Professional Documents
Culture Documents
KGB Hồ Sơ Bí Mật
KGB Hồ Sơ Bí Mật
Hồ Sơ Bí Mật
Vladimir Tchikov
[15] Cục công tác chiến lược của Mỹ - tiền thân của CIA.
[16] Có một điều khoản trong Hiệp định Yanta buộc các lực lượng quân đội Anh và Mỹ ở Châu Âu phải tìm và giữ lại tất cả các công
dân Xôviết lưu vong hoặc bỏ trốn, tập trung họ lại trong các trại tạm giữ và trả lại cho nhà cầm quyền Xôviết. Hơn hai triệu người
“lưu vong” đã được trao trả từ 1945 đến 1948, trong đó phần đông đến Liên Xô, bị bỏ tù hoặc bị giết.
[17] Liên Xô cũng có tên trong danh sách của kế hoạch Marshall tháng sáu năm 1947 nhưng nước này đã từ chối vì thấy âm mưu
của Mỹ muốn can thiệp vào công việc nội bộ thông qua việc viện trợ đó.
[18] Những kỷ niệm của Pcter Kroger thực ra không chính xác. Những người cộng sản bị chính phủ săn đuổi tháng 5 năm 1947,
cảnh sát trưởng vào thời kỳ đó cũng không phải là cộng sản. Có thể hai vợ chồng họ đến Paris vào tháng bảy năm 1946 chứ không
phải 1947. Như thế mới đúng là phe cộng sản có vai trò quan trọng trong các sự kiện diễn ra ở Pháp.
[19] Đây lại là chi tiết chứng tỏ Helen nhầm lẫn về năm tháng.
[20] Giám đốc KGB trở thành Tổng Bí thư Đảng cộng sản Xôviết và Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng.
[21] Xem Vital Chentalinski, Lời người chết đi sống lại. Kho lưu trữ văn học của KGB, Robert Laffont, Paris, 1993.
[22] Tham khảo “Cuối cùng, Xôviết cũng nói lên sự thật về vụ thảm sát tại rừng Katyn”, Insight, Washington DC, ngày 7 tháng 5
năm 1990, tr. 28-29; tờ Tin tức Matxcơva , Matxcơva số 3,12,16,18.20 năm 1990; 18,44 năm 1991; tờ New times, Matxcơva số 17-
1991. tr. 28-31; số 44-1992. tr.30-31; Vladimir Abarinov, “Mê đạo Katyn: điều tra đặc biệt về thảm họa Katyn”, Novosti, Matxcơva
1991. Một nghiên cứu dày bốn tập do các nhà nghiên cứu Ba Lan và Nga dự tính từ cuối năm 1995.
[23] Một chương trình nghiên cứu tổng hợp có giá trị rất lớn từ trước tới nay được thực hiện ở Walter Laqueur, Stalin: sự thật về
chính sách trong sạch chính trị, Chas. Scribner’s Sons, New York 1990. Các công trình của Dimitri Volkogonov về Lênin và Stalin
được đào sâu trong các tài liệu lưu trữ. Tham khảo, Stalin: chiến thắng và bi kịch. Và cuốn Sự thật về Lênin, Robert Laffont, Paris
1995. Những vấn đề lịch sử của Đảng cộng sản Liên Xô , các số 1 & 3 1991 (về Boukharine), Izvestia, TSK KPSS, các số 1 & 2 (vụ
Beria).
[24] Alexandre Feklissov. “Chiến công của Klaus Fuchs”, tạp chí lịch sử quân đội số 12. 1990, tr. 22-29; số 1, 1991, tr. 34-43.
[25] Youli Khariton và Youli Smirnov, “Bản dịch của Khariton”, tập san khoa học nguyên tử, tháng 5 năm 1993, tr. 20-23; “vụ
Beria”, tr.29.
[26] “Họ đã thức tỉnh thiên tài” (phỏng vấn Igor Golovine): tin tức Matxcơva. Số 41, tr. 15-22, tháng 10 năm 1989.
[28] Serguei Leskov, “Xẻ chia chiến thắng của cha”, Tập san khoa học nguyên tử tháng 5 năm 1993, tr. 37-39.
[29] “Bom đã được sản xuất như thế nào”, Izvestia, số 205, ngày 23 tháng 7 năm 1988, tr. 3, phỏng vấn Anatoli Alexandrov.
[30] . Robert Lamphere và Tom Shachtman, Chiến tranh FBI-KGB, chuyện về nhân viên đặc biệt, tr. 27-31.
[31] Các chi tiết được David Dallin cung cấp, Tình báo Xôviết, New Haven, Yale University Press, 1955, tr. 464-465. Soudoplatov
viết là Semion Semionov đã được sử dụng làm kẻ bung xung trong sự tan rã Gold-Greenglass- Rosenberg vì hám lợi. Ông đã bị
khiển trách là đào tạo nhân viên không tốt và bị cách chức. Xem Pavel Soudoplatov, Nhiệm vụ đặc biệt.
