy mà ông gọi hệ thống triết học của ông là Ngữ nghĩa học đại cương.

Thứ hai ông cho rằng con người không thể tri thức trực tiếp thế giới hay đúng hơn là bản sự vật bởi vì bản sự vật có nhiều
thứ (trong bản thân nó) vượt khỏi khả năng tri nhận của con người. Vì thế, để có thể tri thức bản sự vật, con người phải trừu
xuất từ đó những mặt khả thể tri thức đối với họ thành những khách thể/đối vật (object). Nhưng ngay cả ở cấp độ khách thể
này thì con người cũng không thể hiểu hết mọi thứ của khách thể vì những hạn chế về hệ giác quan, thần kinh, vị trí, góc
nhìn…. Chính vì thế con người trừu xuất từ khách thể  những phương diện khả thể đối với/ứng với mình (trong một môi
trường nhất định) để tạo ra một phản ứng đối với khách thể. Vì chúng ta không thể tri thức khách thể một cách trọn vẹn nên
cũng không thể miêu tả nó một cách trọn vẹn dẫu là bằng những thuật ngữ cơ bản thuộc giác quan (ví dụ về màu sắc, mùi

www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/1320-thuc-va-phi-thuc-trong-truyen-ngan-cong-vien-nhung-loi-di-re-hai-nga-cua-jorge… 7/22
5/8/2021 THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI L…
vị…), vì thế chúng ta phải trừu xuất từ nó một vài thông tin mà chúng ta nghĩ là quan trọng nhất. Và tại đây họat động trừu
xuất mãi mãi xảy ra bởi vì chúng ta luôn luôn có một điều gì đó có thể nói về điều mà chúng ta nói về khách thể. Mỗi lần
trừu xuất như thế là chúng ta lại xóa bỏ, bóp méo và cấu tạo. Chúng ta có thể nói rằng chúng ta không bao giờ thấy hết mọi
thứ nơi khách thể  và chúng ta luôn luôn có thể trừu xuất theo một cách khác nếu chúng ta có nhiều thông tin hơn hay là
nếu chúng ta tổ chức kinh nghiệm của chúng ta theo một cách khác. Đồng thời, Korzybski cũng đề cập đến cả những cấp
độ nhầm lẫn của sự trừu xuất như nhầm lẫn khách thể với bản sự vật, nhầm lẫn giữa từ với bản thân bản sự vật. Ví dụ ông
sử dụng thuật ngữ intension (độ căng) để chỉ cho tòan bộ phản ứng đánh giá/ngữ nghĩa của chúng ta đối với từ hoặc hình
ảnh đến từ định nghĩa hoặc những liên tưởng của từ, hình ảnh đó, ví dụ từ con chó. Và có hai loại độ căng: độ căng khách
quan và độ căng chủ quan. Độ căng khách quan có thể là một định nghĩa mà tất cả mọi người ở mọi nền văn hóa có thể
chấp nhận được nhưng độ căng chủ quan thì mỗi người mỗi khác nhau tùy thuộc vào kinh nghiệm, cách ứng xử của họ…
Một cách khác, mỗi từ có thể gợi ra những cảm xúc/ nghĩa hoàn toàn khác nhau ở mỗi người mà những nghĩa mang tính cá
nhân này không phải từ khách thể thực. Vì thế, hệ thống triết học ngôn ngữ của Korzybski còn bao gồm cả việc điều chỉnh
phương thức chúng ta tiếp cận bản sự vật (có thể gọi là thế giới) và thường khởi đầu bằng “Tôi không biết, để xem”, nghĩa
là để chúng ta tìm phương thức trừu xuất khác hiệu quả hơn, có thể khám phá hiện thực như khoa học hiện đại khám phá.

Điểm thứ ba chúng ta cần chú ý đó là khái niệm “kết nối thời gian” (time-binding), tức khả năng con người có thể lưu truyền/
chuyển giao những ý tưởng/tư tưởng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đây là điểm khu biệt con người với các động vật
khác: thế hệ này bắt đầu từ chỗ thế hệ trước để lại. Khả năng này, Korzybski gọi là “chức năng nối kết thời gian”. Nói một
cách khác, “nối kết thời gian” (time binding) là khả năng duy nhất con người có nhằm lưu truyền/chuyển giao kinh nghiệm và
tri thức qua thời gian. Ngay khi chúng ta đang sống trong hiện tại chúng ta chịu sự tác động của quá khứ và cả tương lai bởi
vì chúng ta liên quan đến những thứ thời gian này thông qua chức năng kết nối thời gian.

Trên đây chúng tôi chỉ sơ lược nêu lên một số điểm trong hệ thống triết lý ngôn ngữ (Đại cương ngữ nghĩa học) của
Korzybski mà chúng tôi nghĩ là có liên quan đến truyện  ngắn Cuộc nổi lọan của người Da Đỏ của Donald Barthelme khi
trong tác phẩm này nhân vật người kể chuyện có nhắc đến ông.

Về “chức năng nối kết thời gian”, chúng ta đã có thể nhìn thấy trong cách Donald Barthelme ứng xử với lịch sử của cuộc nổi
dậy của người Da Đỏ Comanche như chúng tôi đã có dịp trình bày. Nhưng đồng thời chức năng kết nối thời gian này cũng
hiện diện trong những phát ngôn liên quan đến phản ứng ngữ nghĩa và những trừu xuất trong tác phẩm.

Riêng quan niệm của Korzybski về phản ứng ngữ nghĩa và sự trừu xuất liên tục  như một yêu cầu khám phá một hiện thực
thậm phồn, nghĩa là một hiện thực mà con người không thể nào khám phá hết và nó luôn luôn chồng chất những yếu tố mới
đến vô cùng, theo chúng tôi, đã  hiện ra một cách đặc biệt như những mảng rời được nối kết tưởng như bất định nhằm kết
nối những phát ngôn bất định khác trong cấu trúc phi cấu trúc của siêu văn bản Cuộc nổi loạn của người Da Đỏ. Chúng ta
thử nêu ra đây một số những phát ngôn tương ứng trong tác phẩm:

-                                        Mọi người đang cố gắng để hiểu

-                                        Không tin tưởng bản báo cáo vội vàng, cẩu thả và cường điệu về con số thương vong ở những quận
ngoại vi nơi cây cối, đèn đuốc và những con thiên nga bị biến thành những cánh đồng trống rực lửa.

-                                        Tôi phân tích thành phần của hàng rào chướng ngại gần tôi nhất  và thấy có hai cái gạt tàn, bằng gốm…

-                                        Tôi xác định mình chẳng biết gì cả.

-                                        Tôi xác định mình chẳng biết gì cả

-                                        Anh không biết gì cả…anh không cảm thấy gì cả

-                                        Tôi chẳng buồn đánh giá những nhận xét đó như Korzybski chỉ dẫn

-                                        Tôi tin rằng các bậc thầy và giáo sư của chúng ta cũng như các công dân bình thường phải tự giới hạn
vào những gì có thể được phát biểu một cách an toàn. Nên khi tôi nghe những từ như hợp kim thiếc…, tôi không thấy thất
vọng. Và xếp theo chiều đứng thì cũng được.

-                                        Tôi hướng tới các chất lỏng và màu sắc…nhưng anh, anh có thể hướng tới một điều gì khác…Bọn trẻ
ngày càng hướng đến những phức hợp khó ưa khi chúng cảm được bản chất của xã hội chúng ta. Một số người hướng tới
những ý tưởng ly kì….nhưng tôi thì bám chặt vào con chữ cứng chắc, nâu, như thứ quả hạnh…

-                                        Những chuỗi ngôn từ bung ra theo mọi hướng để buộc thế giới lại thành một khối dung tục, quay cuồng.

Những phát ngôn như thế không phải chỉ riêng của nhân vật tôi, và mỗi phát ngôn hay một nhóm phát ngôn ở một cấp độ
khác nhau, đồng thời mỗi từ/ hình ảnh thường kèm theo những biến động nghĩa (hiện ra thành một hay nhiều  từ/hình ảnh
khác) tùy theo “cách nhìn” của chủ thể phát ngôn trong những tình huống cụ thể, thậm chí trong chỉ một tình huống cụ thể.

Cách kết hợp như thế của những phát ngôn về ngôn ngữ, về sự vận dụng và chức năng nối kết thời gian của ngôn ngữ, về
sự trừu xuất… đã đẩy câu chuyện đến những kết hợp khác như lịch sử, tình ái, nỗi ám ảnh, quá khứ, hiện tại, những đổi
thay…, và tất cả hiện ra trong thế vận động đứt nối, phân nhánh liên tục làm nên những cuộc gặp gỡ và chia tay đầy bất
ngờ của các hình ảnh, phát ngôn, các ý tưởng. (Ví dụ những ý tưởng về Jane).

Từ đây, một hiện thực hiện ra thậm phần phức tạp theo nhiểu kiểu, nhiều chiều; và điều này quan trọng hơn, hiện thực đó
chỉ duy nhất tồn tại trong văn bản. Ngoài văn bản không có hiện thực đó, vì thế nó là một hiện thực phi thực của siêu văn
bản, một hiện thực của ngôn ngữ. Ngôn ngữ làm nên thế giới. Đó là sứ mệnh của nhà văn, đặc biệt của nhà văn hậu hiện
đại.

4.

Như thế là chúng tôi đã đọc song song hai truyện ngắn, một của Jorge Luis Borges và một của Donald Barthelme, trong một
nỗ lực khảo sát hiện tượng thực và phi thực như một đặc điểm  (cấu trúc/ngôn ngữ) cơ bản của chúng. Chúng tôi đã bắt
đầu từ đầu mối lịch sử để thấy rằng lịch sử đã được đính chính, kết nối ngẫu nhiên, cắt dán bất định trong hai tác phẩm, và
đặc biệt nó được tái cấu trúc trên cái nền không gian và thời gian cong như thế nào để nó hiện ra vừa thực vừa phi thực,
nghĩa là hiện ra dưới một ánh sáng mới của một khuynh hướng giải phóng nỗi ám ảnh thời gian (lịch sử) và các “đại tự sự”.

Hiện tượng thực và phi thực như thế (của lịch sử) còn được chúng tôi chú ý trong hai hình thức văn bản: siêu hư cấu và
siêu văn bản. Tính dân chủ và tự do không chỉ trong cấu trúc của hình thức văn bản mà cả trong tiếp nhận, vận dụng, sử
dụng văn bản của người đọc. Theo hướng này, ngôn ngữ (và sự lựa chọn các phát ngôn) đã ảo hóa hiện thực, đã buộc
hiện thực biến động liên tục, tác động liên tục theo những chọn lựa tự do, thậm chí bất định. Không có một hiện thực ổn
định, không có một hiện thực duy nhất và cố kết. Hiện thực đi theo mê lộ ngôn ngữ.

Có một điều chúng ta cần lưu ý là việc đọc một tác phẩm (truyện ngắn) hậu hiện đại sẽ vươn tới được đâu là do chính cách
đọc của chúng ta. Trong thứ siêu hư cấu và siêu văn bản như một mê lộ (tri thức) ấy, người đọc sẽ bước đi tự do bằng
chính tri thức và ngôn ngữ của mình. Tri thức càng sâu rộng, ngôn ngữ càng sắc bén càng nhiều cơ hội tiếp cận những
điểm hay, những vẻ đẹp bất ngờ của tác phẩm. Đó là một thử thách

www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/1320-thuc-va-phi-thuc-trong-truyen-ngan-cong-vien-nhung-loi-di-re-hai-nga-cua-jorge… 8/22
5/8/2021 THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI L…
 

* Xin đọc truyện ngắn Công viên những lối đi rẽ hai ngả của Jorge Luis Borges trong Tuyển tập (Antologia), Nguyễn Trung
Đức tuyển và dịch, NXB Đà Nẵng, 2001 và truyện ngắn Cuộc nổi lọan của người Da Đỏ của Donald Barthelme qua bản dịch
của Phạm Viêm Phương trong  Tuyển tập Văn chương 2, – Truyện ngắn Mỹ hiện đại, NXB Thanh Niên, 2000.

* Trong nguyên văn tiếng Tây Ban Nha, tên truyện có từ jardin, chúng tôi nghĩ có thể dịch là Khu vườn thì dễ tương ứng với
từ Garden trong bản dịch ra tiếng Anh hơn. Và có một điểm mà chúng tôi nghĩ cần ghi ra ở đây là câu áp cuối trong đoạn
một của bản Việt dịch là “Lời tuyên bố, từng được tiến sĩ Vũ Tuấn, cựu giáo sư tiếng Anh của trường Hochschule ở Thanh
đảo đọc, đọc lại và khẳng định, rọi chiếu một thứ ánh sáng nghi ngờ (người viết nhấn mạnh) vào vụ này”. Trong khi đó bản
dịch tiếng Anh là “The following statement, dictated, rereaded and signed by Dr. Yu Tsun, former professor of English at the
Hochschule at Tsingtao, throws an unsuspected (we underline) light over the whole affair”. Từ “nghi ngờ” trái nghĩa với từ
“unsuspected”. Chúng tôi chưa có nguyên bản để đối chiếu.

Thêm một điểm: trong bản Việt dịch thì cuốn sách của Liddell Hart là “Lịch sử chiến tranh châu Âu”, bản tiếng Anh là
“History of World War I”. Khi đề cập đến quyển sách này, chúng tôi dựa vào bản tiếng Anh.

[1] Trích theo Robert L. Chibka trong Detecting Texts – The Metaphysical Detective Story from Poe to Postmodernism, chủ
biên: Patricia Merivale và Susan Euzabeth Sweeney, University of Pennsylvania Press, Philadelphia, 1998, tr. 59.

[2] Dẫn t heo Wikipedia, http://en.wikipedia.org/wiki/Battle_of_the_Somme

* Uto-Aztecan, cũ ng gọi Uto-Aztekan, là một trong những họ ngôn ngữ Mỹ bản lớn nhất và được kiến lập  tốt nhất., trải dài
từ vùng Hồ Lớn của miền Tây Hoa Kỳ đến tận phía tây, trung tâm và nam Mexico.

[3] http://www.bbc.co.uk/history/worldwars/wwone/mirror04-02.shtml#startcontent

* Được viết hoa trong bản tiếng Anh.

*  Bản dịch của Nguyễn Trung Đức ghi là Nữ nhân viên trực điện thoại: “Nữ nhân viên trực điện thoại đã cho ta tên của
người duy nhất đủ khả năng truyền tin đó: ông ta sống ở ngoại ô Fenton, cách một nử giờ xe lửa”

** Trong bản tiếng Anh, có một điểm khác nhỏ: “Besides, I know of a man from England – a modest man – who for me is no
less great than Goethe. I talked with him for scarcely an hour, but during that hour he was Goethe…” Từ sự so sánh này của
Jorge Luis Borges, chúng ta có thể noí đến một Stefan Albert như là một Albert Einstein với quan niệm về thời gian và cả
không gian của ông.

*** Chúng ta có thể chú ý đến chủ nghĩa chủng tộc cực đoan của Hitler.

*  Có nhà nghiên cứu dựa vào địa danh này mà cho rằng Yu Tsun sống ở Anh Quốc

** Tên đầy đủ của Tacitus là  Publius (or Gaius) Cornelius Tacitus (khoảng 56 – khoảng 117) là một nghị viên và sử gia
của Đế chế La Mã. Hai tác phẩm lớn còn lại của ông là Annals và Histories viết về lịch sử Đế chế La Mã từ cái chết của
Augustus (14) đến cái chết của Donitian (96).

[4] Kim Herzinger (ed), Not-knowing: the essays and interviews of Donald Barthelme, New York:Random House, 1997,
p.231. Dẫn  theo http://tomconoboy.blogspot.com/2008/07/donald-barthelmes-indian-uprising.html

[5] Patricia Waugh, Metafiction: The Theory and the Practice of Self-Conscious Fiction, dẫn theo Diane Andrews
Henningfeld trong http://www.answers.com/topic/the-garden-of-forking-paths-story-8

[6] Xin đọc Wikipedia, the free encyclopedia, http://en.wikipedia.org/wiki/Medifiction.

* Theo chúng tôi, tiểu thuyết Những thứ họ mang theo của Tim O’Brien là siêu hư cấu và siêu văn bản. nói một cách khác,
Những thứ họ mang theo là một tiểu thuyết hậu hiện đại.

* Từ thế giới (world) có lẽ do Luke Korzun Martin thêm vào. Trong bản dịch của Nguyễn Trung Đức và trong bản tiếng Anh
chúng tôi đang sử dụng lại ghi một từ chỉ thời gian: lúc này/hiện tại. Rất có thể Martin nghĩ đến dạng tồn tại không-thời, vì
thế chúng tôi tạm dịch lúc/nơi.

