Professional Documents
Culture Documents
tiểu luận 4.1&4.2
tiểu luận 4.1&4.2
tiểu luận 4.1&4.2
Trang phục của Thanh đồng rất phong phú, đa dạng tùy theo nội dung của từng giá
đồng, thường thể hiện rất rõ đặc tính cũng như nguồn gốc xuất thân của từng vị Thánh
trong mỗi giá đồng. Thường có hai hoặc bốn phụ đồng (được gọi là nhị trụ hoặc tứ trụ
hầu dâng) đi theo “thanh đồng” để chuẩn bị trang phục, lễ lạt... Trong một buổi lên đồng
thường có rất nhiều “giá”. Mỗi lần thay giá, người ta lại phủ lên Thanh đồng một tấm
khăn lụa đỏ, sau đó bỏ ra và lúc này “thanh đồng” đang ở một “giá” mới và phải thay bộ
trang phục, khăn chầu, cờ quạt, đồ hầu dâng...trang điểm kỹ càng, má phân môi son sao
cho tương xứng với “giá” này. Với các Thánh nam (từ hàng Quan đến hàng Ông Hoàng,
hàng Cậu), thanh đồng có những trang phục riêng (tùy theo vị Thánh đó thuộc hàng quan
văn hay quan võ, độ tuổi và tính cách của vị Thánh…), thường là bộ quần áo lụa. Đối với
các giá hầu Thánh nữ, trang phục phong phú, đa dạng hơn. Tuy nhiên, bộ áo dài vẫn là
trang phục chính, với màu sắc, kiểu dáng khác nhau để phù hợp với từng giá. Ngoài ra,
thanh đồng còn có các loại khăn, dải khăn quấn đầu, dây lưng, các loại khăn quàng cổ,
quạt lông nhiều màu sắc, đồ trang sức.
Hình ảnh Thánh nam với trang phục áo gấm thêu rồng, biểu cảm nghiêm trang, động tác mạnh
mẽ và hình ảnh Thánh nữ trong trang phục áo gấm thêu rồng phượng, cài hoa đeo trang sức.
Trong nghi lễ lên đồng, múa và âm nhạc không thể tách rời. Yếu tố múa với các động
tác nghi lễ cùng âm nhạc đón mời thần thánh, dùng các động tác để diễn tả quá trình
giáng đồng, nhập đồng và trong lúc nhập đồng (múa). Âm nhạc làm mờ ranh giới giữa
con người và thần linh. Lời hát kể đưa con người vào nội dung của huyền tích, làm cho
con người nhập tâm, chuyển đổi suy nghĩ. Trong tín ngưỡng lên đồng, vai trò của âm
nhạc hát văn rất quan trọng. Để phục vụ một nghi lễ lên đồng đầy đủ cần có: cung văn là
người hát và dàn nhạc phục vụ hát văn. Người cung văn cũng có vai trò rất đặc biệt trong
nghi lễ này. Cung văn vừa là nhạc sĩ sáng tác nhạc và lời, vừa là ca sĩ, nhạc công trong
một vai tổng hợp, hòa quện. Không những thế, trong quá trình các ông đồng, bà đồng bắc
ghế hầu thánh, người cung văn còn phải kiểm soát mọi cử chỉ, động tác của chân đồng
hành lễ, để nhanh chóng thích ứng với tình huống diễn biến, sao cho âm nhạc và các hành
động trên chiếu hầu được ăn khớp, đồng điệu. Dàn nhạc gồm một đàn nguyệt, một đàn
nhị, một trống nhỏ, một cảnh đôi, một phách. Ngoài ra, còn có thêm một cỗ trống lớn,
chiêng, sáo và tiêu cho những buổi hát thờ lớn. Trong múa lên đồng, ở các giá, tùy theo
khả năng và năng khiếu của mỗi người, họ sẽ nhảy múa một cách khác nhau; tùy theo sự
cảm nhận về nhịp và giai điệu trong âm nhạc, mỗi thanh đồng lại biểu diễn một cách khác
nhau tùy thuộc vào sự thăng hoa của mỗi người. Người nào hợp, thuận với giá đồng nào
thì họ sẽ múa lâu hơn, say sưa hơn, sáng tạo và đẹp hơn ở giá đồng đó. người lên đồng
nhắm mắt hoặc mở mắt nhưng tập trung tinh thần để diễn tả lại tính cách, cuộc đời của vị
Thánh mình đang hầu, những vị có công giúp nước, giúp dân. Thường có hai phụ đồng
gọi là tay Quỳnh, tay Quế để đi theo người lên đồng chuẩn bị trang phục. Họ phải đảm
