Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 15

Hoàn thành khóa học thầy cô nộp 6 bài thi ứng với 6 học phần.

Kèm hồ sơ gồm phiếu đk, 1 ảnh 3x4,


cmt, bằng photo ko cần công chứng. Nộp cho đơn vị đăng kí hồ sơ ban đầu, Ai đăng kí cô Ninh . nộp
về cô Ninh hồ sơ và học phí theo Chuyển khoản vào stk 19035032259013 Cao thị Ninh. Ngân hàng
techcom bank. Chi nhánh Hà Thành. Địa chỉ. Viện khoa học qlgd số 89 khu văn hóa nghệ thuật, Mai
dịch, Cầu Giấy, Hà Nội.

HỌC PHẦN I 

Số: 14/2005/NQ-CP Hà Nội, ngày 02 tháng 11 năm 2005

 
NGHỊ QUYẾT
VỀ ĐỔI MỚI CƠ BẢN VÀ TOÀN DIỆN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2006 - 2020

Nhiệm vụ và giải pháp đổi mới


a) Đổi mới cơ cấu đào tạo và hoàn thiện mạng lưới cơ sở giáo dục đại học:
- Rà soát, đát giá mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học hiện có; đổi mới
công tác quy hoạch phát triển mạng lưới, bảo đảm thực hiện đúng các mục
tiêu phát triển giáo dục đại học.
- Ưu tiên mở rộng quy mô các chương trình định hướng nghề nghiệp - ứng
dụng; áp dụng quy trình đào tạo mềm dẻo, liên thông, kết hợp mô hình
truyền thống với mô hình đa giai đoạn để tăng cơ hội học tập và phân tầng
trình độ nhân lực.
- Thực hiện tốt việc chuyển đổi cơ chế hoạt động của các cơ sở giáo dục
đại học công lập theo Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18 tháng 04
năm 2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục,
y tế, văn hóa và thể dục thể thao; chuyển cơ sở giáo dục đại học bán công
và một số cơ sở giáo dục đại học công lập sang loại hình tư thục; hoàn
thiện mô hình trường cao đẳng cộng đồng và xây dựng quy chế chuyển
tiếp đào tạo với các trường đại học, củng cố các đại học mở để có thể mở
rộng quy mô của hai loại trường này. Khuyến khích mở cơ sở giáo dục đại
học trong các tập đoàn, các doanh nghiệp lớn. Nghiên cứu mô hình tổ
chức và có kế hoạch cụ thể sáp nhập cơ sở giáo dục đại học với các cơ sở
nghiên cứu khoa học để gắn kết chặt chẽ đào tạo với nghiên cứu khoa học
và sản xuất, kinh doanh.
- Tập trung đầu tư, huy động chuyên gia trong và ngoài nước và có cơ chế
phù hợp để xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế.
b) Đổi mới nội dung, phương pháp và quy trình đào tạo:
Vào cuối năm 2005 Chính phủ ra Nghị quyết 14 về “Đổi mới cơ bản và toàn diện GDĐH Việt Nam giai đoạn
2006 - 2020”. Nghị quyết này khẳng định mục tiêu chung là: Đổi mới cơ bản và toàn diện GDĐH, tạo được chuyển
biến cơ bản về chất lượng, hiệu quả và quy mô, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu học tập của nhân dân

- Cơ cấu lại khung chương trình; bảo đảm sự liên thông của các cấp học;
giải quyết tốt mối quan hệ về khối lượng kiến thức và thời lượng học tập
giữa các môn giáo dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp, nâng cao
hiệu quả đào tạo của từng môn học. Đổi mới nội dung đào tạo, gắn kết
chặt chẽ với thực tiễn nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và nghề
nghiệp trong xã hội, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng
ngành, từng lĩnh vực, tiếp cận trình độ tiên tiến của thế giới. Phát triển tiềm
năng nghiên cứu sáng tạo, kỹ năng nghề nghiệp, năng lực hoạt động trong
cộng đồng và khả năng lập nghiệp của người học.

- Triển khai đổi mới phương pháp đào tạo theo 3 tiêu chí: trang bị cách
học, phát huy tính chủ động của người học; sử dụng công nghệ thông tin
và truyền thông trong hoạt động dạy và học. Khai thác các nguồn tư liệu
giáo dục mở và nguồn tư liệu trên mạng Internet. Lựa chọn, sử dụng các
chương trình, giáo trình tiên tiến của các nước.

4.2.5.7. Một số tiêu chí cơ bản để triển khai đổi mới phương pháp dạy học đại học

- Trong Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP của Chính phủ ngày 02 tháng 11 năm 2005 “Về đổi mới
cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020” đã xác định: “Triển khai
đổi mới phương pháp đào tạo theo 3 tiêu chí: trang bị cách học; phát huy tính chủ động của
người học; sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong hoạt động dạy và học. Khai thác
các nguồn tư liệu giáo dục mở và nguồn tư liệu trên mạng Internet. Lựa chọn, sử dụng các
chương trình, giáo trình tiên tiến của các nước”.