[7] Luke Korzun Martin, “a void rubbing out its own inscription”: Electronic Technology, Hypertext and the Paradox of Self-
Erasure, http://forum.llc.ed.ac.uk/issue8/martin.pdf

* Trên đây chúng tôi đã nói đến kiểu không gian cong khi lý giải hiện tượng lộn đầu trong cái nhìn lịch sử của Donald
Barthelme có lẽ cũng thuộc cùng kiểu dạng này. Xin đọc thêm Chương 12: Không gian-Thời gian trong sách Đạo của vật lý,
Fritjof Capra, Nguyễ Tường Bác dịch, Nxb Trẻ, 1999, tr. 190-224.

* Nhân vật Em xuất hiện ít nhất hai lần trong thứ hồi ức ngọt ngào của nhân vật người kể chuyện (Tôi), đã phả vào những
hình ảnh phụ nữ khác trong truyện (chỉ tồn tại bằng cái tên hay một mảnh ký ức) niềm thương cảm hoặc thứ khát vọng
không thực sự rõ ràng của nhân vật người kể chuyện.

* Emery Roth & Sons (1938 - 1996) trước đây là một trong năm công ty kiến trúc lâu đời nhất ở Mỹ của gia đình Remry Roth
(1871-1948), đã có một ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của Manhattan sau chiến tranh, xây dựng hầu hết những
công trình kiến trúc tại đây.

 6.Block từ tầng trên của tòa nhà do Emery Roth & Sons thiết kế đang bắn bằng một ống bơm mỡ. “Thấy cái bàn không?”
“Ồ, dẹp cái bàn thổ tả của anh đi nào!”  

[7]

www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/1320-thuc-va-phi-thuc-trong-truyen-ngan-cong-vien-nhung-loi-di-re-hai-nga-cua-jorge… 9/22
5/8/2021 THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI L…

Từ khóa:
THỰC VÀ PHI THỰC TRONGTRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢCỦA JORGE LUIS
BORGESVÀ CUỘC NỔI LỌAN CỦA NGƯỜI DA ĐỎ CỦA DONALD BARTHELME 1.Jorge Luis Borges là nhà văn khai mở

nền văn học hiện đại châu Mỹ La Tinh. Cho đến trước khi truyện ngắn Công
hay đúng hơn tập truyện Công viên

những lối đi rẽ hai ngả (El jardin de senderos que se bifurcan) xuất bản vào năm 1941
Jorge Luis Borges (1899-1986)

vẫn được người đọc Argentine biết đến như một người làm thơ và viết tiểu luận. Sự ra đời của Công viên những lối đi

rẽ hai ngả làm thay đổi sự nghiệp của ông. Jorge Luis Borges trở thành nhà văn viết truyện ngắn nổi tiếng và
ông trở

thành một trong những tác giả quan trọng báo hiệu sự xuất hiện của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn chương thế

giới.Hai mươi năm sau khi Jorge Luis Borges xuất bản Công viên những lối đi rẽ hai ngả thì một nhà văn Mỹ là Donald

Barthelme (1931-1989
và trở thành nhà văn đổi mới hình thức truyện ngắn với tập Come Back
Dr. Caligari
xuất bản

năm 1964. Bốn năm sau


tức 1968
Donald Barthelme xuất bản tập truyện nổi tiếng Unspeakable Practices
Unnatural

Acts; truyện ngắn Cuộc nổi loạn của người Da Đỏ (The Indian Uprising) gây nhiều tranh cãi mà chúng ta sẽ khảo sát

sau đây nằm trong tập truyện này. Chúng ta có thể nói rằng ngay từ đầu Domald Barthelme đã là nhà văn của chủ

nghĩa hậu hiện đại. C


và cho đến nay vẫn vậy. Có lẽ đó là tình hình chung đối với tất cả những tác phẩm xuất sắc của

chủ nghĩa hậu hiện đại khi biên giới giữa thực và phi thực đã trở nên vô cùng mỏng manh hay là không có biên

giới.Trong các tác phẩm văn chương hậu hiện đại


hiện thực xuất hiện trước mắt người đọc là một hiện thực ngôn

ngữ trong văn bản


và trước đó cũng như sau đó nó không tồn tại. Đó là thứ hiện thực hoàn toàn giả định và bất định

của cảm quan về một thế giới hỗn mang


bất khả tri nhận. Chính vì thế các nhà văn hậu hiện đại nghi ngờ và phá vỡ

toàn bộ những khả năng nắm bắt hiện thực được cho là chắc chắc của cái nhìn nhân quả trong các tác phẩm hiện

thực chủ nghĩa và cả hiện đại chủ nghĩa. Ngôn ngữ đã từng là phương tiệ
ngôn ngữ đã từng là chất liệu và mục tiêu

của chủ nghĩa hiện đại thì đến hậu hiện đại ngôn ngữ trở thành trò chơi của chính nó. Trong một số trường hợp
nếu

không muốn nói là phần lớn


các nhà văn hậu hiện đại chủ nghĩa trở thành trò chơi trong tay ngôn ngữ nói chung và

ngôn ngữ của họ nói riêng. Thực ra


đối với các nhà văn hậu hiện đại
không có thứ ngôn ngữ nói chung bởi vì ngôn

ngữ nào cũng nhuộm màu sắc của một riêng biệt nào đó: ký ức hay quan sát
cãi vả hay điên loạn
trốn tránh hay đối

mặt
hài hước hay bi đát...hay là một vài thứ ấy cộng lại hoặc là tất cả...Ngôn ngữ đã tồn tại như thế và luôn luôn là bất

định bởi vì nó luôn luôn dịch chuyển


và chỉ có thứ ngôn ngữ bất định ấy (bằng nhiều phương thức
ví dụ cắt dán...)

thì mới có thể nói đến cái bất định của một hiện thực hỗn mang và luôn luôn là hỗn mang.Trên cơ sở này
các nhà văn

hậu hiện đại làm làm cuộc xóa bỏ hay là cắt rời những “đại tự sự”
tức những hệ tư tưởng
những hệ triết học đã từng

đặt định
chi phối những cảm quan con người
và vì thế
đã từng đặt định và chi phối hiện thực
đẩy hiện thực đã trở

thành huyền thoại – một hướng huyền thoại hóa hiện thực dựa trên một niềm tin bất biến về thế giới.Trong cái nhìn

toàn cầu hóa hiện nay


dịch chuyển là một tồn tại đang tồn tại
dịch chuyển không gian và dịch chuyển thời gian. Trên

cái bề mặt bé tý của màn hình ở bây giờ


chúng ta chứng kiến
chạm vào (bằng mắt và tai)
tham gia (vì bị chi phối) và

sống (hút vào cho ta) trong thứ bao la của thời-không.Và vì thế
hiện thực trở thành một hiện thực ảo
nghĩa là một

hiện thực trong mơ


một hiện thực thực-phi thực. Đến đây thì trò chơi ngôn ngữ hóa thành trò chơi của giấc mơ hay là

ngôn ngữ giấc mơ. Các nhà hậu hiện đại chủ nghĩa đã bằng chính thứ ngôn ngữ ấy làm một cuộc phục chế cái hiện

thực ảo hóa kia như một khả thể


và luôn luôn là một khả thể. Vì không như thế thì hiện thực không còn là hiện thực

ảo hóa.Hiện tượng đa nghĩa (từ khả thể văn bản) trong sáng tác của các nhà văn hiện thực khác với hiện tượng đa

nghĩa của các nhà văn hiện đại chủ nghĩa


và đến lượt mình
hiện tượng đa nghĩa của các nhà văn hậu hiện đại khác

với của các nhà văn hiện đại chủ nghĩa. Tính đa nghĩa của chủ nghĩa hiện đại dựa trên các tầng giao lưu của ngôn ngữ

với hiện tượng liên văn bản bề mặt


logic
còn hậu hiện đại là hiện tượng liên văn bản phi thực
nghĩa là kết hợp
cắt

dán bất định. Chính vì thế mà văn bản tác phẩm của chủ nghĩa hậu hiện đại là một khả thể bất định
nghĩa là nó là đầu

mối của những diễn dịch bất định


từng lúc khác nhau
từng chỗ khác nhau
và cứ thế. Nó phi hệ thống hay là một hệ

thống luôn luôn mở. Giấc mơ là một mê lộ. Đây là nơi gặp gỡ của truyện ngắn Công viên những lối đi rẽ hai ngả của

Jorge Luis Borges với Cuộc nổi lọan của người Da Đỏ của Donald Barthelme*.2.Cả hai truyện ngắn hình
với một sự

kiện lịch sử và khép lại cũng với sự kiện lịch sử ấy ở chỗ trôi chảy của nó
tức ở chỗ sự kiện lịch sử hoàn tất (trong

văn bản và chỉ trong văn bản). Trong truyện ngắn của Borges
nhiệm vụ của Yu Tsun được thực hiện: giết chết Albert

để báo tin cho Đức bấy giờ là hãy tấn công thành phố Albert; còn trong truyện ngắn của Donald Barthelme thì cuối

cùng người Da Đỏ Comanches đã chiếm được thành phố


vì nhân vật tôi (người kể chuyện) bị buộc phải cởi thắt lưng

và dây giày. Và vì thế


chúng ta có cảm giác là cả hai truyện hay là diễn biến của hai truyện là quá trình đi đến chỗ hoàn

tất này của lịch sử.Một sự thật lịch sử mở ra Công viên những lối đi rẽ hai ngả* là về Liddell Hart. Liddell Hart có tên

đầy đủ là Sir Basil Henry Liddell H


trước khi được phong tước Hiệp sĩ thì ông được gọi là Captain B. H. Liddell Hart

một sử gia và lý thuyết gia quân sự người Anh. Tác phẩm của Liddell Hart viết về cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ

nhất là The Real War (1914-1918) xuất bản vào năm 1930
về sau nó được in lại có bổ sung mở rộng năm 1934
và có

tên là A History of the World War (1914-1918). Trong truyện ngắn của mình
Jorge Luis Borges nhắc đến một sự kiện

lịch sử mà ông ghi trích từ trang 22 trong quyển sách của Liddell Hart. Đó là kế họach tấn công của 13 sư đoàn Anh

vào trận tuyến Serre-Montauban vào ngày 24 tháng 7 năm 1916 phải hoãn lại đến sáng 29 tháng 7 năm 19
hiện nay có

ít nhất là hai bản dịch ra tiếng Anh ghi điểm này khác nhau: bản dịch của Helen Temple và Ruthven Todd ghi “In his A

History of the Worl War (page 212)


Captain Liddell Hart report that…” trong khi đó bản dịch (mà chúng tôi sử dụng)

của Donald A. Yates ghi “ On page 22 of Liddell Hart’s History of World War I you read that…” Việc ghi số trang là 22 và

212 có lẽ là do người dịch ghi nhầm hoặc do lỗi in ấn chúng ta sẽ thấy có sự khác biệt rất lớn. Sau đây là đọan viết

trong sách The Real War (1930): “The bombardment began on June 24; the attack was intended for June 29
but was

www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/1320-thuc-va-phi-thuc-trong-truyen-ngan-cong-vien-nhung-loi-di-re-hai-nga-cua-jorg… 10/22
5/8/2021 THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI L…
later postponed untill July 1
owing to amomentary break in the weather…the assaulting troops
…after being keyed up

for the effort


had to remain another forty-eight hours in cramped trenches under the exhausting noise of their own

gunfire and the enemy’s retaliation – conditions made worse by torrential rain which flooded the trenches.” Theo

Robert L. Chibka đọan trích này không phả


cũng không phải ở trang 22 mà là ở trang 233-34 của sách The Real War

còn trong sách A History of World War thì ở trang 314-15.Về số trang ghi trên hai bản dịch mà chúng tôi vừa đề cập có

thể là do người dịch nhầm hoặc do lỗi in ấn


nhưng từ số trang 233-34 hoặc 314-15 trong sách của Liddell Hart lại trở

thành trang 22/212 trong truyện của Jorge Luis Borges là một vấn đề khác. Ngay cả tên sách của Jorge Luis Borges

cũng thế. Ít nhất hiện nay chúng ta có ba tên sách khác nhau trong ba
bản dịch của của Helen Temple và Ruthven

Todd là A History of the Worl War và bản dịch của Donald A. Yates là History of World War I. Đặc biệt
về ngày tháng và

cách thức của cuộc tấn công


chúng ta cần chú ý đến độ lệch giữa sự thật lịch sử với những gì được nhân vật người

kể chuyện thứ nhất trong truyện ngắn của Borges trích dẫn.Đây là lịch sử theo Liddell Hart: “Cuộc đánh pháo bắt đầu

vào ngày 24 tháng sáu; cuộc tấn công được trù họach là
nhưng về sau bị hoãn lại cho đến ngày 1 tháng bảy do sự

thay đổi nhất thời của thời tiết…” Nghĩa là bị hoãn 48 tiếng đồng hồ vì “các điều kiện trở nên tồi tệ do cơn mưa như

trút làm ngập các chiến hào”. Và như thế cuộc đánh pháo kéo dài thành bảy ngày th
quân Anh đã bắn hơn 1
7 triệu

quả đạn pháo” Ngay sau ngày đánh pháo cuối cùng thì cuộc tấn công nổ ra vào ngày 1 tháng 7 năm 1916 mở màn với

Trận đánh Albert (Battle of Albert) kéo dài từ ngày 1 tháng 7 đến ngày 13 tháng 7 năm 1916.Sự thật lịch sử khúc xạ

trong truyện ngắn củ


tức cái nhìn về biên giới giữa thực với phi thực trong cảm thức thế giới về thế giới (cảm thức

mang tính thế giới về thế giới). Chúng ta cần nhớ là toàn bộ nỗ lực của Yu Tsun với tư cách là một gián điệp của Đức

là thông báo địa điểm bãi pháo của quân Anh


bắt đầu từ ngày 1/7/1916.Trong Cuộc nổi lọan của người Da Đỏ
Donald

Barthelme khởi đầu bằng một sự kiện lịch sử có thật trong lịch sử Mỹ - cuộc nổi dậy của người Mỹ bản địa Comanche.

“Chúng tôi phòng thủ thành phố bằng hết sức có thể. Những mũi tên của người Comanche bay dày đặc. Những cây

chùy của người Comanche g


khoảng một nửa là sống ở Oklahoma
phần còn lại thì tập trung ở Texas
California và

New Mexico
nói tiếng Uto-Aztecan*. Người Comanche vốn làm nghề săn bắn và hái lượm
sống tại những đồng bằng

và những ngọn đồi thấp nơi thảo nguyên rộng lớn của vùng Bắc Mỹ. Trong lịch sử Mỹ
cuộc chiến tranh Texas-Da Đỏ

tức cuộc chiến tranh giữa những người thực dân với các tộc người Da Đỏ sống tại thảo nguyên Bắc Mỹ
kéo dài nửa

thế kỷ từ 1820 đến 1875. Trận đánh cuối cùng là do vị tù trưởng cuối cùng của nhóm những người thuộc bộ tộc

Comanche là Quanah Parker chỉ huy. Trong lịch sử


Quanah Parker không thất trận và ông không hề bị bắt nhưng cuối

cùng vào ngày 2 tháng 6 năm 1875 ông quyết định đầu hàng và cùng với nhóm bộ tộc Comanche đi đến Fort Sill
nơi

dành riêng cho người Da Đỏ tại Oklahoma. Quanah Parker mất tại đây vào năm 1911.Rất có thế cuộc nổi dậy của người

Comanche mà Donald Barthelme đề cập tới là trận chiến cuối cùng được chúng tôi nhắc đến trên đây. Nhưng toàn bộ

trận đánh không diễn ra cuộc chiến tranh Việt Nam


phong trào đòi bình đẳng của người Da Đen bấy giờ…).Chính áp

lực này tạo thành thứ không gian cong (theo kiểu của Einstein) trên đó các sự kiện lịch sử của thứ thời gian quá khứ

hiện lên thành ra biến dạng


thậm chí lộn đầu.Lịch sử là vấn đề của thời gian. Mọi lịch sử đều bất định trong thời gian

và trong không gian. Đó là một sự thật lịch sử. Vì thế viết về lịch sử bao giờ cũng là một khả thể bởi vì bản thân lịch sử

là một khả thể


nó tồn tại trong những diễn dịch khác nhau khi những mối quan hệ là vô hạn. Jorge Luis Borges nói

me cũng nói như thế. Từ đây


cái nhìn thực-phi thực của chủ nghĩa hậu hiện đại xuất hiện
như thế và Donald Barthelme

như một thái độ và cách ứng xử dân chủ đối với các mối quan hệ văn bản (ví dụ
người đọc với văn bản
hiện thực với

văn bản
lịch sử với văn bản
nhà văn với văn bản…).Trong Công viên những lối đi rẽ hai ngả
lịch sử luôn luôn được

