Professional Documents
Culture Documents
Đề Cương CTSN
Đề Cương CTSN
Chấn thương sọ não là tình trạng người bệnh bị sang chấn vào đầu gây
tổn thương hộp sọ và các cấu tạo khác bên trong hộp sọ. Đây là nguyên nhân
gây tử vong cao, để lại nhiều di chứng nặng nề cho người bệnh. Chấn thương sọ
não là loại tai nạn phổ biến ở mọi quốc gia, thường xảy ra ở những nước công
nghiệp, nhất là các nước đang phát triển do sự gia tăng mật độ dân số, đô thị
hóa nhanh với phương tiện giao thông có tốc độ cao lại cơ động trên mạng lưới
đường sá, cầu cống chật hẹp, kém chất lượng, trong đó điều quan trọng là do
trình độ và ý thức tự giác của con người[2].
Chấn thương sọ não ở trẻ em luôn là mối nguy hiểm tiềm tàng [1].Trong
trường hợp bị chấn thương đầu, nếu thấy trẻ có một trong những dấu hiệu kể
sau, các bậc cha mẹ cần đưa trẻ đến bệnh viện ngay [4]: Ngay sau ngã, trẻ bất
tỉnh hơn 01 phút. Ngay sau ngã, trẻ vẫn tỉnh táo nhưng sau đó một thời gian lại
xuất hiện những dấu hiệu tri giác bất thường (kích động khó dỗ, ngủ nhiều, lơ
mơ, tiếp xúc kém hoặc bất tỉnh hoàn toàn). Sau chấn thương đầu, trẻ nôn trên 5
lần trong một thời gian ngắn hoặc nôn kéo dài hơn 6 giờ (mà trước đó trẻ bình
thường). Thóp của trẻ sau một thời gian chấn thương bị phồng, căng lên, kèm
theo vẻ mặt xanh xao. Trẻ bị chấn thương nhiều nơi, có máu chảy nhiều.
Đã có nhiều nghiên cứu đánh giá về chấn thương sọ não ở trẻ em ở thành
phố Hồ Chí Minh và Hà nội
Tại bệnh viện Sản Nhi Nghệ An cho tới thời điểm hiện tại vẫn chưa có
nghiên cứu đánh giá nào về bệnh chấn thương sọ não trẻ em. Vì vậy chúng tôi
thực hiện đề tài: “Nhận xét đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng và kết
quả điều trị chấn thương sọ não trẻ em tại khoa CTCH-Bỏng năm 2014”
nhằm mục tiêu.
- Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng bệnh chấn thương sọ
não trẻ em .
- Đánh giá kết quả điều trị Chấn thương sọ não trẻ em tại khoa CTCH - Bỏng
năm 2014
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Bệnh học
Biến chứng chấn thương sọ não được chia thành hai loại: tổn thương não
khu trú và lan tỏa hoặc tổn thương xuất hiện cùng lúc cả hai loại. Tổn thương ở
não được xếp thành hai loại: nguyên phát và thứ phát như tổn thương sợi trục
lan toả, máu tụ, phù não, thiếu máu não hoặc nhiễm trùng.
Trong chấn thương sọ não, cần phải được khám toàn diện khi người bệnh đến
phòng cấp cứu, đặc biệt nếu bệnh nhân có một đa chấn thương cần phải phát
hiện sớm để có biện pháp can thiệp kịp thời như xuất huyết nội do tổn thương
các tạng đặc trong ổ bụng, tràn máu màng phổi, vỡ xương chậu, gãy xương đùi
…. Khi khám thần kinh cần phải theo những trình tự sau : Trí giác, dấu thần
kinh định vị, dấu sinh tồn (mạch, huyết áp, nhiệt độ và nhịp thở), ngoài ra, đau
đầu là một dấu hiệu rất quan trọng, có khi người bệnh chỉ có một dấu hiệu đau
đầu được biểu hiện do một thương tổn bên trong hộp sọ. Đặc biệt với một máu
tụ ngoài màng cứng đơn thuần có kèm theo nứt sọ, trí giác hoàn toàn bình
thường ( GCS = 15 ), chỉ có một dấu hiệu đau đầu. Điều nầy rất thường gặp
trong thực hành lâm sàng, nhưng thông thường khi có máu tụ hoặc dập phù não
trong sọ thường làm cho trí giác giảm. Đánh giá trí giác dựa theo thang điểm
Glasgow (Glasgow Coma Scale).
