2- Lịch sử ngành dược

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 69

LỊCH SỬ NGÀNH DƯỢC

PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Hương


Khoa: Quản lý và Kinh tế dược - HUP
Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022
2
MỤC TIÊU HỌC TẬP

Trình bày khái quát được:


- Lịch sử ngành dược thế giới
- Lịch sử ngành dược VN

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


3

10 thuốc đi vào lịch sử


ngành dược

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


1. Penicillin
4
Penicillin lần đầu tiên được phát triển vào năm
1928, nhưng mãi tới năm 1942 mới bắt đầu được
bán rộng rãi trên thị trường. Là kháng sinh chính
thức đầu tiên, nó đánh dấu một bước ngoặt trong
lịch sử nhân loại và dẫn đầu trong việc điều trị
bệnh do vi khuẩn. Nếu không được phát minh và
sử dụng, 75% dân số ngày nay sẽ không tồn tại vì
tổ tiên của họ đã chết do nhiễm khuẩn. Penicilin
đã được sử dụng để điều trị một loạt các bệnh
như viêm phổi, sốt phát ban cũng như nhiễm
khuẩn tai, da và cổ họng.

8/10/2022
Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP
2. Vắc-xin đậu mùa (bệnh "đậu bò“)
5
Bệnh đậu mùa đã được biết đến như là một trong những
mối đe dọa tồi tệ nhất mà nhân loại đã từng phải đối
mặt, gây nên cái chết cho hơn 10% dân số (ở các thị
trấn và thành phố đông dân cư, con số này là 20%).
Người đầu tiên phát triển vắc-xin đậu mùa vào năm
1796 là bác sĩ Edward Jenner, người Anh.
Tới đầu những năm 1800, việc tiêm chủng vắc-xin đậu
mùa được tiến hành rộng rãi. Nhờ sự phát triển của vắc-
xin trong thế kỷ 19, đậu mùa là một trong những bệnh
đầu tiên bị xóa sổ khỏi hành tinh. Ngày nay, chúng ta
vẫn tự hào nói rằng “diệt trừ bệnh đậu mùa là một trong
những thành tựu lớn nhất của nhân loại”.

8/10/2022

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP


3. Insulin
6

Nguyên nhân chính gây nên bệnh đái


tháo đường là do cơ thể không sản
xuất đủ lượng insulin, một hormon liên
quan đến việc chuyển hóa đường thành
năng lượng. Insulin cũng được ghi
nhận là đã mở đường cho các liệu
pháp thay thế hormon trong tương lai
và đã cứu sống vô số bệnh nhân đái
tháo đường.

8/10/2022

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP


4. Morphin
7
Morphin lần đầu tiên được phát hiện bởi dược sĩ người Đức, Friedrich Sertürner vào năm
1804. Nhưng tới năm 1827, loại thuốc này mới được phát triển ra thị trường. Mặc dù
bệnh nhân có nguy cơ lệ thuộc vào thuốc, song chúng ta phải công nhận rằng lợi ích
giảm đau của thuốc vượt xa các nguy cơ khi sử dụng. Không có morphin đồng nghĩa với
hàng triệu bệnh nhân có tổn thương cơ thể hoặc tình trạng bệnh lý phức tạp sẽ nhấn
chìm cuộc sống của mình trong các cơn đau nặng nề và dai dẳng. Việc phát minh và sử
dụng morphin mở đường cho một thế hệ mới của các loại thuốc giảm đau ra đời, nhiều
trong số đó được bán rộng rãi trong các hiệu thuốc ngày nay.

Từ khi có
morphin,
bệnh nhân đã
giảm được
đau trong
điều trị bệnh

8/10/2022
Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP
5. Aspirin
8

Aspirin đầu tiên ra đời ở dạng


acid acetylsalicylic (ASA) vào
năm 1899. Tại thời điểm phát
minh ra aspirin, nhiều người
tin rằng cơ chế giảm đau của
thuốc là tác động lên hệ thần
kinh trung ương. Nhưng ngày
nay chúng ta đã biết giá trị sử
dụng của nó vượt xa hiệu
quả giảm đau đơn thuần và
aspirin thậm chí còn được sử
dụng trong điều trị triệu
chứng viêm gây ra bệnh tim
và nhiều bệnh ung thư.
Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022
6. Vắc-xin bại liệt
9
Bại liệt, một căn bệnh do một loại virut sống
trong cổ họng và hệ tiêu hóa, từng là một trong
những nguyên nhân gây tàn phế hàng đầu trên
thế giới và là nguồn gốc của sự sợ hãi và
hoảng loạn ở thế kỷ 20. Vào ngày 26/3/1953,
nhà nghiên cứu y khoa Mỹ, TS. Jonas Salk
thông báo rằng ông đã thử nghiệm thành công
một loại vắc-xin chống lại bệnh bại liệt, loại
virut gây ra 58.000 trường hợp bại liệt tại Mỹ
vào năm trước đó 1952, trong số đó đã có hơn
3.000 người chết. Năm 1954, các thử nghiệm
lâm sàng sử dụng vắc-xin này và giả dược
được tiến hành trên gần 2 triệu học sinh Hoa
Kỳ. Tháng 4/1955, vắc-xin được công bố có
hiệu quả và an toàn, ngay sau đó một chiến
dịch tiêm chủng toàn quốc bắt đầu. Số ca bại
liệt mới giảm xuống dưới 6.000 trong năm
1957. Kể từ sau sự ra đời của vắc-xin bại liệt,
căn bệnh này đã được loại trừ ở gần như mọi
khu vực trên thế giới. Tuy nhiên, bởi virut bại
liệt vẫn còn tồn tại, tất cả trẻ em vẫn phải được Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022
tiêm chủng trước độ tuổi tới trường.
7. Chlorpromazin
10
Chlorpromazin là thuốc chống loạn thần chính thức
đầu tiên, được phát hiện vào tháng 12/1951 và trở
thành thuốc được kê đơn tại Pháp vào tháng 10/1952.
Sự phát minh và sử dụng chlorpromazin được xem là
bước ngoặt trong tâm thần học và một trong số các
bước ngoặt đó đã dẫn tới cuộc cách mạng “tâm thần
dược học”. Không chỉ dừng lại ở hiệu quả điều trị trên
nghiên cứu, chỉ hơn 10 năm sau đó nó đã được sử
dụng rộng rãi trên khoảng 50 triệu người.
Chlorpromazin cũng được biết là đã mở đường cho
các thế hệ tương lai của các loại thuốc dùng để điều trị
chứng lo âu và trầm cảm. Các cơ chế của thuốc còn là
động lực cho nhà nghiên cứu hiểu sâu hơn về tác
động của thuốc trên dẫn truyền thần kinh trong não và
làm thế nào để kích thích dẫn truyền các xung động
thần kinh giữa các neuron.
Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022
8. Thuốc hóa trị liệu ung thư
11

