Professional Documents
Culture Documents
2.1.2. Bối cảnh trong nước và những hành động hiếu chiến của Mỹ Bối cảnh Việt Nam sau tháng 7/1954
2.1.2. Bối cảnh trong nước và những hành động hiếu chiến của Mỹ Bối cảnh Việt Nam sau tháng 7/1954
Bối cảnh trong nước và những hành động hiếu chiến của Mỹ
Bối cảnh Việt Nam sau tháng 7/1954
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ do Đảng lãnh đạo đã
giành được thắng lợi, song sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước
vẫn chưa hoàn thành. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, song miền Nam vẫn còn dưới
ách thống trị của thực dân và tay sai. Đất nước tạm thời bị chia làm hai miền.
Ở miền Bắc, mặc dù thực dân Pháp rất ngoan cố, nhưng do tinh thần đấu tranh kiên quyết
của nhân dân ta, nên đến ngày 10-10-1954 tên lính Pháp cuối cùng đã rút khỏi Hà Nội và
ngày 16-5-1955, toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp đã phải rút khỏi miền Bắc. Ngay sau
khi hòa bình lập lại, nhân dân miền Bắc khẩn trương khôi phục kinh tế, hàn gắn vết
thương chiến tranh và tiến hành thực hiện các nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc
dân chủ nhằm tạo tiền đề đưa miền Bắc từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Ở miền Nam, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy
vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự
của Mỹ.
Để thực hiện âm mưu nói trên, trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, ngày 7- 7-1954,
Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về Sài Gòn làm Thủ tướng Chính phủ bù nhìn thay Bửu Lộc.
Ngày 17-7-1955, theo chỉ đạo của Mỹ, Diệm tuyên bố không hiệp thương tổng tuyển cử
thống nhất đất nước và ngày 23-10-1955 đã tổ chức cái gọi là "trưng cầu dân ý" để phế
truất Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống.
Sau khi dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, Mỹ - Diệm đã liên tiếp mở các cuộc hành
quân càn quét để bình định miền Nam, áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, chia cắt lâu dài
đất nước ta. Thực chất, đây là một cuộc chiến tranh đơn phương đẫm máu chống lại nhân
dân miền Nam trong tay không có vũ khí. Với chính sách "tố cộng", "diệt cộng", loại
cộng sản ra ngoài vòng pháp luật để trừng trị, và với khẩu hiệu "thà giết nhầm hơn bỏ
sót", chúng thẳng tay đàn áp tất cả các lực lượng chống đối. Chỉ tính đến cuối năm 1955,
hàng chục vạn cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng đã bị bắt và bị giết hại.
Tình hình phức tạp nêu trên đã đặt Đảng ta trước một yêu cầu là phải vạch ra đường lối
chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng Việt Nam tiến lên phù hợp với tình hình mới của
đất nước và phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Trải qua nhiều hội nghị của
Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, chủ trương chiến lược cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn mới của Đảng từng bước hình thành. Về chủ trương đưa miền Bắc quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, sau khi miền Bắc được giải phóng, Trung ương Đảng đã chủ trương
chuyển miền Bắc sang giai đoạn mới với nhận thức: sự kết thúc cách mạng dân tốc dân
chủ nhân dân cũng là sự mở đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa như các cương lĩnh của
Đảng đã xác định.
Tháng 9/1954, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của miền Bắc là hàn gắn
vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, trước hết là phục hồi và phát triển sản
xuất nông nghiệp, ổn định xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tăng cường và mở rộng
hoạt động quan hệ quốc tế… để sớm đưa miền Bắc trở lại bình thường sau chín năm
chiến tranh.
Nhận rõ kinh tế miền Bắc cơ bản là nông nghiệp, Đảng đã chỉ đạo lấy khôi phục và phát
triển sản xuất nông nghiệp làm trọng tâm. Việc khôi phục sản xuất nông nghiệp được kết
hợp với cải cách ruộng đất và vận động đổi công, giúp nhau sản xuất, đồng thời, chăm lo
xây dựng cơ sở vật chất cho nông nghiệp. Công cuộc giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng
đất được tiếp tục đẩy mạnh.
Tháng 11/1958, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 14 đề ra kế
hoạch ba năm phát triển kinh tế, văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể
và kinh tế tư bản tư doanh (1958-1960).
Tháng 4/1959, Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua Nghị
quyết về vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp, xác định hình thức và bước đi của hợp tác xã
là: hợp tác hóa đi trước cơ giới hóa. Hội nghị chỉ rõ ba nguyên tắc cần được quán triệt
trong suốt quá trình xây dựng hợp tác xã là: tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ.
