I. Khái quát chung và giới thiệu về cơ chế giải quyết tranh chấp ASEAN.
Chức năng của các cơ quan giải quyết tranh chấp
1.1 Khái quát chung và giới thiệu về cơ chế giải quyết tranh chấp ASEAN 1.1.1 Khái niệm về cơ chế giải quyết tranh chấp Cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm pháp luật và thủ tục giải quyết tranh chấp cũng như thi hành phán quyết của cơ quan giải quyết tranh chấp trong ASEAN. Theo khoa học Luật quốc tế Việt Nam, các nhà nghiên cứu luật có quan điểm cho rằng: “Tranh chấp quốc tế trong khuôn khổ ASEAN chủ yếu được phân hóa thành hai loại, đó là tranh chấp kinh tế và tranh chấp chính trị-pháp lý. Đối với mỗi loại tranh chấp, ASEAN có các điều ước quốc tế chuyên môn để cơ quan thẩm quyền giải quyết. Đặc biệt, với tranh chấp kinh tế của các quốc gia ASEAN, việc nghiên cứu tổng thể thống nhất các cơ quan giải quyết tranh chấp, cách thức, trình tự, thủ tục giải quyết được giải quyết theo nghị định thư về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp . 1.1.2 Nguyên tắc giải quyết tranh chấp Nguyên tắc giải quyết tranh chấp truyền thống của ASEAN là các tranh chấp giữa các quốc gia thành viên phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình, không can thiệp vào nội bộ của nhau trên cơ sở hợp tác hiệu quả giữa các bên, tôn trọng nguyên tắc thỏa thuận, kiềm chế không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực khi có tranh chấp. Nhìn chung thì, các văn kiện của ASEAN về biện pháp giải quyết tranh chấp đều khuyến khích các biện pháp giải quyết tranh chấp bằng thiện chí, quyết tâm để ngăn ngừa các diễn biến xấu. Theo Hiệp ước Thân Thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (Hiệp ước Bali năm 1976 hay viết tắt là TAC) quy định về nguyên tắc chung khi có tranh chấp phát sinh, Hiệp ước Bali khuyến khích các bên giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng trước khi lựa chọn các biện pháp khác. Các bên tranh chấp có thể giải quyết bằng các biện pháp như đàm phán; trung gian hòa giải; trọng tài,.. Trong Hiến Chương ASEAN, các biện pháp giải quyết tranh chấp khá đa dạng. Các bên có thể sử dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp khác nhau như đề nghị bên thứ ba, hòa giải, trung gian hoặc trọng tài. Việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp tùy thuộc vào ý chí của các bên tranh chấp. Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc quy định: “Các bên đương sự trong cuộc tranh chấp, mà việc kéo dài các cuộc tranh chấp ấy có thể đe dọa đến hòa bình và an ninh quốc tế, trước hết, phải cố gắng tìm cách giải quyết tranh chấp bằng con đường đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, sử dụng những tổ chức hoặc những điều ước khu vực, hoặc bằng các biện pháp hòa bình khác tùy theo sự lựa chọn của mình”. Việc áp dụng giải quyết tranh chấp kinh tế của các nước ASEAN cũng tuân thủ quy định Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc. Các biện pháp giải quyết tranh chấp kinh tế bao gồm giải quyết tranh chấp theo kênh tài phán và giải quyết theo kênh ngoài tài phán thường được áp dụng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại - đầu tư ở các nước (chủ yếu là thương lượng, trung gian, hòa giải)theo quy định của Nghị định thư năm 2004. 1.2 Chức năng của các cơ quan giải quyết tranh chấp Trong khuôn khổ ASEAN, các tranh chấp giữa các quốc gia thành viên được các bên chủ động giải quyết thông qua thương lượng hòa giải. Nếu không đạt được thỏa thuận qua thương lượng thì các bên sẽ thành lập một hội đổng cấp cao (cấp bộ trưởng) để xem xét tranh chấp và đưa ra những quyết định cũng như những khuyến nghị thích hợp. Cơ chế giải quyết tranh chấp này đã được quy định cụ thể trong Hiệp ước thân thiện và hợp tác khu vực Đông Nam Á được các quốc gia ASEAN ký kết tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ nhất, tổ chức tại Bali, Indonesia, tháng 2/1976. Riêng trong lĩnh vực kinh tế, quá trình giải quyết tranh chấp được thực hiện trên cơ sở Nghị định thư về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp đã được các nước thành viên ASEAN thông qua ngày 29/11/2004 (viết tắt là Nghị định thư 2004). 