[32] Micheal Dobbs: “Xôviết đã ăn trộm bí mật nguyên tử của Mỹ như thế nào: một cựu nhân viên điện Kremlin tiết lộ tin tức về dự
án bom”, tờ bưu điện Washington , ngày 4 tháng 10 năm 1992. Cùng ngày hôm đó, tờ Moskovskie Novosti đăng trích đoạn hồi ký
của Kourtchatov đánh giá các tài liệu đánh cắp ở Mỹ: Leonard Nikichine, “các bí mật của Los Alamos. được khai thác và chuyển về
nhờ các cơ quan tình báo Xôviết, là nguồn thông tin vô giá đối với Kourtchatov và kíp của ông”. Tr. 13.
[33] Serguei Leskov, “Chia xẻ niềm vinh quang của cha ông”, tr. 37-38; “Quanh vấn đề bom nguyên tử”, tr. 17-18, 19-20, 21-22;
“Săn tìm bí mật nguyên tử”, Moskovskaia Pravda, 6 - 15 tháng 6 năm 1991.
[34] A. Yatskov, “nguyên tử và cơ quan mật vụ”, Vấn đề lịch sử của khoa học tự nhiên và công nghệ , số 3, 1992, tr. 103-107.
Vladimir Tchikov là cố vấn của tài liệu này.
[35] Serguei Leskov “Chia xẻ niềm vinh quang…”, tr. 38.
[36] Hans Bethe đã ghi lại năm 1952 rằng: nếu Liên bang Xôviết bắt chước theo những thông tin mà Fuchs cung cấp, “chúng ta có
thể vui mừng vì họ đã lãng phí sức lực ghê gớm cho một dự án không có giá trị quân sự”. Cf. Daniel Hirsch và William Mathews,
“Bom H: thực sự thì ai là người đã đưa thông tin ra ngoài?”, theo Tạp chí khoa học nguyên tử. tập 46, số 1, tháng giêng và tháng 2
năm 1990: tr. 23-30.
[37] “Thuyết trình của Khariton”, tr. 20-31. Lời giới thiệu của David Holloway, “Sự thẳng thắn của các nhà khoa học Xôviết”. tr. 18-
19.
Thomas B. Cochran và Robert S. Norris. tác giả cuốn “Đánh giá ban đầu về bom liên hợp của Liên Xô”, cho rằng phải cần đến bảy
mươi nghìn lao động khổ sai mới xây dựng được lò phản ứng Xôviết đầu tiên. Cf Tập san khoa học nguyên tử , tháng 5 năm 1991,
tr. 25-31. Jaurès Medvedev viết rằng Stalin đã sử dụng hàng triệu công lao động của tù nhân khổ sai làm việc trong các khu căn cứ
nguyên tử, đến nỗi NKVD đã thành lập hẳn một ban đặc trách để quản lý lực lượng này. Ban này từng được gọi là “trạm bổ dụng
đặc biệt” (LON), ngay cả Soljenitsyne cũng không biết về đơn vị này. Medvedev viết: “Dựa trên việc quản lý, hành chính nguyên
tử là trên danh nghĩa các nhà khoa học của dự án, người của ban này là những người đầu tiên bị đày vào các sa mạc, thảo nguyên
trong những cánh rừng già, tới lãnh nguyên tundra và vào núi sâu, làm việc cực nhọc suốt ngày đêm để làm đường, dựng phòng thí
nghiệm, các khu phố dân cư, các câu lạc bộ, và tất cả hạ tầng cơ sở cần thiết phục vụ các hoạt động khoa học, phục vụ các kỹ sư và
nhân sự của NKVD”. Jaurès Medvedev, “Trại áp bức nguyên tử”, Novoie Russkoie Slovo, New York, 12 tháng 8 năm 1994, tr. 17-
18.
[38] “Thuyết trình của Khariton”, tr. 25.
[39] Youli Khariton, “Vũ khí hạt nhân từ nước Mỹ hay tự chế?” Izvestia, số 265, ngày 8 tháng 12 năm 1992: tr. 3. kèm phỏng vấn
Youri Smimov và lời giới thiệu của Serguei Leskov (tr. 1). Khariton nói rằng ông biết việc Berthe khai báo về Fuchs năm 1952. Ông
cũng nhấn mạnh việc ông đề nghị khen thưởng Fuchs vào năm 1959 nhưng không có kết quả. Cf. Các cuộc phỏng vấn Khariton
đăng trên tờ Pravda, “Vật lý, cuộc đời tôi” , 20 tháng 2 năm 1984 và tờ Moskovskaia Pravda ngày 15 tháng 6 năm 1991, “Những kẻ
săn tìm bí mật nguyên tử”, tr. 3-4.
