Professional Documents
Culture Documents
FILE 20201206 164308 Đề-cương-Triết-2020
FILE 20201206 164308 Đề-cương-Triết-2020
FILE 20201206 164308 Đề-cương-Triết-2020
+ Hai là, xem xét các mối quan hệ bên ngoài của sự vật, hiện tượng.
Tức là, xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự vật,
hiện tượng khác, kể cả trực tiếp và gián tiếp.
+ Ba là, xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ với nhu cầu thực tiễn.
Ứng với mỗi con người, mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người bao giờ
cũng chỉ phản ánh được một số hữu hạn những mối liên hệ. Do đó, trí thức đạt được về sự vật, hiện
tượng chỉ là tương đối, không trọn vẹn, đầy đủ.
Ý thức được điều này sẽ giúp ta tránh được tuyệt đối hóa những tri thức đã có, tránh xem đó là những
chân lý luôn luôn đúng. Để nhận thức được sự vật, chúng ta phải nghiên cứu tất cả những mối liên hệ.
+ Bốn là, tuyệt đối tránh quan điểm phiến diện khi xem xét sự vật, hiện tượng.
Phiến diện tức là chỉ chú ý đến một hoặc một số ít những mối quan hệ. Cũng có nghĩa là xem xét
nhiều mối liên hệ nhưng đều là những mối liên hệ không bản chất, thứ yếu… Đó cũng là cách cào
bằng những thuộc tính, những tính quy định trong bản thân mỗi sự vật.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ đến chỗ khái quát để
rút ra cái bản chất, cái quan trọng nhất của sự vật, hiện tượng. Điều này không đồng nhất với cách
xem xét dàn trải, liệt kê.
Để đạt được mục đích đó, ta phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, phương tiện khác nhau để tác
động nhằm làm thay đổi những mối liên hệ tương ứng.
+ Quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi chúng ta phải kết hợp chặt chẽ giữ “chính sách dàn đều” và
“chính sách có trọng điểm”. Ví dụ như trong thực tiễn xây dựng, triển khai chính sách Đổi Mới, Đảng
Cộng sản Việt Nam vừa coi trọng đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…, vừa nhấn
mạnh đổi mới kinh tế là trọng tâm.
Nội dung cốt lõi của quan điểm này là chúng ta phải chú ý đúng mức đến hoàn cảnh lịch sử – cụ thể
đã làm phát sinh vấn đề đó, tới bối cảnh hiện thực, cả khách quan và chủ quan, của sự ra đời và
phát triển của vấn đề.
Nếu không quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể, cái mà chúng ta coi là chân lý sẽ trở nên sai lầm. Vì
chân lý cũng phải có giới hạn tồn tại, có không – thời gian của nó.
2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Vị trí: Là hạt nhân của phép biện chứng, vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển
của sự vật, hiện tượng.
Khái niệm mâu thuẫn:
o Dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đầu tranh và chuyển hoá giữa các mặt độc lập của mỗi sự
vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật hiện tượng.
o Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập, chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh
hướng vận động trái ngược nhau.
o Sự thống nhất của các mặt đối lập là tính quy định lẫn nhau giữa hai mặt đối lập, trong đó, sự
tồn tại của mặt đối lập này là điều kiện cho sự tồn tại của mặt đối lập kia.
o Sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập là khuynh hướng bài trừ, phủ định nhau và phá triển theo xu
hướng ngược nhau giữa hai mặt đối lập.
Tính chất:
o Tính khách quan của mâu thuẫn: Mọi sự vật trong tự nhiên, XH và tư duy không phải cái gì
cũng hoàn toàn thuần nhất mà là một hệ thống các yếu tố, các mặt, các khuynh hướng trái ngược
nhau, liên hệ hữu cơ với nhau tại nên những mâu thuẫn vốn có của sự vật.
o Tính phổ biến của mâu thuẫn: Không có sự vật nào không có mâu thuẫn, mâu thuẫn này mất
thì mâu thuẫn khác xuất hiện, từ đó sự vật phát triển không ngừng.
o Tính đa dạng phong phú của mâu thuẫn: Mỗi sự vật hiện tượng tồn tại trong mối liên hệ khác
nhau, trong những điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, vì vậy có nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, với
vai trò, vị trí khác nhau.
Sự chuyển hoá của mâu thuẫn: Quá trình vận động của mâu thuẫn biểu hiện trong sự thống nhấy
và đấu tranh giữa các mặt đối lập, tất yếu dẫn đến sự chuyển hoá giữa các mặt đối lập. Sự thống nhất
giữa các mặt đối lập là có điều kiện. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối,
cũng như sự phát triển, sự vận đông là tuyệt đối.