- Đề cập tới vấn đề này, GS.TSKH. Lâm Quang Thiệp đã khẳng định: “Trong bối cảnh của thời
kỳ mới và trong giai đoạn mới của sự phát triển giáo dục đại học, có thể đề xuất 3 tiêu chí quan
trọng để dựa vào khi chọn một hệ phương pháp dạy và học cho từng trường hợp cụ thể: - Nội
dung cần thể hiện bao quát là cách học; - Phẩm chất cần phát huy mạnh mẽ là tính chủ động
của người học; - Biện pháp cần khai thác triệt để là công nghệ thông tin truyền thông mới. Để
dễ nhớ, có thể gọi đây là hệ tiêu chí 3C để lựa chọn phương pháp dạy và học ở đại học cho từng
trường hợp cụ thể trong thời kỳ hiện nay” (Lâm Quang Thiệp. Mục tiêu, nội dung, phương pháp
dạy và học ở đại học trong thời kỳ mới. Tài liệu tập huấn Cán bộ quản lý đào tạo các trường đại
học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp. Lưu hành nội bộ. Trường Cán bộ quản lý Giáo dục và
Đào tạo. Hà Nội, 5/2005).

- Như vậy, 3 tiêu chí cơ bản nhất và quan trọng nhất để triển khai đổi mới PPDH đại học trong
giai đoạn 2006 - 2020 được thể hiện qua hình 5:

Hình 5: Ba tiêu chí cơ bản để triển khai đổi mới phương pháp dạy học đại học

4.2.6. Giải pháp triển khai đổi mới phương pháp dạy học Đại học trong thời gian tới

Trong Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ “Về đổi mới
cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020” đã đưa ra 7 nhiệm vụ
và giải pháp đổi mới. Một trong các nhiệm vụ và giải pháp đổi mới đó là: “Đổi mới nội dung,
phương pháp và quy trình đào tạo”

Trên cơ sở nhận thức về thực trạng công tác đổi mới PPDH, mỗi nhà trường, mỗi giảng viên cần
quan tâm tới một số giải pháp sau:

- Tiếp tục quán triệt và nâng cao nhận thức, hiểu rõ về chủ trương, bản chất của quá trình đổi mới
PPDH. Đó là một yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, góp phần đào tạo có
hiệu quả nguồn nhân lực, nhân tài cho đất nước.

- Mỗi trường Đại học cần xây dựng kế hoạch chương trình hành động, thông qua các dự án, đề
án ở mỗi khoa, mỗi đơn vị, tạo thành phong trào rộng khắp tác động tới từng cơ sở, đến đội ngũ
giảng viên nhằm đổi mới PPDH. Trong chương trình đó cần xác định rõ mục tiêu, nội dung,
phương pháp tổ chức tiến hành, cơ chế quản lý và đánh giá theo từng mốc thời gian. Có thể vận
dụng, tiêu chí đánh giá thi đua khen thưởng đối với cán bộ, giảng viên, công nhân viên.

Tiêu chí 1:

Trang bị cách học

Tiêu chí 2:

Phát huy tính


chủ động của người học
239

Tiêu chí 3:

Sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông mới trong hoạt động dạy học

- Tăng cường nghiên cứu khoa học đối với giảng viên và sinh viên. Phương pháp đào tạo qua
nghiên cứu khoa học trong thực tiễn giúp cho sinh viên tiến hành hoạt động nhận thức khoa học,
tạo ra các sản phẩm là tri thức khoa học. Sinh viên sẽ hoàn thiện vốn tri thức của mình dưới ảnh
hưởng của khoa học công nghệ. Cho nên phải thúc đẩy quá trình nghiên cứu khoa học của sinh
viên - nó sẽ tạo ra tiền đề cho việc tự học tập, tự nghiên cứu, phát huy năng lực tổ chức hoạt
động giáo dục nói chung.

- Tăng cường các hình thức tổ chức dạy học theo phương pháp dạy cách học, phát huy tính tích
cực, sáng tạo, chủ động của sinh viên. Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập
của sinh viên. Vận dụng sáng tạo thành tựu công nghệ thông tin trong quá trình dạy học, chủ
động xây dựng quy chế, quy định, tiêu chuẩn đánh giá chất lượng của cả giảng viên lẫn sinh
viên.

- Đầu tư kinh phí, trang thiết bị phục vụ dạy học; sử dụng có hiệu quả các phương tiện trong quá
trình giảng dạy; động viên khuyến khích khả năng vận dụng các phương pháp dạy học tiên tiến,
sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông mới trong hoạt động dạy học.

- Tăng cường tổ chức các hội nghị, hội thảo, hội thi đổi mới PPDH ở nhiều cấp khác nhau (tổ b ộ
môn, khoa, trường, quốc gia). Bên cạnh đó cần mở rộng quan hệ giao lưu, liên kết đào tạo với
nền giáo dục tiên tiến của một số nước.

- Quán triệt và triển khai chủ trương xã hội hóa giáo dục, phát huy tiềm năng xã hội tham gia vào
giáo dục, tạo ra ở mỗi trường điều kiện giúp cho sinh viên có cơ hội phát huy khả năng sáng tạo
và thực hiện phương pháp học tập tích cực, tham quan thực tế nhiều hơn, giúp họ có kiến thức
khoa học cơ bản và hiện đại, có kiến thức thực tế đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa hiện nay.