1.2.1 Hội nghị các bộ trưởng kinh tế ASEAN (AEM) Hội nghị các bộ trưởng kinh tế ASEAN là cơ quan giải quyết chức năng chuyên môn cao nhất. Các phiên họp cúra AME được thực hiện thường niên. Trường hợp cần thiết, AEM có thể triệu tập bất thường nhằm chỉ đạo việc hợp tác trong khuôn khổ ASEAN. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 12 Nghị định thư năm 2004 thì hội nghị AEM có thẩm quyền thành lập cơ quan phúc thẩm gồm 3 thành viên trong số 7 thành viên của Cơ quan phúc thẩm thường trực dp AEM bổ nhiệm với nhiệm kì 4 năm. Chức năng của cơ quan phúc thẩm này là giải quyết các kháng cáo đối với các tranh chấp mà Ban thẩm đã xem xét, giải quyết tranh chấp được toàn diện, khách quan, đảm bảo sự công bằng trong các phán quyết. Như vậy, AEM không phải là cơ quan chuyên trách về giải quyết tranh chấp, chức năng này được AEM kiêm nhiệm với tư cách là cơ quan chỉ đạo các hoạt động hợp tác kinh tế trong ASEAN. Đồng nghĩa với điều này, AEM không phải là cơ quan giải quyết kháng cáo mà việc giải quyết kháng cáo của các bên tranh chấp thuộc vè cơ quan phúc thẩm do AEM thành lập. Vì vậy, vai trò của cơ quan AEM không thực sự rõ ràng trong việc giải quyết tranh chấp. 1.2.2 Hội nghị các quan chức kinh tế cao cấp (SEOM) Hội nghị các cơ quan kinh tế cấp cao là cơ quan của tổ chức ASEAN được thành lập nahwfm thực hiện các nhiệm vụ hợp tác kinh tế giữa các quốc gia thành viên (cơ quan chấp hành) theo đúng đường lối chỉ đạo và chính sách kinh tế chung được ASEAN thông qua trong lĩnh vực hợp tác giữa kinh tế các quốc gia là thành viên. Trong giải quyết tranh chấp lĩnh vực kinh tế của ASEAN, Hội nghị và các quy định về tham vấn và giải quyết tranh chấp của các hiệp định liên quan, trừ khi có quy định khác trong hiệp định liên quan đó. Theo đó, SEOM có quyền thành lập Ban Hội Thẩm, thông qua báo cáo của Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm, giám sát việc thi hành các kết luận và khuyến nghị trong báo cáo của Ban hội thẩm và cơ quan phúc thẩm đã được SEOM thông qua và cho phép tạm ngừng ưu đãi và các nghĩa vụ khác theo các hiệp định liên quan. Như vậy, SEOM sẽ có các thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp như thành lập Ban hội thẩm; Thông qua báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm; Giám sát việc thực hiện các phán quyết đã được SEOM thông qua; Cho phép hoãn thi hành các nhượng bộ hay các nghĩa vụ khác theo các hiệp định của ASEAN. Từ góc độ pháp lý, SEOM cũng không được xem là cơ quan chuyên trách giải quyết các tranh chấp kinh tế giữa các quốc gia của ASEAN mà chỉ là cơ uqan có chức năng thực hiện các nhiệm vụ phối hợp trong nhiệm vụ giải quyết tranh chấp kinh tế. Việc SEOM tiến hành thủ tục thành lập Ban Hội thẩm còn gặp nhiều vướng mắc vì trong trường hợp SEOM khống tiến hành họp sẽ mất nhiều thời gian hơn, ảnh hưởng đến thời gian giải quyết tranh chấp. 1.2.3 Ban thư ký Theo quy định tại Điều 19 Nghị định thư về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp năm 2004 thì Bạn thư kí có các trách nhiệm sau: Trợ giúp cho Ban hội thẩm và cơ quan phúc thẩm trong các vấn đề về pháp lý, lịch sử, thủ tục có liên quan đến vấn đề được giải quyết cũng như những trợ giúp về mặt thư ký, kĩ thuật; Trợ giúp cho SEOM trong việc giám sát và theo dõi việc thực hiện các kết luận và khuyến nghị trình báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thế lần đã được SEOM thông qua. Ban Thư ký là nơi tiếp nhận và xử lý tất cả các tài liệu có liên quan đến tranh chấp. Trên cơ sở tham vấn với SEOM, Ban thư ký sẽ cập Nhật danh mục các hiệp định có liên quan quy định tại Phụ lục I khi cần thiết. Ban thuế ký sẽ thông báo cho các nước thành viên về các thay đổi đó 2.4 Ban hội thẩm Panel Thành phần Ban Hội thẩm đó SEOM thành lập theo quy định tại