Thuốc đầu tiên được chứng minh hiệu quả chống lại ung
thư là methotrexat. Năm 1950, methotrexat (sau đó được
gọi là amethopterin) đã được đề xuất như là một thuốc điều
trị cho bệnh bạch cầu. Tới năm 1956, methotrexat đã chữa
khỏi một dạng khối u hiếm gặp là choriocarcinoma (còn gọi
là ung thư biểu mô rau hay ung thư nhau thai). Trong vài
thập kỷ sau đó, những tiến bộ trong hóa trị liệu đã được
hiện thực và nhiều loại thuốc với cơ chế hoạt động khác
nhau mang đến những cải tiến đáng kể trong tỷ lệ sống
còn của bệnh nhân và giảm tỷ lệ tử vong. Tỷ lệ sống còn
sau ung thư tăng lên hiện nay là kết quả của sự phát triển
nối tiếp các phương thức hóa trị liệu cũng như các chương
trình phát hiện sớm ung thư được thực hiện bởi nỗ lực của
hệ thống y tế toàn cầu.

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


9. Các chất ức chế protease
12 điều trị HIV
HIV được xác định là tác nhân gây ra hội chứng suy
giảm miễn dịch mắc phải (AIDS). Mặc dù không phải là
thuốc điều trị HIV đầu tiên, nhưng sự kết hợp giữa các
chất ức chế protease và các loại thuốc điều trị AIDS có ý
nghĩa to lớn trong lĩnh vực y khoa khi lần đầu tiên bác sĩ
có thể giữ cho nồng độ HIV rất thấp mà bệnh nhân
không phát triển sang giai đoạn AIDS.
Các báo cáo đầu tiên về các chất ức chế protease - các
chất đối kháng chọn lọc cao đối với HIV đã được công
bố vào năm 1987. Sau đó, giai đoạn I thử nghiệm của
saquinavir bắt đầu vào năm 1989. Aquinavir là chất ức
chế protease đầu tiên được FDA phê chuẩn trong thử
nghiệm lân sàng trên người vào tháng 6/1995, sau gần
chục năm nỗ lực nghiên cứu.

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


13
10. Ether

Ether (ê-te) đã được biết đến từ hơn 300 năm, nhưng


trước đây không ai biết ether có thể được sử dụng
như là một chất gây mê. Ether được ghi nhận sử
dụng trong y khoa như một chất gây mê bởi nha sĩ
William T.G. Morton vào ngày 16/10/1846 tại Boston,
Massachusetts, Mỹ. Sự phát triển của ether là nền
tảng cho sự phát triển của các loại thuốc gây mê hiện
đại và hiệu quả.
Nhờ ether, bệnh nhân không còn chịu những cơn
sang chấn vì đau đớn trong phẫu thuật. Trong vài thập
kỷ qua, các chất gây mê mới và tiên tiến hơn cũng
được phát triển, còn ether được đánh dấu như một
cột mốc vững chắc trong danh sách những dược chất
quan trọng nhất đã được phát minh.

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


14

Ngành dược là một


khoa học độc lập, có
lịch sử phát triển từ
thời kỳ cổ đại

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


15 LỊCH SỬ NGÀNH DƯỢC
THẾ GIỚI

Before the Dawn of History


8/10/2022

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP


Ngành Dược thời cổ đại
16
(Pharmacy in Ancient Babylonia)

Thời nguyên thủy kết thúc đến thời Sơ kì


Trung Cổ ở phương Tây và phương Đông
Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022
1. Trước buổi
“bình minh”

Từ thuở xa xưa, hẻo lánh và thô sơ như


thế nhưng đã xuất hiện ngành Dược
đáng tự hào. Sự phát triển của ngành đi
song hành với sự phát triển của con
người. Người tối cổ học từ bản năng của
họ, từ việc quan sát chim và thú. Sử dụng
dòng nước mát lạnh, lá cây, bùn đất là
những phương pháp đời đầu để giảm
đau, dịu vết thương. Bằng thực nghiệm,
con người chọn lọc những phương pháp
phù hợp nhất. Cuối cùng, họ dùng kiến Sử dụng dòng nước mát lạnh, lá
thức tích góp được từ thực nghiệm để cây, bùn đất là những phương
phổ biến, giúp ích cho người khác. Mặc pháp đời đầu để giảm đau, dịu vết
dù những phương pháp chữa trị thời bấy thương.
giờ thật thô sơ nhưng nhiều phương
pháp chữa trị ngày nay bắt nguồn từ
những nguồn nguyên liệu đơn giản và cơ
bản mà nằm trong tầm với của người
xưa.
17 Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022
18

Từ khoảng 4000 TCN,


người dân Sumer vùng
Lưỡng Hà cổ đại (Iraq) ),
đã biết sử dụng cây thuốc:
cam thảo, thuốc phiện...