- Tổ chức công đoàn các trường Đại học phối hợp chặt chẽ với chính quyền đồng cấp tham gia
và chỉ đạo sát sao, có nhiều hoạt động trợ giúp, tư vấn, thu hút động viên nội lực của đội ngũ, của
nhà trường trong việc thực hiện các nội dung và giải pháp đổi mới PPDH.

4.2.7. Kết luận

2 - Sự biến đổi về tất cả các mặt của đời sống kinh tế xã hội, khoa học và công nghệ hiện nay
trên toàn thế giới, trong từng khu vực cũng như ở nước ta tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách
thức đối với giáo dục đại học, đòi hỏi bắt buộc phải đổi mới PPDH đại học.

- Đổi mới PPDH đại học phải theo định hướng: “Coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học, tự
nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát huy tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành,
tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng”. Để đạt được điều đó, trong dạy học ở đại học,
sinh viên phải được học trong hoạt động, bằng hoạt động, thông qua chính hoạt động tích cực,
chủ động, sáng tạo của bản thân dưới sự tổ chức, chỉ đạo, điều khiển của giảng viên.

- Đổi mới PPDH đại học theo tinh thần như vậy hoàn toàn phù hợp với các học thuyết tâm lý học
dạy học, đặc biệt là tâm lý học kiến tạo và tâm lý học hoạt động - là các học thuyết tâm lý hiện
đại được vận dụng nhiều vào dạy học hiện nay ở nhiều nước trên thế giới. Đồng thời cũng phù
hợp với đặc điểm tâm sinh lý và nhu cầu học tập của sinh viên đại học hiện nay.

- Hiện nay có rất nhiều phương pháp dạy học đại học cụ thể, phù hợp với việc đổi mới PPDH đại
học hiện nay. Cần ưu tiên sử dụng các phương pháp được nhiều người thừa nhận có tác dụng tốt
đối với phát huy tính chủ động, tích cực nhận thức của sinh viên như: giải quyết vấn đề, tham
gia, nghiên cứu trường hợp điển hình... Bên cạnh các phương tiện dạy học tiên tiến, cần coi trọng
phát huy các yếu tố tích cực của PPDH truyền thống, ví dụ

240

sử dụng PPDH thuyết trình theo hướng đề cao vai trò chủ thể của sinh viên, tăng cường xêmina,
thực hành, thực nghiệm, thực tế, bài nghiên cứu...

- Máy vi tính và các thiết bị kỹ thuật hiện đại ngày càng thâm nhập sâu vào nhà trường, mang lại
nhiều hiệu quả dạy học tích cực. Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin và truyền thông mới
trong dạy học cần phải xem vừa là điều kiện để tiến hành dạy học có hiệu quả cao, vừa là sự bắt
buộc đối với mỗi giảng viên ở đại học để thực hiện đổi mới PPDH đại học theo hướng đề cao vai
trò chủ thể của sinh viên trong quá trình nhận thức.

- Xây dựng và thực hiện lộ trình chuyển sang chế độ đào tạo theo hệ thống
tín chỉ, tạo điều kiện thuận lợi để người học tích lũy kiến thức, chuyển đổi
ngành nghề, liên thông, chuyển tiếp tới các cấp học tiếp theo ở trong nước
và ở nước ngoài.
Cơ sở triết lý của hệ thống tín chỉ:

1. Tôn trọng người học, xem người học là trung tâm của quá trình đào tạo
2. Chương trình đào tạo phải mềm dẻo để nhà trường dễ dàng đáp ứng các nhu cầu luôn
biến động của thị trường nhân lực

Vì sao Việt Nam quan tâm tới hệ thống tín chỉ:

3. Quy trình đào tạo mềm dẻo (lấy người học làm trung tâm)
4. Chương trình đào tạo mềm dẻo (đáp ứng nhu cầu đa dạng của người học)
5. Đánh giá chặt chẽ
1. Đánh giá quá trình
2. Đánh giá sạch
6. Tiết kiệm, hiệu quả
7. Thuận lợi trong việc công nhận các nội dung đào tạo => xúc tiến quá trình hội nhập và
quốc tế hóa trong giáo dục đại học.
8. Tạo thuận lợi để hình thành hệ thống giáo dục mở

- Về quy trình đào tạo, Nghị quyết 14/2005/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 2/11/2005 về
"đổi mới cơ bản và toàn diện GDĐH Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020” quyết định đưa “học chế
tín chỉ” vào toàn bộ hệ thống GDĐH. Để triển khai học chế tín chỉ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
ban hành “Quy chế Đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ” theo quyết
định số 43/2007/ QĐ-BGDĐT ngày 15/8/2007. Theo quy chế này đối với chương trình đại học
4 năm tối thiểu phải tích luỹ 120 tín chỉ.

Qua việc triển khai học chế TC ở một số trường đại học nước ta, có thể thấy rõ học chế này
mang lại nhiều lợi ích trong công tác giáo dục đào tạo ở trường đại học: nó làm cho SV chủ
động hơn trong hoạt động học tập, đặc biệt nó tạo một tác phong công nghiệp đối với mọi
hoạt động của nhà trường, kể cả trong SV và trong giáo chức, vì mọi hoạt động đào tạo trong
trường phải được khớp nối đúng thời gian và địa điểm. Với học chế TC việc hỗ trợ sinh viên
thuộc diện chính sách hoặc diện học yếu phải kéo dài thời gian học tập thuận lợi hơn nhiều so
với kiểu học theo niên chế.