Giá trị của Nghị quyết Trung ương 15 đối với cách mạng miền Nam
Sự ra đời của Nghị quyết 15 có ý nghĩa vô cùng to lớn, đáp ứng đúng yêu cầu của lịch sử,
mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên. Nghị quyết 15 chính là ngọn lửa châm ngòi
cho phong trào “Đồng khởi” trên quy mô lớn tại các tỉnh Nam Bộ và Khu V nhất tề đứng
lên. Tiêu biểu như cuộc khởi nghĩa ở Bắc Ái (2/1959), Trà Bồng (8/1959), Tua Hai
(1/1960), đặc biệt là phong trào nổi dậy ở tỉnh Bến Tre. Phong trào “Đồng khởi” như tức
nước vỡ bờ lan nhanh ra khắp Nam Bộ, Tây Nguyên và Trung Trung Bộ. Đến cuối năm
1960, về cơ bản cách mạng đã làm tan rã trên 2/3 bộ máy chính quyền địch ở nông thôn,
“làm chủ được 600 trong tổng số 1298 xã, trong đó có 116 xã được hoàn toàn giải phóng.
Ở các tỉnh đồng bằng ven biển Trung Bộ, có 904 trong tổng số 3829 thôn được giải
phóng. Tây Nguyên có tới 3200 trong tổng số 5721 thôn không còn chính quyền ngụy”.
Dưới sự chỉ đạo kịp thời, sáng suốt của Đảng cùng với thắng lợi của phong trào “Đồng
khởi” đã tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng cách mạng phát triển nhanh chóng.
Công tác xây dựng đảng, phát triển đảng viên được đẩy mạnh. Hàng nghìn chi bộ được
khôi phục, phát triển ở tất cả các đảng bộ miền Tây, miền Trung và miền Đông Nam Bộ.
Số lượng đảng viên tăng nhanh từ 7.641 đảng viên (cuối năm 1959) đã tăng lên 12.946
đảng viên (cuối năm 1960). Sự khôi phục nhanh chóng của các tổ chức cơ sở đảng đã tạo
chuyển biến mạnh mẽ và động lực quan trọng cho các lực lượng chính trị, vũ trang miền
Nam phát triển. “Ở miền Đông Nam Bộ, đã xây dựng được 40 trung đội tập trung và 60
đội tự vệ vũ trang; miền Trung Nam Bộ có 36 trung đội và 68 đội tự vệ xã; miền Tây
Nam Bộ xây dựng được 37 trung đội và 150 đội tự vệ xã”. Có thể thấy, phong trào “Đồng
khởi” đã giáng đòn chí tử vào chế độ Mỹ-Diệm, đẩy chúng rơi vào tình thế bị động lúng
túng, buộc phải thay đổi chiến lược đối phó với cách mạng miền Nam. Phong trào “Đồng
khởi” thắng lợi đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền Nam từ thế giữ
gìn lực lượng sang thế tiến công. Từ trong khí thế đó, ngày 20/12/1960, Mặt trận dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, góp phần quy tụ, phát huy sức mạnh của các tầng
lớp nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” chính là “biểu hiện cụ thể, sinh động của sự
vận dụng sáng tạo Nghị quyết 15 vào thực tiễn đấu tranh của các cấp ủy Đảng và nhân
dân miền Nam (…) đưa cách mạng thoát khỏi thế hiểm nghèo, mở đường cho cách mạng
miền Nam tiến lên, tạo tiền đề quan trọng cho quân và dân ta đánh bại các chiến lược
quân sự của Mỹ trong những năm tiếp theo của cuộc kháng chiến” góp phần thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bền bỉ và anh dũng của nhân dân Việt Nam
đã giành được thắng lợi, buộc chúng phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (7 - 1954), công nhận
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Thế nhưng, sau ngày
Hiệp định được ký kết, đế quốc Mỹ đã gạt thực dân Pháp, trực tiếp viện trợ và giúp chính
quyền Sài Gòn xây dựng quân đội, hòng biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu
mới và căn cứ quân sự của Mỹ, chia cắt lâu dài Việt Nam, ngăn chặn ảnh hưởng của
CNXH xuống Đông Nam Á, răn đe phong trào giải phóng dân tộc đang trên đà phát
triển.