đính chính là vì thế; các sự kiện hình như luôn xuất hiện bất ngờ
không trùng khớp là vì thế
và cũng vì thế mà đôi khi

chúng được thay thế đến buồn cười


ví dụ trường hợp tên nhân vật Stefan Albert với địa danh Albert thuộc khu hành

chánh Somme ở miền bắc nước Pháp. Chúng tôi chỉ xin nêu ra một số trường hợp đính chính:- Theo người kể chuyện

thứ nhất thì nguyên nhân sự chậm trễ hay là hoãn cuộc tấn công nh
và sự trì hoãn đó là vô nghĩa. Sự kiện trì hoãn này

hay là nguyên nhân của sự trì hoãn này đã được đính chính bằng những tường trình của Yu Tsun mà theo người kể

chuyện thứ nhất (có thể là tác giả) là đã rọi thứ ánh sáng không nghi ngờ lên toàn bộ sự vụ. tức là khẳng định những

lời tường trình của Yu Tsun sẽ rọi thứ ánh sáng sáng rõ lên toàn bộ sự vụ
thì sự kiện cũng lập tức được đính chính là

“Tài liệu thiếu mất hai trang đầu”. Và như thế


cái nếp gấp vừa nêu trên của truyện là cái nếp gấp của đính chính lịch

sử hay là cái nếp gấp đẩy cái tưởng là thực vào phi thực hoặc đem cái phi thực tưởng là thực để đính chính cho cái

thực (có nhưng không chính xác).- Ngay trong phần đầu lời tường trình
tình hình đính chính
diễn dịch lại xảy ra liên

tục. Ví dụ
về sự có mặt của đại uý Richard Madden
một sĩ quan Anh
trong căn phòng của Viktor Runeberg
một gián

điệp người Đức hoạt động cùng với Yu Tsun


đã được Yu Tsun diễn dịch từ giọng trả lời qua điện thoại và cho rằng

như thế (tức sự hiện diện của Richard Madden trong phòng của Viktor Ruenberg) là “chấm dứt những lo lắng của

chúng tôi”
rồi lại đính chính “nhưng điều đó đã hình như là
hoặc có thể đã hình như là
rất không quan trọng đối với

tôi”
rồi tiếp tục diễn dịch “cũng có nghĩa là chấm dứt cuộc đời chúng tôi”. Sau đó
lại diễn dịch lần nữa
“Có nghĩa là

Runeberg đã bị bắt và bị giết rồi.” (“Madden’s presence in Viktor Ruenberg’s apartment meant the end of our anxieties

and - but this seemed


or should have seemed
very secondary to me - also the end of our lives. It meant that Runeberg

had been arrested or murdered”). Điều thú vị là ngay chi tiết này lại được người xuất bản/người biên tập (editor) chú

thích có tính đính chính: “ (Một) giả thuyết oán hận (hateful/đá
bằng một khẩu súng lục tự động tấn công kẻ phát ngôn

lệnh bắt
đại uý Richard Madden. Người này
để tự vệ
đã gây cho anh ta nhiều vết thương đưa đến cái chết (Ghi chú

của người xuất bản)”. Và cứ thế


cả tác phẩm liên tục những đính chính
diễn dịch lại. Xin hãy đọc đoạn cuối bản

tường trình của Yu Tsun: “Những thứ khác là không có thật


là vô nghĩa (Người viết nhấn mạnh). Madden cắt ngang

www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/1320-thuc-va-phi-thuc-trong-truyen-ngan-cong-vien-nhung-loi-di-re-hai-nga-cua-jorg… 11/22
5/8/2021 THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI L…
câu chuyện và bắt ta. Ta bị phán quyết tội chết treo. Ta đã thắng một cách ghê gớm; ta kịp thời thông báo cho Berlin

biết tên bí mật của thành phố cần phải tấn công. Hôm qua máy bay đã dội bom nó; ta đọ
kẻ đó là Vũ Tuấn (Yu Tsun).

Thủ Lĩnh đã giải được sự kiện đau đầu ấy. Người biết rằng vấn đề của ta là chỉ ra (thông qua tiếng nổ vang dội của

chiến tranh) cái thành phố được gọi tên là Albert và rằng ta không có biện pháp nào hơn là việc phải giết một ng
về

cái chết của Stefan Albert


về con người của Yu Tsun
về sự kiện dội bom thành phố Albert của quân Đức (mà thực tế

là không xảy ra)...


tất cả hiện ra dưới một thứ ánh sáng vô định. - Chúng tôi xin trở lại chỗ nếp gấp của truyện
tức từ

chỗ chuyển từ lời của nhân vật thứ nhất (người kể chuyện
có thể là tác giả) sang lời của Yu Tsun (Vũ Tuấn)
mà trên

đây chúng tôi gọi là nếp gấp của đính chính


để có thể rõ thêm về bản tường trình của Yu Tsun. Trước hết
chúng tôi

ghi ra đây một đoạn trong bản tiếng Anh mà chúng tôi sử dụng để so sánh khi cần thiết: “The following statement

dictated
reread and signed by Dr. Yu Tsun
former professor of English at the Hochschule at Tsingtao
throws an

unsuspected light over the whole affair. The first two pages of the document are missing.” Chúng ta có thể hình dung

là toàn bộ phần còn lại của truyện Công viên những lối đi rẽ hai ngả là lời cung khai của Yu Tsun. Để có được lời cung

khai (mà rồi Yu Tsun đọc lại (reread) và cuối cùng đồng ý với những nội dung mình đã cung khai trên nên Yu Tsun đã

ký tên (signed). Lời cung khai đầy những đính chính như chúng ta đã thấy của Yu Tsun nhưng nhân vật người kể

chuyện lại cho là đã rọi một ánh sáng sá


những sự kiện lịch sử bị phủ lên một màn sương mù phi thực
mặc dù
nếu

cố gắng chúng ta cũng có thể liên hệ câu chuyện mê lộ (labyrinth) với thứ chiến hào chằng chịt tại mặt trận Albert bấy

giờ. Nhưng đó cũng có thể là một liên hệ khiên cưỡng. Thực ra


từ labyrinth (mê lô) này bấy giờ đã được sử dụng

trong ít nhất là một tin trên tờ Daily Mirror về mặt trận Somme (The Battle of the Somme) được phát hành vào ngày 31

tháng 7 năm 1916: “We break into German forward defences on front of 16 miles. Serre
Montauban
La Boiselle and

Fricourt taken: German labyrinth of trenches on seven-mile front to depth 1


000 yards captured. Prisonners: 3
500.”

Rất có thể Jorge Luis Borges đã đọc được một trong những tin như thế
và chính từ labyrinth tình cờ trong một cái tin

nào đó đã bừng lên một con đường đi vào Công viên những lối đi rẽ hai ngả. Nhưng đó có thể là một suy diễn khiên

cưỡng. Dù vậy
ở đây chúng ta lại bắt gặp sự khúc xạ của lịch sử trong cái nhìn sáng tạo của người nghệ sĩ hậu hiện

đại là Jorge Luis Borges để cái thực và phi thực hiện ra đồng thời
dắt dẫn một cuộc đồng hành của quá khứ với hiện

tại
hay đúng hơn của quá khứ với một quá khứ khác trên cái nền những vấn đề hiện tại
của vô thức với thứ ý thức đã

lọc qua màn hư cấu của sáng tạo. Cuộc đồng hành đó
theo chúng tôi
là sự đính chính mang tính lịch sử về hành trình

sáng tạo của người nghệ sĩ và là sự đính chính về sự thực lịch sử của những hành trình đời người và thế giới. Những

điểm này nảy sinh từ câu chuyện mê lộ và quyển tiểu thuyết dang dở của Ts’ui Pên.- Tại đây
chúng ta có thể nói thêm

về chuyện Yu Tsun tìm đến Stefan Albert. Chúng ta có thể hình dung là sau khi nắm được Bí Mật (the Secret*)
tức là

địa đểm bãi pháo mới của quân Anh


Yu Tsun tìm cách để thông báo cho Thủ Lĩnh (the Chief) ở Berlin – một Thủ Lĩnh

được Yu Tsun miêu tả là con người bệnh họan


đáng ghét và vô cảm
không biết gì về Yu Tsun và Ruenberg ngoại trừ

việc cả hai đang sống ở Staffordshire – trong tình trạng chính Yu Tsun đang bị Madden truy đuổi. Thế là Yu Tsun nảy ra

một ý định
nảy ra một kế họach và lục lại cái túi lấy ra đủ thứ bà chằng với khẩu súng lục có một viên đạn; kế họach

hiện ra rõ hơn: “Ta lơ mơ nghĩ rằng: tiếng súng lục có thể nghe được từ rất xa. Trong mười phút
kế họach của ta đã

chín muồi.” Và ngay lúc ấy Yu Tsun đọc thấy tên của Stefan Albert trong quyển sổ ghi số điện thoại (the telephone

book*). Chúng ta có thể nói rằng (theo logic thông thường của cách kể chuyện truyền thống) những ý tưởng
những ý

kiến nhận xét


đánh giá của Yu Tsun về viên Thủ Lĩnh ở Berlin
về nước Đức là xuất phát từ tình thế bị bắt phải cung

khai của Yu Tsun lúc đó (tức lúc đã bị bắt và buộc phải viết bản cung khai này) nhưng cái cách Yu Tsun gắn tên của

thành phố Albert với tên của một người Anh sống ở Pháp (theo Yu Tsun) và tình cờ tìm r
chủng tộc trong người là Yu

Tsun: “Hơn nữa


ta biết một ông người Anh – một con người khiêm tốn mà với ta
ông không kém Thi sĩ Goethe.

Trước một giờ ta đã không nói chuyện với ông


nhưng trong khỏang một giờ nữa ông sẽ là Goethe**…Ta làm điều đó

vì cảm thấy rằng Thủ Lĩnh hơi sợ những người thuộc chủng tộc*** ta – sợ vô vàn những bậc tiền bối vốn hội tụ trong

ta. Ta muốn chứng minh cho Người biết rằng một người da vàng có thể cứu quâ
Fenton
Ashgrove…được Borges

đưa ra ở đây là không đáng tin cậy


chỉ là sự gắn kết tình cờ và bất định
kể cả cái chuyện những con người mà Yu

Tsun gặp trên đường


có người đọc cả Annals của Tacitus**. Tất cả hiện ra ngẫu nhiên
tình cờ
đứt gãy như trong một

giấc mơ. Cái biên giới của thực và phi thực trở nên mong manh hơn bao giờ hết hay là không có thứ biên giới như thế.

Nhà văn hậu hiện đại hình như hướng đến cách tạo ra các tình huống gắn kết các chi tiết
yếu tố kiểu đó để người đọc

tự đính chính và xây dựng một văn bản của riêng họ-một văn bản phi đại tự sự.Lịch sử hay là những sự kiện lịch sử

như chúng ta đã thấy


cũng xuất hiện dưới dạng thực-phi thực trong Cuộc nổi lọan của người Da Đỏ
nhưng thay vì bị

đính chính
lịch sử ấy luôn bị cắt dán bất định. Có lẽ cái kỹ thuật cắt dán (collage) đã được Donald Barthelme vận dụng

đến chỗ gần như tận cùng của nó


và vì thế lịch sử đi xuyên qua thời gian
xuôi ngược
đứt nối bất định. - Trước hết

chúng tôi xin lần lượt chú thích sơ lược các tên riêng được Donald Barthelme nhắc đến trong truyện ngắn Cuộc nổi

lọan của người Da Đỏ. Đây là công việc làm thủ công như một kiểu tái tạo: Mark Clark: Mark Wayne Clark (1896-1984)

là vị tướng Mỹ phục v
đặc biệt những đoàn quân tình nguyện phục vụ trong cuội Nội chiến Mỹ. Chester William Nimitz

(1885-1966) là một Đô đốc Hải quân Hoa Kỳ. Ông là Tổng tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ và là Tổng tư lệnh

khu vực Thái Bình Dương của lực lương hải


lục không quân của Mỹ và đồng minh trong Thế chiến hai…IRA: Quân đội

Cộng hòa Ailen.George Calett Marshall


Jr. (1880-1959) là nhà lãnh đạo quân đội Mỹ
Bộ trưởng Quốc phòng. Trong

Thế chiến hai


ông là “người tổ chức chiến thắng”; cùng với Winston Churchill
ông làm nên thắng lợi của quân Đồng

minh. Ông từng là cố vấn quân sự cao cấp cho Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt. Và với kế họach Marshall
ông

nhận được giải Nobel Hòa Bình năm 1953.Jonathan Mayhew “Skinny” Wainwright IV (1883-1953) là sĩ quan quân đội Mỹ

www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/1320-thuc-va-phi-thuc-trong-truyen-ngan-cong-vien-nhung-loi-di-re-hai-nga-cua-jorg… 12/22
5/8/2021 THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI L…
chỉ huy lực lượng Đồng minh tại Philippines trong thời Thế chiến thứ hai khi Philippines đầu hàng phát xít

Nhật.Abraham Lincoln Brigate là những người Mỹ tình nguyện trong Lữ đoàn Quốc tế phục vụ cuộc Nội chiến Tây Ban

Nha
chống phát xít Franco.Benjamin Franklin Wedekind (1864-1918) thường được gọi là Frank Wedekind
là một kịch

tác gia người Đức. Tác phẩm của ông được coi là dự báo cho sự ra đời của chủ nghĩa biểu hiện
và ông có một ảnh

hưởng rất lớn đối với sự phát triển của sân khấu sử thi.Gustave Aschenbach: Còn gọi là von Aschenbach
nhân vật

trong tiểu thuyết Death in Venice (1912) của Thomas Mann. Trong nhật ký
Thomas Mann đã kể việc ông chống lại sự

lôi cuốn của tính dục như thế nào


và sự ciệc ấy được phản ánh trong các tác phẩm
các nhân vật của ông
đặc biệt

trong nỗi ám ảnh của nhân vật Gustave Aschenbach.Jean-Luc Godard (sinh năm 1930) là một đạo diễn người

PhápChúng ta có thể nhận ra rằng trừ một số tên tuổi liên quan đến các lĩnh vực ngôn ngữ
nghệ thuật
tất cả những

tên tuổi còn lại đều liên quan đến chiến tranh. Cuộc nổi dậy của người Da Đỏ Comanche của thế kỷ 19 đã hiện lên trên

cái nền hiện đại với các tên tuổi của Mỹ gắn với những cuộc chiến tranh của thế kỷ 20
đặc biệt Thế chiến hai. Đây là

lớp cắt dán đầu tiên


tạo tầng nền cho một cách đọc lịch sử: một lịch sử đã bị khúc xạ hiện lên trên cái nền lịch sử

khác khi mà một vấn đề lịch sử tương tự đang được đặt ra: cuộc nổi dậy/ cuộc khởi nghĩa của người Việt Nam trong

chiến tranh Việt Nam bấy giờ. Donald Barthelme lịch sử không yêu cầu đính chính hoặc thực hiện các kết nối bất ngờ

như trong Công viên những lối đi rẽ hai ngả của Jorge Luis Borges mà nó đòi hỏi sự nhìn nhận nó thông qua cách suy

tưởng lộn đầu


nghĩa là nhìn nhận nó thông qua một lịch sử khác tác động lên một lịch sử khác nữa. Chúng ta có thể

hình dung là chính đời sống hiện đại của Mỹ trong một bối cảnh có những cuộc đòi bình đẳng của người Da Đen

những tiếng nói phản chiến (ví dụ trường hợp Jane Fonda – Hanoi Jane) đã tác động đến thái độ của xã hội
cách nhìn

nhận của Donald Barthelme về chiến tranh Việt Nam đã làm lộn đầu cuộc nổi dậy của người Da Đỏ Comanche ở thế kỷ

19. Đến đây


lịch sử đã được nhìn nhận ít nhất từ ba tầng tác động: sự chiến thắng của người Da Đỏ Comanche
cuộc

nổi dậy của người Comanche xuất hiện trong xã hội hiện đại Mỹ
cuộc nổi dậy ấy đồng thời xuất hiện trong bối cảnh

một cuộc khởi nghĩa khác đang thu hút nhiều chú ý (nhưng không được nhắc đến trong truyện): cuộc nổi dậy của

người Việt Nam trong chiến tranh Việt Nam. Lịch sử cuộc nổi dậy của người Da Đỏ Comanche được n
nghĩa là tính

bất định trở nên đậm đặc. Mở đầu truyện là mũi tên của người Comanche: “Những mũi tên của người Comanche bay

dày đặc.” Và ở một nơi khác


“những mũi tên bốc lửa soi đường tôi đi tới trụ sở bưu điện ở quảng trường Patton nơi

những thành viên của Abraham Lincohn Brigade mời chào những lá thư
bưu thiếp
những tấm lịch cuối cùng tả tơi

của họ. Tôi mở một lá thư ra nhưng bên trong là một đầu mũi tên bằng đá lửa của người Comanche do Frank

Wedekind trình bày trong một sợi dây chuyền vàng trang nhã cùng những lời chúc mừng.” Chúng ta có thể hình dung