- Đổi mới cơ chế giao chỉ tiêu tuyển sinh theo hướng gắn với điều
kiện bảo đảm chất lượng đào tạo, yêu cầu sử dụng nhân lực, nhu cầu
học tập của nhân dân và tăng quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục
đại học.
- Cải tiến tuyển sinh theo hướng áp dụng công nghệ đo lường giáo
dục hiện đại. Mở rộng nguồn tuyển, tạo thêm cơ hội học tập cho các
đối tượng khó khăn, bảo đảm công bằng xã hội trong tuyển sinh.
- Chấn chỉnh công tác tổ chức đào tạo, đổi mới nội dung, phương
pháp đào tạo để nâng cao chất lượng đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ.
http://www.jaist.ac.jp/~bao/Writings/Haimuoinghintiensi.pdf

- “Triển khai một cuộc vận động đổi mới dạy và học ở đại học theo quan niệm mới về mục tiêu,
nội dung và phương pháp nhằm tạo nên con người có các loại tiềm năng: - để học tập nghiên
cứu sáng tạo; - để phát triển cá nhân gắn kết với xã hội; - để tìm và tạo việc làm” (Đề án “Đổi
mới giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020”).

c) Đổi mới công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng giảng
viên và cán bộ quản lý.
- Xây dựng và thực hiện quy hoạch đội ngũ giảng viên và cán bộ quản
lý giáo dục đại học, bảo đảm đủ về số lượng, nâng cao chất lượng,
đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại học.
- Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo,
bồi dưỡng giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục đại học. Chú trọng
nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm của giảng viên,
tầm nhìn chiến lược, năng lực sáng tạo và tính chuyên nghiệp của
cán bộ lãnh đạo, quản lý.
- Đổi mới phương thức tuyển dụng theo hướng khách quan, công
bằng và có yếu tố cạnh tranh. Hoàn thiện và thực hiện cơ chế hợp
đồng dài hạn; bảo đảm sự bình đẳng giữa giảng viên biên chế và hợp
đồng, giữa giảng viên ở cơ sở giáo dục công lập và ở cơ sở giáo dục
ngoài công lập.
- Xây dựng và ban hành chính sách mới đối với giảng viên bao gồm
tiêu chuẩn giảng viên, định mức lao động, điều kiện làm việc, nhiệm
vụ khoa học và công nghệ, chế độ nghỉ dạy dài hạn để trao đổi học
thuật và cơ chế đánh giá khách quan kết quả công việc. Ban hành
chính sách, chế độ kiêm nhiệm giảng dạy.
- Đổi mới quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh giáo sư, phó
giáo sư theo hướng giao cho các cơ sở giáo dục đại học thực hiện
dựa trên các tiêu chuẩn và điều kiện chung do Nhà nước quy định.
Định kỳ đánh giá để bổ nhiệm lại hoặc miễn nhiệm các chức danh
giáo sư, phó giáo sư. Cải cách thủ tục hành chính xét công nhận
giảng viên, giảng viên chính.

Tham khảo:
Trong quá trình hội nhập vào hệ thống các trường Đại học Việt Nam nói chung và các trường Đại
học TDTT nói riêng, đồng thời trước bối cảnh của xã hội với những đòi hỏi mới trong giai đoạn hiện
nay cũng như những yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ TDTT, Trường Đại học
TDTT III - Đà Nẵng cần thiết phải đảm bảo và ngày càng nâng cao chất lượng các loại hình đào tạo
cán bộ TDTT.
Trong quá trình hội nhập vào hệ thống các trường Đại học Việt Nam nói chung và các trường Đại học TDTT
nói riêng, đồng thời trước bối cảnh của xã hội với những đòi hỏi mới trong giai đoạn hiện nay cũng như những
yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ TDTT, Trường Đại học TDTT III - Đà Nẵng cần thiết
phải đảm bảo và ngày càng nâng cao chất lượng các loại hình đào tạo cán bộ TDTT.

Thực hiện Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 của Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo
dục Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020, trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển giáo dục nói chung, phát
triển nguồn cán bộ TDTT nói riêng ít nhất phải có tầm nhìn 20 đến 30 năm. Điều đó có nghĩa là việc để cho
công tác đào tạo cán bộ TDTT thực hiện chức năng đón đầu, dự báo đối với sự phát triển xã hội để tránh sự
manh mún, chắp vá trong đào tạo. Do vậy, Nhà trường cần xây dựng kế hoạch triển khai cụ thể, đề ra các giải
pháp đổi mới, đưa Nhà trường ngày càng phát triển. Thông qua các đề án đổi mới, sẽ tạo sự chuyển biến tích
cực trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học. Trong đó, chú trọng gắn kết đổi mới nội dung giáo dục Đại học của
các trường Đại học TDTT với chiến lược phát triển kinh tế xã hội, với nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao về nguồn
nhân lực có trình độ Đại học và trên Đại học.

