Professional Documents
Culture Documents
Đề Cương Ôn Tập Nlvh
Đề Cương Ôn Tập Nlvh
3. Kết bài:
- Qua (1), (2) đã cho ta thấy (3)
- Những câu thơ/ áng văn viết về (4) sẽ luôn lay động, thổn thức trái tim người đọc.
Và sự lay động, thổn thức đó cũng như (5) sẽ sống mãi với thời gian.
(1) Nghệ thuật tiêu biểu
(2) Tên tác giả
(3) ND chính
(4) Đối tượng
(5) Tên tác giả/tác phẩm
TRAO DUYÊN
(14 câu giữa)
II. Thân bài:
1. Khái quát:
2. 6 câu đầu: Tâm trạng Thúy Kiều khi trao duyên và trao kỉ vật cho em.
- Đoạn trích dẫn dắt người đọc bước vào thế giới nội tâm của Kiều, nơi chất chứa
vô ngàn nỗi đau và đau đáu những kỉ niệm xưa cũ thông qua các kỉ vật:
“Chiếc vành … ngày xưa”
- “Chiếc vành” là vòng xuyến đeo tay, “bức tờ mây” là tờ giấy ghi lời thề, đây là
hai kỉ vật mà Thúy Kiều trân quý, gợi nhớ về mối tình của Thúy Kiều và Kim
Trọng, chứng minh cho tình yêu đôi lứa.
- Trong khi nói với Thúy Vân, Kiều cảm tưởng như sống lại với các kỉ niệm của
tình yêu với Kim Trọng. Nàng như sống trong hồi ức qua những kỉ vật và nhất là
tưởng nhớ lại sự kiện đêm thề nguyền thiêng liêng.
- Như một đoạn phim chậm rãi mang theo bao kỉ niệm và hồi ức, nàng nhớ đến
cảnh Kim Trọng cho thêm hương vào lò hương qua “mảnh hương nguyền”, cảnh
Kiều đàn cho Kim Trong nghe qua “phím đàn”.
- Các từ ngữ này cho thấy trong tâm hồn Kiều, những kỉ niệm đẹp đẽ của tình yêu
có sức sống mãnh liệt. => Thúy Kiều là người sâu sắc trong tình yêu.
- Khi ta nắm được diễn biến tình yêu Kim - Kiều thì việc trao tặng kỉ vật, nhất là
đêm thề nguyền thực sự là một ám ảnh lớn trong thời điểm Kiều trao lại cho Vân
những gì Kim đã trao cho Kiều.
- Kiều trao cho Vân những kỉ vật nhưng lại lưu luyến, nuối tiếc, xót xa xem những
kỉ vật là của chung ba người.
- Lúc Kiều kể về mối tình của mình cho Vân nghe, giọng điệu của nàng vẫn bình
tĩnh, nhưng đến lúc trao kỉ vật, nàng cảm thấy mình đã mất hết nên không thể kìm
nén được cảm xúc đang dậy sóng trong lòng. Nàng tiếc nuối, đau đớn khi có người
thứ ba chia sẻ. Trái tim bắt đầu lên tiếng.
- Đã trao duyên nhưng Kiều vẫn mong muốn giữa cho bản thân một phần trong
đoạn tình duyên ấy. Nỗi đau như đọng lại ở câu thơ:
“Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên!”
- Nàng dùng dằng, gửi gắm tất cả lại cho Thúy Vân rồi tâm trạng mâu thuẫn thật sự
trong lòng nàng mới bùng lên mạnh mẽ nửa muốn trao, nửa muốn giữ.
=> Kiều đã mất bao công sức để thuyết phục em nhưng chính lúc em chấp nhận
cũng là lúc Kiều bắt đầu chơi vơi cố níu tình yêu lại với mình.
3. 6 câu sau: Dự cảm về cái chết của Kiều.