bảo buổi lên đồng không bị gián đoạn khi chuyển tiếp giữa hai vị Thánh. Điệu múa của
người lên đồng cũng được thay đổi theo các giá hầu. Khi thì người lên đồng hóa thân
thành một vị quan lớn oai vệ uy nghiêm, khi lại hóa thân thành một cô gái tung tăng nhảy
múa. Giá Quan Lớn thường có các điệu múa cờ, múa kiếm, long đao, kích… Giá của các
Chầu Bà thì múa quạt, múa mồi, múa tay không rất đẹp. Giá Ông Hoàng có múa khăn
tấu, múa tay không, múa cờ, múa hèo, múa kiếm. Trong khi đó đẹp mắt và được yêu
thích nhất là giá các Cô múa quạt, múa hoa, múa chèo đò, múa thêu thùa, múa khăn lụa,
múa đàn, múa gồng gánh, múa dệt gấm thêu hoa… Giá các Cậu lại rất được hưởng ứng,
hân hoan vì sự tinh nghịch, trêu trọc trẻ con với các điệu múa hèo, múa lân. Mỗi giá, một
phong cách, bước đi, dáng bộ từ một người hầu mà có diễn xuất nhiều vẻ, nhiều vai. Các
điệu múa này nhằm ra oai, hay thể hiện sự vui vẻ làm việc Thánh và cũng là cùng vui, với
những người dự lễ. Nghi lễ hầu đồng diễn ra theo thứ tự Thánh giáng từ cao đến thấp nên
các điệu múa cũng đi từ sự uy nghi tới uyển chuyển sang tươi vui nhí nhảnh khiến những
người tham dự nghi lễ càng hào hứng, say mê.
Ngày nay, lên đồng vẫn còn là nhu cầu tâm linh, là hình thức sinh hoạt tín ngưỡng
dân gian của một bộ phận người Việt. Các nghi lễ này thường được tổ chức nhiều lần
trong một năm vào các dịp lễ tết, thường là tại các lễ hội đền thánh, phủ Mẫu... Ngoài
việc lên đồng để giao tiếp với thần linh, truyền thống tín ngưỡng Việt Nam còn tin tưởng
rằng sau khi chết, linh hồn người chết vẫn còn và theo dõi cuộc sống của người thân đang
sống. Do đó, khi lên đồng, linh hồn của người chết có thể nhập vào đồng cô, đồng cậu
(người gọi đồng) để trò chuyện với thân nhân đang sống. Thông qua cuộc trò chuyện âm
- dương này, người sống sẽ biết được những yêu cầu của người thân quá cố về mồ mả để
điều chỉnh và cúng xin cho phù hợp. Đồng thời, thông qua cuộc đối thoại này, người sống
cũng biết được vận mạng tương lai của mình.
Nghi lễ Chầu văn của người Việt là tín ngưỡng bản địa, tích hợp các hình thức văn
hoá dân gian khác nhau như: âm nhạc, ngôn ngữ, tri thức dân gian, ca hát, nhảy múa,
nghề thủ công truyền thống, trang phục cùng với nghệ thuật trang trí, kiến trúc, ẩm thực...
trong một thể thống nhất hữu cơ hoàn chỉnh, trong đó yếu tố “sân khấu” kết hợp chặt chẽ
với yếu tố tâm linh, phản ánh tư duy, nhận thức về tự nhiên, xã hội của cộng đồng. Văn
hóa Hầu đồng vừa bảo tồn các giá trị truyền thống như "uống nước nhớ nguồn", vừa được
đánh giá là “bảo tàng sống của văn hóa Việt”, nghi thức này đã góp phần tạo nên sự đặc
trưng rất riêng cho nền văn hóa Việt Nam với những giá trị tín ngưỡng dân gian độc đáo.
Tuy vậy, tình trạng thương mại hoá, lợi dụng tín ngưỡng để “buôn thần bán thánh”, hiện
tượng "đồng đua", làm mất đi tính thiêng và những giá trị văn hóa tốt đẹp làm gây tốn
kém và ô nhiễm môi trường còn tồn tại. “Hầu bóng” là sinh hoạt văn hóa tâm linh cần tôn
trọng, còn “đồng bóng” biểu hiện tính chất cuồng tín của một số người làm nghề “đồng
bóng” lợi dụng tâm lý những người nhẹ dạ, cả tin, những người hay gặp trắc trở trong
cuộc sống... để họ phải sắm lễ giải hạn, làm con nuôi của thánh, lập bùa giải vận hạn.