Chủ động tìm kiếm và đẩy mạnh liên kết với các trường Đại học TDTT, thực hiện trao đổi giảng viên, cán bộ
quản lý, sinh viên; trao đổi học thuật, tham gia Hội thảo khoa học và cùng nghiên cứu những vấn đề hai bên
quan tâm là một giải pháp hữu hiệu và thiết thực trong việc nâng cao trình độ đào tạo. Phấn đấu đưa các vấn đề
nghiên cứu của Nhà trường vượt ra khỏi phạm vi của mình, đóng góp vào sự ứng dụng và phát triển trên toàn
quốc. Muốn vậy, cần có hành lang pháp lý thông thoáng để Nhà trường cạnh tranh và tự khẳng định mình
trong cơ chế thị trường, trong sự hội nhập giáo dục Đại học Việt Nam.

Trước nhu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, chuẩn bị cho sự hội nhập với các trường Đại học trong nước và
khu vực, Nhà trường cần thiết xây dựng lộ trình chuyển hướng tổ chức đào tạo từ học chế niên chế sang học
chế tín chỉ (HCTC). Tuy nhiên, không nên thí điểm trước cho riêng ngành hay khoá học mà thực hiện trên
phạm vi toàn trường; ứng dụng ngay học chế tín chỉ chính thống không qua bước trung gian học phần với đơn
vị học trình; không phiêu lưu nhưng không rụt rè do dự trong giải pháp. Đồng thời, cần cử cán bộ tìm hiểu học
hỏi kỹ nhiều trường trong nước đã ứng dụng thành công HCTC, hay mời chuyên gia trao đổi kinh nghiệm. Tập
trung nguồn tài chính của toàn trường và đội ngũ cán bộ soạn thảo mới các quy chế quy định, chương trình, nội
dung, phương pháp đào tạo cho tất cả các ngành học, trung tâm dữ liệu, phần mềm quản lý, giáo trình, mua
máy chấm, đèn chiếu, nối mạng toàn trường...

Đảm bảo chất lượng của đội ngũ giảng viên là vấn đề then chốt trong công tác tổ chức đào tạo Đại học. Nhiệm
vụ này rất khó khăn, đòi hỏi phải thường xuyên phấn đấu, phải nghiêm túc và thận trọng, nhất là trong giai
đoạn mới nâng cấp thành trường Đại học.

Chất lượng giáo dục Đại học phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: đội ngũ giảng viên, chương trình và sách giáo
khoa, thư viện, trung tâm nghiên cứu khoa học, phòng thí nghiệm, cơ sở thực hành, cơ sở vật chất kỹ thuật, chế
độ quản lý... Trong đó, giảng viên đóng vai trò vô cùng quan trọng bởi người thày ảnh hưởng trực tiếp đến quá
trình đào tạo đối với đối tượng giáo dục.
Về việc đổi mới phương pháp dạy và học, phương pháp đánh giá kết quả học tập nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo. Trong đó, đổi mới phương pháp dạy và học Đại học phải nhấn mạnh sự cần thiết phải chuyển từ
phương pháp "thày đọc, trò chép" một cách thụ động sang phương pháp dạy học tương tác, phát huy tính tích
cực của người học, lấy người học làm trung tâm. Rõ ràng đó là một xu thế tất yếu. Phương pháp thuyết giảng
vẫn là một phương pháp quan trọng ở trường Đại học. Tuy nhiên, phải sử dụng cộng nghệ nhằm giảm bớt thời
gian thuyết giảng một chiều, tăng thời gian đối thoại để hoạt hoá người học.

Một khâu quan trọng gắn kết việc dạy với việc học là đánh giá kết quả học tập, cải tiến khâu đánh giá, áp dụng
các phương pháp đánh giá khác nhau để tăng cường hiệu quả của việc dạy và học. Việc đánh giá thành quả học
tập phải bám sát mục tiêu dạy học, chẳng những đánh giá tri thức, trình độ tư duy, mà còn đánh giá năng lực,
đảm bảo tính khách quan, công bằng và tạo động cơ lành mạnh cho người học.

Một vấn đề quan trọng là việc đào tạo "năng lực tìm việc làm và tự tạo việc làm" cho sinh viên. Đây loại năng
lực hết sức cần thiết đối với sản phẩm đào tạo trong nền kinh tế thị trường. Năng lực này sẽ góp phần làm giảm
nạn thất nghiệp Đại học và là một tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng đào tạo và vị trí xã hội của Nhà
trường. Bằng tinh thần chủ động sáng tạo của đội ngũ giảng viên, cần tổ chức bàn bạc để thể hiện được yêu
cầu nói trên thành các hoạt động dạy và học cụ thể nhằm tạo ra năng lực sáng nghiệp đó. Nhà trường nên chủ
động sáng tạo ra nhiều hình thức khác nhau theo hướng điều tra, khảo sát thực tiễn, chất lượng của quá trình
đào tạo và liên kết đào tạo các loại hình cán bộ theo yêu cầu của xã hội nhằm tăng cơ hội tìm việc làm cho sinh
viên, đồng thời tìm hiểu thị trường để điều chỉnh mục tiêu chương trình đào tạo của Nhà trường.