- Dự cảm về cái chết trở đi trở lại trong tâm hồn kiều; trong lời độc thoại nội tâm
đầy đau đớn, Kiều hướng tới người yêu với tất cả tình yêu thương và mong nhớ:
“Mai sau … trúc mai”
- Trong khi nói với Thúy Vân, Kiều đã liên tưởng cái chết sắp đến.
- Hàng loạt từ nói về cái chết: âm điệu chập chờn, hư ảo, thời điểm không xác định
“mai sau”, “bao giờ”, không khí linh thiêng “đốt lò hương”, “so tơ phím”, hình ảnh
phất phơ, ma mị “ngọn cỏ lá cây”, “hiu hiu gió”,... bắt đầu từ đây Kiều mới thực sự
cảm nhận được cái bi kịch của đời mình, bi kịch của sự mất mát, bi kịch của nỗi cô
đơn.
- Kiều nhớ lại cảnh Đạm Tiên đã từng hiện về qua làn gió “ào ào đổ lộc rung cây”
khi Kiều thắp nơ và làm thơ bên mộ Đạm Tiên.
- Kiều cảm thấy cuộc đời trống trải vô nghĩa khi không còn tình yêu nữa, nàng
nghĩ đến cái chết và cảm thấy đây sẽ là cái chết đầy oan nghiệt. => Tiếng nói
thương thân xót phận của một người con gái tha thiết với tình yêu.
- Một người đương tuổi xuân phơi phới nhưng luôn canh cánh về cái chết. Nàng
chỉ mong ước duy nhất đó là mai sau Thúy Vân hãy nhớ tới linh hồn của mình để
nàng đỡ lẻ loi, hiu quạnh. Khi đàn, khi đốt hương hay khi trông ra ngọn cỏ thì hãy
nhớ đến người chị này.
=> Mô-típ chiêu hồn, gọi hồn trong “Truyện Kiều”, “Văn chiêu hồn”, “Phản
chiêu hồn” của Nguyễn Du cho thấy nhà thơ quan tâm nhiều đến phương diện
oan ức của những cái chết của con người, một phương diện độc đáo của chủ
nghĩa nhân đạo Nguyễn Du.
4. 2 câu tiếp: Lời dặn dò của Kiều với Vân.
- Đau đớn và tuyệt vọng khi nghĩ đến tương lai bất hạnh của mình, Kiều tha thiết
dặn em:
“Dạ đài … thác oan”
- Sắp xếp xong xuôi mối duyên nợ với Kim Trọng, Kiều mới nghĩ đến số mệnh bạc
bẽo của mình.
- “Dạ Đài” là nơi âm phủ tăm tối, trong cảnh ngộ “cách mặt khuất lời” linh hồn
Thúy Kiều vẫn khao khát nhận được sự cảm thông, tưởng nhớ của những người
yêu thương nên chỉ xin Trọng một “chén nước” để làm phép tẩy oan.
- Thậm chí kể cả khi đã chết thì vẫn “mang nặng lời thề”. Nàng tự ví mình như “bồ
liễu”, “trúc mai” tuy mảnh mai, yếu đuối nhưng lại thanh cao.
=> Thúy Kiều vẫn khao khát được trở về cõi thế để chứng minh cho tình yêu bất
diệt của mình. Mong muốn được rửa oan khuất khi bị tước mất quyền sống,
quyền mưu cầu hạnh phúc.
7. Đánh giá:
a) Nội dung:
- Kiều trao duyên cho em. Cách trao duyên, trao lời tha thiết, tâm huyết; trao kỉ vật
lại dùng dằng, nửa trao, nửa níu với tâm trạng đớn đau dằn xé.
- Vẻ đẹp nhân cách Thúy Kiều thể hiện qua nỗi đau đớn khi duyên tình tan vỡ và
sự hi sinh đến quên mình vì hạnh phúc của người thân.
b) Nghệ thuật:
- Cách dùng từ ngữ linh hoạt, sinh động, bộc lộ được nỗi trăn trở của nhân vật.
