GIẢI PHẪU XƯƠNG CHÀY

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 3

Xương chày

Là xương chính của cẳng chân, chịu gần toàn bộ sức nặng cơ thể từ trên dồn xuống. Xương chày là một
xương dài có một thân và hai đầu. Đặc điểm của xương này là nó mở rộng ở đầu gần và đầu xa của nó
để tương ứng với khớp gối và khớp cổ chân. Xương chày là xương lớn thứ hai trong cơ thể và là cấu trúc
chịu trọng lượng chính .

Đầu trên xương chày được xác định từ mâm chày trong và mâm chày ngoài xương chày (bao gồm cả mặt
sụn phía trên) xuống dưới 10 cm- 12 cm, hoặc xuống dưới lồi củ trước xương chày 1cm, hoặc dưới khớp
gối 3 khoát ngón tay (hình 1). Gãy xương vùng này là gãy xương xốp và đường gãy thường phạm khớp
[3]

Đầu trên được mở rộng ra bởi 2 mâm chày trong và ngoài, giúp gánh chịu trọng lượng . Cấu trúc này kết
hợp với các lồi củ chày xương đùi để tạo thành khớp nối chính của khớp gối. Phần nhô lên nằm ở vị trí
trung tâm mặt trên xương chày là củ gian lồi cầu của xương chày.

Lồi cầu ngoài, lồi hơn lồi cầu trong, phía dưới và sau có diện khớp mác để tiếp khớp đầu trên xương
mác.

Mặt trên mỗi lồi cầu có một diện khớp trên tương ứng để tiếp khớp lồi cầu xương đùi.

Mặt trước của hai lồi cầu có củ nằm ngay dưới da là lồi củ chày, nơi bám của dây chằng bánh chè. đường
chéo có lỗ nuôi xương.

BỆNH CẢNH LS

Bệnh viêm lồi củ trước xương chày (Osgood- Schlatter) là tình trạng viêm phì đại phần sụn tại lồi củ
trước xương chày (ngay phía dưới xương bánh chè), có thể hiểu đây là một chấn thương mạn tính được
cho là vi chấn thương lặp đi lặp lại, gân bánh chè bị kéo căng và giật tại điểm bám lồi củ chày.

Nói về phương diện sinh lý, cơ tứ đầu đùi là một cơ rất lớn, tiếp nối qua xương bánh chè, phía dưới là
gân bánh chè.

Ở trẻ em, phần đầu trên xương chày còn nhiều sụn nên không được chắc chắn, do đó khi vận động liên
tục với cường độ cao, phần sụn chỗ bám của gân bánh chè rất dễ bị tổn thương.

Bệnh viêm lồi củ trước xương chày (Osgood- Schlatter) thường gặp ở lứa tuổi thanh thiếu niên, cũng bởi
lý do về mặt giải phẫu, phần sụn phát triển đầu trên xương chày chưa cốt hoá nên chưa hàn liên tục với
phần đầu trên xương chày. Phần sụn này có sự phân mảnh trước khi cốt hoá lúc khoảng 10 tuổi, cùng
với sự vận động mạnh, là những nguyên nhân gây ra bệnh lý này.

Gặp nhiều ở trẻ nam hơn, và có thể gặp tổn thương ở cả 2 bên với tỷ lệ khoảng 50% bệnh nhân.

THÂN XƯƠNG:

Đặc điểm thân xương cẳng chân: 2/3 trên lăng trụ tam giác có 3 mặt ( trước ngoài trong) 1/3 dưới hình
tròn , giao điểm của 2 phần này là điểm yếu của xương

Bờ trước - có thể sờ thấy dưới da xuống bề mặt trước của chân như ống quyển. Mặt gần của đường viền
trước được đánh dấu bằng ống chày; vị trí đính kèm của dây chằng xương bánh chè.
Bề mặt sau - được đánh dấu bằng một gờ xương được gọi là đường dép . Đường này là vị trí xuất phát
của một phần cơ duy nhất, và kéo dài ra phía trước, cuối cùng hòa với đường viền giữa của xương chày.
Thường có một động mạch dinh dưỡng gần đường này là đm

Bở bên - còn được gọi là bờ trong. Nó sẽ cho màng xương gắn kết xương chày và xương mác với nhau.