Nâng cao trình độ ngoại ngữ (nhất là tiếng Anh) cho giảng viên, cán bộ quản lý để có thể chủ động hơn khi
tham gia chương trình trao đổi giảng viên, học tập nghiên cứu ở nước ngoài, tham khảo tài liệu trên mạng,
cùng giảng dạy với giảng viên nước ngoài trong chương trình hợp tác giảng dạy, nghiên cứu xuyên quốc gia...
Phấn đấu trong vài năm tới, tất cả giảng viên, cán bộ công chức được cử đi làm việc ở nước ngoài giao tiếp
trực tiếp bằng ngoại ngữ. Việc nâng cao trình độ ngoại ngữ cho giảng viên, cán bộ quản lý đồng nghĩa với việc
góp phần nâng tầm chuyên môn, nâng cao vị thế và đáp ứng linh hoạt hơn với việc giáo dục hội nhập quốc tế.

Internet đã và đang tạo điều kiện thực hiện chia sẻ thông tin kiến thức một cách nhanh chóng, dễ dàng. Vì vậy,
cần tiếp tục nghiên cứu, tham khảo, cập nhật một cách có chọn lọc các tài liệu, giáo trình, bài giảng trên mạng
Internet. Đồng thời, cũng từng bước xây dựng chương trình, tại liệu giảng dạy, đề cương bài gảng đưa lên
trang web của Nhà trường để tạo điều kiện cho sinh viên tham khảo học tập. Ngoài nội dung bằng tiếng Việt,
tiến tới mở rộng trang web bằng tiếng Anh để nâng cao hiệu quả thông tin ra thế giới bên ngoài, tạo điều kiện
cho các sinh viên, những nhà nghiên cứu quốc tế nghiên cứu, tham khảo, mở rộng và hợp tác với các chương
trình giáo dục, đào tạo tại Việt Nam.

Về hệ thống đảm bảo chất lượng và hoạt động kiểm định công nhận chất lượng: Quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm (trách nhiệm xã hội) là hai mặt đi đôi với nhau không thể tách rời, là nền tảng của hệ thống quản lý
trường Đại học. Để đẩy nhanh hoạt động này, Nhà trường xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng và bộ máy
kiểm định công nhận chất lượng, xây dựng các tiêu chí kiểm định chất lượng. Mọi khâu của quá trình kiểm
định công nhận chất lượng, từ khâu tự đánh giá, khảo sát tại chỗ của nhóm đồng nghệp, phê duyệt kết luận và
công bố kết quả kiểm định đều phải được thể chế hoá một cách tỉ mỉ. Trong thời gian tới, cần căn cứ vào bộ
tiêu chí kiểm định chất lượng để tiến hành tự đánh giá bên trong và quảng bá thương hiệu của Nhà trường.

Những ý kiến trên đây chỉ tập trung đến những vấn đề nắm bắt cơ hội đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo
các loại hình cán bộ TDTT, gắn với hệ thống giáo dục Đại học Việt Nam hoá ảnh hưởng trực tiếp đến nhà
trường. Các ý kiến này chỉ là gợi ý có tính khái quát. Khi thực hiện bất kỳ ý kiến nào cũng đòi hỏi phải có dự
án và lội trình cụ thể phù hợp với yêu cầu cụ thể của Nhà trường. Tất nhiên, còn những giải pháp về tài chính,
về xây dựng cơ sở vật chất, đội ngũ quản lý... nhưng chưa đề cập ở bài viết này.

Nhiệm vụ giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội đối với Trường Đại học TDTT III - Đà Nẵng tiếp tục
tăng lên. Điều quan trọng là cần phải nghiên cứu và nắm bắt cơ hội để đổi mới đào tạo của Nhà trường, từng
bước vươn lên đạt chuẩn mực trường Đại học TDTT quốc gia nhằm cung cấp cho xã hội những người cán bộ
TDTT không chỉ có kiến thức, kỹ năng, khả năng phân tích mà còn hiểu biết những vấn đề về con người, xã
hội với tầm nhìn mới, Nhà trường cần xác lập tinh thần và đề ra các giải pháp cụ thể để đảm bảo hội nhập
thành công.
Th.s Nguyễn Tùng

SO SÁNH QUY CHẾ 25 VÀ QUY CHẾ 43


SO SÁNH QUY CHẾ 25 VÀ QUY CHẾ 43

SO SÁNH QUY CHẾ 25 VÀ QUY CHẾ 43


Phương pháp và kĩ thuật đánh giá kết quả
học tập trên lớp/Kiểm tra viết
< Phương pháp và kĩ thuật đánh giá kết quả học tập trên lớp
Kiểm tra viết thường được sử dụng sau khi học một phần chương, cuối chương, cuối giáo trình,
nhàm kiểm tra từ một vấn đề nhỏ đến một vấn đề lớn có tính chất tổng hợp, kiểm tra toàn lớp trong
một thời gian nhất định, giúp học sinh rèn luyện năng lực biểu đạt bằng ngôn ngữ viết.
Có hai dạng kiểm tra viết cơ bàn: Kiểm tra viết dạng tự luận (trả lời ngắn; trả lời dài) và kiểm tra viết
dạng trắc nghiệm khách quan.