Ý nghĩa phương pháp luận:
o Khẳng định sự tồn tại của mâu thuẫn là tất yếu trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
o Cần phân biệt vị trí các loại mâu thuẫn khác nhau để có phương pháp giải quyết mâu thuẫn
phù hợp.
o Giải quyết mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực cho sự phát triển.
o + Phải có thái độ khách quan trong việc nhận thức mâu thuẫn của sự vật đó là thừa nhận tính khách
quan của mâu thuẫn, phát hiện kịp thời mâu thuẫn, xuất phát từ bản thân sự vật để tìm ra mâu thuẫn
của nó, phải xem xét phân tích một cách chi tiết, cụ thể.
o + Phải nắm vững phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó là thông qua đấu tranh giữa các mặt đối lập
chứ không được phép dung hòa các mặt đối lập, tuy nhiên phải vận dụng linh hoạt các hình thức đấu
tranh.
o + Phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức giải quyết mâu thuẫn thông qua hình thức chuyển hóa
mặt đối lập. Đó có thể là một trong hai mặt đối lập chuyển hóa vào mặt còn lại, hoặc mặt này thủ tiêu
mặt kia, hoặc cả hai mặt cùng chuyển hóa sang những hình thức mới của mình.
Liên hệ:
Trong mỗi mâu thuẫn thường có hai mặt đối lập liên hệ gắn bó với nhau tạo tiền đề cho nhau cùng tồn
tại, triết học gọi đó là sự thống nhất giữa các mặt đối lập.
Ví dụ như trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những chiều hướng trái
ngược với nhau. Sản xuất chính là việc tạo ra của cải vật chất, sản phẩm để có thể đáp ứng được nhu
cầu của người tiêu dùng. Còn tiêu dùng là mục đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả những sản
phẩm được sản xuất ra đều cần có người tiêu dùng.
Sản xuất là việc tạo ra sản phẩm và là đối tượng có thể cung cấp cho việc tiêu dùng. Nếu như không
có quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm tiêu dùng thì sẽ không thể có tiêu dùng.
Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng cho tiêu dùng, đây không phải là đối tượng
nói chúng mà là đối những đối tượng nhất định do bản thân sản xuất làm môi giới cho người tiêu
dùng.
Do đó sản xuất không chỉ là đối tượng của tiêu dùng mà nó còn quyết định về phương thức tiêu dùng.
Sản xuất cung cấp các sản phẩm cho tiêu dùng và tạo ra nhu cầu cho người tiêu dùng. Điều này có
nghĩa là chỉ khi sản xuất ra một loại sản phẩm nào đó thì mới tạo ra nhu cầu tiêu dùng đối với sản
phẩm đó.
Do vậy có thể thấy được rằng sản xuất và tiêu dùng chính là sự thống nhất của hai mặt đối lập, chúng
có tính chất tương đồng và có mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau từ đó tạo điều kiện cho nhau
cùng chuyển hóa, cùng phát triển.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử
1. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Khái niệm phương thức sản xuất:
Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định.Phương thức sản xuất
chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương
ứng.
- Khái niệm lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản
xuất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất,
trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản
xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất.
- Khái niệm quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản
xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong
tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất:
Đó là sự vận động trong mối quan hệ biện chứng, tác động và chuyển hóa lẫn nhau. Lực lượng
sản xuất phát triển, tất yếu sẽ dẫn tới sự thay đổi của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất thay đổi sẽ
tác động trở lại lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là nguồn gốc và động lực cho sự phát triển của lịch sử xã hội từ thấp đến cao. C.Mác đã khẳng
định rằng: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội
mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay – đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ
sản xuất đó – mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất
vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở
thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng
xã hội”.
Về lý luận, quy luật này chỉ ra nguồn gốc, động lực xuyên suốt trong lịch sử phát triển xã hội là mâu
thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Về thực tiễn, quy luật định hướng cho
sự nghiệp xây dựng xã hội hiện nay trên các mặt: phát triển con người, phát triển lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất một cách phù hợp, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vận dụng:
Để phát triển lực lượng sản xuất trong bối cảnh kinh tế tri thức đang thịnh hành, Đảng ta chú trọng
đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xác định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai
đoạn tới là tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri
thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu; huy
động và phân bổ có hiệu quả mọi nguồn lực phát triển. Xây dựng cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động
hợp lý, phát huy lợi thế so sánh, có năng suất lao động và năng lực cạnh tranh cao, tham gia sâu rộng
vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; có văn minh công nghiệp chiếm ưu thế trong sản xuất và
đời sống xã hội; phát triển nhanh và bền vững phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn”.
Cùng với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta nhấn mạnh đến việc đổi mới giáo dục,
đào tạo; phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ trong việc phát triển lực lượng sản xuất.
Đảng ta nhấn mạnh: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài… Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học - công nghệ, yêu cầu
phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động” và “Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ,
làm cho khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế”.
Trên trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, việc xây dựng quan hệ sản xuất trên ba mặt cấu thành
của nó cũng được Đảng ta quan tâm. Đại hội XII chú ý đến “phương thức quản lý, quản trị hiện
đại; phát huy tiềm năng con người và khuyến khích tinh thần sản xuất kinh doanh của mọi
người”.Đại hội cũng đã nhấn mạnh đến mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất trong nền kinh tế của nước ta hiện nay.