Những việc này khiến nghi lễ này có nguy cơ bị biến tướng thành mê tín dị đoan, nặng về
vật chấc, mất đi giá trị truyền thống mà các bận tiền nhân đã dày công vun đắp, vì thế cần
phải hiểu rõ về bản chất của tín ngưỡng này, để giữ gìn và phát huy vẻ đẹp văn hóa vốn
có.
4.2 Nghi lễ Tôn nhang bản mệnh trong tín ngưỡng thờ Mẫu
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Tứ Phủ của người Việt có rất nhiều nghi lễ, trong đó
có nghi lễ Tôn nhang bản mệnh gọi tắt là “tôn nhang bản mệnh” (hay đội bát nhang). Bản
mệnh theo nghĩa hán việt được hiểu là bản mệnh gốc của một con người. Người xưa quan
niệm rằng mỗi người sinh ra đều chịu sự cai quản của một số vị thánh nhất định, các vị
thánh đó là người cầm mệnh của mình, ảnh hưởng đến cuộc sống của mình nơi trần thế.
Đây là nghi lễ công nhận một người chính thức trở thành đệ tử của tín ngưỡng thờ Mẫu.
Khi tôn nhang bản mệnh tức là thành tâm gửi thân mệnh của mình nơi đấng linh thiêng.
Nhờ sự gia ân, che chở độ trì của Tiên Thánh cho cuộc sống được bình yên và may may,
vạn sự hanh thông, tài lộc vượng tiến và đồng thời tránh được những tai ương, những
điều không may mắn trong cuộc sống.
Theo tín ngưỡng thờ Mẫu, người có căn đồng là người sinh dương thế nhưng số hệ thiên
cung, mệnh càn bóng quế, con cái của cửa Tứ phủ công đồng (Tiên-Thánh-Vương-
Đồng). Tín ngưỡng thờ Tứ phủ cho rằng, người có căn đồng là người đã được các Thánh
chấm, không sớm thì muộn, tùy theo căn số của từng người sẽ được Thánh bắt đi lính làm
đồng. Nếu không trình diện để hầu sẽ bị các Thánh hành hạ. Lắm người căn cao số nặng
ấy, vì không biết đến cửa Thánh để kêu, để cầu nên bị hành cho đủ các kiểu: ốm đau bệnh
tật nhưng đi chữa không khỏi vì không biết là mình bị bệnh gì, bị hành cho dở dại dở
điên, công danh sự nghiệp lận đận, nhân duyên khó thành...Nhưng nếu mình biết đến cửa
Thánh, cúi đầu đội lệnh, chẳng dám đơn sai thì mọi việc sẽ khác hẳn, bệnh hết, mạnh
khỏe, bình an, công thành danh toại.
Có câu:
“Chấm đồng từ thuở mười ba
Đến năm mười chín phải ra trình đồng.”
Người có căn đồng trước sau gì cũng phải ra trình diện, mở phủ thành con dân hầu
Thánh, bắc ghế cha ngồi, bắc ngôi mẹ ngự, làm ghế đệm cho Thánh, tức là phải hành lễ
trình đồng. Tuy vậy, nếu không có căn đồng mà nghe lời phán bảo linh tinh rồi ra lễ trình
đồng, mở phủ thì chỉ tốn tiền và thời gian, tự mua dây trói mình vì buộc phải theo đền,
phủ suốt đời. Nếu bỏ cuộc sẽ bị Thánh trách quở; mọi khó khăn bất trắc trong cuộc sống
sẽ được qui cho là tại vì Thánh phạt. Đây được gọi là Tôn nhang bản mệnh bắt buộc. Bên
cạnh đó còn có Bát hương bản mệnh tự nguyện, là dành cho những ai không mang căn
quả cũng chẳng phải mệnh đồng. Đơn giản chỉ là những người mong muốn được bề trên
che chở. Họ có thiện tâm, trí tâm và nguyện phụng thờ Tiên Thánh. 3. Nhưng cũng có
trường hợp những người không có căn quả, mệnh đồng lại không hiểu biết, u mê nhầm
lẫn, hùa theo người, làm lễ Tôn nhang bản mệnh có mục đích vụ lời, làm những việc trái
với đạo.
