Professional Documents
Culture Documents
Tài Lịu Gioan
Tài Lịu Gioan
Tài Lịu Gioan
2. ÐẤNG PA-RÁC-LÊ.
a- Tại sao giữ nguyên ngữ
Danh xưng “Đấng Pa-rác-lê” là chuyển âm từ tiếng Hy-lạp “paraklêtos”. Trong Tin
Mừng thứ tư, “Đấng Pa-rác-lê” là “Thánh Thần” (Ga 14,26) và là “Thần Khí sự thật”
(Ga 14,17; 15,26). Trong toàn bộ Kinh Thánh, “Đấng Pa-rác-lê, Thần Khí sự thật” chỉ
xuất hiện trong Tin Mừng Gio-an (không xuất hiện trong tất cả các sách khác của bộ
Kinh Thánh). Trong thư thứ nhất Gio-an, xuất hiện 1 lần từ “paraklêtos” và áp dụng
cho Đức Giê-su (1Ga 2,1) chứ không phải là Đấng Pa-rác-lê – Thánh Thần.
Danh từ “paraklêtos” trong văn chương Hy-lạp chỉ người bênh vực (défenseur) hay
luật sư (avocat). Tóm lại, “paraklêtos” là người có vai trò pháp lý trong khung cảnh
Từ chuyển âm sang tiếng Việt là “Pa-rác-lê”, ba âm tiết này dễ đọc và gần gũi với tiếng
Việt hơn.
b- Ðấng Pa-rác-lê và Đức Giê-su
Trước hết, Ðấng Pa-rác-lê có tương quan chặt chẽ với Đức Giê-su, cụ thể: (1) Cả hai
Đấng đều giống nhau trong cương vị (đều có nơi xuất phát (Chúa Cha) và nơi đến (các
môn đệ)), trong sứ vụ (nghe, đón nhận và giảng dạy), trong tương quan (Đức Giêsu tôn
vinh Cha; Đấng Pa-rác-lê tôn vinh Đức Giêsu), trong sự làm chứng và nội dung lời
chứng (làm chứng cho Đức Giêsu). (2) Cả hai Đấng đều khác nhau: Về thời điểm thi
hành sứ vụ và sự hiện diện trong thế gian, Về đối tượng rao giảng, Về điểm quy chiếu,
Về tương quan với Chúa Cha và các môn đệ. (3) Cuối cùng, cả hai Đấng đều hiện diện
và ở với các môn đệ sau biến cố Phục Sinh. Ðấng Pa-rác-lê không thay thế, không kế
vị, nhưng tiếp nối sứ vụ của Đức Giêsu, làm chứng cho Đức Giêsu và lấy những gì của
Người mà loan báo cho các môn đệ.
c- Ðấng Pa-rác-lê và thế gian
Thứ đến, về tương quan giữa Ðấng Pa-rác-lê và thế gian, ta thấy có những điểm sau:
(1) Thế gian được cho là không có khả năng đón nhận Thần Khí sự thật, vì thế gian
không thấy và không biết Người (14, 15-17). (2) Ðấng Pa-rác-lê làm chứng về Đức
Giêsu, và các môn đệ chỉ có thể làm chứng nhờ lời chứng của Ðấng Pa-rác-lê trước và
trong các môn đệ (15, 26-27). (3) Nhiệm vụ của Ðấng Pa-rác-lê là chứng minh thế gian
sai lầm về tội, về sự công chính và về sự xét xử (16, 7-11). Thế gian có tội vì không tin
vào Đức Giê-su (16,9). Sự công chính thuộc về Đức Giê-su vì Người đi về với
Cha (16,10). Khi sự thật được bày tỏ thì đến phần tuyên án dành cho thủ lãnh thế gian
(16,11) tức là Xa-tan. Như thế, sự xét xử đi tới gốc rễ của thế lực bóng tối.
d- Ðấng Pa-rác-lê và các môn đệ
Cuối cùng, về tương quan giữa Ðấng Pa-rác-lê và các môn đệ, ta thấy có bốn điểm sau:
1) Đấng Pa-rác-lê là ĐẤNG Ở VỚI, Người ở trong các môn đệ mãi mãi với điều kiện:
“Yêu mến Đức Giê-su và giữ các điều răn của Người”.
2) Đấng Pa-rác-lê là THẦY DẠY, Người sẽ dạy và nhắc nhớ lại cho các môn đệ tất cả
những gì Đức Giê-su đã nói; Người dạy các môn đệ biết sự thật về thế gian và sự thật
về Đức Giê-su.