Dạng tự luận[sửa]
Tự luận là dạng kiểm tra quen thuộc, được sử dụng phổ biến trong nhà trường. Nó cho phép học
sinh ưả lời bằng cách tự lựa chọn, tổng hợp và trình bày những tri thức phù hợp nhất, với một giới
hạn tương đối rộng về nội dung. Do vậy, trắc nghiệm tự luận có thể đánh giá được khả năng phân
tích, tổng hợp và sự sáng tạo trong trình bày-một bài luận của học sinh.
Bài kiểm tra dạng tự luận thường có ít câu hỏi và câu hỏi ngắn nhưng yêu cầu học sinh phải trả lời
dài và học sinh có tương đối nhiều thời gian để trả lời một câu hỏi.
Trong dạng kiểm tra tự luận lại phân chia ra làm hai loại: Bài luận dài (tiểu luận) và Bài luận
ngắn/hạn chế (loại cung cấp thông tin).
Dạng tự luận dài bao gồm các loại câu hỏi có phạm vi trả lời mở rộng, khái quát. Học sinh tự do biểu
đạt tư tưởng và kiến thức. Loại câu này có thể phát huy khả năng phân tích, tổng hợp, óc sáng
tạo... nhưng khó chấm điểm và độ tin cậy không cao.
Dạng tự luận hạn chế cung cấp thông tin giới hạn câu trả lời trong phạm vi nhỏ hơn, người trả lời có
thể ước lượng được độ dài của câu ưả lời, Với loại bài kiểm tra này việc chấm điểm dễ dàng hơn và
độ tin cậy cao hơn.

Kiểm tra viết dạng tự luận có một số ưu điểm nổi bật [sửa]
- Nỏ có khả năng đo lường kết quả học tập của học sinh ở mức độ phân tích, tổng hợp và đánh giá.
Nó tạo điều kiện cho học sinh bộc lộ khả năng suy luận, phê phán, trình bày những ý kiến dựa ưên
những trải nghiệm của cá nhân.
- Đe kiểm tra viết dạng tự luận thường dễ chuẩn bị, tốn ít thời gian và công sức.
Bên cạnh đó kiểm tra viết dạng tự luận có nhược điểm:
- Bài tự luận thường có số câu hỏi ít nên khỏ đại diện đầy đủ cho nội dung cần đánh giá
- Việc chấm điểm thường khó khăn và tốn nhiều thời gian.
- Các tiêu chí đánh giá thường không thống nhất do vậy điểm số bị ảnh hưởng nhiều từ yếu tố chủ
quan của người chấm.

Yêu cầu đối với kiểm tra viết dạng tự luận[sửa]


- Nghiên cứu mục đích và nội dung vấn đề cần kiểm tra. Xác định được trọng tâm của vấn đề cần
kiểm tra và tìm ra một sổ câu hỏi xác đáng bao quát được nội dung vấn đề.
- Ra đề chính xác, dễ hiểu, sát với trình độ các em, phù hợp với thời gian làm bài, phát huy trí tuệ ở
các em.
- Tổ chức cho học sinh làm bài thực sự nghiêm túc, tránh mọi tiêu cực trong khi làm bài, Thu bài
đứng giờ
- Tạo điều kiện cho học sinh làm bài đầy đủ, không gây phân tán chú ý.
- Giao bài cho hai người chấm độc lập và nhóm trưởng làm trọng tài quyết định điểm sổ cuối cùng
nếu có sự chênh lệch thái quá. Chấm bài cẩn thận, có nhận xét về nội dung, hình thức trình bày và
thái độ khi lảm bài...

Dạng trắc nghiệm khách quan[sửa]


Loại trắc nghiệm khách quan (trắc nghiệm nhiều lựa chọn, đúng-sai, điền khuyết, ghép đôi...) được
cấu trúc chặt chẽ và chỉ giới hạn cách trả lời của học sinh ở việc cung cấp một dòng hoặc vài từ, vài
con số, kí hiệu, hay lựa chọn cách ưả lời đúng trong nhiều cách trả lời. Loại trắc nghiệm này yêu
cầu học sinh nhận biết, phân biệt, hoặc nêu tên một cái gì đó, do vậy nhìn chung nó nhắm tới mức
độ nắm và hiểu ưi thức của học sinh.
Trắc nghiệm mang tên khách quan vì cách cho điểm mang tính khách quan, không phụ thuộc vào
người chấm. Tuy nhiên độ khách quan cũng chỉ mang tính tương đổi. Bởi vì câu hỏi và các lựa chọn
trong trắc nghiệm khách quan vẫn do giáo viên thiết kế ra. Nếu người giáo viên thiết kế ưắc nghiệm
tồi cũng sẽ dẫn tới đo lường sai lệch trình độ của học sinh. Ví dụ có những câu hỏi quá mơ hồ khiến
học sinh không hiểu. Hoặc cỏ câu có hơn một phương án đúng, trong khi có câu không có phương
án trả lời nào nêu ra là thực sự đúng.
Bải trắc nghiệm khách quan thường bao gồm nhiều câu hỏi. Mỗi câu hỏi cung cấp một thông tin cụ
thể và học sinh được yêu cầu trả lời rất ngắn bằng một hay một vài từ hoặc lựa chọn đáp án đúng.
Vì lượng câu hỏi nhiều mà thời gian trả lời lại ngắn nên bài trắc nghiệm khách quan thường bao
hàm được rất nhiều nội đung cần đánh giá.
Giữa hai loại trắc nghiệm tự luận và khách quan không có sự mâu thuẫn nên chúng đều được áp
dựng phổ biến trong các trường học ở các nước trên thế giới để đánh giá thành quả học tập của
học sinh. Việc sử dụng loại trắc nghiệm nào phụ thuộc vào mục đích đánh giá, loại kiến thức cần đo
lường và phụ thuộc và những điểm mạnh, điểm yếu của từng loại trắc nghiệm.
Trong tương lai, trắc nghiệm khách quan có thể được sử dụng rộng rãi hơn trong việc kiểm tra,
đánh giá trình độ của học sinh vì chống được lối học tủ, học lệch và khách quan hơn trong khâu
chấm bài. Tuy nhiên hình thức này đòi hỏi người giáo viên phải được trang bị kiến thức đầy đủ về kĩ
năng xây dựng đề thi trắc nghiệm và biết cách phân tích đề thi trắc nghiệm để biết được độ giá trị và
độ tin cậy của trác nghiệm mà mình làm ra.