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


2. Dược học thành
19 cổ Babylon
Babylon, “viên ngọc” của Lưỡng Hà cổ,
thường được ví với cái nôi của nền văn
minh nhân loại, đã giữ lại những nghiên
cứu đời đầu về nghệ thuật bào chế thuốc.
Những người thực hành chữa bệnh thời đó
(khoảng 2600 năm trước CN) đồng thời là
mục sư, dược sĩ và bác sĩ. Tài liệu y tế
được viết trên những tấm phiến đất sét và
nội dung là về biểu hiện bệnh, kê các vị
thuốc và hướng dẫn bào chế, rồi kết thúc
bằng lời cầu khẩn tới các vị thần. Những
phương pháp của người Babylon cổ đại
vẫn hiện hữu trong dược học, y học hiện
đại ngày nay và trong chăm sóc sức khỏe
tinh thần của người bệnh.

Các triệu chứng bệnh được ghi trên đất sét bởi
các giáo sĩ có từ khoảng 2600 TCN và đã có sự
phân biệt người bào chế thuốc và người chữa 8/10/2022
bệnh. Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP
3. Dược học dưới thời
20
Trung Quốc cổ đại
Dược học Trung Quốc, theo thần thoại, bắt nguồn từ Thần Nông (khoảng
200 năm trước CN), vị vua cổ đại huyền thoại đã tìm ra và nghiên cứu tác
dụng của hàng trăm thảo dược. Ông nhận dạng chúng, rồi biên tập và
dược tính của chúng trong Thần Nông bản thảo kinh. Thần Nông đã tự
mình nghiên cứu bằng cách nếm nhiều loại thảo mộc, vỏ, rễ cây mà ông
mang về từ ruộng, đầm lầy, trong rừng và những thảo mộc, vỏ, rễ cây ấy
vẫn được công nhận là vị thuốc đến ngày nay, bởi lẽ vậy mà ông được tôn
kính như là ông tổ của y học Trung Hoa. Dựa trên “Bát quái”, hình ảnh
tượng trưng cho mọi hiện tượng, sự vận hành của vũ trụ. Các cây thuốc
có thể kể đến ở đây như là Cước điệp, Đại hoàng Chưởng diệp, Nhân
sâm, Cà độc dược lùn (Mạn đà la), Vỏ quế và Thảo ma hoàng.

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


21 Thần Nông bản thảo
(TQ) đã có từ thế kỷ
1 (dưới thời nhà
Hán) đã ghi chép lại
truyền thuyết chữa
bệnh bằng cây thuốc
vào năm 2000 TCN.
Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022
22
Thần nông bản thảo

 Theo truyền thuyết, vua Thần Nông một ngày nếm


100 loại cây cỏ để tìm thuốc chữa bệnh, có khi ngộ
độc đến 70 lần. Từ đó soạn ra sách Thần Nông bản
thảo kinh. Bộ sách có ghi chép tất cả 365 vị thuốc,
được xem là bộ sách cổ nhất của Đông y.
 Thần Nông bản thảo là sách viết về Dược vật học đầu
tiên của Trung Quốc, gọi tắt là ‘Bản thảo kinh’ hay
‘Bản kinh’.

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


Thần nông bản thảo
23
Là bộ khảo cứu cây thuốc cổ nhất của Trung Quốc. Sách còn có tên là:
Chính loại bản thảo. Tương truyền vào thời tiền tấu sách do Thần Nông
soạn ra, nguyên bản thất truyền, mà nội dung của sách được truyền từ đời
này qua đời khác vẫn được bảo lưu. Sách có 3 quyển, ghi chép 365 loài cây
thuốc có tác dụng chữa bệnh từ thời cổ truyền lại, và phân chia thành 3
hạng phẩm chất: Loại không độc gọi là thương phẩm, tức là quân; loại có ít
độc hại gọi là trung phẩm, tức là thần; loại có độc tính cao gọi là hạ phẩm
tức là tá sử; đối với mỗi loại cây thuốc tác giả giới thiệu khá tường tận về
nơi trồng, tính chất, cách chế biến và chữa trị bệnh tật. Là cơ sở để phát
triển ngành bản thảo học của Trung Quốc, là tư liệu văn hiến trọng yếu về
mặt dược vật học Trung Quốc. Sách Thần Nông Bản Thảo Kinh văn còn lưu
truyền đến nay là bản do Lô Phục thời Minh, Tôn Tinh Diễn, Nhàn Quán
Quang thời Thanh và Sâm Lập Chi người Nhật Bản thu thập lại.

8/10/2022
Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP
Thần nông bản thảo: lịch sử
24

 Trong lịch sử y học, cùng với sự phát triển của Đông y, Bản
thảo học cũng song hành tồn tại, trong đó Thần Nông bản thảo
kinh xuất hiện từ thời Hán, được xem là tác phẩm Dược học
sớm nhất còn được bảo tồn ở Trung Quốc hiện nay.

 Sách Thần Nông Bản Thảo có lẽ được hoàn tất vào thời kỳ
Tần (221 – 206 TCN), Hán (203 – 220 TCN (có thuyết cho
rằng vào thời Chiến Quốc 475 TCN). Sách trước đó đã bị thất
truyền, chỉ còn được dẫn lục và bảo tồn trong cuốn ‘Chứng
loại bản thảo’… Sau đời Minh sách được in với nhan đề ‘Thần
Nông bản thảo kinh’.