(cùng m
và những mũi tên bốc lửa dẫn đường (như là thứ ánh sáng hay đèn điện soi đường) nhân vật người kể

chuyện thuộc nhóm người (có lẽ là những ngượi thực dân Anh thời đó hay là những người Mỹ da trắng hiện đại của

những năm 1960) chống lại người Comanche đi đế


và tại đây nhân vật lại gặp nhóm người Mỹ tình nguyện trong Lữ

đoàn Quốc tế phục vụ trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha
chống phát xít Franco (của những năm 1937-1939). Nhưng

những người lính tình nguyện này đang mời chào những bưu thiếp
những bức thư
những tấm lịch (cần chú ý sự

khác nhau của mấy thứ này)


và trong một trong những bức thư (có thể có giá trị mang một thông điệp) như thế
nhân

vật xưng tôi mở ra và bắt gặp một đầu mũi tên bằng đá lửa của người Comanche (lại mũi tên và lửa/đá lửa)
nhưng mũi

tên đá lửa này đã được một kịch tác gia người Đức
sinh năm 1930
mà tác phẩm của ông được coi là dự báo của chủ

nghĩa biểu hiện và có ảnh hưởng đến sự phát triển của sân khấu sử thi
là Fank Wedekind “trình bày trong một sợi dây

chuyền vàng trang nhã với những lời chúc mừng” (mũi tên đá lửa của người Comanche đã chuyển công năng
trở

thành một thứ trang sức kèm lời chúc mừng


và dĩ nhiên chúng ta sẽ không bao giờ biết là chúc mừng gì).Chúng ta

thử tiếp tục thao tác như vậy đối với việc tra tấn tù binh Comanche và buộc cung khai sau đây: “Chúng tôi nối dây điện

vào hòn dái tên Comanche bị bắt... Khi chúng tôi gạt cầu dao thì y y nói
Gustave Aschenbach. Y ra đời ở L.
một thị

trấn thuộc tỉnh Silesia. Y là con của một viên chức cấp cao của ngành tư pháp
tổ tiên của y đều là các quan chức

thẩm phán
viên chức cấp bộ...” Chuyện tra bằng điện thôi thì không có vấn đề gì nhưng tại sao lại ghim dây điện vào

hòn dái (trò tra tấn hay là trò chơi của thứ ức chế tính dục). Và tên của một tù binh Comanche lại trùng tên với nhân

vật trong tác phẩm của Thomas M


đặc sệt châu Âu; còn xứ sở Silesia của y là bất định (vì Silesia có thể ở Montana

nhưng cũng có thể là vùng đất cổ của Slovekia…)


và tổ tiên y đều là quan chức của chính quyền (Mỹ) (là một điều

không thể tin được) Và cứ thế


lịch sử cứ được chồng lên bởi những thứ phi lịch sử hay là những thứ lịch sử phi lịch

sử (theo nghĩa chúng ta thường hiểu đối với từ lịch sử là những thứ thăng trầm gắn liền với số phận một quốc gia)
cứ

bị đính chính (nhân vật đính chính


người biên tập đính chính
người kể chuyện đính chính…)
cứ bị đứt nối
cứ bị cắt

dán bất định… Và cứ thế


cái nhìn thực-phi thực hiện ra qua thứ ngôn ngữ của giấc mơ: gắn kết bất định của những

ám ảnh
do những ám ảnh - ám ảnh cá nhân và cả ám ảnh tập thể. Cả hai truyện ngắn
một của Jorge Luis Borges và

một của Donald Barthelme


đều là như thế
đều là siêu hư cấu/siêu truyện (metafiction). Cả hai đều cho thấy rằng tác

giả của chúng hướng tới tác động “bất khả tín” đối với người đọc : “Làm gì có chuyện như thế”
người đọc nói. Thế là

ngay lúc ấy người đọc được đẩy tới trạng thái tỉnh táo cùng cực và nhận ra rằng tác phẩm là một văn bản hư cấu
một

thứ trò sáng tạo ngôn ngữ; tất cả những thứ được nói đến trong nó chỉ tồn tại trong ngôn ngữ của nó
trước đó chưa

có và sau đó cũng không có. Và tác phẩm


như thế
là một siêu hư cấu khi nó
“một cách tự ý thức và có hệ thống đã

thu hút sự chú ý (của người đọc…) đối với bản thân nó như là một thứ tạo tác nhằm đặt ra những câu hỏi về mối quan

hệ giữa hư cấu với hiện thực.” 3.Trên đây chúng tôi đã phần nào khảo sát “cách đọc” lịch sử của Jorge
đứt nối bất

định theo nhiều cách khác nhau và đi đến việc chỉ ra rằng cả hai đều là siêu hư cấu/siêu truyện (metafiction). Trong

thực tế từ sau khi thuật ngữ siêu hư cấu được William H. Gass đưa ra trong tiểu luận “Triết lý và hình thức hư cấu”

www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/1320-thuc-va-phi-thuc-trong-truyen-ngan-cong-vien-nhung-loi-di-re-hai-nga-cua-jorg… 13/22
5/8/2021 THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI L…
(Philosoph
năm 1970
thì những công trình nghiên cứu đối tượng này đã đạt được rất nhiều thành tựu và đã cho thấy

rằng hiện tượng siêu hư cấu đã có từ lâu trong văn chương với nhiều dạng khác nhau . Thực ra
hiện tượng này đã

được nhiều nhà nghiên cứu đề cập


khảo sát trước đó nhưng cho đến khi thuật ngữ ra đời thì nó thực sự trở thành

mối quan tâm của trần thuật học


đặc biệt đối với các tác phẩm văn xuôi hậu hiện đại.Có lẽ sự khác biệt giữa hiện

tượng siêu hư cấu của hậu hiện đại với các khuynh hướng/trào lưu khác là ở chỗ siêu hư cấu của hậu hiện đại được

triển khai trên một kiểu văn bản đặc biệt


đó là siêu văn bản* (hypertext).Tôi xin chép ra đây một định nghĩa hypertext

trên Từ điển vi tính trên máy tính hiện nay:“Siêu văn bản Văn bản của một tài liệu truy tìm không theo tuần tự. Người

đọc tự do đuổi theo các dấu vết liên quan qu


bạn có thể trỏ vào (highlight) bất kỳ từ nào của tài liệu và sẽ tức khắc

nhảy đến các tài liệu khác có văn bản liên quan đến nó. Cũng có những lệnh cho phép bạn tự tạo cho riêng mình

những dấu vết kết hợp qua suốt như các bộ từ điển bách khoa và các bộ sách nhiều tập.”Và một định nghĩa khác từ

Wikipedia:“Hypertext is text
displayed on a computer
with references (hyperlinks) to other text that the reader can

immediately follow
usually by a mouse click or keypress sequence. Apart from running text
hypertext may contain

tables
images and other presentational devices. Any of these can be hyperlinks; other means of interaction may also

be present
e.g. a bubble with text may appear when the mouse hovers somewhere
a video clip may be started and

stopped
or a form may be filled out and submitted.The most extensive example of hypertext today is the World Wide

Web.”Chúng ta tạm thời rút ra một số điểm cần thiết về hypertext:- Tính chất phi tuyến tính trong cấu trúc văn bản và

phi cô lập của văn bản


- Tính chất tương tác giữa các văn bản liên quan
- Sự tự do chọn lựa của người sử dụng
-

Tùy theo người sự dụng


văn bản có thể hiện lên theo một chủ đề bất định/tự chọn
- Văn bản hypertext
vì thế
rất lớn

có nhiều mối quan hệ đa dạng. Nó vừa tỉnh vừa động. Văn bản luôn luôn là một khả thể mà những hiện thể nằm nơi

các con chuột/cái kích tay của người sử dụng hay là sự chọn lựa tự do.- …Trên đây chúng tôi đã làm một thao tác là

đọc theo chủ đề lịch nay chúng tôi xin quay lại với câu chuyện. Hiện tượng truyện trong truyện của truyện ngắn Công

viên những lối đi rẽ hai ngả với tư cách là một siêu hư cấu thì quá rõ: câu chuyện về Yu Tsun trùm trên câu chuyện về

Ts’ui Pên
câu chuyện về Albert; câu chuyện về Yu Tsun đánh giá câu chuyện về Ts’ui Pên rồi câu chuyện về Albert

đánh giá về câu chuyện của Ts’ui Pên…Hiện tượng này trong truyện ngắn Cuộc nổi lọan của người Da Đỏ của Donald

Barthelme thì khó nhận thấy hơn. Các nhà n


theo chúng tôi
tính siêu hư cấu của truyện còn lộ ra ở điểm tương tác

giữa hai câu chuyện. Ngay từ đoạn văn đầu tiên của truyện chúng ta đã bắt gặp điều này
nó báo hiệu một sự phát

triển theo kiểu cấu trúc siêu hư cấu và siêu văn bản:“Chúng tôi phòng thủ thành phố bằng hết sức có thể. Những mũi

tên của người Comanche bay dầy đặc. Những cây chùy của người Comanche gõ cành cạch trên hè phố vàng và mềm.

Có những
sách
đĩa nhạc. Nàng nhìn lên “Không.””Không kể đến những hình ảnh chưa có gì rõ ràng về một đời sống

hiên đại từ những dòng đầu tiên


ví dụ “hè phố vàng và mềm”
“hàng rào được viền bằng dây kẽm sáng lóa” hoặc tên

đường Mark Clark


chúng ta thử chuyển chú ý đến câu chuyển hay là một câu có ý định chuyển để nối kết và đồng thời

để tạt qua một nẻo khác: “Mọi người đang cố gắng để hiểu” – một câu viết lấp lửng
tưởng như không có đối tượng

và ngay sau đó là câu hỏi của nhân vật người kể chuyện với Sylvia (mà sau này chúng ta biết là người tình của nhân

vật người kể chuyện). Chúng ta thử (một lần nữa) bố trí theo một hướng có thể chấp nhận được như sau:- Nhân vật

người kể chuyện hỏi Sylvia l


- Cuộc sống này được bày ra bằng những hình ảnh (mang tính hiện đại): cái bàn (bày

đầy)
táo
sách
đĩa nhạc. (Rồi ra
và vì thế
tác phẩm hay là Donald Barthelme cứ trở đi trở lại với cái bàn.)- Và câu trả

lời của Sylvia: “Không”Thế là đến đây chúng ta hình như cảm nhận một tương tác trong hai câu chuyện
sự chồng lên

nhau của hai câu chuyện


sự tác động đâu đó của ký ức với lịch sử và hiện đại. Nó như là một đặt định đầu tiên của sự

phát triển song hành


tương tác
đan cài
mở rộng một siêu tự sự thành một siêu văn bản.Trong một cách nhìn nhất

định
siêu văn bản là một mê lộ. Người đầu tiên đưa ra khái niệm siêu văn bản vào năm 1963 là Ted Nelson.(Tên đầy đủ

của ông là Theodor Holm Nelson


sinh năm 1930
là một nhà xã hội học
một triết gia người Mỹ và là người tiên phong

của ngành công nghệ thông tin). Hai năm sau


tức năm 1965
khái niệm siêu văn bản lần đầu tiên được xuất hiện trong

một văn bản in là một bài báo viết về bài thuyết trình của Ted Nelson: “Computers
Creativity
and the Nature of the

Written Word” (Máy vi tính


tính sáng tạo
và bản chất của chữ viết). Sau đó
Ted Nelson phổ biến khái niệm hypertext

trong quyển sách Những cổ máy văn chương (Literary Machines). Bấy giờ theo Ted Nelson siêu văn bản là “ văn bản

phi-liên tục mà những liên kết là do ngươì đọc kiểm soát” (non-sequential with reader-controlled links)
chúng tôi xin

trích dịch một đoạn khá dài trong một tiểu luận của Luke Korzun Martin:“Vận dụng tính siêu văn bản vào truyện ngắn

Công viên những lối đi rẽ hai ngả của Jorge Luis Borges
tác phẩm thường được các nhà lý thuyết siêu văn bản vận

dụng
đã chỉ ra cách thức siêu văn bản làm phân hủy những hình thức tự sự tuyến tính. Tại đây
người kể chuyện so

sánh hình thức tự sự tuyến tính


“ Trong tất thảy mọi hư cấu
khi con người đứng trước những thay đổi khác nhau

anh ta chọn một và bỏ đi những cái khác”


với mê lộ ảo rẽ hai liên tục đan dệt giữa một số lượng vô hạn những thế

giới khả thể trong một quyển sách của nhà triết học Trung Hoa là Ts’ui Pên:“Trong cái hầu như sâu thẳn vô đáy Ts’ui

Pên
ông chọn tất cả - cùng một lúc. Như thế
ông sáng tạo ra những tương lai khác nhau
những thời gian khác nhau

mà những thời gian khác nhau này bắt đầu những thời gian khác rồi đến lượt mình những thời gian khác này phân

nhánh và rẽ hai trong những thời gian khác…Trong tác phẩm của Ts’ui Pên
tất cả mọi kết thúc khả thể đều xảy ra
mỗi

một kết thúc là điểm khởi đầu cho những rẽ hai khác.”Trong mê lộ của Ts’ui Pên
giống như trong mô hình siêu văn

bản
hình thức tự sự (narrative) không phải là một chuỗi những lựa chọn nhị phân
mà là một mạng vô tận và biến

động những rẽ đôi và những hội tụ mà trong đó “tất thảy những kết thúc khả thể đều xảy ra”. Thay vì nhấn mạnh đến

cấu trúc văn bản


siêu văn bản trình diện bản thân như sự vắng của chính nó bằng cách mở ra tiềm năng tự sự cho

“tất cả mọi khả năng”. Những đối lập nhị phân được tạo ra để cùng tồn tại trong hình thức tự sự/ truyện lại mâu thuẫn

www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/1320-thuc-va-phi-thuc-trong-truyen-ngan-cong-vien-nhung-loi-di-re-hai-nga-cua-jorg… 14/22
5/8/2021 THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI L…
nhau và làm cho nhau bất ổn định
bày ra một văn bản mà trong đó hình thức tự sự/câu chuyện tự xóa bản thân.

Borges thấy trước nghịch lý này của việc tự xóa bản thân trong việc ông miêu tả cách thức
nơi tác phẩm của Ts’ui

Pên
người ta có thể cùng một lúc sống và chết: “Trong [thế giới]* này
trong đó nhờ duyên may giúp tôi
anh đã đến

cổng vườn tôi. Trong lúc/nơi khác


anh
lúc đi ngang qua khu vườn
đã thấy tôi chết rồi. Trong lúc/nơi khác nữa
tôi

nói chính những lời này


nhưng tôi là một sai lầm
một bóng ma”. Sự tự xóa bản thân gắn liền với mô hình siêu văn

bản cung cấp cho nó một dạng giống như quang phổ và sáng tạo cái mà chúng ta có thể nghĩ về nó như thể một văn

bản “ma”
một kết cấu văn bản xốp đến nỗi chúng ta chẳng bao giờ có thể hoàn toàn chắc chắn rằng nó có ở đó hay

không.” Có lẽ chúng ta cần chú ý đến mấy điểm sau đây:- Jorge Luis Borges hình như vi phạm đến điều mà chính ông

đưa ra thông qua cuộc đối thọai giữa Yu hay là một ngụ ngôn mà đề tài của nó là thời gian”.- Có hai tác phẩm : tiểu

thuyết Công viên những lối đi rẽ hai ngả của cụ cố của Yu Tsun là Ts’ui Pên và truyện ngắn Công viên những lối đi rẽ

hai ngả của Jorge Luis Borges. Tác phẩm của Jorge Luis Borges với những nếp gấp bất ngờ
với những ám ảnh hóa

thật mà phi thật như Yu Tsun và cơn ám ảnh mê lộ trước khi gặp Stefan Albert…mà chúng tôi đã có dịp trình bày trên

đây. Công viên những lối đi rẽ hai ngả của Borges là một mê lộ thời gian
vì thế Stefan Albert của hư cấu hóa thành