ĐIều 2 Khoản 1 Nghị định thư năm 2004, bài gồm những cá nhân có trình độ, tính độc lập và có kiến thức, kinh nghiệm trơn. Lĩnh vực thuộc các cơ quan chính phủ và phi chính phủ, những người đang tiến hành điều tra hoặc đệ trình vụ việc tranh chấp lên Ban hội thẩm, những người đang làm việc trong Ban thư ký, những người giảng dạy hoặc xây dựng luật, chính sách thương mại quốc tế, cũng có thể là quan chức chính sách thương mại cấp cao của các nước thành viên. Công dân của các nước thành viên có liên quan tranh chấp không được tham gia vào ban hội thẩm giải quyết tranh chấp đó, trừ trường hợp có sự đồng ý của các bên liên quan trong tranh chấp Ban hội thẩm gồm 3 thành viên: Trong vòng 10 ngày kể từ ngày thành lập Ban hội thẩm nếu các bên tranh chấp đồng ý, Ban hội thẩm có thể bao gồm 5 thành viên Chức năng của Ban hội thẩm là đánh giá khách quan toàn bộ nội dung vụ tranh chấp được đệ trình gồm sự kiện, tình tiết và khả năng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp. 2.5 Cơ quan phúc thẩm Cơ quan phúc thẩm có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế quốc tế của các quốc gia ASEAN. Thành viên cơ quan phúc thẩm ASEAN bao gồm 7 người. Mỗi vụ tranh chấp giải quyết theo quy trình phúc thẩm sẽ được một Hội đồng gồm: 3 thành viên thụ lí và giải quyết theo trình tự phúc thẩm (Điều 12 khoản 1 Nghị định thư năm 2004) Nhiệm kỳ bổ nhiệm của các thành viên cơ quan phúc thẩm là 4 năm. Mỗi thành viên có thể tái bổ nhiệm 1 lần. Trong trường hợp người được bổ nhiệm thay thế thành viên của cơ quan phúc thẩm trước khi thành viên đó kết thúc nhiệm kì sẽ làm việc trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ của người tiền nhiệm (Điều 12 khoản 2 nghị định thư năm 2004) Thành viên của cơ quan phúc thẩm là những người có năng lực được thừa nhận, có kiến thức chuyên môn về luật thương mại quốc tế và về các vấn đề của các hiệp định liên quan đến tranh chấp kinh tế, thương mại. 1.2 Vai trò của ASEAN trong việc giải quyết tranh chấp Từ khi ASEAN được thành lập năm 1967 đến nay, hợp tác giữa các nước thành viên đã có những bước tiến bộ đáng kể. Các nước ASEAN đã xây dựng được những cơ chế hợp tác với nhau trên cơ sở song phương cũng như đa phương về các mặt kinh tế, chính trị - an ninh, văn hoá xã hội, và các lĩnh vực hợp tác chuyên ngành khác. Hợp tác chính trị được đánh giá là mặt hợp tác thành công hơn cả của ASEAN trong những năm qua. Và chính ở lĩnh vực này, vai trò của tổ chức đối với các nước thành viên được thể hiện rõ rệt nhất. Điều được thừa nhận rộng rãi về vai trò của ASEAN đối với các nước thành viên là việc xử lý ổn thoả các mối bất đồng, tranh chấp giữa các nước thành viên, không để dẫn đến xung đột, tạo điều kiện xây dựng một môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác giữa các nước thành viên để từ đó giúp họ thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, và xây dựng một khu vực ĐNA thống nhất, vững mạnh trước các sức ép từ bên ngoài. Hợp tác kinh tế ASEAN tuy cũng được tăng cường và kinh tế từng nước ASEAN đều đạt mức tăng trưởng cao, nhưng vai trò của ASEAN về mặt kinh tế đối với các nước thành viên vẫn chưa đáp ứng được với những mong đợi chung. Ngoài những thách thức trên, khá nhiều học giả, nhà nghiên cứu và phân tích về khu vực ĐNA cho rằng đối với các vấn đề an ninh mà ĐNA đang phải đối phó hiện nay, thì thách thức trong thế kỷ 21 chính là sự phát triển các thể chế hoặc cơ chế khu vực để giải quyết các vấn đề an ninh khu vực. Như vậy khả năng của ASEAN tiếp tục đóng vai trò chủ đạo và kiểm soát được những bước đi tiếp theo của ARF sẽ rất quan trọng nếu không nói là quyết định đến vai trò của ASEAN trong các vấn đề an ninh của khu vực. Vị trí và vai trò của ASEAN đối với khu vực ASEAN nói riêng và Châu Á - TBD nói chung sẽ phụ thuộc rất nhiều vào khả năng ASEAN xử lý và vượt qua những thách thức đó, mà nhiều vấn đề trong đó vượt cả khả năng giải quyết của một quốc gia hay những quan hệ song phương.