Các loại câu trắc nghiệm khách quan[sửa]


Có nhiều loại câu trắc nghiệm khách quan, mỗi loại có ưu nhược điểm riêng:
Câu nhiều lựa chọn[sửa]
Loại này thường có hình thức của một câu phát biểu không đầy đủ hay một câu hỏi dẫn, được nối
tiếp bàng một số câu trả lời mà học sinh cần phải lựa chọn một phương án đúng hoặc đúng nhất
(trong nhiều phương án hợp lí) hoặc phương án trả lời không cỏ liên quan gì nhất.
Những câu trả lời sai được gọi là phương án nhiễu. Câu dẫn có thể dưới dạng sơ đồ, đồ thị, không
nhất thiết phải diễn tả bẳng lời. Loại câu nhiều lựa chọn cần được xây dựng một cách thận trọng để
tránh sự tối nghĩa. Câu hỏi nhiều lựa chọn có khả nâng đo được những mức độ cao về nhận thức
như việc áp dụng các nguyên lí, dự đoán, đánh giá, ngoại suy, xác định những sai lầm về mặt lôgic.
Câu điền vào chỗ trống[sửa]
Loại câu này đòi hỏi học sinh cung cấp câu trả lời một hay một ít từ cho một câu hỏi trực tiếp hay
một câu nhận định chưa đầy đủ. Ưu điểm của loại câu này là khó tạo điều kiện để học sinh đoán mò
vỉ học sinh phải nhớ lại hoặc nghĩ ra câu trả lời. Tuy nhiên loại câu điền có thể khó xây dựng cho rõ
ràng. Có thể sẽ có nhiều câu trả lời có giá trị như nhau để điền vào một chỗ trổng. Điều đó gây khỏ
khăn cho khâu chấm điểm.
Câu ghép đôi[sửa]
Loại câu này thường có hai dãy thông tin gọi là các câu dẫn và các câu đáp. Chúng cần được ghép
lại với nhau theo kiểu tương ứng một - một. Hai dãy thông tin này không nên có số câu bằng nhau
để cho cặp ghép cuối cùng không chỉ đơn giản là kết quả của sự loại trừ liên tiếp.
Loại câu này dễ viết và dễ dùng. Tuy nhiên nếu soạn những câu đo mức độ kiến thức cao đòi hỏi
phải mất nhiều công phu. Nếu có nhiều thông tin ữong mỗi cột thì người làm test sẽ phải mất nhiều
thời gian đọc và lựa chọn tìm câu ghép đôi.

Ưu điểm[sửa]
Sử dụng trắc nghiệm khách quan có ưu điềm nổi bật là
- Bài trắc nghiệm bao quát được phạm vi kiến thức rộng nên đại diện được cho nội dung cần đánh
giá
- Việc chấm điểm dễ dàng, nhanh chóng, có thể chấm bàng máy và bảo đảm tỉnh khách quan trọng
khâu chấm bài.
- Kết quả trắc nghiệm có thể dễ dàng phân tích độ tin cậy và độ giá trị bằng các phần mềm có sử
dụng các mô hình phương pháp toán học

Hạn chế[sửa]
Tuy nhiên trắc nghiệm khách quan có một số hạn chế
- Việc xây dựng câu hỏi trắc nghiệm khá phức tạp, tốn thời gian đòi hỏi người xây dựng trắc nghiệm
phải được huấn luyện đầy đủ.
- Trắc nghỉệm khách quan khó đo lường khả năng diễn đạt, sắp xếp, trình bày và đưa ra ý tưởng
mới.
- Sử dụng trắc nghiệm khách quan cần tuân theo một số yêu cầu sau:
- Câu trắc nghiệm cần có độ tin cậy và độ giá trị đảp ứng yêu cầu đo đúng mục tiêu cần đo và kết
quả ổn định không phụ thuộc vào người chấm hay thời gian địa điểm thi.
- Quá trình tiến hành trắc nghiệm cần phải được chuẩn bị chu đáo. cần có những biện pháp chống
gian lận khi làm bài, có thể bàng phương án đảo ngẫu nhiên các câu hỏi để những người ngồi cạnh
nhau không có trình tự câu hỏi giống nhau.

You might also like