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


Thần nông bản thảo: nội dung sách
25

 Trong sách, ghi 365 loại dược vật, chia làm 3 loại là
Thượng, Trung và Hạ phẩm. Giới thiệu 365 loại dược
vật, chia làm 3 loại là:
– Thượng phẩm, 120 loại.
– Trung phẩm, 120 loại.
– Hạ phẩm, 125 loại.
– Thực vật 252 loại.
– Động vật 67 loại.
– Khoáng vật 46 loại.
Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022
Thần nông bản thảo: bố cục sách
26

Quyển một. Tự lệ
Quyển hai. Thượng phẩm: tổng cộng 120 loại thuốc quý,
có thể gọi là thảo dược không độc, chủ yếu nuôi dưỡng cơ
thể, tăng cường sức khỏe…
+ Kim thạch 金石部 (18): Đan sa, Vân mẫu…
+ Bộ thảo 草部 (73): Xương bồ, Nhân sâm…
+ Bộ mộc 木部 (20): Phục linh, Câu kỷ tử…
+ Bộ nhân 人部 (1): Phát (tóc) tu (râu)…
+ Bộ thú 兽部 (6): Long cốt, Ngưu hoàng…
+ Bộ quả 果部 (5): Đại táo, Bồ đào…

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


Thần nông bản thảo: bố cục sách
27

Quyển ba. Trung phẩm: gồm 120 vị thuốc có thể làm thần
dược, dược phẩm không độc hoặc có độc. Chủ về bổ dưỡng,
trong đó có vị có thể bổ hư, bồi bổ cơ thể như long nhãn,
đương quy, bách hợp…; có vị có thể trừ tà kháng bệnh như
hoàng liên, hoàng cầm, ma hoàng, bạch chỉ…

+ Loại kim thạch (14 loại): Hùng hoàng, Thủy ngân…


+ Loại thảo (cây cỏ) (48): Can khương, Cát căn…
+ Loại mộc (17): Trúc diệp, Kỷ tử…
+ Loại mễ cốc 谷部 (3): Lật mễ, Xích tiểu đậu…

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


Thần nông bản thảo: bố cục sách
28

Quyển bốn. Hạ phẩm: có tất cả 125 loại tá sứ


dược, đa số có độc, không thể dùng lâu dài. Các
bệnh chủ trị phần nhiều là hàn nhiệt tích tụ.
+ Loại kim thạch (9): Thạch hôi, Đại giả thạch…
+ Loại thảo (19): Phụ tử, Thiên hùng…
+ Loại mộc (2): Đào hạch nhân, Hạnh hạch nhân…

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


Đặc tính thuốc theo Thần nông bản thảo
29

– Vị thuốc được phân theo Ngũ vị: chua, mặn,


ngọt, cay, đắng.
– Thuốc có tứ khí: hàn, nhiệt, ôn lương…
– Lập thuốc có quân, thần, tá, sứ…
– Dùng thuốc trị các loại: Nội, ngoại, phụ, nhi,
ngũ quan (khoảng hơn 170 loại bệnh).

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


30

Tại Nhật Bản, vai trò của


người làm nghề thuốc
đã được quy định trong
Bộ luật Taihō (701) và
được tái khẳng định
trong Luật Yōrō (718).
Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022
Lịch sử
du
nhập
của
Đông y
vào
Nhật
Bản

Bức tranh lịch sử về chuyến du ngoạn thu hái cây thuốc của triều đình Nhật Bản do Hoàng hậu Suiko chỉ huy.

Ngược dòng lịch sử về 3000 năm trước, đây là thời điểm


y học cổ truyền được cho là bắt đầu có mặt tại Trung
Quốc (thời nhà Thương). Tuy nhiên, mãi đến thế kỷ thứ 5
và thứ 6, Đông y mới được du nhập vào Nhật Bản qua
bán đảo Triều Tiên, cùng với Phật giáo và một số nền
31
văn hóa khác. Năm 608, Hoàng hậu Suiko đã cử các sứ
thần và thầy lang trẻ đến Trung Quốc. Nhiều tài liệu ghi
chép lại rằng họ đã học Đông y tại đây trong suốt 15
năm. Đến năm 701, việc ban hành Bộ luật Taiho đã tạo
ra hệ thống y tế đầu tiên của Nhật Bản, sau đó là sự
thành lập của Tenyaku-ryo (Bộ Y tế, Lao động và Phúc
lợi, Sở Y tế và Khoa Dược ngày nay).
Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022
4a. Dược học dưới thời Ai Cập cổ đại
32
Ai Cập có lịch sử phát triển về dược năm
2900 TCN, "Papyrus Ebers" (1500 TCN)
ghi lại 700 loại thuốc.

Y học Ai Cập có từ khoảng 2900 năm TCN và vào


lúc đó, người Ai Cập đã biên tập ra tài liệu dược học
quý giá là “Papyrus Ebers” (1500 TCN), bộ sưu tập
gồm 800 phương pháp chữa bệnh, sử dụng hơn
700 vị thuốc. Ngành Dược thời Ai Cập cổ đại bao
gồm 2 hoặc nhiều phân lớp: những người nhặt hái
dược liệu và bào chế dược liệu, và trưởng bộ phận
chế biến hay dược sĩ trưởng. Họ được tin là làm
việc ở Per Ankh, một “ngôi trường” trong điện thờ và
cung điện hoàng gia. Trong hoàn cảnh như vậy,
Papyrus Ebers được cho là sản phẩm được ghi
chép bởi dược sĩ trưởng khi họ chỉ đạo hoạt động 8/10/2022

bào chế. Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP


33 4b. Dược học thời Hy lạp cổ đại

Hypocrates (380-370 TCN) –


BS đầu tiên trên thế giới

Lời thề Hypocrates

Thời Hy Lạp cổ đại, đã có các ấn


phẩm về cây thuốc (TK 4 TCN).
Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022
5. Ngành Dược thời Trung cổ
34
(Pharmacy at Middle ages)

năm 476 SCN - năm 1350

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


35
Dược học trong
tu viện
Trong thời kì Trung cổ (TK 5-15), tàn tích của
kiến thức phương Tây về Y và Dược vẫn được
bảo tồn ở trong các tu viện. Những nhà khoa
học đã được dạy về 2 lĩnh vực trên từ đầu TK 7.
Những bản thảo từ nhiều vùng miền được dịch
và giữ lại trong thư viện của tu viện. Các tu sĩ
thu thập thảo mộc và các cây trên các cánh
đồng, hoặc trồng chúng trong khu vườn thảo
mộc của họ. Sau đó, những thứ này họ pha chế
để chữa bệnh cho người bệnh. Những khu vườn
như vậy vẫn có thể tìm thấy ở trong nhiều tu
viện trên nhiều quốc gia.