Albert Einstein với những quan niệm mới mẻ về thời gian


hay đúng hơn về không-thời của vật lý hiện đại. (Chính vì

thế
Borges đã nhắc tới Newton và Shopenhauer). Đây là một cuộc gặp gỡ Đông –Tây thú vị trong siêu văn bản thời-

không.- Chúng ta có thể đọc tác phẩm này từ đầu mối không-thời* của Albert Einstein (Stefan Albert) thì bấy giờ số

phận vòng tròn đã được biết trướ


những khác biệt giữa tư liệu thực của Liddell Hart với trích dẫn của Borges trong

lời nhân vật kể chuyện thứ nhất


bức di thư của Ts’ui Pên
di sản cuốn tiểu thuyết của Ts’ui Pên và mê lộ là một… sẽ

hiện ra dưới ánh sáng mới của siêu văn bản.Trong Cuộc nổi lọan của người Da Đỏ của Donald Barthelme
siêu văn

bản hiện lên như chính nó. Nói một cách khác
trên sự tương tác của hai câu chuyện mà chúng tôi đã đề cập trên đây

chúng ta có thể lần theo từng đầu mối riêng biệt theo sự chọn lựa nào đó như cái kích con trỏ của người sử dụng. Đó

là bước nhảy của không gian


là lối rẽ của không gian mà bước nhảy ấy
lối rẽ ấy cũng chính là thời gian; một cách

khác thời gian chính là bước nhảy


lối rẽ bất tận của không gian
thời gian trở nên vô cùng và không gian trở nên vô

tận. Những bước nhảy


những liên kết như thế được thực hiện một cách tự do trong siêu văn bản; tùy theo quyết định

của người đọc mà thế giới hiện ra và mất đi trong văn bản và chỉ trong văn bản. Đó là một trò chơi của thực-phi thực

trò chơi của ngôn ngữ. Chính tại đây hậu hiện đại phá hủy toàn bộ “huyền thoại văn chương” hay là phá hủy hiện

tượng văn chương như một huyền thoại. Đây là cách hậu hiện đại giải đại tự sự.Theo cách kết nối tự do của siêu văn

bản
chúng ta thử kết nối những phát ngôn về (hình ảnh) cái bàn
tức hình ảnh đầu tiên hiện ra trong sự nối kết giữa

lịch sử (ký ức) với hiện đại/tại (cái đang chạm vào đầy ám ảnh) như trên đây chúng tôi đã đề cập đến.1. …Mọi người

đang cố gắng để hiểu. Tôi nói với Sylvia. “Em có nghĩ cuộc sống này là tốt đẹp không?” C
những từ “cái bàn” trong

các dòng trích sau đều do người viết nhấn mạnh) đầy những táo
sách
đĩa nhạc. Nàng nhìn lên “Không”2. Và khi họ

quay cảnh dưới vòi sen tôi chà giấy nhám cánh cửa ruột lõm một cách cẩn thận để đạt bằng những minh họa trong

văn bản và những chỉ dẫn thầm thì của một tay đã giải quyết được vấn đề này. Tôi đã làm tất cả những một cái khi

sống với Nancy


một khi sống với Alice
một khi sống với Eunice
một khi sống với Marianne.3. Chính những khi ở bên

em tôi được sung sướng nhất


và chính vì em mà tôi làm cánh cửa ruột lõm này cái bàn với những chân bằng sắt

uốn.4. Không tin rằng thân xác bạn vốn dĩ thông minh và tinh thần to béo
tuôn chảy của bạn vốn dĩ phẫn nộ và xuất

chúng là những khối lượng ổn định mà người ta có thể theo điện tín để trở về đó hơn một lần
hơn hai lần
hay hơn

một số lần nào đó nên tôi nói “Thấy cái bàn không?”5. Tôi cho Nancy xem cái bàn. “Thấy cái bàn không?” Cô lè cái

lưỡi đỏ như mũ hồng y ra. “Tôi đã từng làm một cái bàn như vậy
” Block nói thẳng “Khắp cái nước Mỹ này người ta

đã làm những cái bàn như thế. Tôi e rằng chẳng có ai bước vào một căn nhà của người Mỹ mà không tìm thấy ít nhất

một cái bàn như thế


hay những dấu vết của cái bàn đã từng có mặt ở đó
như những chỗ phai màu trên tấm thảm

chẳng hạn.”6. Block từ tầng trên của tòa nhà do Emery Roth & Sons thiết kế đang bắn bằng một ống bơm mỡ. “Thấy

cái bàn không?” “Ồ


dẹp cái bàn thổ tả của anh đi nào!” Một đề nghị có phần ngớ ngẩn là chúng ta thử cô lập từng

phát ngôn về (hình ảnh) cái bàn và sau đó chúng ta nối kết chúng lại như kiểu xâu chuỗi hay là đặt chúng kề nhau theo

từng chuỗi:1. Cuộc sống này – cái bàn.2. Cả


cái bàn – Alice
cái bàn – Eunice
cái bàn – Marianne.3. Em* – cái bàn.4.

(Không tin) thân xác-tinh thần-khối lượng ổn định – cái bàn (Thấy cái bàn không?)5. (Tôi cho xem) Nancy – cái bàn

(Thấy cái bàn không?); Block (làm) – cái bàn; khắp nước Mỹ - cái bàn; căn nhà Mỹ - cái bàn/ dấu vết củ
nếu tạm thời

được xâu chuỗi lại


cái bàn sẽ hiện ra theo các mối quan hệ giả định như cái bàn – cuộc sống Mỹ/gia đình Mỹ/văn hóa

Mỹ (1
2
5
6)
cái bàn – ký ức về những người phụ nữ/yêu thương (2
3
5)
cái bà – thân xác/tinh thần/khối lượng ổn

định (4)
cái bàn – sự nhận thức về tồn tại/văn hóa (4
5
6 “Thấy cái bàn không?”)
cái bàn – một nỗ lực thay đổi cái

nhìn hay là một phản ứng văn hóa (6


“Ồ
dẹp cái bàn thổ tả của anh đi nào!”). Những phát ngôn về cái bàn như thế tồn

tại song song với câu chuyện về chiến tranh và về nhiều thứ khác
ví dụ ngôn ngữ
điện ảnh…Nếu chỉ lưu ý đến chiến

tranh
tức cuộc nổi lọan của người Da Đỏ
thì chúng ta sẽ có thể nhận ra rằng cái bàn gắn với ý nghĩa của một nỗ lực

thay đổi cái nhìn hay là một phản ứng văn hóa chỉ hiện ra khi những cảm nhận
nỗi ám ảnh về cuộc nổi lọan của người

Da Đỏ thực sự chuyển hướng: những vấn đề văn hóa của cư dân bản địa
đặc trưng và số phận của nó.Và trong bất

ngờ
những phát ngôn về (hình ảnh) cái bàn trên đây của Donald Barthelme như là tương ứng với bài thơ Một cái bàn

của Gertrude Stein (1874-1946) trong tập Tender Buttons (1914). Gertrude Stein là một nhà văn nữ người Mỹ
nhưng

chủ yếu sống ở Pháp. Bà được coi là một trong những tác giả mở đầu cho khuynh hướng hiện đại chủ nghĩa. Tập thơ

Tender Buttons (1914) của Gertrude Stein gồm ba phần: Objects


Food
Rooms. Bài thơ A Table nằm trong phần

Objects:A TABLE. A table means does it not my dear it means a whole steadiness. Is it likely that a change. A table

www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/1320-thuc-va-phi-thuc-trong-truyen-ngan-cong-vien-nhung-loi-di-re-hai-nga-cua-jorg… 15/22
5/8/2021 THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI L…
means more than a glass even a looking glass is tall. A table means necessary places and a revision a stand where it

did shake.Chúng tôi xin tạm dịch như sau:MỘT CÁI BÀNMột cái bàn có nghĩa là nó không phải điều thân thiết của tôi

nó có nghĩa là một toàn thể vững chắc. Có thể chăng là một sự đổi thay.Một cái bàn có nghĩa là nhiều hơn một cái ly

thậm chí
một vị trí nơi nó đã rung lắc.Trong một siêu văn bản
chúng ta cũng có thể nối kết các điểm của một chủ đề ở

nhiều lĩnh vực khác nhau như ngôn ngữ


điện ảnh
hội họa
thiết kế
kiến trúc… Trong Cuộc nổi lọan của người Da Đỏ

Donald Barthelme có nhắc đến trường hợp nhà ngôn ngữ học Korzybski và cách hành xử của nhân vật xưng tôi: “Tôi

chẳng buồn đánh giá những nhận xét đó như Korzybski chỉ dẫn”. Sở dĩ chúng tôi quan tâm đến trường hợp này bởi

một phát ngôn khác liên quan đến quay cuồng.” Xin hãy coi như đây là một đầu mối
và lần theo.Alfred Habdank

Skarbek Korzybski (1879-1950) là một triết gia


một nhà khoa học người Mỹ gốc Ba Lan. Ông là người khai sinh một hệ

thống triết học ngôn ngữ là Ngữ nghĩa học đại cương (Gereral semantics). Chúng ta cần thiết dừng lại ở một vài điểm

liên quan của hệ thống này. Trước hết là quan niệm của Korzybski về hiệ
phản ứng ngữ nghĩa là một phản ứng tòan

bộ đối với bản sự vật (thing-event


tức sự vật như nó vốn là) chứ không phải chỉ nghĩa của từ
và về sau ông gọi là

phản ứng đánh giá


THỰC VÀ PHI THỰC TRONGTRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢCỦA JORGE

LUIS BORGESVÀ CUỘC NỔI LỌAN CỦA NGƯỜI DA ĐỎ CỦA DONALD BARTHELME 1.Jorge Luis Borges là nhà văn

khai mở nền văn học hiện đại châu Mỹ La Tinh. Cho đến trước khi truyện ngắn Công
hay đúng hơn tập truyện Công

viên những lối đi rẽ hai ngả (El jardin de senderos que se bifurcan) xuất bản vào năm 1941
Jorge Luis Borges (1899-

1986) vẫn được người đọc Argentine biết đến như một người làm thơ và viết tiểu luận. Sự ra đời của Công viên những

lối đi rẽ hai ngả làm thay đổi sự nghiệp của ông. Jorge Luis Borges trở thành nhà văn viết truyện ngắn nổi tiếng và

ông trở thành một trong những tác giả quan trọng báo hiệu sự xuất hiện của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn chương

thế giới.Hai mươi năm sau khi Jorge Luis Borges xuất bản Công viên những lối đi rẽ hai ngả thì một nhà văn Mỹ là

Donald Barthelme (1931-1989


và trở thành nhà văn đổi mới hình thức truyện ngắn với tập Come Back
Dr. Caligari

xuất bản năm 1964. Bốn năm sau


tức 1968
Donald Barthelme xuất bản tập truyện nổi tiếng Unspeakable Practices

Unnatural Acts; truyện ngắn Cuộc nổi loạn của người Da Đỏ (The Indian Uprising) gây nhiều tranh cãi mà chúng ta sẽ

khảo sát sau đây nằm trong tập truyện này. Chúng ta có thể nói rằng ngay từ đầu Domald Barthelme đã là nhà văn của

chủ nghĩa hậu hiện đại. C


và cho đến nay vẫn vậy. Có lẽ đó là tình hình chung đối với tất cả những tác phẩm xuất sắc

của chủ nghĩa hậu hiện đại khi biên giới giữa thực và phi thực đã trở nên vô cùng mỏng manh hay là không có biên

giới.Trong các tác phẩm văn chương hậu hiện đại


hiện thực xuất hiện trước mắt người đọc là một hiện thực ngôn

ngữ trong văn bản


và trước đó cũng như sau đó nó không tồn tại. Đó là thứ hiện thực hoàn toàn giả định và bất định

của cảm quan về một thế giới hỗn mang


bất khả tri nhận. Chính vì thế các nhà văn hậu hiện đại nghi ngờ và phá vỡ

toàn bộ những khả năng nắm bắt hiện thực được cho là chắc chắc của cái nhìn nhân quả trong các tác phẩm hiện

thực chủ nghĩa và cả hiện đại chủ nghĩa. Ngôn ngữ đã từng là phương tiệ
ngôn ngữ đã từng là chất liệu và mục tiêu

của chủ nghĩa hiện đại thì đến hậu hiện đại ngôn ngữ trở thành trò chơi của chính nó. Trong một số trường hợp
nếu

không muốn nói là phần lớn


các nhà văn hậu hiện đại chủ nghĩa trở thành trò chơi trong tay ngôn ngữ nói chung và

ngôn ngữ của họ nói riêng. Thực ra


đối với các nhà văn hậu hiện đại
không có thứ ngôn ngữ nói chung bởi vì ngôn

ngữ nào cũng nhuộm màu sắc của một riêng biệt nào đó: ký ức hay quan sát
cãi vả hay điên loạn
trốn tránh hay đối

mặt
hài hước hay bi đát...hay là một vài thứ ấy cộng lại hoặc là tất cả...Ngôn ngữ đã tồn tại như thế và luôn luôn là bất

định bởi vì nó luôn luôn dịch chuyển


và chỉ có thứ ngôn ngữ bất định ấy (bằng nhiều phương thức
ví dụ cắt dán...)

thì mới có thể nói đến cái bất định của một hiện thực hỗn mang và luôn luôn là hỗn mang.Trên cơ sở này
các nhà văn

hậu hiện đại làm làm cuộc xóa bỏ hay là cắt rời những “đại tự sự”
tức những hệ tư tưởng
những hệ triết học đã từng

đặt định
chi phối những cảm quan con người
và vì thế
đã từng đặt định và chi phối hiện thực
đẩy hiện thực đã trở

thành huyền thoại – một hướng huyền thoại hóa hiện thực dựa trên một niềm tin bất biến về thế giới.Trong cái nhìn

toàn cầu hóa hiện nay


dịch chuyển là một tồn tại đang tồn tại
dịch chuyển không gian và dịch chuyển thời gian. Trên

cái bề mặt bé tý của màn hình ở bây giờ


chúng ta chứng kiến
chạm vào (bằng mắt và tai)
tham gia (vì bị chi phối) và

sống (hút vào cho ta) trong thứ bao la của thời-không.Và vì thế
hiện thực trở thành một hiện thực ảo
nghĩa là một

hiện thực trong mơ


một hiện thực thực-phi thực. Đến đây thì trò chơi ngôn ngữ hóa thành trò chơi của giấc mơ hay là

ngôn ngữ giấc mơ. Các nhà hậu hiện đại chủ nghĩa đã bằng chính thứ ngôn ngữ ấy làm một cuộc phục chế cái hiện

thực ảo hóa kia như một khả thể


và luôn luôn là một khả thể. Vì không như thế thì hiện thực không còn là hiện thực

ảo hóa.Hiện tượng đa nghĩa (từ khả thể văn bản) trong sáng tác của các nhà văn hiện thực khác với hiện tượng đa

nghĩa của các nhà văn hiện đại chủ nghĩa


và đến lượt mình
hiện tượng đa nghĩa của các nhà văn hậu hiện đại khác

với của các nhà văn hiện đại chủ nghĩa. Tính đa nghĩa của chủ nghĩa hiện đại dựa trên các tầng giao lưu của ngôn ngữ

với hiện tượng liên văn bản bề mặt


logic
còn hậu hiện đại là hiện tượng liên văn bản phi thực
nghĩa là kết hợp
cắt

dán bất định. Chính vì thế mà văn bản tác phẩm của chủ nghĩa hậu hiện đại là một khả thể bất định
nghĩa là nó là đầu

mối của những diễn dịch bất định


từng lúc khác nhau
từng chỗ khác nhau
và cứ thế. Nó phi hệ thống hay là một hệ

thống luôn luôn mở. Giấc mơ là một mê lộ. Đây là nơi gặp gỡ của truyện ngắn Công viên những lối đi rẽ hai ngả của

Jorge Luis Borges với Cuộc nổi lọan của người Da Đỏ của Donald Barthelme*.2.Cả hai truyện ngắn hình
với một sự

kiện lịch sử và khép lại cũng với sự kiện lịch sử ấy ở chỗ trôi chảy của nó
tức ở chỗ sự kiện lịch sử hoàn tất (trong

văn bản và chỉ trong văn bản). Trong truyện ngắn của Borges
nhiệm vụ của Yu Tsun được thực hiện: giết chết Albert

để báo tin cho Đức bấy giờ là hãy tấn công thành phố Albert; còn trong truyện ngắn của Donald Barthelme thì cuối

cùng người Da Đỏ Comanches đã chiếm được thành phố


vì nhân vật tôi (người kể chuyện) bị buộc phải cởi thắt lưng

và dây giày. Và vì thế


chúng ta có cảm giác là cả hai truyện hay là diễn biến của hai truyện là quá trình đi đến chỗ hoàn

www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/1320-thuc-va-phi-thuc-trong-truyen-ngan-cong-vien-nhung-loi-di-re-hai-nga-cua-jorg… 16/22
5/8/2021 THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI L…
tất này của lịch sử.Một sự thật lịch sử mở ra Công viên những lối đi rẽ hai ngả* là về Liddell Hart. Liddell Hart có tên

đầy đủ là Sir Basil Henry Liddell H


trước khi được phong tước Hiệp sĩ thì ông được gọi là Captain B. H. Liddell Hart

một sử gia và lý thuyết gia quân sự người Anh. Tác phẩm của Liddell Hart viết về cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ

nhất là The Real War (1914-1918) xuất bản vào năm 1930
về sau nó được in lại có bổ sung mở rộng năm 1934
và có

tên là A History of the World War (1914-1918). Trong truyện ngắn của mình
Jorge Luis Borges nhắc đến một sự kiện

lịch sử mà ông ghi trích từ trang 22 trong quyển sách của Liddell Hart. Đó là kế họach tấn công của 13 sư đoàn Anh

vào trận tuyến Serre-Montauban vào ngày 24 tháng 7 năm 1916 phải hoãn lại đến sáng 29 tháng 7 năm 19
hiện nay có