GLASGOW COMA SCALES (GCS)
Mở mắt (E)
Tự nhin 4
Khi gọi 3
Khi kích thích đau 2
Không đáp ứng 1
Đáp ứng vận động (M)
Đáp ứng bình thường 6
Đáp ứng khi đau 5
Gập khi đau 4
Gồng mất vỏ 3
Gồng mất não 2
Không đáp ứng 1
Đáp ứng ngôn ngữ (V)
Bình thường 5
Lú lẫn 4
Không đúng nghĩa 3
Không hiểu được 2
Không đáp ứng 1
E (Eye); M (Motor); V (Verbal)= E + M + V: thang điểm tốt nhất = 15; xấu
nhất = 3
Trong chấn thương sọ não, cần phải đánh giá đầy đủ các tiêu chuẩn trong đó trí
giác có một vai trị quan trọng. Nhiều tác giả dựa vào thang điểm Glassgow
( GCS ) phân chia chấn thương sọ não thành ba nhóm chính để dễ dàng theo
dõi:
- Nhóm nhẹ : GCS từ 13 – 15
- Nhóm trung bình : GCS từ 9 – 12
- Nhóm nặng : GCS dưới 9
Tuy trí giác có một vai trị quan trong nhưng không thể dựa vào trí giác
thuần túy để tiên lượng tình trạng bệnh nhân. Muốn đánh giá tiên lượng bệnh
nhân phải thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn như dấu thần kinh khu trú, dấu hiệu
sinh tồn, các phản xạ nuốt, sặc, điện não đồ ( EEG ), mạch não đồ ( DSA ) hoặc
Doppler mạch máu não, trong đó trí giác cũng góp một phần nhỏ cho tiên lượng
bệnh nhân. Chính vì thế, đánh giá chết não (brain death) là một đánh giá tổng
hợp của nhiều tiêu chuẩn trong đó có trí giác. Phân chia trí giác thành ba nhóm
cũng giúp cho các nhà lâm sàng thực hiện kế hoạch theo dõi và chăm sóc có
hiệu quả hơn. Dựa vào nhóm nặng của thang điểm Glasgow, đa số các trường
hợp nặng được khuyến cáo nên được đặt nội khí quản để dễ dàng trong công tác
chăm sóc và theo dõi tốt hơn.
Trong thực hành lâm sàng hàng ngày đôi khi trí giác không phải là một vai trò
quyết định trong chấn thương sọ não. Cũng có khi thể tích khối máu tụ tăng lên
nhưng tình trạng trí giác không giảm, điều nầy có lẽ do thể tích khối máu tụ
tăng chậm làm cho não thích nghi dần nhưng màng não kích thích mạnh hơn
nên đau đầu nhiều hơn; thậm chí có những trường hợp thể tích khối máu tụ có
tăng trên CT Scan mà trí giác vẫn cải thiện hơn. Vì vậy, không nên dựa vào trí
giác một cách đơn độc để đánh giá tất cả các tổn thương do chấn thương sọ não
gây ra.