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


36

6. Tiệm thuốc đầu tiên xuất hiện vào


năm 754 tại Baghdad dưới thời Abbasid
Caliphate trong Thời kỳ Hoàng thành
Hồi giáo. Vào thế kỷ thứ 9, các tiệm
thuốc này được nhà nước quy định.

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


Những tiệm
thuốc đầu tiên

 Người Ả Rập đã tách được bào chế thuốc và chữa bệnh, và từ đó


xuất hiện tiệm thuốc tư nhân đầu tiên ở Bagdad cuối TK 8. Họ bảo tồn
phần lớn kiến thức truyền lại từ Hy Lạp – La Mã, phát triển thêm vào
đó kiến thức về xi-rô, bánh kẹo, mứt từ thiên nhiên, nước cất và dung
dịch cồn.
 Khi người Hồi giáo đi qua châu Phi, Tây Ban Nha và miền Nam nước
Pháp, họ mang trên mình một khuôn mẫu Dược mới mà Tây Âu sớm
thực hiện theo.
37 8/10/2022
Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP
Nhà thuốc bắt đầu xuất hiện ở
38
Châu Âu vào TK12,13.

Năm 1240 Hoàng đế Frederic II ban hành một


nghị định phân biệt vai trò và nhiệm vụ của các
bác sĩ và các nhà bào chế thuốc (dược sĩ).
Các nhà thuốc đầu tiên ở châu Âu được khai
trương vào năm 1241 ở thi trấn Trier, Đức.
Nhà thuốc đầu tiên mở cửa năm 1345 tại
London.
Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022
7. Sự tách biệt giữa Y và Dược: TK 15

 Ở các nước châu Âu khi dần


chịu ảnh hưởng của Ả Rập
thì các tiệm thuốc công
cộng dần xuất hiện vào TK
17. Tuy nhiên, chỉ đến
khoảng năm 1240 thì ở
Sicilia và miền Nam nước Ý,
Dược mới tách khỏi Y.
 Vua Frederick II ở
Hohenstaufen, Hoàng đế
Phổ (Đức hiện tại) đồng thời
là vua của Sicilia là một “liên
kết sống” giữa 2 phương
Đông và Tây
39 Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP
8/10/2022
8. Hiệp hội dược sĩ ở London

Trao đổi thương mại thuốc và gia vị


vô cùng “béo bở” ở Trung cổ. Tại
các quần đảo vương quốc Anh,
việc trao đổi hàng hóa ấy bị độc
quyền bởi Hiệp hội hàng hóa, tổ
chức có thẩm quyền với các tiệm
thuốc. Sau nhiều năm nỗ lực, các
dược sĩ đã tìm được đồng minh với
bác sĩ hoàng gia.

“Masters, Wanders and the Society of the Art and Mystery of the Apothecaries of
the City of London” là hiệp hội đầu tiên của Dược sĩ trong Anglo-Saxon.

40 Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


9. Cuốn Dược điển chính thức đầu tiên

Ý tưởng về Dược điển chính thức mà được tham khảo bởi tất cả dược sĩ,
bắt nguồn từ Florence. Cuốn “Nuovo Receptario”, ban đầu được viết bằng
tiếng Ý, được xuất bản và trở thành tiêu chuẩn hợp pháp cho toàn thành
bang vào 1489. Đó là thành quả của hợp tác giữa Hiệp hội Dược sĩ và
Cộng đồng Y khoa – một trong những hành động mang tính biểu tượng,
xây dựng của các chuyên gia
41 8/10/2022
Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP
42

TK 17, Dược trở thành 1 nghề độc lập với đại diện
là các nhà thuốc hoạt động như hiện nay.

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


10. Kỉ nguyên
43
của Sinh học
Khi Behring và Roux công bố hiệu quả của
thuốc kháng độc tố bạch hầu vào năm 1894,
các nhà khoa học dược phẩm ở châu Âu và ở
Mỹ đã gấp rút đưa phát hiện mới này vào sản
xuất. Parke, Davis & Company là một trong
những công ty tiên phong. Huyết thanh có vào
năm 1895, và hàng ngàn trẻ em đã được cứu
sống. Cấy độc tố bạch hầu vào ngựa là bước
đầu tiên trong nhiều bước trong sản xuất thuốc
kháng độc. Năm 1903, Park-Davis nhận được
Giấy phép Sinh học (U.S Biological License
no.1) của Hoa Kỳ. Các sản phẩm sinh học mới,
cải tiến tiếp tục được sản xuất, đỉnh cao là năm
1955 với vắc-xin bại liệt. Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022
11. Sự phát triển của
sản phẩm trị liệu

Một trong những nhà nghiên cứu thành công trong việc
phát triển các hợp chất hóa học mới được tạo ra đặc
biệt để chống lại các sinh vật gây bệnh trong cơ thể là
dược sĩ người Pháp, Ernest Francois Auguste
Fourneau (1872-1949), người đã 30 năm đứng đầu các
phòng thí nghiệm hóa học trong viện Pasteur (Paris) nổi
tiếng thế giới. Công trình ban đầu của ông với các hợp
chất bismuth và asen đã nâng cao việc điều trị bệnh
giang mai. Ông đã tìm ra bí mật của người Đức đằng
sau một loại thuốc đặc trị cho bệnh ngủ; mở đường cho
nghiên cứu các hợp chất sulfonamide có khả năng cứu
người; và từ các phòng thí nghiệm của ông ấy đã ra đời
nhóm hóa chất đầu tiên có đặc tính kháng histamin
được công nhận. Công trinh nghiên cứu của ông đã đưa
các nhà nghiên cứu khác đến với các lĩnh vực nghiên
cứu hóa trị liệu rộng lớn.
44 Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022
12. Ngành
nghiên cứu
dược phẩm

