Professional Documents
Culture Documents
đề hàng hải
đề hàng hải
Các nguyên tắc pháp luật chung được xem là một nguồn để lắp khoảng
trống pháp lý khi một tranh chấp không có quy định điều ước hay tập quán
điều chỉnh. Các nguyên tắc chung ở đây là các nguyên tắc pháp lý được cả
pháp luật quốc gia và cả pháp luật quốc tế thừa nhận và được áp dụng để giải
quyết tranh chấp giữa các quốc gia. VD nguyên tắc gây thiệt hại phải bồi
thường, nguyên tắc không ai là quan toà chính trong vụ việc của mình… Trong
thực tiễn, nguyên tắc pháp luật chung chỉ áp dụng sau ĐƯQT và TQQT với ý
nghĩa giải thích hay làm sang tỏ nội dung của quy phạm LQT
1.3 Án lệ
Án lệ là một nguồn bổ trợ của luật pháp quốc tế. Án lệ có thể là các phán
quyết, lệnh hay quyết định khác của cơ quan tài phán quốc tế hoặc cơ quan tài
phán quốc gia. Khi luật quốc tế còn chưa phát triển, các án lệ quốc gia thường
được sử dụng. Tuy nhiên, đến hiện nay hầy hết các án lệ được trích dẫn và sử
dụng đều là án lệ của các cơ quan tài phán quốc tế.
1.4 Pháp luật quốc gia
Pháp luật trong nước là nguồn cơ bản của Luật hàng hải quốc tế, bao gồm
các văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu sau: Hiến pháp, Bộ Luật hàng hải
Việt Nam, Bộ luật dân sự,…
1.5 Soft Law và các nghị quyết của các tổ chức quốc tế
Luật mềm (soft law) là thuật ngữ được sử dụng để chỉ các văn bản hay quy
định mà bản chất không phải là luật nhưng có tầm quan trọng trong khuôn khổ
phát triển luật pháp quốc tế. Đấy là các văn kiện không ràng buộc như khuyến
nghị, hướng dẫn, quy tắc hay tiêu chuẩn được các quốc gia đưa ra hoặc các tổ
chức quốc tế và các cơ quan của nó đưa ra. VD Nguyên tắc về con người và
môi trường 1972…
Nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chỉnh phủ là các quyết định được
tổ chức quốc tế đưa ra hoặc được các cơ quan của tổ chức đó đưa ra trong
phạm vi quyền hạn của mình theo quy định của tổ chức quốc tế. Các quyết
định này thể hiện ý chí của tổ chức quốc tế đó và quan trọng hơn là các quốc
gia thành viên của tổ chức. Tổ chức quốc tế càng phổ quát thì ý chí chung đó
càng mang tính đại diện cao trong cộng đồng quốc tế.
(a) điều phối các hoạt động của các cơ quan của Tổ chức;
(b) xem xét dự thảo chương trình làm việc và dự toán ngân sách của Tổ chức và
trình chúng cho Đại Hội đồng;
(c) nhận báo cáo và đề xuất của Ủy ban và các cơ quan khác và gửi chúng cho
Đại Hội đồng và các quốc gia thành viên, với ý kiến và khuyến nghị khi thích
hợp;
(d) bổ nhiệm Tổng thư ký, theo sự chấp thuận của Đại Hội đồng;
(e) tham gia vào các thỏa thuận hoặc thỏa thuận liên quan đến mối quan hệ của
Tổ chức với các tổ chức khác, phải được sự chấp thuận của Đại Hội đồng.
Thương lượng là phương thức giải quyết đầu tiên trong quá trình giải quyết tranh
chấp, thể hiện ở việc các bên trong tranh chấp chủ động gặp gỡ nhau, bàn bạc, thỏa
thuận về quyền lợi cũng như nghĩa vụ của mỗi bên.
Pháp luật về giải quyết tranh chấp không có quy định bắt buộc các bên phải tiến
hành thương lượng. Do đó, từ quy trình tổ chức, thực hiện, sự có mặt của các bên,
quyền lợi cũng như nghĩa vụ của các chủ thể, kết quả thương lượng không hề có sự
điều chỉnh của quy phạm pháp luật. Tất cả đều phụ thuộc vào thiện chí tự giải quyết
của các bên.
Trường hợp đạt được thỏa thuận trong cuộc họp thương lương, sau đó có 1 trong
các bên không tuân thủ, các bên cũng không thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thực hiện cưỡng chế.
Phương thức thương lượng rất được các chủ thể ưu tiên lựa chọn ngay khi xảy ra
tranh chấp, bởi phương thức này không chịu sự điều chỉnh của pháp luật, không bị gò
bó bởi các quy định chặt chẽ về quy trình tổ chức thương lượng, thành phần tham gia,
thời gian thực hiện, cũng như không tốn kém tiền bạc. Do sự tự giải quyết với nhau,
nên tranh chấp không bị làm lớn, không ảnh hưởng đến uy tín của các bên và bảo vệ
được bí mật kinh doanh. Cũng bởi không có sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật
nên không có sự cưỡng chế thi hành đối với kết quả thương lượng
Hòa giải
Là việc các bên tiến hành thương lượng giải quyết tranh chấp với sự hỗ trợ của
bên thứ ba là hòa giải viên. Phương thức hòa giải cũng là một phương thức giải quyết
tranh chấp không chịu sự điều chỉnh của pháp luật, được thực hiện hoàn toàn dựa
trên thiện chí của các bên.