Nguyên nhân chấn thương sọ não kín:
- Tai nạn giao thông
- Tai nạn lao động
- Tai nạn sinh hoạt
- Tai nạn do thảm họa
- Tai nạn xã hội
- Chấn thương đầu do sinh đẻ
Tổn thương đầu được chia làm hai khu vực:
- Khu vực ngoài hộp sọ bao gồm:
+ Rách da đầu
+ Tụ máu dưới da đầu, thường > 16 tuổi
+ Tụ máu dưới lớp Galea: < 16 tuổi
+ Tụ máu dưới màng xương: chấn thương do sinh đẻ
- Khu vực từ hộp sọ vào trong bao gồm:
+ Nứt xương sọ
+ Vỡ lún sọ
+ Vỡ nền sọ
+ Mu tụ ngồi màng cứng
+ Máu tụ dưới màng cứng
+ Mu tụ trong não
+ Dập não: khu trú hoặc lan tỏa
. Khu trú: nhẹ hơn
. Lan tỏa: nặng hơn
+ Xuất huyết trong não thất:
. Lượng ít: hấp thu nhanh, hồi phục nhanh
. Lượng nhiều: hấp thu chậm, hồi phục chậm
+ Xuất huyết thân não:
. Nhỏ: hồi phục nhanh
. Lớn: hồi phục chậm, nhiều di chứng
+ Tổn thương sợi trục lan tỏa: thường nặng, có thể tử vong
2. Tổn thương khu trú
2.1. Dập và rách vỏ não
Dập và rách vỏ não thường xảy ra tại nơi va chạm trực tiếp vào đầu hoặc
ở phía đối diện (contre-coup). Vị trí thường gặp nhất là thùy trán và thùy thái
dương. Dập vỏ não có thể xảy ra nhiều nơi hoặc cả hai bên. Đối với các dập não
nhỏ trí giác ít bị ảnh hưởng, ngoại trừ những trường hợp có máu tụ tại vùng dập
não tạo ra khối choán chỗ làm cho trí giác bị suy sụp. Dập não nếu chỉ khu trú ở
một vùng não nhỏ thường ít ảnh hưởng đến trí giác; Nếu dập não lan rộng làm
di lệch đường giữa và phù não nhiều, hôn mê có thể xảy ra ngay sau tai nạn và
đôi khi gây thoát vị não. Trong trường hợp nầy nếu can thiệp kịp thời thì hy
vọng sống vẫn còn nhiều khó khăn và di chứng rất nặng nề nếu khả năng cứu
sống có thể vượt qua được. Đây là một loại thường tổn thường gặp do biến
chứng của chấn thương sọ não, các biến chứng dập não xảy ra không phải chỉ ở
một vùng não mà có thể gặp ở nhiều vùng khác nhau như hai thùy trán, hai thuỳ
thái dương, đôi khi xuất hiện cùng lúc cả thuỳ trán và thùy thái dương hoặc dập
não có thể xuất hiện chậm hơn ngay trên vùng não bình thường đã được chụp
CT Scan trước đó.
Dập não vùng trán đôi khi xuất hiện một bên hoặc cả hai bên sau chấn thương
sọ não. Dập não vùng nầy có thể do chấn thương trực tiếp hoặc chấn thương
gián tiếp, tuy nhiên, nếu chấn thương gián tiếp ( contre-coup ) thường dập não
lớn và phù não lan rộng làm ảnh hưởng đến trí giác, bệnh nhân thường đi vào
hôn mê nhanh chóng hoặc mê ngay sau chấn thương. Nếu dập não lan đến vùng
trụ trước bao trong có làm yếu hoặc liệt vận động chân và tay, đôi khi gây tụt
não dưới liềm, nguy cơ dẫn đến tử vong.
CT Scan có vai trò quan trọng để chẩn đoán dập não, đối với dập não do chấn
thương khi chụp CT Scan không cần bơm thuốc cản quang cũng đủ cung cấp
những thông tin cần thiết để đánh giá thương tổn dập não và phù não.
Đa số dập não vùng trán một bên hay cả hai bên thường điều trị bảo tồn theo
những nguyên tắc sau :
- Đăt nội khí quản nếu bệnh nhân có thang điểm GCS dưới 9 điểm để bảo đảm
đường hô hấp thông suốt và dễ dàng hút tất cả các chất dãi và dịch trong miệng,
nguyên nhân gây tắt đường hô hấp trên.
- Dùng thuốc chống phù não như : Manitol 20% với liều dùng 1g- 1,5 g/ kg
- Thở 02 từ 3 – 6l/phút hoặc thở máy hỗ trợ nếu bệnh nhân có p02 dưới 90
- Nếu bệnh nhân không nằm yên cần phải dùng Barbiturate hoặc Propofol để
làm giảm áp lực trong sọ và giảm tiêu thụ 02.
- Nếu tình trạng phù não lan rộng và trí giác giảm, vấn đề ngoại khoa được đặt
ra ở thời điểm nầy. Phẫu thuật mở rộng sọ giải áp là một biện pháp làm giảm áp
lực trong sọ nhanh chóng, mang lại hiệu hiệu quả cao.