Nghiên cứu dưới một hình thức nào đó đã tồn tại song hành với sự phát triển của ngành
Dược qua các thời đại. Tuy nhiên, sự tổng hợp hóa học của antipyrine vào năm 1883 mới
tạo động lực và nguồn cảm hứng cho việc tìm kiếm chuyên sâu các hợp chất hữu ích trong
điều trị. Được khởi xướng bởi người Đức, những người thống trị lĩnh vực này cho đến Thế
chiến thứ nhất, những người dẫn đầu trong lĩnh vực nghiên cứu dược phẩm mà sau đó linh
vực này được “chuyển giao” cho Hoa Kỳ. Lĩnh vực nghiên cứu dược phẩm ra đời vào cuối
những năm 1930 và đầu những năm 1940; phát triển ổn định kể từ đó và được hỗ trợ bởi
các nhà sản xuất dược phẩm, các trường đại học và chính phủ. Ngày nay, lĩnh vực này yêu
cầu, sử dụng các kỹ thuật và nhân viên được đào tạo từ mọi ngành khoa học để tìm kiếm
không ngừng các sản phẩm thuốc mới có thể cứu sống và mang lại sự sống.

45
8/10/2022 Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP
13. Sự ra đời của
ngành Công
nghiệp Dược

Công nghiệp dược chỉ bắt đầu được


coi như một ngành ngoài bán lẻ
Dược phẩm vào khoảng năm 1600;
thực sự phát triển vào giữa những
năm 1700. Công nghiệp dược phát
triển đầu tiên ở Đức, sau đó lan ra ở
Anh và ở Pháp. Ở Mỹ, đó là đứa con Công nghiệp Dược phát triển về cả
của các cuộc chiến tranh - sinh ra kinh tế lẫn việc sản xuất những loại
trong cuộc Cách mạng Mỹ; phát triển thuốc mới nhất và tốt nhất với số
nhanh chóng trong và sau Nội chiến.
lượng lớn, để các bác sĩ có thể kê
Ở châu Âu, công nghiệp trở thành một
đơn và các dược sĩ phân phối chúng
ngành độc lập trong Thế chiến thứ
nhất; phát triển trong và sau Thế vì lợi ích của cả nhân loại.
chiến thứ hai. Sử dụng những tiến bộ
kỹ thuật mới nhất từ mọi ngành khoa
46 8/10/2022
học, Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP
14. Kỉ nguyên
của kháng sinh

Thuốc kháng sinh không phải là mới. Tác dụng của


thuốc kháng sinh có lẽ đã được Pasteur quan sát lần
đầu tiên vào năm 1877. Tuy nhiên, một phần tư thứ
hai của thế kỷ 20 đánh dấu sự nở rộ của kỷ nguyên
kháng sinh - một sự khởi đầu mới và đầy ấn tượng
trong việc sản xuất thuốc chữa bệnh. Phát hiện của
Fleming về penicillin vào năm 1929 không được
phát triển nhưng Florey và Chain đã nghiên cứu nó
vào năm 1940. Dưới áp lực của Thế chiến thứ hai,
các nhà sản xuất dược phẩm đã nhanh chóng điều
chỉnh phương pháp sản xuất hàng loạt cho
penicillin mà chi phí lại giảm xuống còn 1/1000 so
với ban đầu. Những nghiên cứu về thuốc kháng sinh
phát triển nở rộ vào những năm 40. Nghiên cứu
chuyên sâu tiếp tục đem lại hy vọng tìm ra các loại
thuốc kháng sinh sẽ chinh phục được nhiều vi khuẩn
47gây bệnh với con người hơn. Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022
Dược học nay
và mai sau

 Dược học, với lịch sử 50 thế kỷ


phục vụ nhân loại, đã được công
nhận là một trong những ngành
nghề tuyệt vời. Giống như Y học,
nó đã trải qua nhiều cuộc cách
mạng, đã học được nhiều điều, đã
phải loại bỏ nhiều cách cũ hơn của
nó. Dược sĩ là một trong những
người được giáo dục tốt nhất của
cộng đồng. Tầm vóc nghề nghiệp
của dược sĩ sẽ tiếp tục phát triển
trong tương lai khi di sản và truyền
thống phục vụ tuyệt vời này được
truyền từ người thầy sang người
học nghề, từ giáo viên sang học
sinh, “cha truyền con nối”.

48 Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


49

MỘT SỐ DANH Y NGÀNH DƯỢC

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


Theophrastus –
“Cha đẻ của
thực vật học”
Theophrastus (khoảng 300 năm
TCN), cùng với những nhà triết học và
các nhà khoa học tự nhiên vĩ đại thời
đầu Hy Lạp cổ đại, được gọi là “cha
đẻ của thực vật học”. Những quan sát
và nghiên cứu của ông về ý nghĩa y tế
và tính đặc thù của các thảo mộc
chính xác một cách bất thường, ngay
cả trong điều kiện hiểu biết hiện tại.
Ông thuyết giảng cho nhóm học trò đi
theo mình học về thiên nhiên bằng
cách tận mắt quan sát các “món quà
của tự nhiên”.

50 8/10/2022
Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP
Vua Mithridates VI – Vị độc chất học hoàng gia

Mithridate VI, Vua xứ Pontos (Thổ Nhĩ


Kỳ bây giờ) (khoảng năm 100 TCN),
mặc dù ông cả đời chiến tranh với La
Mã nhưng đã dành thời gian không chỉ
tìm ra độc chất mà còn nghiên cứu ra
cách phòng ngừa và giải độc – đối
tượng mà cần nghiên cứu chuyên sâu
vô cùng. Không chần chừ gì, ông đã
dùng chính bản thân mình và các tù
nhân làm “chuột bạch” để thử thuốc độc
và thuốc giải. Sau nhiều năm tìm tòi ông
đã tìm ra môt loại độc bí mật là
“Mithridatum”, một loại độc dược vẫn
còn nổi tiếng đến tận ngày nay.