- Miêu tả tâm lý nhân vật với những tâm tư dằng xé, xây dựng nhân vật đạt đến
đỉnh cao.
- Về hình thức, ta thấy toàn bộ trích đoạn là lời thoại của Kiều nói với Thúy Vân.
Tuy nhiên, có lúc, Kiều chuyển đối tượng, như đang đối thoại với chính mình chứ
không còn nói với Thúy Vân nữa. Ý nghĩa của sự chuyển đổi đối tượng cho thấy
khả năng tác giả nắm bắt một cách tinh tế quy luật diễn biến tâm trạng của nhân
vật.
TRAO DUYÊN
(8 câu cuối)
II. Thân bài:
1. Khái quát:
2. 2 câu đầu: Tâm trạng đau xót khi đối diện với thực tại của Kiều.
- Sau khi trao duyên, trao kỉ vật và nói hết nỗi lòng của mình với em gái,
Kiều đã nhìn lại cuộc đời mình với thực tại đau đớn đến xót xa:
“Bây giờ ... muôn vàn ái ân!”
- Từ chỗ nói với em, Kiều chuyển sang nói với mình, nói với người yêu; từ
giọng đau đớn chuyển thành tiếng khóc, khóc cho mình, khóc cho mối tình
đầu trong sáng, đẹp đẽ vừa mới chớm nở đã tan vỡ.
- Thúy Kiều chợt bừng tỉnh khi nghĩ về nỗi đau của đời mình, thấm thía hơn
hiện thực mối tình đẹp đẽ sâu nặng tha thiết với chàng Kim giờ chỉ đành bỏ
ngỏ, không thể tái hồi, dẫu có ghép lại thì cũng không còn được như xưa.
- “Trâm” và “gương” là những vật trai gái ngày xưa thường tặng cho nhau để
làm kỉ niệm của tình yêu. Thành ngữ “Trâm gãy gương tan” chỉ sự tan vỡ của
tình yêu, cũng chính là sự tan nát trong trái tim Thúy Kiều.
- Tình yêu với của nàng với Kim Trọng ngày một nâng lên, ngày càng tha
thiết, kéo theo đó là nỗi đau, sự dằn vặt trong trái tim nàng càng lúc càng
mạnh mẽ, đau đớn.
- Nghĩ về những ngày tháng xưa cũ với “muôn vàn ái ân” nhiều đến nỗi “kể
làm sao xiết” vậy mà giờ đây chính nàng lại là người lại thất hứa. => Kiều
nghẹn ngào, cay đắng, xót xa cho thân phận của mình.
- Nguyễn Du đã mở ra hai chiều thời gian hiện tại và quá khứ. Quá khứ thì
“muôn vàn ái ân”, đong đầy hạnh phúc trong khi ấy hiện tại thì bủa vây bởi
đau khổ, lỡ làng và bạc bẽo.
=> Sự đối lập nhấn mạnh, khắc sâu bi kịch, nỗi đau của Kiều, càng nuối
tiếc quá khứ đẹp đẽ bao nhiêu thì thực tại càng bẽ bàng, hụt hẫng bấy
nhiêu.
2. 2 câu tiếp theo:
- Khi nói chuyện với Vân, đôi lần Kiều chuyển đối tượng, có lúc nàng tự nói
với chính mình, có lúc lại như đang đối thoại với Kim Trọng:
“Trăm nghìn … ấy thôi”
- Kiều ý thức được rằng sợi dây tơ duyên chẳng thế níu được nữa. Trong sự
xúc động khôn xiết, nàng gửi một cái “lạy” đến chàng Kim.
- Nếu mở đầu đoạn trích, Kiều “lạy” Thúy Vân mong em chấp nhận lần trao
duyên này, thì đến đây cái “lạy” dành cho Kim Trọng là một lời tạ lỗi.