Dập não liên quan đến những vùng trung gian nhân đuôi (caudate), nhân
bèo (putamen), nhân bèo nhạt (globus pallidus), đồi thị (thalamus) và vùng hạ
đồi (hypothalamus). Đa số các thương tổn dập não ở vị trí sâu sau chấn thương
sọ não, chiếm một tỉ lệ dưới 2%. Ngay tại vùng nầy rất nhiều mạch máu xuyên,
do đó, dễ xảy ra xuất huyết thứ phát do những mạch máu bị kéo căng và kết hợp
một lực xoay quá mạnh làm xé rách những mạch máu xuyên nhỏ. Điều nầy
không liên quan đến những đường nứt sọ và dự hậu của những thương tổn nầy
thường xấu hơn những loại máu tụ khác trong sọ. Các thương tổn vùng nầy có
liên quan đến các dấu hiệu ngoại tháp, đôi khi cũng liên quan đến liệt vận động
do tổn thương lan đến vùng bao trong thấp. Nếu tổn thương vùng đồi thị làm
ảnh hưởng đến rối loạn cảm giác; nếu mất trí giác kéo dài là do tổn thương hệ
thống lưới.
1-
2.2. Máu tụ trong sọ
Chảy máu trong sọ có thể xảy ra bên ngoài hoăc bên trong màng cứng.
Máu tụ bên trong màng cứng thường xuất hiện hỗn hợp cả hai dưới màng cứng
và trong não. Tùy theo mức độ tổn thương có thể ở dưới màng cứng với luợng
máụ ít, còn bên trong não lượng máu tụ nhiều hoặc ngược lại.Tổn thương não là
nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp dẫn đến tụt não thùy thái dương hoặc tụt
hạnh nhân tiểu não.
Tần xuất máu tụ chiếm tỉ lệ khác nhau như sau :
- Máu tụ ngoài màng cứng : 27%
- Dưới màng cứng : Dưới màng cứng đơn thuần 26%; Trong não có hoặc
không kèm dưới màng cứng 38%; Ngoài màng cứng kết hợp dưới màng cứng
8%
2.3. Máu tụ trong não
Máu tụ trong não đôi khi có kèm theo máu tụ dưới màng cứng và tổn
thương dập nát thùy não. Khu vực bị tổn thương thường gặp nhất là thùy trán và
thùy thái dương có liên quan đến chảy máu vào trong nhu mô não.
Thùy não dập nát là một thuật ngữ mô tả máu tụ trong não phối hợp với
mô não hoại tử rồi vỡ vào khoang dưới màng cứng để tạo thành một lớp máu tụ
dưới màng cứng.
Các triệu chứng lâm sàng tuỳ thuộc vào khối máu tụ trong thuỳ não, nói
chung máu tụ trong não phần lớn không có khoảng tỉnh và thường mê ngay sau
chấn thương. CT Scan phải được thực hiện ngay khi nhập viện để tầm soát tất
cả những thương tổn bên trong hộp sọ. Đa số các trường hợp máu tụ trong não
xảy ra ngay sau chấn thương đầu, đôi khi cũng có thể hình thành khối máu tụ
chậm từ vài giờ đến 3 tuần sau chấn thương. Máu tụ trong não xuất hiện thường
nhất là trong tuần lễ đầu. Theo kinh nghiệm riêng của chúng tôi, máu tụ trong
não thường xảy ra trong 72 giờ đầu sau chấn thương sọ não. Với 25% CT Scan
đầu tiên là bình thường và trên 50% có xuất huyết trong não ngay từ CT Scan
đầu tiên và CT Scan cần phải được chụp lại vào ngày thứ hai, thứ ba hoặc sớm
hơn nhưng điều nầy cũng phải tuỳ thuộc vào lâm sàng, nếu tình trạng trí giác
không cải thiện CT Scan phải được khuyến cáo chụp lại để tầm soát những
thương tổn khác hoăc thương tổn cũ đã phát triển thêm, đôi khi phù não gia tăng
đơn thuần. Nói chung, phẫu thuật giải ép thường được khuyến cáo trong loại
thương tổn nầy.