ít nhất là hai bản dịch ra tiếng Anh ghi điểm này khác nhau: bản dịch của Helen Temple và Ruthven Todd ghi “In his A

History of the Worl War (page 212)


Captain Liddell Hart report that…” trong khi đó bản dịch (mà chúng tôi sử dụng)

của Donald A. Yates ghi “ On page 22 of Liddell Hart’s History of World War I you read that…” Việc ghi số trang là 22 và

212 có lẽ là do người dịch ghi nhầm hoặc do lỗi in ấn chúng ta sẽ thấy có sự khác biệt rất lớn. Sau đây là đọan viết

trong sách The Real War (1930): “The bombardment began on June 24; the attack was intended for June 29
but was

later postponed untill July 1


owing to amomentary break in the weather…the assaulting troops
…after being keyed up

for the effort


had to remain another forty-eight hours in cramped trenches under the exhausting noise of their own

gunfire and the enemy’s retaliation – conditions made worse by torrential rain which flooded the trenches.” Theo

Robert L. Chibka đọan trích này không phả


cũng không phải ở trang 22 mà là ở trang 233-34 của sách The Real War

còn trong sách A History of World War thì ở trang 314-15.Về số trang ghi trên hai bản dịch mà chúng tôi vừa đề cập có

thể là do người dịch nhầm hoặc do lỗi in ấn


nhưng từ số trang 233-34 hoặc 314-15 trong sách của Liddell Hart lại trở

thành trang 22/212 trong truyện của Jorge Luis Borges là một vấn đề khác. Ngay cả tên sách của Jorge Luis Borges

cũng thế. Ít nhất hiện nay chúng ta có ba tên sách khác nhau trong ba
bản dịch của của Helen Temple và Ruthven

Todd là A History of the Worl War và bản dịch của Donald A. Yates là History of World War I. Đặc biệt
về ngày tháng và

cách thức của cuộc tấn công


chúng ta cần chú ý đến độ lệch giữa sự thật lịch sử với những gì được nhân vật người

kể chuyện thứ nhất trong truyện ngắn của Borges trích dẫn.Đây là lịch sử theo Liddell Hart: “Cuộc đánh pháo bắt đầu

vào ngày 24 tháng sáu; cuộc tấn công được trù họach là
nhưng về sau bị hoãn lại cho đến ngày 1 tháng bảy do sự

thay đổi nhất thời của thời tiết…” Nghĩa là bị hoãn 48 tiếng đồng hồ vì “các điều kiện trở nên tồi tệ do cơn mưa như

trút làm ngập các chiến hào”. Và như thế cuộc đánh pháo kéo dài thành bảy ngày th
quân Anh đã bắn hơn 1
7 triệu

quả đạn pháo” Ngay sau ngày đánh pháo cuối cùng thì cuộc tấn công nổ ra vào ngày 1 tháng 7 năm 1916 mở màn với

Trận đánh Albert (Battle of Albert) kéo dài từ ngày 1 tháng 7 đến ngày 13 tháng 7 năm 1916.Sự thật lịch sử khúc xạ

trong truyện ngắn củ


tức cái nhìn về biên giới giữa thực với phi thực trong cảm thức thế giới về thế giới (cảm thức

mang tính thế giới về thế giới). Chúng ta cần nhớ là toàn bộ nỗ lực của Yu Tsun với tư cách là một gián điệp của Đức

là thông báo địa điểm bãi pháo của quân Anh


bắt đầu từ ngày 1/7/1916.Trong Cuộc nổi lọan của người Da Đỏ
Donald

Barthelme khởi đầu bằng một sự kiện lịch sử có thật trong lịch sử Mỹ - cuộc nổi dậy của người Mỹ bản địa Comanche.

“Chúng tôi phòng thủ thành phố bằng hết sức có thể. Những mũi tên của người Comanche bay dày đặc. Những cây

chùy của người Comanche g


khoảng một nửa là sống ở Oklahoma
phần còn lại thì tập trung ở Texas
California và

New Mexico
nói tiếng Uto-Aztecan*. Người Comanche vốn làm nghề săn bắn và hái lượm
sống tại những đồng bằng

và những ngọn đồi thấp nơi thảo nguyên rộng lớn của vùng Bắc Mỹ. Trong lịch sử Mỹ
cuộc chiến tranh Texas-Da Đỏ

tức cuộc chiến tranh giữa những người thực dân với các tộc người Da Đỏ sống tại thảo nguyên Bắc Mỹ
kéo dài nửa

thế kỷ từ 1820 đến 1875. Trận đánh cuối cùng là do vị tù trưởng cuối cùng của nhóm những người thuộc bộ tộc

Comanche là Quanah Parker chỉ huy. Trong lịch sử


Quanah Parker không thất trận và ông không hề bị bắt nhưng cuối

cùng vào ngày 2 tháng 6 năm 1875 ông quyết định đầu hàng và cùng với nhóm bộ tộc Comanche đi đến Fort Sill
nơi

dành riêng cho người Da Đỏ tại Oklahoma. Quanah Parker mất tại đây vào năm 1911.Rất có thế cuộc nổi dậy của người

Comanche mà Donald Barthelme đề cập tới là trận chiến cuối cùng được chúng tôi nhắc đến trên đây. Nhưng toàn bộ

trận đánh không diễn ra cuộc chiến tranh Việt Nam


phong trào đòi bình đẳng của người Da Đen bấy giờ…).Chính áp

lực này tạo thành thứ không gian cong (theo kiểu của Einstein) trên đó các sự kiện lịch sử của thứ thời gian quá khứ

hiện lên thành ra biến dạng


thậm chí lộn đầu.Lịch sử là vấn đề của thời gian. Mọi lịch sử đều bất định trong thời gian

và trong không gian. Đó là một sự thật lịch sử. Vì thế viết về lịch sử bao giờ cũng là một khả thể bởi vì bản thân lịch sử

là một khả thể


nó tồn tại trong những diễn dịch khác nhau khi những mối quan hệ là vô hạn. Jorge Luis Borges nói

me cũng nói như thế. Từ đây


cái nhìn thực-phi thực của chủ nghĩa hậu hiện đại xuất hiện
như thế và Donald Barthelme

như một thái độ và cách ứng xử dân chủ đối với các mối quan hệ văn bản (ví dụ
người đọc với văn bản
hiện thực với

văn bản
lịch sử với văn bản
nhà văn với văn bản…).Trong Công viên những lối đi rẽ hai ngả
lịch sử luôn luôn được

đính chính là vì thế; các sự kiện hình như luôn xuất hiện bất ngờ
không trùng khớp là vì thế
và cũng vì thế mà đôi khi

chúng được thay thế đến buồn cười


ví dụ trường hợp tên nhân vật Stefan Albert với địa danh Albert thuộc khu hành

chánh Somme ở miền bắc nước Pháp. Chúng tôi chỉ xin nêu ra một số trường hợp đính chính:- Theo người kể chuyện

thứ nhất thì nguyên nhân sự chậm trễ hay là hoãn cuộc tấn công nh
và sự trì hoãn đó là vô nghĩa. Sự kiện trì hoãn này

hay là nguyên nhân của sự trì hoãn này đã được đính chính bằng những tường trình của Yu Tsun mà theo người kể

chuyện thứ nhất (có thể là tác giả) là đã rọi thứ ánh sáng không nghi ngờ lên toàn bộ sự vụ. tức là khẳng định những

lời tường trình của Yu Tsun sẽ rọi thứ ánh sáng sáng rõ lên toàn bộ sự vụ
thì sự kiện cũng lập tức được đính chính là

“Tài liệu thiếu mất hai trang đầu”. Và như thế


cái nếp gấp vừa nêu trên của truyện là cái nếp gấp của đính chính lịch

sử hay là cái nếp gấp đẩy cái tưởng là thực vào phi thực hoặc đem cái phi thực tưởng là thực để đính chính cho cái

thực (có nhưng không chính xác).- Ngay trong phần đầu lời tường trình
tình hình đính chính
diễn dịch lại xảy ra liên

www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/1320-thuc-va-phi-thuc-trong-truyen-ngan-cong-vien-nhung-loi-di-re-hai-nga-cua-jorg… 17/22
5/8/2021 THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI L…
tục. Ví dụ
về sự có mặt của đại uý Richard Madden
một sĩ quan Anh
trong căn phòng của Viktor Runeberg
một gián

điệp người Đức hoạt động cùng với Yu Tsun


đã được Yu Tsun diễn dịch từ giọng trả lời qua điện thoại và cho rằng

như thế (tức sự hiện diện của Richard Madden trong phòng của Viktor Ruenberg) là “chấm dứt những lo lắng của

chúng tôi”
rồi lại đính chính “nhưng điều đó đã hình như là
hoặc có thể đã hình như là
rất không quan trọng đối với

tôi”
rồi tiếp tục diễn dịch “cũng có nghĩa là chấm dứt cuộc đời chúng tôi”. Sau đó
lại diễn dịch lần nữa
“Có nghĩa là

Runeberg đã bị bắt và bị giết rồi.” (“Madden’s presence in Viktor Ruenberg’s apartment meant the end of our anxieties

and - but this seemed


or should have seemed
very secondary to me - also the end of our lives. It meant that Runeberg

had been arrested or murdered”). Điều thú vị là ngay chi tiết này lại được người xuất bản/người biên tập (editor) chú

thích có tính đính chính: “ (Một) giả thuyết oán hận (hateful/đá
bằng một khẩu súng lục tự động tấn công kẻ phát ngôn

lệnh bắt
đại uý Richard Madden. Người này
để tự vệ
đã gây cho anh ta nhiều vết thương đưa đến cái chết (Ghi chú

của người xuất bản)”. Và cứ thế


cả tác phẩm liên tục những đính chính
diễn dịch lại. Xin hãy đọc đoạn cuối bản

tường trình của Yu Tsun: “Những thứ khác là không có thật


là vô nghĩa (Người viết nhấn mạnh). Madden cắt ngang

câu chuyện và bắt ta. Ta bị phán quyết tội chết treo. Ta đã thắng một cách ghê gớm; ta kịp thời thông báo cho Berlin

biết tên bí mật của thành phố cần phải tấn công. Hôm qua máy bay đã dội bom nó; ta đọ
kẻ đó là Vũ Tuấn (Yu Tsun).

Thủ Lĩnh đã giải được sự kiện đau đầu ấy. Người biết rằng vấn đề của ta là chỉ ra (thông qua tiếng nổ vang dội của

chiến tranh) cái thành phố được gọi tên là Albert và rằng ta không có biện pháp nào hơn là việc phải giết một ng
về

cái chết của Stefan Albert


về con người của Yu Tsun
về sự kiện dội bom thành phố Albert của quân Đức (mà thực tế

là không xảy ra)...


tất cả hiện ra dưới một thứ ánh sáng vô định. - Chúng tôi xin trở lại chỗ nếp gấp của truyện
tức từ

chỗ chuyển từ lời của nhân vật thứ nhất (người kể chuyện
có thể là tác giả) sang lời của Yu Tsun (Vũ Tuấn)
mà trên

đây chúng tôi gọi là nếp gấp của đính chính


để có thể rõ thêm về bản tường trình của Yu Tsun. Trước hết
chúng tôi

ghi ra đây một đoạn trong bản tiếng Anh mà chúng tôi sử dụng để so sánh khi cần thiết: “The following statement

dictated
reread and signed by Dr. Yu Tsun
former professor of English at the Hochschule at Tsingtao
throws an

unsuspected light over the whole affair. The first two pages of the document are missing.” Chúng ta có thể hình dung

là toàn bộ phần còn lại của truyện Công viên những lối đi rẽ hai ngả là lời cung khai của Yu Tsun. Để có được lời cung

khai (mà rồi Yu Tsun đọc lại (reread) và cuối cùng đồng ý với những nội dung mình đã cung khai trên nên Yu Tsun đã

ký tên (signed). Lời cung khai đầy những đính chính như chúng ta đã thấy của Yu Tsun nhưng nhân vật người kể

chuyện lại cho là đã rọi một ánh sáng sá


những sự kiện lịch sử bị phủ lên một màn sương mù phi thực
mặc dù
nếu

cố gắng chúng ta cũng có thể liên hệ câu chuyện mê lộ (labyrinth) với thứ chiến hào chằng chịt tại mặt trận Albert bấy

giờ. Nhưng đó cũng có thể là một liên hệ khiên cưỡng. Thực ra


từ labyrinth (mê lô) này bấy giờ đã được sử dụng

trong ít nhất là một tin trên tờ Daily Mirror về mặt trận Somme (The Battle of the Somme) được phát hành vào ngày 31

tháng 7 năm 1916: “We break into German forward defences on front of 16 miles. Serre
Montauban
La Boiselle and

Fricourt taken: German labyrinth of trenches on seven-mile front to depth 1


000 yards captured. Prisonners: 3
500.”

Rất có thể Jorge Luis Borges đã đọc được một trong những tin như thế
và chính từ labyrinth tình cờ trong một cái tin

nào đó đã bừng lên một con đường đi vào Công viên những lối đi rẽ hai ngả. Nhưng đó có thể là một suy diễn khiên

cưỡng. Dù vậy
ở đây chúng ta lại bắt gặp sự khúc xạ của lịch sử trong cái nhìn sáng tạo của người nghệ sĩ hậu hiện

đại là Jorge Luis Borges để cái thực và phi thực hiện ra đồng thời
dắt dẫn một cuộc đồng hành của quá khứ với hiện

tại
hay đúng hơn của quá khứ với một quá khứ khác trên cái nền những vấn đề hiện tại
của vô thức với thứ ý thức đã

lọc qua màn hư cấu của sáng tạo. Cuộc đồng hành đó
theo chúng tôi
là sự đính chính mang tính lịch sử về hành trình

sáng tạo của người nghệ sĩ và là sự đính chính về sự thực lịch sử của những hành trình đời người và thế giới. Những

điểm này nảy sinh từ câu chuyện mê lộ và quyển tiểu thuyết dang dở của Ts’ui Pên.- Tại đây
chúng ta có thể nói thêm

về chuyện Yu Tsun tìm đến Stefan Albert. Chúng ta có thể hình dung là sau khi nắm được Bí Mật (the Secret*)
tức là

địa đểm bãi pháo mới của quân Anh


Yu Tsun tìm cách để thông báo cho Thủ Lĩnh (the Chief) ở Berlin – một Thủ Lĩnh

được Yu Tsun miêu tả là con người bệnh họan


đáng ghét và vô cảm
không biết gì về Yu Tsun và Ruenberg ngoại trừ

việc cả hai đang sống ở Staffordshire – trong tình trạng chính Yu Tsun đang bị Madden truy đuổi. Thế là Yu Tsun nảy ra

một ý định
nảy ra một kế họach và lục lại cái túi lấy ra đủ thứ bà chằng với khẩu súng lục có một viên đạn; kế họach

hiện ra rõ hơn: “Ta lơ mơ nghĩ rằng: tiếng súng lục có thể nghe được từ rất xa. Trong mười phút
kế họach của ta đã

chín muồi.” Và ngay lúc ấy Yu Tsun đọc thấy tên của Stefan Albert trong quyển sổ ghi số điện thoại (the telephone

book*). Chúng ta có thể nói rằng (theo logic thông thường của cách kể chuyện truyền thống) những ý tưởng
những ý

kiến nhận xét


đánh giá của Yu Tsun về viên Thủ Lĩnh ở Berlin
về nước Đức là xuất phát từ tình thế bị bắt phải cung

khai của Yu Tsun lúc đó (tức lúc đã bị bắt và buộc phải viết bản cung khai này) nhưng cái cách Yu Tsun gắn tên của

thành phố Albert với tên của một người Anh sống ở Pháp (theo Yu Tsun) và tình cờ tìm r
chủng tộc trong người là Yu

Tsun: “Hơn nữa


ta biết một ông người Anh – một con người khiêm tốn mà với ta
ông không kém Thi sĩ Goethe.

Trước một giờ ta đã không nói chuyện với ông


nhưng trong khỏang một giờ nữa ông sẽ là Goethe**…Ta làm điều đó

vì cảm thấy rằng Thủ Lĩnh hơi sợ những người thuộc chủng tộc*** ta – sợ vô vàn những bậc tiền bối vốn hội tụ trong

ta. Ta muốn chứng minh cho Người biết rằng một người da vàng có thể cứu quâ
Fenton
Ashgrove…được Borges

đưa ra ở đây là không đáng tin cậy


chỉ là sự gắn kết tình cờ và bất định
kể cả cái chuyện những con người mà Yu

Tsun gặp trên đường


có người đọc cả Annals của Tacitus**. Tất cả hiện ra ngẫu nhiên
tình cờ
đứt gãy như trong một

giấc mơ. Cái biên giới của thực và phi thực trở nên mong manh hơn bao giờ hết hay là không có thứ biên giới như thế.