So với việc thương lượng giữa các bên trong tranh chấp, khi tiến hành hóa giải,
các bên được thỏa thuận lựa chọn ra một bên trung gian, độc lập, có kiến thức, kinh
nghiệm và kỹ năng giải quyết tranh chấp để đưa ra các lời khuyên về quyền lợi và
nghĩa vụ của các bên. Ý kiến của hòa giải viên chỉ có tính chất tham khảo. Kết quả
của phiên hòa giải là sự thỏa thuận của các bên, không phải của hòa giải viên.
Phương thức hòa giải cũng được các bên ưu tiên lựa chọn vì thủ tục nhanh gọn,
chi phí thấp, các bên có quyền định đoạt,.
Tuy nhiên kết quả hòa giải cũng không được pháp luật bảo đảm thi hành, hoàn
toàn phụ thuộc vào thiện chí của các bên. Uy tín bí mật kinh doanh có thể bị ảnh
hưởng.
Trọng tài
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là một hình thức giải quyết tranh
chấp không thể thiếu trong quá trình phát triển của các quan hệ kinh tế và được
các chủ thể ưa chuộng.
Phương thức trọng tài do chính các bên trong tranh chấp thỏa thuận lựa
chọn, nhưng sẽ được tiến hành theo quy trình pháp luật quy định.
Trong phương thức trọng tài sẽ có một Hội đồng trọng tài hoặc trọng tài
viên với tư cách là một bên trung gian, độc lập nhằm giải quyết các mẫu thuẫn,
tranh chấp bằng việc đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các
bên.
Ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp này là có tính linh hoạt,
tạo quyền chủ động cho các bên, tính nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian có
thể rút ngắn thủ tục tố tụng trọng tài và đảm bảo bí mật. Trọng tài tiến hành
giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc án, quyết định trọng tài không được công
bố công khai rộng rãi. Theo nguyên tắc này, các bên có thể giữ được bí mật
kinh doanh cũng như danh dự, uy tín của mình. Phán quyết của trọng tài có
tính chung thẩm, đây là ưu thế vượt trội so với hình thức giải quyết tranh chấp
bằng thương lượng, hòa giải. Sau khi trọng tài đưa ra phán quyết thì các bên
không có quyền kháng cáo trước bất kỳ một tổ chức hay tòa án nào. Đồng thời,
phán quyết của trọng tài có tính bắt buộc thi hành với các bên. Khi đã hết thời
hạn tự nguyện thi hành nhưng có một trong các bên không thực hiện, bên còn
lại có quyền gửi đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự cưỡng chế thi hành
phán quyết của trọng tài.
Tuy nhiên giải quyết bằng phương thức trọng tài đòi hỏi chi phí tương
đối cao, vụ việc kéo dài thì chi phí trọng tài cũng cao. Việc thi hành phán quyết
của trọng tài không phải lúc nào cũng thuận lợi, trôi chảy.
Toà án
Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp truyền thống nhất và cũng
hiệu quả nhất.
Đây là phương thức có sự tham gia giải quyết của đại diện quyền lực
nhà nước là Tòa án nhân dân. Vì vậy quy trình giải quyết tranh chấp phải tuân
thủ quy định chặt chẽ của pháp luật tố tụng. Đồng thời, bản án, quyết định của
Tòa án được đảm bảo thi hành bằng hệ thống cơ quan thi hành án của nhà
nước.
So sánh cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế thông qua Tòa án quốc tế và
Trọng tài quốc tế
GIỐNG NHAU
- Việc giải quyết tranh chấp đều được giải quyết dựa trên cơ sở luật quốc tế, đồng
thời phán quyết trọng tài cũng như phán quyết toà án quốc tế đều có giá trị chung
thẩm và hiệu lực bắt buộc đối với các bên tranh chấp.
- Đều có sự tham gia của bên thứ ba (tức cơ quan tài pháp quốc tế: tòa án hay trọng
tài quốc tế). Bên thứ ba không đương nhiên có thẩm quyền mà phải được hai bên
tranh chấp cho phép.
KHÁC NHAU
2. Thủ tục tố Thủ tục tố tụng tòa án là Các bên có quyền thỏa
tụng xét xử cố định, đã được quy thuận quy định thủ tục giải
định từ trước trong quy quyết tranh chấp bằng trọng
chế của tòa án. tài, vì vậy thủ tục trọng tài
đơn giản, linh hoạt và mềm
dẻo hơn, qua đó tiết kiệm
thời gian và chi phí, rút
ngắn quá trình thông qua
phán quyết.
Ưu điểm Phán quyết mang tính - Tính linh hoạt trong việc
ràng buộc các bên và có thành lập, lựa chọn trọng tài
cơ chế để đảm bảo thực viên.
hiện.