3. 2 câu tiếp theo:
- Một lần nữa, Kiều khóc cho thân phận của mình:
“Phận sao … lỡ làng”
- Kiều than thở số phận đã ngược đãi, tạo hóa trêu người đã cho nàng một
kiếp người bạc bẽo. Tình cảm, lòng tin yêu của Kim Trọng, Kiều không thể
đền đáp được, nàng day dứt, dày vò bản thân, tuyệt vọng.
- Có lẽ từ đầu buổi “trao duyên” đến lúc này, Kiều đã rất cố gắng bình tĩnh để
nói cho Vân nghe trọn vẹn điều nàng mong muốn. Đến khi lời cậy nhờ đã
được chấp thuận, khi dặn dò em gái xong, Thúy Kiều mới cho phép bản thân
mình được thương xót một cách thành thật nhất, tự nhiên nhất.
- Lời than oán của Kiều không ai có thể trả lời được, đó là một lời than oán
cay đắng, tuyệt vọng, kêu lên chỉ để oán trách trời mà thôi! “Nước chảy hoa
trôi” là cảnh xuân đã hết, hoa rụng, tuyết tan.
=> Tuổi thanh xuân trinh trắng và đẹp đẽ của Kiều đã chấm dứt từ đây.
4. 2 câu cuối: Màn độc thoại nội tâm của Thúy Kiều.
“Ôi Kim lang! ... từ đây!”
- Nếu như trong đoạn trên Kiều gọi là Kim Trọng là người yêu, thì đến đây
lại chuyển cách xưng hô là “lang” nghĩa là chồng.
- Kiều đối với Kim Trọng gắn bó, thương yêu sâu đậm như chồng. Tình cảm
của nàng bộc lộ theo mức độ tăng dần cùng đó là nỗi đau xót ngày một lớn,
không thể dồn nén thêm nữa.
- Những tính từ cảm thán “ôi”, “hỡi” khiến cậu độc thoại nội tâm của Kiều
như đang nói với Kim Trọng, lại tăng thêm sự ai oán, sầu khổ, vật vạ trong
lời nói của nàng.
- Lời kết nghẹn ngào “Thiếp đã phụ chàng” đưa người đọc đến gần hơn với
nỗi đau của Kiều. Nàng tự nhận lỗi về mình, cho rằng mình phụ chàng Kim
nên vô cùng day dứt, tự trách bản thân.
=> Kiều tội nghiệp, đáng thương biết bao!
5. Đánh giá:
a) Nội dung:
- Tâm trạng đau đớn của Kiều. Kiều gửi lời tạ lỗi đến Kim Trọng và khóc thương
cho số phận của mình.
- Vẻ đẹp nhân cách Thúy Kiều thể hiện qua nỗi đau đớn khi duyên tình tan vỡ và
sự hi sinh đến quên mình vì hạnh phúc của người thân.
b) Nghệ thuật:
- Cách dùng từ ngữ linh hoạt, sinh động, bộc lộ được nỗi trăn trở của nhân vật.
- Miêu tả tâm lý nhân vật với những tâm tư dằng xé, xây dựng nhân vật đạt đến
đỉnh cao.
- Tám câu cuối sử dụng nhiều hình ảnh đối lập và câu cảm thán để tăng tính
gợi cảm, tô đậm nỗi buồn, khắc họa hình ảnh Thúy Kiều nhỏ bé, bất hạnh
trước sự sắp đặt trớ trêu của số phận.
- Về hình thức, ta thấy toàn bộ trích đoạn là lời thoại của Kiều nói với Thúy Vân.
Tuy nhiên, có lúc, Kiều chuyển đối tượng, như đang đối thoại với chính mình chứ
không còn nói với Thúy Vân nữa. Ý nghĩa của sự chuyển đổi đối tượng cho thấy
khả năng tác giả nắm bắt một cách tinh tế quy luật diễn biến tâm trạng của nhân
vật.