Nhà văn hậu hiện đại hình như hướng đến cách tạo ra các tình huống gắn kết các chi tiết
yếu tố kiểu đó để người đọc

tự đính chính và xây dựng một văn bản của riêng họ-một văn bản phi đại tự sự.Lịch sử hay là những sự kiện lịch sử

www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/1320-thuc-va-phi-thuc-trong-truyen-ngan-cong-vien-nhung-loi-di-re-hai-nga-cua-jorg… 18/22
5/8/2021 THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI L…
như chúng ta đã thấy
cũng xuất hiện dưới dạng thực-phi thực trong Cuộc nổi lọan của người Da Đỏ
nhưng thay vì bị

đính chính
lịch sử ấy luôn bị cắt dán bất định. Có lẽ cái kỹ thuật cắt dán (collage) đã được Donald Barthelme vận dụng

đến chỗ gần như tận cùng của nó


và vì thế lịch sử đi xuyên qua thời gian
xuôi ngược
đứt nối bất định. - Trước hết

chúng tôi xin lần lượt chú thích sơ lược các tên riêng được Donald Barthelme nhắc đến trong truyện ngắn Cuộc nổi

lọan của người Da Đỏ. Đây là công việc làm thủ công như một kiểu tái tạo: Mark Clark: Mark Wayne Clark (1896-1984)

là vị tướng Mỹ phục v
đặc biệt những đoàn quân tình nguyện phục vụ trong cuội Nội chiến Mỹ. Chester William Nimitz

(1885-1966) là một Đô đốc Hải quân Hoa Kỳ. Ông là Tổng tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ và là Tổng tư lệnh

khu vực Thái Bình Dương của lực lương hải


lục không quân của Mỹ và đồng minh trong Thế chiến hai…IRA: Quân đội

Cộng hòa Ailen.George Calett Marshall


Jr. (1880-1959) là nhà lãnh đạo quân đội Mỹ
Bộ trưởng Quốc phòng. Trong

Thế chiến hai


ông là “người tổ chức chiến thắng”; cùng với Winston Churchill
ông làm nên thắng lợi của quân Đồng

minh. Ông từng là cố vấn quân sự cao cấp cho Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt. Và với kế họach Marshall
ông

nhận được giải Nobel Hòa Bình năm 1953.Jonathan Mayhew “Skinny” Wainwright IV (1883-1953) là sĩ quan quân đội Mỹ

chỉ huy lực lượng Đồng minh tại Philippines trong thời Thế chiến thứ hai khi Philippines đầu hàng phát xít

Nhật.Abraham Lincoln Brigate là những người Mỹ tình nguyện trong Lữ đoàn Quốc tế phục vụ cuộc Nội chiến Tây Ban

Nha
chống phát xít Franco.Benjamin Franklin Wedekind (1864-1918) thường được gọi là Frank Wedekind
là một kịch

tác gia người Đức. Tác phẩm của ông được coi là dự báo cho sự ra đời của chủ nghĩa biểu hiện
và ông có một ảnh

hưởng rất lớn đối với sự phát triển của sân khấu sử thi.Gustave Aschenbach: Còn gọi là von Aschenbach
nhân vật

trong tiểu thuyết Death in Venice (1912) của Thomas Mann. Trong nhật ký
Thomas Mann đã kể việc ông chống lại sự

lôi cuốn của tính dục như thế nào


và sự ciệc ấy được phản ánh trong các tác phẩm
các nhân vật của ông
đặc biệt

trong nỗi ám ảnh của nhân vật Gustave Aschenbach.Jean-Luc Godard (sinh năm 1930) là một đạo diễn người

PhápChúng ta có thể nhận ra rằng trừ một số tên tuổi liên quan đến các lĩnh vực ngôn ngữ
nghệ thuật
tất cả những

tên tuổi còn lại đều liên quan đến chiến tranh. Cuộc nổi dậy của người Da Đỏ Comanche của thế kỷ 19 đã hiện lên trên

cái nền hiện đại với các tên tuổi của Mỹ gắn với những cuộc chiến tranh của thế kỷ 20
đặc biệt Thế chiến hai. Đây là

lớp cắt dán đầu tiên


tạo tầng nền cho một cách đọc lịch sử: một lịch sử đã bị khúc xạ hiện lên trên cái nền lịch sử

khác khi mà một vấn đề lịch sử tương tự đang được đặt ra: cuộc nổi dậy/ cuộc khởi nghĩa của người Việt Nam trong

chiến tranh Việt Nam bấy giờ. Donald Barthelme lịch sử không yêu cầu đính chính hoặc thực hiện các kết nối bất ngờ

như trong Công viên những lối đi rẽ hai ngả của Jorge Luis Borges mà nó đòi hỏi sự nhìn nhận nó thông qua cách suy

tưởng lộn đầu


nghĩa là nhìn nhận nó thông qua một lịch sử khác tác động lên một lịch sử khác nữa. Chúng ta có thể

hình dung là chính đời sống hiện đại của Mỹ trong một bối cảnh có những cuộc đòi bình đẳng của người Da Đen

những tiếng nói phản chiến (ví dụ trường hợp Jane Fonda – Hanoi Jane) đã tác động đến thái độ của xã hội
cách nhìn

nhận của Donald Barthelme về chiến tranh Việt Nam đã làm lộn đầu cuộc nổi dậy của người Da Đỏ Comanche ở thế kỷ

19. Đến đây


lịch sử đã được nhìn nhận ít nhất từ ba tầng tác động: sự chiến thắng của người Da Đỏ Comanche
cuộc

nổi dậy của người Comanche xuất hiện trong xã hội hiện đại Mỹ
cuộc nổi dậy ấy đồng thời xuất hiện trong bối cảnh

một cuộc khởi nghĩa khác đang thu hút nhiều chú ý (nhưng không được nhắc đến trong truyện): cuộc nổi dậy của

người Việt Nam trong chiến tranh Việt Nam. Lịch sử cuộc nổi dậy của người Da Đỏ Comanche được n
nghĩa là tính

bất định trở nên đậm đặc. Mở đầu truyện là mũi tên của người Comanche: “Những mũi tên của người Comanche bay

dày đặc.” Và ở một nơi khác


“những mũi tên bốc lửa soi đường tôi đi tới trụ sở bưu điện ở quảng trường Patton nơi

những thành viên của Abraham Lincohn Brigade mời chào những lá thư
bưu thiếp
những tấm lịch cuối cùng tả tơi

của họ. Tôi mở một lá thư ra nhưng bên trong là một đầu mũi tên bằng đá lửa của người Comanche do Frank

Wedekind trình bày trong một sợi dây chuyền vàng trang nhã cùng những lời chúc mừng.” Chúng ta có thể hình dung

(cùng m
và những mũi tên bốc lửa dẫn đường (như là thứ ánh sáng hay đèn điện soi đường) nhân vật người kể

chuyện thuộc nhóm người (có lẽ là những ngượi thực dân Anh thời đó hay là những người Mỹ da trắng hiện đại của

những năm 1960) chống lại người Comanche đi đế


và tại đây nhân vật lại gặp nhóm người Mỹ tình nguyện trong Lữ

đoàn Quốc tế phục vụ trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha
chống phát xít Franco (của những năm 1937-1939). Nhưng

những người lính tình nguyện này đang mời chào những bưu thiếp
những bức thư
những tấm lịch (cần chú ý sự

khác nhau của mấy thứ này)


và trong một trong những bức thư (có thể có giá trị mang một thông điệp) như thế
nhân

vật xưng tôi mở ra và bắt gặp một đầu mũi tên bằng đá lửa của người Comanche (lại mũi tên và lửa/đá lửa)
nhưng mũi

tên đá lửa này đã được một kịch tác gia người Đức
sinh năm 1930
mà tác phẩm của ông được coi là dự báo của chủ

nghĩa biểu hiện và có ảnh hưởng đến sự phát triển của sân khấu sử thi
là Fank Wedekind “trình bày trong một sợi dây

chuyền vàng trang nhã với những lời chúc mừng” (mũi tên đá lửa của người Comanche đã chuyển công năng
trở

thành một thứ trang sức kèm lời chúc mừng


và dĩ nhiên chúng ta sẽ không bao giờ biết là chúc mừng gì).Chúng ta

thử tiếp tục thao tác như vậy đối với việc tra tấn tù binh Comanche và buộc cung khai sau đây: “Chúng tôi nối dây điện

vào hòn dái tên Comanche bị bắt... Khi chúng tôi gạt cầu dao thì y y nói
Gustave Aschenbach. Y ra đời ở L.
một thị

trấn thuộc tỉnh Silesia. Y là con của một viên chức cấp cao của ngành tư pháp
tổ tiên của y đều là các quan chức

thẩm phán
viên chức cấp bộ...” Chuyện tra bằng điện thôi thì không có vấn đề gì nhưng tại sao lại ghim dây điện vào

hòn dái (trò tra tấn hay là trò chơi của thứ ức chế tính dục). Và tên của một tù binh Comanche lại trùng tên với nhân

vật trong tác phẩm của Thomas M


đặc sệt châu Âu; còn xứ sở Silesia của y là bất định (vì Silesia có thể ở Montana

nhưng cũng có thể là vùng đất cổ của Slovekia…)


và tổ tiên y đều là quan chức của chính quyền (Mỹ) (là một điều

không thể tin được) Và cứ thế


lịch sử cứ được chồng lên bởi những thứ phi lịch sử hay là những thứ lịch sử phi lịch

sử (theo nghĩa chúng ta thường hiểu đối với từ lịch sử là những thứ thăng trầm gắn liền với số phận một quốc gia)
cứ

www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/1320-thuc-va-phi-thuc-trong-truyen-ngan-cong-vien-nhung-loi-di-re-hai-nga-cua-jorg… 19/22
5/8/2021 THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI L…
bị đính chính (nhân vật đính chính
người biên tập đính chính
người kể chuyện đính chính…)
cứ bị đứt nối
cứ bị cắt

dán bất định… Và cứ thế


cái nhìn thực-phi thực hiện ra qua thứ ngôn ngữ của giấc mơ: gắn kết bất định của những

ám ảnh
do những ám ảnh - ám ảnh cá nhân và cả ám ảnh tập thể. Cả hai truyện ngắn
một của Jorge Luis Borges và

một của Donald Barthelme


đều là như thế
đều là siêu hư cấu/siêu truyện (metafiction). Cả hai đều cho thấy rằng tác

giả của chúng hướng tới tác động “bất khả tín” đối với người đọc : “Làm gì có chuyện như thế”
người đọc nói. Thế là

ngay lúc ấy người đọc được đẩy tới trạng thái tỉnh táo cùng cực và nhận ra rằng tác phẩm là một văn bản hư cấu
một

thứ trò sáng tạo ngôn ngữ; tất cả những thứ được nói đến trong nó chỉ tồn tại trong ngôn ngữ của nó
trước đó chưa

có và sau đó cũng không có. Và tác phẩm


như thế
là một siêu hư cấu khi nó
“một cách tự ý thức và có hệ thống đã

thu hút sự chú ý (của người đọc…) đối với bản thân nó như là một thứ tạo tác nhằm đặt ra những câu hỏi về mối quan

hệ giữa hư cấu với hiện thực.” 3.Trên đây chúng tôi đã phần nào khảo sát “cách đọc” lịch sử của Jorge
đứt nối bất

định theo nhiều cách khác nhau và đi đến việc chỉ ra rằng cả hai đều là siêu hư cấu/siêu truyện (metafiction). Trong

thực tế từ sau khi thuật ngữ siêu hư cấu được William H. Gass đưa ra trong tiểu luận “Triết lý và hình thức hư cấu”

(Philosoph
năm 1970
thì những công trình nghiên cứu đối tượng này đã đạt được rất nhiều thành tựu và đã cho thấy

rằng hiện tượng siêu hư cấu đã có từ lâu trong văn chương với nhiều dạng khác nhau . Thực ra
hiện tượng này đã

được nhiều nhà nghiên cứu đề cập


khảo sát trước đó nhưng cho đến khi thuật ngữ ra đời thì nó thực sự trở thành

mối quan tâm của trần thuật học


đặc biệt đối với các tác phẩm văn xuôi hậu hiện đại.Có lẽ sự khác biệt giữa hiện

tượng siêu hư cấu của hậu hiện đại với các khuynh hướng/trào lưu khác là ở chỗ siêu hư cấu của hậu hiện đại được

triển khai trên một kiểu văn bản đặc biệt


đó là siêu văn bản* (hypertext).Tôi xin chép ra đây một định nghĩa hypertext

trên Từ điển vi tính trên máy tính hiện nay:“Siêu văn bản Văn bản của một tài liệu truy tìm không theo tuần tự. Người

đọc tự do đuổi theo các dấu vết liên quan qu


bạn có thể trỏ vào (highlight) bất kỳ từ nào của tài liệu và sẽ tức khắc

nhảy đến các tài liệu khác có văn bản liên quan đến nó. Cũng có những lệnh cho phép bạn tự tạo cho riêng mình

những dấu vết kết hợp qua suốt như các bộ từ điển bách khoa và các bộ sách nhiều tập.”Và một định nghĩa khác từ

Wikipedia:“Hypertext is text
displayed on a computer
with references (hyperlinks) to other text that the reader can

immediately follow
usually by a mouse click or keypress sequence. Apart from running text
hypertext may contain

tables
images and other presentational devices. Any of these can be hyperlinks; other means of interaction may also

be present
e.g. a bubble with text may appear when the mouse hovers somewhere
a video clip may be started and

stopped
or a form may be filled out and submitted.The most extensive example of hypertext today is the World Wide

Web.”Chúng ta tạm thời rút ra một số điểm cần thiết về hypertext:- Tính chất phi tuyến tính trong cấu trúc văn bản và

phi cô lập của văn bản


- Tính chất tương tác giữa các văn bản liên quan
- Sự tự do chọn lựa của người sử dụng
-

Tùy theo người sự dụng


văn bản có thể hiện lên theo một chủ đề bất định/tự chọn
- Văn bản hypertext
vì thế
rất lớn

có nhiều mối quan hệ đa dạng. Nó vừa tỉnh vừa động. Văn bản luôn luôn là một khả thể mà những hiện thể nằm nơi

các con chuột/cái kích tay của người sử dụng hay là sự chọn lựa tự do.- …Trên đây chúng tôi đã làm một thao tác là

đọc theo chủ đề lịch nay chúng tôi xin quay lại với câu chuyện. Hiện tượng truyện trong truyện của truyện ngắn Công

viên những lối đi rẽ hai ngả với tư cách là một siêu hư cấu thì quá rõ: câu chuyện về Yu Tsun trùm trên câu chuyện về

Ts’ui Pên
câu chuyện về Albert; câu chuyện về Yu Tsun đánh giá câu chuyện về Ts’ui Pên rồi câu chuyện về Albert

đánh giá về câu chuyện của Ts’ui Pên…Hiện tượng này trong truyện ngắn Cuộc nổi lọan của người Da Đỏ của Donald

Barthelme thì khó nhận thấy hơn. Các nhà n


theo chúng tôi
tính siêu hư cấu của truyện còn lộ ra ở điểm tương tác

giữa hai câu chuyện. Ngay từ đoạn văn đầu tiên của truyện chúng ta đã bắt gặp điều này
nó báo hiệu một sự phát

triển theo kiểu cấu trúc siêu hư cấu và siêu văn bản:“Chúng tôi phòng thủ thành phố bằng hết sức có thể. Những mũi

tên của người Comanche bay dầy đặc. Những cây chùy của người Comanche gõ cành cạch trên hè phố vàng và mềm.

