Kích thước nấm men

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 2

Kích thước nấm men : a large diameter of 5– 10 μm or a small diameter of 1–7 μm

Tại sao lại dung nấm men để bao gói: sự bảo vệ về mặt kỹ thuật nhờ vào độ bền của thành tế bào nấm
men ở trạng thái khô các hoạt chất được đóng gói được giữ lại với hiệu suất cao hơn, và giải phóng
được tốt hơn khi ướt sưởi ấm, Thứ nhất, chúng có nguồn gốc bền vững và chi phí thấp. Vì khả năng tồn
tại của nấm men không quan trọng đối với quá trình đóng gói, Thứ hai, chúng có thể được xem là những
sản phẩm an toàn và thân thiện với người tiêu dùng.

Barriers structure của tế bào:

Gồm 2 lớp: cell wall và cell membrane

Cell wall( dày 70-200 nm) gồm mano protein và glucan (1-3; 1-6) Mannoprotein là thành phần chính góp
phần tạo nên đặc tính bề mặt thành tế bào, ví dụ, dư lượng anion mannosyl photphat xác định điện tích
bề mặt tế bào nấm men [72] và sự giảm số lượng của chúng quyết định sự gia tăng tính kỵ nước của nó

Cell membrane: periplasmic enzyme, protein, lipid

Một cách phổ biến để cho phép sự khuếch tán của các hợp chất hòa tan trong nước như vậy là trước khi
tiếp xúc với hợp chất quan tâm, các tế bào phải trải qua quá trình ‘plasmolysis’, tức là một phương pháp
xử lý làm phá vỡ hoặc làm suy yếu màng tế bào; lưu ý, phương pháp điều trị plasmolytic ảnh hưởng đến
tính toàn vẹn không chỉ của màng sinh chất mà còn của hầu như tất cả các bào quan trong tế bào chất

nhưng 2% NaOH (đường biên giới giữa quá trình plasmolysis và việc sản xuất thành tế bào làm tăng kích
thước lỗ chân lông trung bình (có thể là thành tế bào) từ 4 đến 30 nm [100].

Also, Dadkhodazade (2018) (Dadkhodazade et al., 2018) concluded that β-glucans and chitin stand for
cell rigidity, and mannoproteins provide cell porosity.

Phần đầu ưa nước của các phân tử lipid quay ra khỏi tế bào hoặc vào tế bào chất, và phần đuôi kỵ nước
hướng vào giữa. Các đầu nước bên trong và bên ngoài tế bào ngăn cản lipid màng thoát ra khỏi lớp kép,

Tại sao xử lý tế bào ở 50 độ

Các lỗ hổng có kích thước tương đối nhỏ trên thành tế bào có thể là rào cản cản trở sự xâm nhập của
các đại phân tử như beta-carotene trong quá trình bao gói. Do đó tế bào nấm men cần được tiền xử lý
thích hợp để loại bỏ lớp mannoprotein bên ngoài, từ đó làm tăng kích thước lỗ hổng hoặc phá vỡ tính
toàn vẹn của tế bào trước khi được sử dụng để bao gói các hoạt chất. Khi xử lý tế bào ở các nhiệt độ
khác nhau, các protein ngoại vi và protein xuyên màng có thể bị thay đổi cấu trúc không gian cũng như vị
trí các nhóm chức hay cầu hydro, dẫn tới thay đổi các đặc tính bề mặt của tế bào. Khi tăng nhiệt độ của
quá trình tự phân, các polysaccharide như β-1,3-glucan và β-1,6-glucan của thành tế bào nấm men bị
phân hủy chậm, áp suất thẩm thấu trong tế bào chất giảm, nhiều enzyme thủy phân được giải phóng
khỏi các bào quan làm phân hủy các thành phần của thành tế bào tạo thành các lỗ hổng. Kết quả là,
thành tế bào trở nên xốp hơn và một số thành phần hòa tan trong nước được giải phóng vào môi
trường xung quanh như protein, saccharide, enzyme, acid amin, acid nucleic,... làm tăng thể tích nội
bào, do đó dầu beta-carotene có thể khuếch tán vào trong tế bào dễ dàng hơn. việc tăng nhiệt độ từ 30
đến 50°C có thể làm cho mức độ tự phân của nấm men tăng đáng kể.

Naoh:
Các mannoprotein của thành tế bào được kết nối gián tiếp bởi β1,6-glucan thông qua neo GPI và trực
tiếp bởi β-1,3-glucan thông qua các cầu nối disulfide tương đối dễ dàng phá vỡ trong kiềm (Avramia &
Amariei, 2021). Sự giảm cầu nối disulfua giữa các phân tử gây ra sự mở rộng của bức tường (De Nobel và
cộng sự, 1989).

Thứ hai, Plasmodium lặp lại xen kẽ các protein của thành tế bào (Pir-CWPs) liên kết trực tiếp với β1,3-
glucan thông qua liên kết glycopeptide nhạy cảm với kiềm.

Một số công trình đã chứng minh sự tham gia của các mannoprotein kỵ nước trong việc tăng tính kỵ
nước của bề mặt tế bào và khả năng kết dính

Lipid solubility and molecular size are the two major factors affecting their ability to cross the
membrane.

The retention of core materials inside the cytoplasm

When hydrophobes get inside the cells, the hydrophobic interaction, van der Waals force, and hydrogen
bonds between encapsulated compounds and the yeast cell components work to maintain them inside
the cell

You might also like