2-
2.4. Máu tụ dưới màng cứng
Trong đa số bệnh nhân khi bị va chạm trực tiếp vào đầu có thể làm rách
tĩnh mạch bắt cầu (bridging veins) đổ vào xoang tỉnh mạch ngay trên bề mặt vỏ
não tạo ra máu tụ dưới màng cứng, không có tổn thương dập vỏ não hoặc rách
vỏ não kèm theo. Trong trường hợp nầy đôi khi có khỏang tỉnh giống như máu
tụ ngòai màng cứng. Để chẩn đóan chính xác cần phải chụp CT Scan. Đa số các
trường hợp máu tụ dưới màng cứng thường đi kèm dập não hoặc rách vỏ não
gây phù não khu trú hoặc lan rộng và mê ngay sau chấn thương.
Máu tụ dưới màng cứng được xếp thành ba thời kỳ: cấp, bán cấp và mãn
tính. Nếu dựa vào thời gian nhiều tác giả đã thống nhất phân loại : Trước 72 giờ
là cấp tính; Từ giờ thứ 72 đến tuần lễ thứ ba là bán cấp và sau 3 tuần lễ được
xếp loại mạn tính. Bảng phân loại máu tụ dưới màng cứng theo thời gian nhằm
đánh giá tiên lượng của bệnh nhân. Đối với máu tụ dưới màng cứng bán cấp và
mãn tính có tỉ lệ sống cao và tiên lượng tốt hơn; Còn máu tụ dưới màng cứng
cấp tính tỉ lệ tử vong từ 30 đến 90%, do máu tụ dưới màng cứng thường kèm
theo dập và phù não có ảnh hưởng nhiều đến thân não và thường dễ dẫn đến tụt
não.
3-
2.5. Máu tụ ngoài màng cứng
Vỡ xương sọ thường gây ra máu tụ ngoài màng cứng do xé rách nhánh
nhỏ của động mạch màng não giữa. Vị trí của máu tụ thường xảy ra vùng thái
dương, thái dương-đỉnh hoặc vùng trán. Đôi khi máu tụ ngoài màng cứng có thể
do tổn thương xoang tĩnh mạch dọc trên và xoang ngang. Khối máu tụ ngoài
màng cứng được tạo thành một khối máu tụ hình thấu kính trên CT Scan với
đậm độ cao trong đa số các trường hợp. Một nguồn chảy máu khác từ các mạch
máu trong xương xốp nằm giữa hai bản xương sọ do đường nứt sau chấn thương
cũng có thể gây máu tụ ngoài màng cứng. Đối với máu tụ ngoài màng cứng mà
nguồn chảy máu từ xương xốp, đa số tạo thành một khối lượng máu tụ ở mức
độ từ 30 đến 60ml, trong những trường hợp nầy mô não bị chèn ép chậm theo
thời gian, do đó khoảng tỉnh có thể kéo dài. Đối với những trường hợp nguồn
chảy máu từ nhánh động mạch màng não giữa hoặc từ xoang tĩnh mạch thường
khối máu tụ lớn nhanh, não không kịp thời gian để bù trừ, do đó, khoảng tỉnh
rất ngắn, đôi khi không kịp thời gian để can thiệp phẫu thuật. Loại máu tụ nầy
xảy ra ở người lớn nhiều hơn ở trẻ em do :
Thứ nhất, ở người lớn màng cứng dính chăt vào bản trong xương sọ, nên
màng cứng thường không bị trượt khi xương sọ bị nứt, do đó dễ làm rách nhánh
nhỏ của động mạch màng não giữa.
- Thứ hai, màng cứng ở trẻ em chưa dính chặt vào bản trong xương sọ, cho nên
khi xương sọ bị nứt màng cứng có thể tách ra và trượt dễ dàng nên ít khi bị xé
rách các nhánh của động mạch màng não giữa.
như vậy, máu tụ ngoài màng cứng ở trẻ em và người già ít hơn ở lứa tuổi còn trẻ
và trung niên. Ở trên lều, máu tụ ngoài màng cứng ít hơn so với máu tụ dưới
màng cứng; Ngược lại, dưới lều máu tụ ngoài màng cứng thì gặp nhiều hơn máu
tụ dưới màng cứng. Máu tụ ngoài màng cứng hố sau nguồn chảy máu phân lớn
từ các tĩnh mạch, vì ở hố sau tĩnh mạch màng cứng nhiều hơn là động mạch
màng cứng. Ở hố sau có ba động mạch màng não quan trọng, động mạch màng
não sau và trước, nhánh của động mạch cột sống xuất phát tại lỗ chẩm, nhánh
màng não của động mạch chẩm. Máu tụ ngài màng cứng hố sau xảy ra ít hơn
trên lều là nhờ vào thành dày của xương chẩm và mô mềm dày vùng cổ nên lực
va chạm cũng bị giảm nhẹ; Vã lại, khi động mạch bị tổn thương thường phải có
một lực va chạm mạnh, cho nên, đa số mu tụ ngoài màng cứng hố sau thường
do tổn thương tĩnh mạch.