[40] Nilolai Khokhlov đã ra làm chứng trước ban thượng viện Mỹ và tiểu ban điều tra hành chính của Đạo luật an ninh nội vụ và
các luật an ninh nội vụ khác, ngày 21 tháng 5 năm 1954 và các ngày 1 và 16 tháng 10 năm 1957. Ông đã trả lời một loạt các cuộc
phỏng vấn của tờ US News and World Report vào tháng 2 và tháng 7 năm 1955, rồi tháng 3 và tháng 6 năm 1956. Người ta có thể
tìm thấy những đánh giá đầy đủ về Soudoplatov trong Nhân danh lương tâm, Frederick Muller Ltd. Luân Đôn. 1960.
[41] Các ví dụ không chính xác của Soudopla đã được trích trong bài “Điệp viên nguyên tử hay sự dối trá?” của Richard Rhodes
đăng trên tờ Thời báo New York , ngày 3 tháng 5. Guennadi Gorelik viết rằng George Gamow là con trai duy nhất, bố mẹ đã mất từ
trước kỷ nguyên nguyên tử, do đó khó có chuyện ông ta là đối tượng bị Liên Xô đe dọa: dù phản bội đi nữa. Ông ta cũng bị loại
khỏi dự án Manhattan vì nguồn gốc Xôviết. Xem Novoie Roussskoie Slovo (New York). 30-31 tháng 7, tr. 14. Xem Thời báo New
York , 19 tháng 4. A5: 24 tháng 4. E4: Bưu điện Washington , ngày 1 tháng 5. Bookworld: ngày 4 tháng 5. A24; Thời báo phố Wall ,
11 tháng A14; Tạp chí khoa học nguyên tử, số tháng 7, tháng 8. tr. 30-36.
[42] Roger Donald, “Bất đồng quan điểm về một cuốn hồi ký của KGB”, Bưu điện Washington, 19 tháng 5 năm 1994.
[43] Priscilla Johnson Mcmillan, “Ký ức của người đánh xe độc mã”. Tạp chí khoa học nguyên tử tháng 7-8 năm 1994, tr. 31.
[44] Serguei Leskov, “Robert Oppenheimer có thể là nhân viên của Liên Xô…”, tr. 7. Leskov đã mô-đi-phê câu chuyện trong “một
bằng chứng đáng tin cậy”, đăng trên Tạp chí khoa học nguyên tử số tháng 7, tr. 33-36.
[45] Ba tác phẩm quan trọng viết về vấn dề này: Igor Gouzenko, The Tron Curtain. E.P. Dutton. New York, 1948; H. Montgomery
Hyde, The Tom Bom Spies, Ballantine. New York. 1980; Peter Wright. Spycatcher, nhà xuất bản của Pháp: Robert Laffont, Paris.
1987. Mới đây có thể kể đến Mikhail Milstein, “Gouzenko rút lui”, Tuyệt mật. số 3, 1995, tr. 24-25.
[46] Các bản khai được xuất bán trong phụ trương của Robert Chadwell Williams, Klaus Fuchs: Tom Spy, trích đoạn tr. 179-220.
[47] . Micheal Meerpol. “Lời giới thiệu” trong những bức thư của Rosenberg: trọn bộ thư tín của các tù nhân Julius là Ethel
Rosenberg. Garland, New York, 1994, phần XVII-XLI.
[48] “Khrushchez vén màn bí mật”, Time , số ra ngày 1 tháng 10 năm 1990. tr. 68-78. Lại thêm Ký ức của Khrushchez: sự bất thành
của chính sách trong sạch chính trị: NXB Little Brown, Boston. 1993, tr. 193-194.
[49] Michael Meerpol, phần XXX.
[50] “Niềm kinh hoàng và báo động giả”, Thời báo New York , tháng 10 năm 1990.
[51] Morrison cho rằng một bức vẽ các vật kính của Greenglass lẽ ra đã có ích hơn. CF. Alvin H. Goldstein, Cái chết bất ổn của vợ
chồng nhà Rosenberg, tr. 64. Những ví dụ về “các lỗi ngớ ngẩn” của Greenglass ở phiên tòa được Ronald Radosh và Joyce Milton
viết trong Hồ sơ vụ Rosenberg: đâu là sự thật , Holt, New York, 1983, tr. 437.
[52] Leslie R.Groves, Giờ thì đã lộ: Câu chuyện về dự án Manhattan. Harper & Brothers, New York. 1962, tr 141.
[54] Dẫn theo lời thú nhận đăng trên “The Repost of the Royal Commission Ottawa”. 27/6/1946, Tr 455-456. Alan Moorehead, The
Traitors, Sđd: Tr 40-43.
[55] Mikhail Lioubinov, “Tình báo hay khoa học?”, Top Secrel, số 9/1994, tr. 27.
Chia sẽ ebook : http://downloadsachmienphi.com/
Tham gia cộng đồng chia sẽ sách :
Fanpage : https://www.facebook.com/downloadsachfree
Cộng đồng Google : http://bit.ly/downloadsach