51 8/10/2022

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP


52

Bức họa của Jaques Louis David năm 1787 mô tả người thành Athen phạt tử hình một triết gia
nổi tiếng bằng cách uống một tách nước độc cần.

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


Ngành độc chất học
53
Một số loại độc dược:

- Nọc rắn
- Thạch tín
- Phụ tử
- Hỗn hợp thạch tín, cà dược, phụ
tử, thuốc phiện – thứ độc hắc ám

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


Dioscorides – Nhà khoa học
54 luôn tìm tòi về thuốc
Pedanios Dioscorides (thế kỉ 1 sau
CN) đã có nhiều đóng góp to lớn cho
ngành Dược. Để có thể học về các
đặc tính chữa bệnh của chất, ông đã
rong ruổi cùng đội quân Roma khắp
nơi. Ông ghi chép lại những gì mình
quan sát được, truyền bá lại những
quy luật tuyệt vời của thuốc cùng với
cách bảo quản và cách sử dụng
chúng. Công trình nghiên cứu của
ông được công nhận là khoa học cơ
Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP
bản đến tận TK 16.
8/10/2022
Galen – người đi đầu
55 trong pha chế thuốc
 Galen là một trong số những
người được biết đến và được
tôn kính trong nghề Y và Dược
thời cổ đại
 Galen (130-200SCN) thực
 Ông là người phát minh công thức
hành và giảng dạy cả Y và
cho ra kem dưỡng, về cơ bản
Dược ở Rome; nguyên tắc
tương tự giống với kem dưỡng
chuẩn bị và pha chế thuốc thịnh
hành khắp phương Tây trong hiện nay.
1500 năm và nguyên tắc pha  Nhiều thủ thuật Galen thực hiện
chế và điều chế thuốc để tối ưu vẫn quan trọng trong việc pha chế
hóa sự hấp thụ được đặt theo thuốc ngày nay.
tên của ông
Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022
Avicenna – Galen
56 của Ba Tư

Trong số những người đóng góp xuất sắc


cho nền khoa học Y Dược trong thời kì Ả
Rập, người Ba Tư Ibn Sina (980-1037) –
Avicenna ở phương Tây – một thiên tài đại
diện cho thời đại của mình. Là một dược sĩ,
nhà thơ, bác sĩ, triết học gia và nhà ngoại
giao, Avicenna được coi là “người tri thức với
trí tuệ khổng lồ”, là người được các hoàng tử
và người cai trị Ba Tư yêu mến. Các công
trình của ông được viết bằng tiếng Ả Rập và
thường được viết khi ông sống ẩn dật ở nhà
của một người bạn dược sĩ. Những bài giảng
về dược của ông được coi là “đỉnh cao” ở
phương Tây đến tận TK 17 và vẫn có ảnh
8/10/2022
hướng nhất định ở phương Đông. Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP
Damian và Cosmas – những
57 vị thánh đỡ đầu của ngành Dược

 Damian (dược sĩ) và Cosmas (bác sĩ) - Cặp sinh đôi trong ngành Y-Dược

 2 anh em sinh đôi người gốc Ả Rập, theo đạo Chúa, đã mang lại đồng thời niềm an ủi cho
tôn giáo và kiến thức về bệnh tật đến cho những người bệnh đến với họ. Sự nghiệp của họ
đã chấm dứt vào năm 1030 do Tử đạo.

 Trong hàng thế kỉ, họ được chôn cất ở 1 ngôi đền ở thành phố Syrian ở Cyprus. Nhà thờ
được xây dựng nhanh chóng ở khắp Rome và các thành phố khác nhằm tôn vinh họ. Sau khi
được phong thánh, họ trở thành vị thánh đỡ đầu của ngành Y và Dược.

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP


8/10/2022
58

Al-Biruni (973-1050) đã viết một trong


những tác phẩm có giá trị nhất của Hồi
giáo về dược phẩm, mang tên Kitab al-
Saydalah (Sách thuốc), trong đó ông
đã trình bày chi tiết các đặc tính của
ma túy và vạch ra vai trò của hiệu
thuốc và các chức năng và nhiệm vụ
của dược sĩ.

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


Louis Hébert, Dược sĩ của Tân Pháp (Canada)
Dược sĩ trẻ người Ba Tư Louis Hébert, nghe theo tiếng gọi
của Tân thế giới vào năm 1605, ông theo de Monts (Pierre
Dugua de Monts, thương gia, người thám hiểm người Pháp)
và Champlain (Samuel de Champlain, nhà địa lý học) xây
dựng nên khu định cư đầu tiên của Tân Pháp ở Port Royal
(Nova Scotia, Canada). Hébert chăm lo cho sức khỏe của
người khai hoang, trồng những cây thuốc bản địa và chăm lo
vườn tược.

Khi khu định cư đó bị người Anh phá hủy vào năm


1613, ông quay trở về tiệm thuốc Ba Tư của ông.
Nhưng tình yêu của ông đối với mảnh đất đó lớn vô
cùng, và vào năm 1617. ông và gia đình trở lại
Québec cùng với Champlain, nơi “ngón tay xanh” của
Hébert đã mang lại cho ông danh tiếng của một người
làm nông nổi tiếng ở nơi bây giờ là Canada

59 Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


Scheele –
63 Dược sĩ –
Nhà hóa học
vĩ đại

Chỉ trong vài năm ngắn ngủi, Carl Willhelm Scheele đã công bố
cho thế giới những phát hiện mà mang lại cho con người những
lợi ích tuyệt vời. Tuy vậy nhưng ông chưa bao giờ quên rằng ông
xuất phát là 1 người dược sĩ. Được ủng hộ bởi những thầy giao
tài hoa, tất cả những phát hiện của ông đều được thực hiện ở
nhà thuốc ở Köping, Thụy Điển, nơi ông làm việc từ một người
học việc, một thư ký và đến tận khi ông là chủ nhà thuốc. Với tài
năng thiên bẩm hiếm có, ông đã thực hiện hàng ngàn thí nghiệm,
phát hiện ra oxygen, chlorine, nitroglycerin, glycerin, prussic
acid, tartaric acid, tungsten, molybdenum, và nhiều hợp chất
hữu cơ khác mà xuất hiện ở trong ngành công nghiệp, sức khỏe
và trong nhu cầu của con người hiện nay.
Tượng của Carl Wilhelm Scheele tại 8/10/2022