Đối với máu tụ ngoài màng cứng hố sau cần phải được can thiệp phẫu
thuật kịp thời do tắt nghẽn lưu thông dịch não tuỷ làm tăng áp lực trong sọ sớm
dễ dẫn đến thoát vị hạnh nhân tiểu não. Đau đầu vùng chẩm và dưới chẩm là
dấu hiệu thường gặp của máu tụ hố sau. Đau đầu càng lúc càng tăng, đau khó
chịu và các thuốc giảm đau hầu như không hiệu quả. Nếu dùng ngón tay gõ nhẹ
vào dưới chẩm gây đau dữ dội. Nếu máu tụ hố sau xảy ra ở trẻ em, thường kích
thích đau đầu quá mạnh làm cho các em không thể chịu nổi và phải la hét dữ
dội.
Máu tụ ngoài màng cứng hố sau và trên lều bên phải
2.6. Tụt hạnh nhân tiểu não và tụt não thùy thái dương
Khi có tổn thương mô não do chấn thương sẽ dẫn đến dập và phù não
làm di lệch đường giữa. Ngay các máu tụ trên lều cũng gây ra di lệch đường
giữa dẫn đến áp lực trong sọ tăng, ảnh hưởng đến tụt não thùy thái dương qua
khe lều bên, chèn ép thân não và tổn thương thân não. Nếu phù não hai bán cầu
đại não làm tụt não qua khe lều trung tâm.
Khi tụt hạnh nhân tiểu não vào lỗ chẩm gây chèn ép thân não thấp gây
ngừng thở rồi ngừng tim trong một thời gian sau
Điều này có thể xuất hiện tổn thương khu trú hoặc không. Phù não có thể do
xung huyết hoặc do gia tăng quá mức dịch trong và ngoài tế bào. Nhưng cơ chế
chính xác chưa được biết rõ.
3.3. Thiếu máu não
Thiếu máu não cũng thường xảy ra sau chấn thương đầu nặng và cũng gây ra
hoặc thiếu oxy não hoặc làm suy giảm áp lực tưới máu não (CPP). Sau chấn
thương sọ não, cơ chế tự điều hòa ở não thường bị ảnh hưởng làm huyết áp
giảm dần, dẫn đến hậu quả nặng nề hơn. Khi tích tụ quá nhiều góc tự do và dư
thừa glutamate có thể làm tổn thương tế bào thần kinh.
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu:
Bệnh nhân có tổn thương sọ não do chấn thương vào điều trị tại khoa
Chấn thương Chỉnh hình Bỏng Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An từ ngày 01-2014
đến 11- 2014.
1.1 Tiêu chuẩn chọn bệnh:
- Được chẩn đoán lâm sàng chấn thương sọ não.
- Có tổn thương nội sọ hoặc tổn thương phần mềm và xương hộp sọ
1.2. Tiêu chuẩn loại trừ:
- Các trường hợp không có tiền sử chấn thương rõ ràng.
- Các bệnh nhân bệnh lý sọ não không do chấn thương.
Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang
p.(1-p)
2
n = Z (1−α/2)
d2
Trong đó: n là cỡ mẫu tối thiểu
Z: là hệ số tin cậy, với ngưỡng xác suất = 0,05%, Z (1−α/2) = 1,96
p: là tỷ lệ phần trăm trẻ bị CTSN
d = là sai số chấp nhận được: lấy mức 3%, d = 0,03.
2. Phương pháp nghiên cứu.
2.1 Thiết kế nghiên cứu
Thiết lập bệnh án theo mẫu thống nhất. Nghiên cứu tiến cứu, theo phương
pháp mô tả cắt ngang.