3) Đấng Pa-rác-lê là ĐẤNG LÀM CHỨNG, Người sẽ làm chứng về Đức Giê-su trước
và trong các môn đệ, nhờ đó các môn đệ có thể làm chứng cho Đức Giê-su.
4) Đấng Pa-rác-lê là ĐẤNG DẪN ĐƯỜNG, Người sẽ dẫn các môn đệ đi trong sự thật
toàn vẹn.
Với những vai trò quan trọng như trên người môn đệ không thể sống niềm tin và học
hỏi về Đức Giê-su mà không có sự hướng dẫn và dạy dỗ của Đấng Pa-rác-lê.
Dấu lạ hóa nước thành rượu ngon (2,1-12) có vị trí đặc biệt quan trọng trong Tin
Mừng với nhiều đề tài thần học quan trọng. Chúng ta có thể tóm kết qua ba điểm:
1. Những chi tiết lạ lùng giúp độc giả hiểu ý nghĩa câu chuyện. Có thể xếp
thành ba nhóm:
a. Về bối cảnh: câu chuyện đặt trong khung cảnh tiệc cưới nhưng không nói về
cô dâu và chú rể; câu chuyện không nói gì về niềm vui tiệc cưới mà lại mô tả sáu chum
đựng nước (2,3)
b. Về nhân vật, có hiện tượng đảo lộn và thay thế lẫn nhau, thân mẫu và Đức
Giê-su như thể chủ tiệc cưới.
c. Về dấu lạ, với độc giả hóa nước thánh rượu ngon là dấu lạ lớn lao cả về số
lượng lẫn chất lượng, nhưng lại xảy ra âm thầm
2. Dấu lạ Ca-na là dấu lạ duy nhất trong Tin Mừng, làm biến đổi bản chất
sự vật: từ nước trở thành rượu ngon. Dấu lạ này diễn tả bước chuyển biến từ Cựu Ước
sang Tân Ước, qua hai giai đoạn: a) Những điều chưa trọn vẹn trong Cựu Ước, đó là:
một là tình trạng thiếu rượu không có rượu của tiệc cưới (2,3); hai là số lượng sáu chum
đựng nước dùng vào nghi thức thanh tẩy là chưa trọn vẹn (6 = 7-1); ba là sáu chum này
ở trong tình trạng không có nước. Đức Giê-su lấp đầy và làm trọn những điều còn thiếu
trong cựu ước, qua hình ảnh đổ đầy nước đến trên miệng các chum (2,7). b) Dấu lạ
Ca-na gợi về lời tác giả trong lời tựa ở 1,17: “Vì lề luật đã được ban nhờ Mô-sê, ân
sủng và sự thật đã có nhờ Đức Giê-su Ki-tô“. Nghi thức thanh tẩy của người Do-thái
tượng trưng cho Lề Luật của Cựu Ước; rượu ngon tràn trề tượng trưng “ân sủng và sự
thật“ thời Tân Ước. Vậy dấu lạ Ca-na khai mạc sứ vụ của Đức Giê-su, và mở đầu giai
đọa mới trong lịch sử cứu độ.
Rượu ngon tràn đầy biểu tượng niềm vui và sự sống đích thực, là quà tặng thời
Tân ước. Điều kiện để được thưởng thức rượu ngon là tin vào Đức Giê-su. Qua dấu lạ,
Đức Giê-su bày tỏ vinh quan của Người (2,11b) song song với Đức Chúa bày tỏ vinh
quang trên núi Xi-nai (Xh 24,17). Vì thế, Đức Giê-su có đầy đủ tư cách làm trọn Cựu
Ước và mở đầu thời Tân Ước.
3. Với “khởi đầu các dấu lạ“, dấu lạ Ca-na vừa là nền tảng của các dấu lạ khác, vừa
giới thiệu toàn bộ sứ vụ của Đức Giê-su. Sứ vụ đó được diễn tả qua các đề tài: “vào
ngày thứ ba“ (2,1a) song song với dựng lại Cung Thánh trong ba ngày“ (2, 19-20); Giờ
chưa đến ở 2,4b và Giờ đã đến ở 12,23; bày tỏ vinh quan qua dấu lạ và bày tỏ vinh
quang qua cuộc thương khó. Vậy dấu lạ Ca-na dẫn độc giả vào nội dung Tin Mừng.
Một khi đã biết Đức Giê-su là ai, từ đâu tới và làm gì, độc giả được mời gọi tin vào
Người để nếm hưởng rượu ngon của thời Tân Ước.
Tóm lại, trình thuật dấu lạ Ca-na độc đáo trong cách kể chuyện và dùng từ ngữ.