Có những
sách
đĩa nhạc. Nàng nhìn lên “Không.””Không kể đến những hình ảnh chưa có gì rõ ràng về một đời sống

hiên đại từ những dòng đầu tiên


ví dụ “hè phố vàng và mềm”
“hàng rào được viền bằng dây kẽm sáng lóa” hoặc tên

đường Mark Clark


chúng ta thử chuyển chú ý đến câu chuyển hay là một câu có ý định chuyển để nối kết và đồng thời

để tạt qua một nẻo khác: “Mọi người đang cố gắng để hiểu” – một câu viết lấp lửng
tưởng như không có đối tượng

và ngay sau đó là câu hỏi của nhân vật người kể chuyện với Sylvia (mà sau này chúng ta biết là người tình của nhân

vật người kể chuyện). Chúng ta thử (một lần nữa) bố trí theo một hướng có thể chấp nhận được như sau:- Nhân vật

người kể chuyện hỏi Sylvia l


- Cuộc sống này được bày ra bằng những hình ảnh (mang tính hiện đại): cái bàn (bày

đầy)
táo
sách
đĩa nhạc. (Rồi ra
và vì thế
tác phẩm hay là Donald Barthelme cứ trở đi trở lại với cái bàn.)- Và câu trả

lời của Sylvia: “Không”Thế là đến đây chúng ta hình như cảm nhận một tương tác trong hai câu chuyện
sự chồng lên

nhau của hai câu chuyện


sự tác động đâu đó của ký ức với lịch sử và hiện đại. Nó như là một đặt định đầu tiên của sự

phát triển song hành


tương tác
đan cài
mở rộng một siêu tự sự thành một siêu văn bản.Trong một cách nhìn nhất

định
siêu văn bản là một mê lộ. Người đầu tiên đưa ra khái niệm siêu văn bản vào năm 1963 là Ted Nelson.(Tên đầy đủ

của ông là Theodor Holm Nelson


sinh năm 1930
là một nhà xã hội học
một triết gia người Mỹ và là người tiên phong

của ngành công nghệ thông tin). Hai năm sau


tức năm 1965
khái niệm siêu văn bản lần đầu tiên được xuất hiện trong

một văn bản in là một bài báo viết về bài thuyết trình của Ted Nelson: “Computers
Creativity
and the Nature of the

Written Word” (Máy vi tính


tính sáng tạo
và bản chất của chữ viết). Sau đó
Ted Nelson phổ biến khái niệm hypertext

trong quyển sách Những cổ máy văn chương (Literary Machines). Bấy giờ theo Ted Nelson siêu văn bản là “ văn bản

phi-liên tục mà những liên kết là do ngươì đọc kiểm soát” (non-sequential with reader-controlled links)
chúng tôi xin

trích dịch một đoạn khá dài trong một tiểu luận của Luke Korzun Martin:“Vận dụng tính siêu văn bản vào truyện ngắn

Công viên những lối đi rẽ hai ngả của Jorge Luis Borges
tác phẩm thường được các nhà lý thuyết siêu văn bản vận

www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/1320-thuc-va-phi-thuc-trong-truyen-ngan-cong-vien-nhung-loi-di-re-hai-nga-cua-jorg… 20/22
5/8/2021 THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI L…
dụng
đã chỉ ra cách thức siêu văn bản làm phân hủy những hình thức tự sự tuyến tính. Tại đây
người kể chuyện so

sánh hình thức tự sự tuyến tính


“ Trong tất thảy mọi hư cấu
khi con người đứng trước những thay đổi khác nhau

anh ta chọn một và bỏ đi những cái khác”


với mê lộ ảo rẽ hai liên tục đan dệt giữa một số lượng vô hạn những thế

giới khả thể trong một quyển sách của nhà triết học Trung Hoa là Ts’ui Pên:“Trong cái hầu như sâu thẳn vô đáy Ts’ui

Pên
ông chọn tất cả - cùng một lúc. Như thế
ông sáng tạo ra những tương lai khác nhau
những thời gian khác nhau

mà những thời gian khác nhau này bắt đầu những thời gian khác rồi đến lượt mình những thời gian khác này phân

nhánh và rẽ hai trong những thời gian khác…Trong tác phẩm của Ts’ui Pên
tất cả mọi kết thúc khả thể đều xảy ra
mỗi

một kết thúc là điểm khởi đầu cho những rẽ hai khác.”Trong mê lộ của Ts’ui Pên
giống như trong mô hình siêu văn

bản
hình thức tự sự (narrative) không phải là một chuỗi những lựa chọn nhị phân
mà là một mạng vô tận và biến

động những rẽ đôi và những hội tụ mà trong đó “tất thảy những kết thúc khả thể đều xảy ra”. Thay vì nhấn mạnh đến

cấu trúc văn bản


siêu văn bản trình diện bản thân như sự vắng của chính nó bằng cách mở ra tiềm năng tự sự cho

“tất cả mọi khả năng”. Những đối lập nhị phân được tạo ra để cùng tồn tại trong hình thức tự sự/ truyện lại mâu thuẫn

nhau và làm cho nhau bất ổn định


bày ra một văn bản mà trong đó hình thức tự sự/câu chuyện tự xóa bản thân.

Borges thấy trước nghịch lý này của việc tự xóa bản thân trong việc ông miêu tả cách thức
nơi tác phẩm của Ts’ui

Pên
người ta có thể cùng một lúc sống và chết: “Trong [thế giới]* này
trong đó nhờ duyên may giúp tôi
anh đã đến

cổng vườn tôi. Trong lúc/nơi khác


Anh
lúc đi ngang qua khu vườn
đã thấy tôi chết rồi. Trong lúc/nơi khác nữa
tôi

nói chính những lời này


nhưng tôi là một sai lầm
một bóng ma”. Sự tự xóa bản thân gắn liền với mô hình siêu văn

bản cung cấp cho nó một dạng giống như quang phổ và sáng tạo cái mà chúng ta có thể nghĩ về nó như thể một văn

bản “ma”
một kết cấu văn bản xốp đến nỗi chúng ta chẳng bao giờ có thể hoàn toàn chắc chắn rằng nó có ở đó hay

không.” Có lẽ chúng ta cần chú ý đến mấy điểm sau đây:- Jorge Luis Borges hình như vi phạm đến điều mà chính ông

đưa ra thông qua cuộc đối thọai giữa Yu hay là một ngụ ngôn mà đề tài của nó là thời gian”.- Có hai tác phẩm : tiểu

thuyết Công viên những lối đi rẽ hai ngả của cụ cố của Yu Tsun là Ts’ui Pên và truyện ngắn Công viên những lối đi rẽ

hai ngả của Jorge Luis Borges. Tác phẩm của Jorge Luis Borges với những nếp gấp bất ngờ
với những ám ảnh hóa

thật mà phi thật như Yu Tsun và cơn ám ảnh mê lộ trước khi gặp Stefan Albert…mà chúng tôi đã có dịp trình bày trên

đây. Công viên những lối đi rẽ hai ngả của Borges là một mê lộ thời gian
vì thế Stefan Albert của hư cấu hóa thành

Albert Einstein với những quan niệm mới mẻ về thời gian


hay đúng hơn về không-thời của vật lý hiện đại. (Chính vì

thế
Borges đã nhắc tới Newton và Shopenhauer). Đây là một cuộc gặp gỡ Đông –Tây thú vị trong siêu văn bản thời-

không.- Chúng ta có thể đọc tác phẩm này từ đầu mối không-thời* của Albert Einstein (Stefan Albert) thì bấy giờ số

phận vòng tròn đã được biết trướ


những khác biệt giữa tư liệu thực của Liddell Hart với trích dẫn của Borges trong

lời nhân vật kể chuyện thứ nhất


bức di thư của Ts’ui Pên
di sản cuốn tiểu thuyết của Ts’ui Pên và mê lộ là một… sẽ

hiện ra dưới ánh sáng mới của siêu văn bản.Trong Cuộc nổi lọan của người Da Đỏ của Donald Barthelme
siêu văn

bản hiện lên như chính nó. Nói một cách khác
trên sự tương tác của hai câu chuyện mà chúng tôi đã đề cập trên đây

chúng ta có thể lần theo từng đầu mối riêng biệt theo sự chọn lựa nào đó như cái kích con trỏ của người sử dụng. Đó

là bước nhảy của không gian


là lối rẽ của không gian mà bước nhảy ấy
lối rẽ ấy cũng chính là thời gian; một cách

khác thời gian chính là bước nhảy


lối rẽ bất tận của không gian
thời gian trở nên vô cùng và không gian trở nên vô

tận. Những bước nhảy


những liên kết như thế được thực hiện một cách tự do trong siêu văn bản; tùy theo quyết định

của người đọc mà thế giới hiện ra và mất đi trong văn bản và chỉ trong văn bản. Đó là một trò chơi của thực-phi thực

trò chơi của ngôn ngữ. Chính tại đây hậu hiện đại phá hủy toàn bộ “huyền thoại văn chương” hay là phá hủy hiện

tượng văn chương như một huyền thoại. Đây là cách hậu hiện đại giải đại tự sự.Theo cách kết nối tự do của siêu văn

bản
chúng ta thử kết nối những phát ngôn về (hình ảnh) cái bàn
tức hình ảnh đầu tiên hiện ra trong sự nối kết giữa

lịch sử (ký ức) với hiện đại/tại (cái đang chạm vào đầy ám ảnh) như trên đây chúng tôi đã đề cập đến.1. …Mọi người

đang cố gắng để hiểu. Tôi nói với Sylvia. “Em có nghĩ cuộc sống này là tốt đẹp không?” C
những từ “cái bàn” trong

các dòng trích sau đều do người viết nhấn mạnh) đầy những táo
sách
đĩa nhạc. Nàng nhìn lên “Không”2. Và khi họ

quay cảnh dưới vòi sen tôi chà giấy nhám cánh cửa ruột lõm một cách cẩn thận để đạt bằng những minh họa trong

văn bản và những chỉ dẫn thầm thì của một tay đã giải quyết được vấn đề này. Tôi đã làm tất cả những một cái khi

sống với Nancy


một khi sống với Alice
một khi sống với Eunice
một khi sống với Marianne.3. Chính những khi ở bên

em tôi được sung sướng nhất


và chính vì em mà tôi làm cánh cửa ruột lõm này cái bàn với những chân bằng sắt

uốn.4. Không tin rằng thân xác bạn vốn dĩ thông minh và tinh thần to béo
tuôn chảy của bạn vốn dĩ phẫn nộ và xuất

chúng là những khối lượng ổn định mà người ta có thể theo điện tín để trở về đó hơn một lần
hơn hai lần
hay hơn

một số lần nào đó nên tôi nói “Thấy cái bàn không?”5. Tôi cho Nancy xem cái bàn. “Thấy cái bàn không?” Cô lè cái

lưỡi đỏ như mũ hồng y ra. “Tôi đã từng làm một cái bàn như vậy
” Block nói thẳng “Khắp cái nước Mỹ này người ta

đã làm những cái bàn như thế. Tôi e rằng chẳng có ai bước vào một căn nhà của người Mỹ mà không tìm thấy ít nhất

một cái bàn như thế


hay những dấu vết của cái bàn đã từng có mặt ở đó
như những chỗ phai màu trên tấm thảm

chẳng hạn.”6. Block từ tầng trên của tòa nhà do Emery Roth & Sons thiết kế đang bắn bằng một ống bơm mỡ. “Thấy

cái bàn không?” “Ồ


dẹp cái bàn thổ tả của anh đi nào!” Một đề nghị có phần ngớ ngẩn là chúng ta thử cô lập từng

phát ngôn về (hình ảnh) cái bàn và sau đó chúng ta nối kết chúng lại như kiểu xâu chuỗi hay là đặt chúng kề nhau theo

từng chuỗi:1. Cuộc sống này – cái bàn.2. Cả


cái bàn – Alice
cái bàn – Eunice
cái bàn – Marianne.3. Em* – cái bàn.4.

(Không tin) thân xác-tinh thần-khối lượng ổn định – cái bàn (Thấy cái bàn không?)5. (Tôi cho xem) Nancy – cái bàn

(Thấy cái bàn không?); Block (làm) – cái bàn; khắp nước Mỹ - cái bàn; căn nhà Mỹ - cái bàn/ dấu vết củ
nếu tạm thời

được xâu chuỗi lại


cái bàn sẽ hiện ra theo các mối quan hệ giả định như cái bàn – cuộc sống Mỹ/gia đình Mỹ/văn hóa

www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/1320-thuc-va-phi-thuc-trong-truyen-ngan-cong-vien-nhung-loi-di-re-hai-nga-cua-jorg… 21/22
5/8/2021 THỰC VÀ PHI THỰC TRONG TRUYỆN NGẮN CÔNG VIÊN NHỮNG LỐI ĐI RẼ HAI NGẢ CỦA JORGE LUIS BORGES VÀ CUỘC NỔI L…
Mỹ (1
2
5
6)
cái bàn – ký ức về những người phụ nữ/yêu thương (2
3
5)
cái bà – thân xác/tinh thần/khối lượng ổn

định (4)
cái bàn – sự nhận thức về tồn tại/văn hóa (4
5
6 “Thấy cái bàn không?”)
cái bàn – một nỗ lực thay đổi cái

nhìn hay là một phản ứng văn hóa (6


“Ồ
dẹp cái bàn thổ tả của anh đi nào!”). Những phát ngôn về cái bàn như thế tồn

tại song song với câu chuyện về chiến tranh và về nhiều thứ khác
ví dụ ngôn ngữ
điện ảnh…Nếu chỉ lưu ý đến chiến

tranh
tức cuộc nổi lọan của người Da Đỏ
thì chúng ta sẽ có thể nhận ra rằng cái bàn gắn với ý nghĩa của một nỗ lực

thay đổi cái nhìn hay là một phản ứng văn hóa chỉ hiện ra khi những cảm nhận
nỗi ám ảnh về cuộc nổi lọan của người

Da Đỏ thực sự chuyển hướng: những vấn đề văn hóa của cư dân bản địa
đặc trưng và số phận của nó.Và trong bất

ngờ
những phát ngôn về (hình ảnh) cái bàn trên đây của Donald Barthelme như là tương ứng với bài thơ Một cái bàn

của Gertrude Stein (1874-1946) trong tập Tender Buttons (1914). Gertrude Stein là một nhà văn nữ người Mỹ
nhưng

chủ yếu sống ở Pháp. Bà được coi là một trong những tác giả mở đầu cho khuynh hướng hiện đại chủ nghĩa. Tập thơ

Tender Buttons (1914) của Gertrude Stein gồm ba phần: Objects


Food
Rooms. Bài thơ A Table nằm trong phần

Objects:A TABLE. A table means does it not my dear it means a whole steadiness. Is it likely that a change. A table

means more than a glass even a looking glass is tall. A table means necessary places and a revision a stand where it

did shake.Chúng tôi xin tạm dịch như sau:MỘT CÁI BÀNMột cái bàn có nghĩa là nó không phải điều thân thiết của tôi

nó có nghĩa là một toàn thể vững chắc. Có thể chăng là một sự đổi thay.Một cái bàn có nghĩa là nhiều hơn một cái ly

thậm chí
một vị trí nơi nó đã rung lắc.Trong một siêu văn bản
chúng ta cũng có thể nối kết các điểm của một chủ đề ở

nhiều lĩnh vực khác nhau như ngôn ngữ


Điện ảnh
Hội hoạ
thiết kế
kiến trúc… Trong Cuộc nổi lọan của người Da Đỏ

Donald Barthelme có nhắc đến trường hợp nhà ngôn ngữ học Korzybski và cách hành xử của nhân vật xưng tôi: “Tôi

chẳng buồn đánh giá những nhận xét đó như Korzybski chỉ dẫn”. Sở dĩ chúng tôi quan tâm đến trường hợp này bởi

một phát ngôn khác liên quan đến quay cuồng.” Xin hãy coi như đây là một đầu mối
và lần theo.Alfred Habdank

Skarbek Korzybski (1879-1950) là một triết gia


một nhà khoa học người Mỹ gốc Ba Lan. Ông là người khai sinh một hệ

thống triết học ngôn ngữ là Ngữ nghĩa học đại cương (Gereral semantics). Chúng ta cần thiết dừng lại ở một vài điểm

liên quan của hệ thống này. Trước hết là quan niệm của Korzybski về hiệ
phản ứng ngữ nghĩa là một phản ứng tòan

bộ đối với bản sự vật (thing-event


tức sự vật như nó vốn là) chứ không phải chỉ nghĩa của từ
và về sau ông gọi là

phản ứng đánh giá

Hãy là người đầu tiên trong số bạn bè


Tweet Thích
của bạn thích nội dung này

CÁC BÀI VIẾT LIÊN QUAN:


Ước lệ trong nghệ thuật[1]

Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật ngôn từ

Tranh nghệ thuật là vật nhân tạo đắt giá bậc nhất

Sách "Thực vật Đàng Trong " và chữ Quốc ngữ thế kỷ XVIII theo cách ghi của João de Loureiro

Hệ thống thư viện tỉnh Nghệ An - Một cái nhìn gần

Đạo diễn Đặng Nhật Minh: Chủ nghĩa bình quân là một đặc điểm của Văn nghệ thời bao cấp

Danh họa Nguyễn Tư Nghiêm: Một thế giới tuệ mỹ, bí ẩn

Xem tranh "Xác Phàm" của Doãn Hoàng Lâm

Cái thừa trong nghệ thuật

Phim đặt hàng sống lay lắt là do lỗi hệ thống

Trung Quốc: Những thăng trầm và sự nổi lên trở lại thành cường quốc thế giới - Những bài học lịch sử

Sách đang không còn là một nhu cầu của người dân Xứ Nghệ!?

Con người sẽ ngày càng trơ lạnh nếu không lấy văn hóa đọc làm chỗ dựa

Trần Duy: người hoạ sĩ sống đời mình

Ám ảnh về một dòng sông

Nguyễn Sáng (1923-1988)

Trở lại đầu trang

www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc-nhin-van-hoa/1320-thuc-va-phi-thuc-trong-truyen-ngan-cong-vien-nhung-loi-di-re-hai-nga-cua-jorg… 22/22

You might also like