2.2. Phương pháp thu thập số liệu
- Khám bệnh nhân vào khoa, chẩn đoán, điều trị, đánh giá kết quả điều trị.
- Thu thập thông tin theo mẫu bệnh án thiết kế (phụ lục)
2.2.1. Phương tiện
- Bệnh án mẫu
- Dụng cụ khám
- Dụng cụ phẫu thuật
2.1.2. Thu thập thông tin
Theo mẫu bệnh án thiết kế sẵn để nghiên cứu các đặc điểm dịch tễ, nguyên
nhân, lâm sàng, cận lâm sàng, phương pháp điều trị chấn thương sọ não trẻ em
vào điều trị tại khoa. Theo dõi đánh giá kết quả điều trị.
2.1.2.1. Đặc điểm chung
- Họ tên bệnh nhân
- Tuổi, giới, dân tộc, trình độ văn hóa
- Địa chỉ, điện thoại liên lạc
- Ngày vào viện
- Lý do vào viện
- Chẩn đoán lúc vào viện
- Chẩn đoán lúc ra viện
- Ngày ra viện
- Nguyên nhân bị chấn thương
- Thời gian bị chấn thương
Sơ cứu
Trạng thái ý thức: Thay đổi tình trạng ý thức phản ánh rất sát tình trạng bệnh
nhân, bệnh nhân có rối loạn ý thức và thay đổi đáp ứng với kích thích. Có thể
đánh giá ban đầu theo quy trình AVPU (các chữ cái đầu của các từ tiếng Anh),
trong đó:
• A (Alert) : tỉnh hoàn toàn.
• V (voice) : có đáp ứng với gọi hỏi.
• P (pain) : có đáp ứng với kích thích đau.
• U (Unresponsvie) : hoàn tòan yên lặng, không đáp ứng với các kích thích.
Sau đó để đánh giá chính xác cần dùng bảng Glasgow:
Đáp ứng bằng mắt (4)
1. Mắt nhắm.
2. Mở mắt khi gây đau.
3. Mở mắt khi gọi.
4. Mở mắt tự nhiên.
Đáp ứng bằng lời nói (5)
1. Không đáp ứng.
2. Đáp ứng bằng những âm thanh vô nghĩa.
3. Dùng từ không thích hợp.
4. Lẫn lộn, mất định hướng.
5. Đáp ứng đúng.
Đáp ứng bằng vận động (6)
1. Không đáp ứng.
2. Duỗi cứng (mất não).
3. Gấp cứng. (mất vỏ não).
3. Cấu: co chi.
4. Cấu: gạt đúng.
5. Yêu cầu: làm đúng.
Các dấu hiệu sinh tồn
- Tăng huyết áp, nhịp tim chậm là dấu hiệu muộn của tăng áp lực nội sọ. Cần
phát hiện các rối loạn tim mạch khác.
- Khó thở hoặc thay đổi kiểu thở có thể là dấu hiệu của chấn thương sọ não
- Sốt có thể là biểu hiện của chấn thương sọ não.
Đồng tử hai bên: không cân đối hoặc mất phản xạ, rối loạn thị lực, một hoặc
hai mắt trũng sâu.
Tụ máu quanh mắt, tai: vùng xanh tím sau tai có thể là dấu hiệu của vỡ nền
sọ; có thể có dịch não tuỷ chảy qua tai hay mũi hoặc tụ máu quanh mắt.
Lưu ý: nếu nghi ngờ có vỡ nền sọ hoặc vỡ xương mặt nghiêm trọng thì không
được đặt sonde dạ dày đường mũi mà cân nhắc đặt qua đường miệng.
- Vết thương nông ở đầu kích thước
- Vết thương sọ não hở
- Vỡ xương sọ
- Chấn động não
- Dập não, tụ máu trong não
- Tụ máu ngoài màng cứng
- Tổn thương phối hợp
2.1.2.3. Đặc điểm cận lâm sàng
- Công thức máu
- Chụp C.T Scanner sọ não
2.1.2.4. Điều trị
- Điều trị nội khoa: Thuốc điều trị, chăm sóc
- Điều trị phẫu thuật:
+ Phẩu thuật lấy máu tụ
+ Phẫu thuật nâng xương sọ lún
+ Thuốc sau phẫu thuật, dẫn lưu, chăm sóc
2.1.2.5 Đánh giá kết quả điều trị
2. Xử lý số liệu
Bằng phần mềm EPI-INFO 6.0 của tổ chức y tế thế giới
Chương 3
DỰ KIẾN KẾT QUẢ
Hoàn thành đề tài đúng tiến độ. Đạt được mục tiêu nghiên cứu.