Câu chuyện trở thành lời chứng của tác giả dành cho độc giả, về vinh quang của Đức
Giê-su.
6. GA 9,1-41: PHÂN TÍCH VÀ ĐỊNH NGHĨA “THẤY” VÀ “MÙ”.
1. Bối cảnh và cấu trúc
Các tranh luận liên quan đến căn tính và nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu dẫn dến
những xung đột và thù nghịch. Điều này xuất hiện trong 4 chương 7,8,9,10 qua các hành
động: tìm giết Đức Giêsu, ném đá Người và tìm bắt Người. Trong bối cảnh thù địch trên,
ánh sáng của thế gian là Đức Giêsu vẫn tỏa sáng và được diễn tả qua hai chi tiết: (a) anh
mù từ thuở mới sinh được thấy (9,7) và tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu (9,38); (b)
Đức Giêsu tự nguyện hy sinh mạng sống và có quyền lấy lại nó (10, 17-18a)
Chương 9 có cấu trúc đồng tâm với bảy yếu tố: A,B,C,D,C’,B’,A’.
Yếu tố A (9,1-5) giới thiệu nhân vật chính: người mù từ thuở mới sinh (9,1) và giới
thiệu đề tài: “tôi” qua câu hỏi của các môn đệ. Yếu tố song song A’ (9,39-41) kết luận dấu
lạ qua tuyên bố của Đức Giêsu: “phân định”, “thấy”, “mù” và “tội”.
Trong yếu tố B’ (9,6-12) gồm Đức Giêsu thực hiện dấu lạ (9,6-7), tiếp theo là phản ứng
của những người láng giềng (9,8-12), anh mù biết người mở mắt cho anh là Đức Giêsu
(9,11a) nhưng không biết người ở đâu (9,12). Yếu tố song song B’ (9,35-38) cho biết anh
ta thực sự thấy và biết Đức Giêsu là Con Người (9,35-37) khi anh quyết định tin và bái
lạy Người (9,38)
Hai yếu tố song song C (9,13-17) những người Pharisêu chất vấn anh mù được thấy
và C’ (9,24-34) anh mù được thấy tranh luận với “họ” lần thứ hai và họ trục xuất anh ta.
Yếu tố trung tâm D’ (9,18-23): Người Do thái chất vấn cha mẹ anh mù để nói về nỗi
sợ “bị khai trừ khỏi hội đường” của cộng đoàn Gioan cuối thế kỷ I. Cha mẹ anh mù đại diện
cho những thành viên cộng đoàn vì sợ bị trục xuất khỏi hội đường mà không dám tuyên
xưng Đức Kitô là Đấng Kitô.
2. Thế nào là “thấy” thực sự
Hành trình của anh mù bắt đầu với “thấy thể lý” và kết thúc bằng “thấy tâm linh” qua
hành động tuyên xưng lòng tin vào Đức Giêsu và bái lạy Người.
Thấy thể lý là một phần dấu lạ. Nhờ khả năng nghe đúng và thực hiện lời của Đức
Giêsu mà anh mù được thấy, nhưng anh chưa thực sự thấy và biết Đức Giêsu. Thấy thể lý
phải đối diện với thử thách trong sự phân định để nhìn nhận mặc khải của Đức Giêsu.
3. Tương quan giữa “mù” và “tội”
Lời Đức Giêsu “nếu các ông là những người mù, các ông đã chẳng có tôi. Nhưng giờ đây
các ông nói rằng: “chúng tôi thấy” nên tội tội các ông vẫn còn” là mặc khải về tương quan
giữa “thấy”, “mù” và “tội”. Việc anh mù từ thuở mới sinh, đó là tội của ai? Của anh ta hay
cha mẹ anh ta? Đức Giêsu không cho biết lý do tại sao anh mù mà chú trọng đến tình trạng
hiện tại: đó là dịp Thiên Chúa bày tỏ quyền năng của Người.
Giới lãnh đạo Do thái trong tình trạng thấy về thể lý, nhưng họ lại mù quáng tâm linh
nên họ kết tội Đức Giêsu và anh mù được thấy. Tuy vậy, lời họ không có giá trị vì lập luận
cho rằng người tội lỗi không thể làm cho người mù được thấy nên đức Giêsu không phải là
người tội lỗi.
Mù thể lý không phải là tội, mà tội chính là mù tâm linh. Giới lãnh đạo Do thái tự cho
mình hiểu biết nên không đón nhận lời Đức Giêsu và dấu lạ người thực hiện nên họ mù về
tâm linh nên có tội. Vậy, “mù” và “tội” không theo nghĩa thể lý mà theo nghĩa thần học.