Về sự phân bố phần mềm tại cẳng chân cũng đặc biệt, mặt trong cẳng chân không có cơ che phủ, làm lộ
phần xương chày nằm ngay dưới da. Lớp da vùng này đi sát xương và kém đàn hồi nên khi bị gãy xương
cẳng chân da rất dễ bị bầm giập hoại tử gây bục loét vết mổ dẫn đến tình trạng viêm xương tủy xương.

Mặt ngoài và mặt sau có nhiều cơ che phủ vì thế khi gã 2 xương cẳng chân thường có di lệch gập góc ra
ngoài và sau , đầu gãy có thể chọc thủng da ở mặt trước trong

TIÊM XƯƠNG

Tiếp cận nội mạch là một hình thức tiếp cận mạch máu được sử dụng trong trường hợp khẩn cấp. Nó
cho phép đưa chất lỏng, sản phẩm máu và thuốc trực tiếp vào tủy xương.

Đường truyền trong xương Truyền trong xương (IO) có thể thực hiện vì có sự hiện diện của các tĩnh
mạch trong xương, các tĩnh mạch này dẫn lưu các xoang tủy trong tủy xương dài với tĩnh mạch liên quan
sau đó trở về tĩnh mạch trung tâm

Truy cập IO thường được sử dụng trong trường hợp khẩn cấp khi không thể tiếp cận qua đường tĩnh
mạch. Mô tả các tĩnh mạch trong xương dài Các tĩnh mạch trong xương có đặc điểm không bị xẹp khi
thiếu dịch hoặc sốc giảm thể tích. Sau đây là các vị trí xương dài được lựa chọn và các tĩnh mạch dẫn lưu
liên quan:

Đầu trên xương chày- tĩnh mạch khoeo

Đầu dưới xương chày- tĩnh mạch hiển lớn

Đầu dưới xương đùi- nhánh xiên của tĩnh mạch đùi

Đầu trên xương cánh tay-tĩnh mạch nách

Có hai vị trí chính trong xương chày phù hợp để truy cập IO:

Ở trẻ em: vị trí đặt đường truyền xương được xác định là điểm giữa của mặt phẳng xương chày cách lồi
củ xương chày khoảng 1cm hoặc điểm dưới xương bánh chè khoảng 1cm nằm trên mặt phẳng xương
chày.

Ở người lớn: vị trí chân duỗi là 3 cm dưới xương bánh chè hoặc dưới lồi củ xương chày khoảng 1-2cm và
khoảng 2cm từ mặt phẳng xương chày tới lồi củ chày.

Đầu dưới xương chày:

Ở người lớn: Khoảng 3cm phía trên đầu dưới mắt các trong trên mặt phẳng đầu dưới xương chày

ĐẦU XA

Đầu xa của xương chày mở rộng ra để hỗ trợ việc chịu trọng lượng.

Mặt trước và mặt sau lồi, tròn.


Mặt ngoài có diện khớp với xương mác.

Mặt trong có mắt cá trong (mặt ngoài mắt cá trong tiếp khớp với xương sên).

Các mắt cá trong là một chiếu xương tiếp tục ở phía dưới vào khía cạnh trung gian của xương chày. Nó
ăn khớp với xương cổ chân để tạo thành một phần của khớp mắt cá chân.

Ở mặt sau của xương chày, có một rãnh mà gân của chày sau đi qua.

Bên cạnh là rãnh xương mác , nơi xương mác liên kết với xương chày - tạo thành khớp xương chày xa.

You might also like