Nghi lễ đội bát hương được thực hiện tại các đền, phủ, điện, đài thờ Tứ phủ. Nhưng
tuyệt đối không thực hiện ở nơi thờ Tam Bảo, chư Phật, đình, miếu thờ Thành Hoàng
hoặc các vị thân không có trong Tứ phủ. Thời gian thực hiện Tôn nhang bản mệnh
thường là vào mùa Xuân (tháng Giêng, Hai, Ba) hoặc mùa Thu (tháng Tám, Chín, Mười)
trước khi khi lập đông. Mặc dù tháng Bảy là tiết thu nhưng vì tháng này được xem là
tháng ngâu, buồn tẻ, không vượng khí cho tín chủ. Để thực hiện nghi lễ tôn nhang bản
mệnh, cần phải có sự hướng dẫn, giúp đỡ của thủ nhang, hay đồng trưởng của đền, điện
hoặc là đồng thầy từ nơi khác giú, miễn là phải thật sự thông thạo việc Thánh. Lễ phải
được tiến hành theo đúng trình tự, đúng phép cửa Thánh, có dâng sớ, điệp văn, phẩm vật
và đồ mã dâng cúng. Chuẩn bị lễ vật cúng Thánh trong ngày hôm đó có thể bao gồm:
Lễ lục cúng (hương-đăng-hoa-trà-quả-thực) tùy tâm theo điều kiện và lễ mặn (gà
hoặc miếng thịt lợn luộc, đĩa xôi, rượu).
Lễ cúng hạ ban là 7 quả trứng gà hoặc trứng vịt sống, gạo, muối, rượu và có thể
thêm miếng thịt lợn sống xắt ra 5 miếng nhỏ.
Vàng mã có nghìn vàng Tứ phủ hoặc nghìn vàng hoa, mâm hài Tứ Phủ 24 đôi (12
đôi to và 12 đôi nhỏ chia 4 màu), thêm mấy đinh vàng lá … (có bảng tra bản mệnh
lục thập hoa giáp in tên hiệu Thánh bản mệnh và tiến lễ kim ngân hài hán, vàng mã
và đồ vật tùy tuổi của tín chủ)
Người tôn hương đội lệnh trước ngày lễ phải kiêng cữ chuyện vợ chồng, phải chăm
làm việc thiện lành, phải giữ tâm trong sạch, không được nghĩ ngợi những việc xấu, toàn
tâm toàn ý dâng lên Thánh đức, làm như thế để tịnh hóa bản thân, lễ vật xứng đáng dâng
lên đức Quốc Mẫu và Tiên thánh tốt đẹp nhất là cái tâm trong sáng, thân thể sạch sẽ,
không được nhơ bẩn uế. Khi tôn nhang bản mệnh, tín chủ được ngồi ở giữa sập hành lễ,
trùm khăn phủ diện đỏ trên đội tráp hay mâm có bát nhanh, sớ xin tôn nhang, vàng lá, đôi
nến đặt hai bên bát nhang, hoa tươi, quả cau, lá trầu. Đồng thầy đại tấu thỉnh tên hiệu
Thánh bản mệnh cho tín chủ, đọc tên tuổi, địa chỉ tín chủ với các điều cầu mong cát
khánh. Kêu cầu Phật thánh gia hộ tín chủ, khất đài được nhất âm nhất dương mới kêu xin
hạ bát nhang xuống để yên vị tại đền, phủ. Sau khi đã yên vị bát nhang thì xin hóa kim
ngân vàng mã, hài hán, giấy sớ và sau ba ngày thì phải đến đền thành tâm lễ tạ Tiên
Thánh. Lễ này hoàn mãn, người Tôn nhang chính thức được gọi là Hương tử hay nôm na
là Con hương. Từ đây tín chủ đã chính thức trở thành đệ tử của Tín ngưỡng thờ Mẫu, nơi
tôn nhang bản mệnh được coi là chốn tổ của đệ tử ấy. Nên thường xuyên đến đền điện
làm lễ vào các dịp rằm mùng một hoặc một năm bốn tiết lễ lớn là thường nguyên, vào hè,
ra hè, tạ tất niên hay tối thiểu là đầu năm cuối năm như thế là trọn đạo đầu trình cuối tạ.
Nghi lễ tôn nhang bản mệnh không chỉ là một nét văn hóa quan trọng trong tín
ngưỡng thờ Mẫu mà còn đồng thời thể hiện quy luật tồn tại của con người, hướng con
người đến cái thiện. Theo thuyết luân hồi và văn hóa phương Đông, con người ai cũng có
kiếp trước. Những ai khi sinh ra mang số mệnh không may mắn đa phần do kiếp trước
làm nhiều điều ác. Ngược lại, những ai kiếp trước ăn hiền ở lành thì số mệnh ấm no, hạnh
phúc được kéo dài tới kiếp sau. Chính vì bản mệnh là gốc mệnh của mỗi con người, là cái
trong tiềm thức. Nên bản mệnh có tác dụng nhắc nhở mỗi người nên có lối sống tu tâm
tích đức. Điều này thúc đẩy con người hướng về điều thiện, làm việc lành và tạo ra những
điều tốt trong cuộc sống.