Stockholm, Thụy Điển Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP


Setürner – Một trong những nhà hóa học đi
đầu trong nghiên cứu Alkaloid

Nhà hóa học người Thụy Điển đã mở đường cho việc


phân lập các acid hữu cơ thực vật, và dược sĩ trẻ
người Đức, Friedrich Wilhelm Adam Sertürner, lại là
người phát hiện và đưa ra cơ chế gây nghiện của
thuốc phiện nổi tiếng trên toàn thế giới, morphine;
và đưa một nhóm chất hữu cơ mới quan trọng không
kém – nhóm Alkaloid. Năm 1816, ông đã bắt đầu hàng
loạt thí nghiệm táo bạo, bất ngờ ở tiệm thuốc của ông
ở Einbeck, trong đó bao gồm những thử nghiệm
kiểm tra dược lý trên 3 người bạn và chính bản
thân ông. Sau đó, sự công nhận và danh tiếng đến
với ông. Tuy vậy nhưng Sertürner vẫn miệt mài thực
hiện các thí nghiệm hóa hữu cơ và cho ra những phát
hiện suốt cả đời ông ở một tiệm thuốc mới ở Hameln.

64 Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP


8/10/2022
Caventou, Lelletier và Quinine

Lấy cảm hứng từ những thí nghiệm về alkaloid của


Sertüner, 2 dược sĩ người Pháp Pierre-Joseph
Pelletier và Joseph-Bienaimé Caventou đã phân
lập được emetine trong cây ipeca vào năm
1817, và rồi tại phòng lab của họ ở đằng sau một
nhà thuốc tại Pari, họ đã tìm được câu trả lời cho
câu hỏi mà nhiều nhà khoa học không thể trả lời
được trong nhiều thập kỷ - tại sao vỏ cây từ Peru
lại rất hiệu quả trong điều trị sốt rét. Vào năm
1820, Caventou và Pelletier đã công bố phương
pháp phân lập quinine và cinchonine từ vỏ cây
canh ki na. Cinchona sp thuộc họ Cà phê
(Rubiaceae )

65 Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP


8/10/2022
66 Vật lộn để tìm ra “bí mật” trong
rừng rậm
 Những nhà thám hiểu khoa học, chẳng hạn
như Henry Hurd Rusby (1855 – 1940) đã mở
ra một “chân trời mới” trong việc phát triển
ngành Y và Dược vào cuối TK 19. Năm1884,
nhận nhiệm vụ từ Parke, Davis & Company
đến Peru, Tiến sĩ Rusby đã vượt qua dãy núi
Andes và đi xuống vùng Amazon đến Đại Tây
Dương trong vô vàn khó khăn không thể tin
được. Sau 2 năm, ông đã trở lại với 45.000
mẫu vật thực vật. Trong số đó có nhiều cây
thuốc mới, bao gồm cả vỏ cây cocillana, các
chế phẩm dược phẩm vẫn còn quan trọng đối
với Y học. Tiến sĩ Rusby sau đó trở thành
Trưởng khoa Dược của Đại học Columbia.

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


Stanislas Limousin – nhà phát minh thiết bị dược phẩm

Một trong những người đàn ông có năng


khiếu đặc biệt trong việc kết hợp kiến thức
khoa học với kỹ năng kỹ thuật và với thiên
tài phát minh là dược sĩ bán lẻ người
Pháp. Trong số rất nhiều thiết bị mà ông
giới thiệu cho nghành Dược và Y là ống nhỏ
thuốc; hệ thống các chất độc tạo màu (như
chất thăng hoa ăn mòn); và wafer cachets
(được ưa chuộng trước khi sản xuất hàng
loạt viên nang gelatine). Tuy nhiên, đóng
góp lớn nhất của ông là sự phát triển và
hoàn thiện của bình oxy; và phát minh ra
ống thủy tinh có thể được hàn kín và khử
trùng để bảo quản các dung dịch dùng để
hạ sốt.

67 Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP


8/10/2022
68 ✓ Cửa hàng bán thuốc đã tồn tại vào năm
1900 TCN tại thị trấn Sippara trên sông
Euphrates (Iraq).

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


69
Ghi chép sớm nhất của Ấn Độ về dược
(Sushruta) có từ thế kỷ 6 TCN.

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


70
LỊCH SỬ NGÀNH DƯỢC VIỆT NAM

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022


 Lịch sử 4000 năm TCN (truyền thuyết).
71  Thời Bắc thuộc 207 (TCN)-905: giao thoa
YHCTTQ.
 Ngô, Đinh, Lê, Lý đã bắt đầu tổ chức Ty Thái
Y chăm sóc sức khỏe Hoàng gia.
 Tuệ Tĩnh (1330- ), được coi là người mở
đầu nền YDCT Việt Nam với 2 bộ sách Nam
dược thần hiệu và Hồng nghĩa giác tự y thư.
 Hải Thượng Lãn Ông (1720-1791) đóng góp
lớn cho nền YHCT Việt Nam với bộ sách Hải
thượng y tông tâm lĩnh, Lĩnh Nam bản thảo,
Thượng kinh ký sự.
Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022
Thời
72 kỳ pháp thuộc (1884-1945): ảnh hưởng Y
học phương Tây.
1902: Trường đại học Y Dược
1907: Khóa đào tạo DS đầu tiên.
1945-1954: Kháng chiến chống Pháp
1954-1975: 2 Miền Bắc, Nam
1975- nay.

Nguyễn Thị Thanh Hương - HUP 8/10/2022

You might also like