3.1. Giới.
Bảng 3.1. Phân bố bệnh nhân theo giới tính
Số bệnh
Giới %
nhân
Nam
Nữ
Tổng
3.2. Tuổi.
Bảng 3.2. Phân bố bệnh nhân theo tuổi
Số bệnh
%
Nhóm tuổi nhân
<1 tuổi
1-3 tuổi
4 - 6 tuổi
7 - 15 tuổi
Tổng
3.3. Nơi ở.
Bảng 3.3. Phân bố bệnh nhân theo địa dư
Số bệnh
%
Nơi ở nhân
Nông thôn
Thành thị
Đồng bằng
Miền núi
Tổng
Số bệnh
Tổn thương %
nhân
Vết thương nông ở đầu
Vết thương sọ não hở
Vỡ xương sọ
Chấn động não
Dập não, tụ máu trong não
Tụ máu ngoài màng cứng
Tụ máu ngoài màng cứng
Tổng
3.6. Điều trị.
Bảng 3.6. Các phương pháp điều trị chấn thương sọ não
Số bệnh
Điều trị %
nhân
Nội khoa
Phẩu thuật
Tổng
Số bệnh
Kết quả %
nhân
Khỏi
Di chứng
Chuyển tuyến trên
Tử vong
Tổng
Chương 4
DỰ KIẾN BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm chung
- Tuổi
- Giới tính
- Nguyên nhân gây bệnh
4.2 Đặc điểm lâm sàng
- Vết thương nông ở đầu
- Vết thương sọ não hở
- Vỡ xương sọ
- Chấn động não
- Dập não, tụ máu trong não
- Tụ máu ngoài màng cứng
4.3 Điều trị
- Điều trị nội khoa
- Điều trị phẫu thuật.
4.4 Kết quả điều trị
DỰ KIẾN KẾT LUẬN
- Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng bệnh chấn thương sọ não trẻ em .
- Kết quả điều trị Chấn thương sọ não trẻ em tại khoa Chấn thương Chỉnh hình -
Bỏng năm 2014
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Minh Mẫn (2003). “Hội chứng tăng áp lực nội sọ”. Bệnh học
phẫu thuật thần kinh. Tr 112 – 121. Nhà xuất bản Y Học, Hà Nội.
2. Lê Xuân Trung (2003) “Chấn thương sọ não ở trẻ em và người trưởng
thành” Nhà xuất bản y học, Hà nội, tr. 90-111
3. Nguyễn Thị Thu và CS. (2004). “Tình hình chấn thương sọ não trẻ em
điều trị tại bệnh viện Chơ Rẫy”. Hội phẫu thuật thần kinh Việt Nam, Tr.
98-99.
4. Nguyễn Thường Xuân (2006) “Chấn thương sọ não” Nhà xuất bản y
học, Hà nội.
5. Trương Văn Việt (2002). “Máu tụ ngoài màng cứng cấp tính”. Tạp chí Y
Dược học, 4, Tr 97-102.
6. Asanin B.(2009). “Traumatic epidural hematomas in posterior cranial
fossa”. Acta clin Croat. 48(1), p. 27-30.
7. 3. Ege G., Nezih O., And Al (2001). “Prognosis correlation with CT and
MRI findings after head trauma”. 12th World congress of neurosurgery
Sydney Australia. P 430-433.
8. Gerlach R, et al. (2009). “Traumatic epidural hematomas in children
and adolescents: outcome analysis in 39 consecutive unselected cases”.
Pediatr Emerg Care, 25(3), p. 164-9.
9. Mark S. Greenberg (2001). “Epidural hematoma”, Handbook of
neurosurgery, P 727-729.
10. Mybre Mc., et al (2007). “Traumatic head injury in infants and
toddlers”. Acta Paediatr, 96(8), p.1159-63.