Để giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống lại đế quốc Mỹ - một kẻ thù có tiềm
lực mạnh về kinh tế, quân sự đứng đầu phe chủ nghĩa đế quốc cùng với bè lũ tay sai, trên
cơ sở đánh giá đúng bản chất, âm mưu và hành động của kẻ thù; đánh giá lực lượng so
sánh đôi bên với quan điểm cách mạng và khoa học; bám sát diễn biến thực tế của tình
hình chiến trường trong nước, khu vực và thế giới; vững tin vào lòng yêu nước và sức
mạnh to lớn của nhân dân, Đảng ta đã đề ra đường lối chiến tranh nhân dân để lãnh đạo,
chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiến hành sự nghiệp giải phóng miền Nam, bảo
vệ miền Bắc, thống nhất Tổ quốc. Đường lối ấy của Đảng không ngừng được bổ sung,
ngày càng hoàn chỉnh qua các Đại hội, Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, cụ thể từ năm 1954 đến năm 1960, là nhân tố quyết định trực tiếp thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước..
Cuối năm 1958 đầu năm 1959, Mỹ - Diệm tiến hành chính sách cai trị tàn bạo, phát
xít hóa, đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng ở miền Nam. Thực tiễn đòi hỏi nhân dân
miền Nam phải vùng lên đấu tranh với kẻ thù. Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa II tổ chức Hội nghị Trung ương 15 (1 - 1959) họp bàn về cách mạng
miền Nam. Nghị quyết phân tích rõ tính chất, mâu thuẫn trong xã hội miền Nam. Từ đó,
xác định rõ lực lượng cách mạng, kẻ thù, nhiệm vụ của cách mạng miền Nam; xác định
phương pháp cách mạng và con đường mới; dự kiến về khả năng phát triển của tình hình,
xây dựng mặt trận để tập hợp rộng rãi tất cả các lực lượng chống đế quốc và tay sai,
khẳng định sự tồn tại và trưởng thành của Đảng bộ miền Nam là yếu tố quyết định giành
thắng lợi của cách mạng miền Nam.
Việc xác định đường lối cách mạng độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo đã thể hiện
tầm nhìn xa trông rộng, tư duy chiến lược, tài thao lược xuất sắc của Đảng, nhất là ở
những thời điểm mang tính bước ngoặt của cuộc kháng chiến. Đảng ta đã tìm ra phương
pháp và hình thức đấu tranh thích hợp nên đã đối phó có hiệu quả với địch, đưa cách
mạng tiếp tục phát triển. Bước chuyển biến mới, rõ rệt nhất của cách mạng ở miền Nam
là sau khi có ghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng (tháng 1/1959), lực
lượng ba thứ quân và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp từng bước hình thành. Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập.
Đảng ta cũng đã kịp thời chuyển cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam từ khởi
nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng; kết hợp nhuần nhuyễn giữa khởi nghĩa vũ
trang với chiến tranh cách mạng; đưa cuộc chiến tranh của nhân dân ở miền Nam phát
triển phù hợp với tình hình mới; đánh địch bằng cả quân sự và chính trị, bằng cả ba mũi
giáp công; trên cả ba vùng chiến lược. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam.
Đường lối chiến tranh nhân dân trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954 - 1960) là quá trình hình thành, bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh qua các Hội nghị
và Đại hội của Đảng từ năm 1954 đến năm 1960, đó là đường lối chiến tranh toàn dân,
toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, và được tập trung trên những nội dung chủ
yếu: Xác định mục đích, đối tượng, nhiệm vụ chiến tranh là đánh thắng đế quốc Mỹ và
bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc; về chủ trương phát huy sức mạnh
tổng hợp hai miền Nam, Bắc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; và chủ
trương tiến hành phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân với đặc trưng nổi bật kết
hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao; kết hợp chiến
tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh lớn, đánh vừa và đánh nhỏ, thực
hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ; tiến lên thực hiện tổng tiến công
và nổi dậy để giành thắng lợi cuối cùng, cả nước hòa bình, thống nhất, đi lên chủ nghĩa
xã hội. Đường lối chiến tranh độc đáo, sáng tạo đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn và vận
dụng sáng tạo nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
chiến tranh cách mạng với truyền thống và tinh hoa về nghệ thuật đánh giặc, giữ nước
của tổ tiên và những kinh nghiệm về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của các nước xã hội
chủ nghĩa và của thế giới. Đó cũng là nhân tố có ý nghĩa quyết định trực tiếp giành thắng
lợi trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trong thế kỷ XX.