FILE 20201206 164308 Đề-cương-Triết-2020

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 21

CHƯƠNG 1:

1. Triết học Ấn Độ cổ đại – Phật giáo- Học thuyết Tứ diệu đế


Nhân sinh quan: Phật giáo quan niệm bản thân con người được tạo thành do sự nhóm họp của ngũ
uẩn theo luật nhân - duyên - quả. Ngoài ra, sự xuất hiện con người còn phụ thuộc vào nghiệp của kiếp
trước, do có nghiệp thiện mà được trở lại làm người tức một trong sáu con đường tái sinh - luân hồi
(lục đạo: Cõi Phật, người, atula, quỷ, súc sinh, địa ngục). Được trở lại làm người là do kiếp trước
chưa tu thân triệt để, vì vậy cuộc đời vẫn chưa thoát khỏi bể khổ. Kiếp người do đó là kiếp trầm luân.
Phật giáo ra đời để cứu khổ, cứu nạn, để giải thoát con người khỏi vòng luân hồi khổ ải bất tận đó.
Để giải thoát, giáo lý Phật giáo đưa ra quan điểm Tứ diệu đế:
Khổ đế: Đời là bể khổ. Cái khổ của cuộc đời gồm “Bát khổ” - tám nỗi khổ.
Nhân đế (còn gọi Tập đế): Mọi cái khổ đều có nguyên nhân. Phật giáo quan niệm có 12 nhân duyên
(thập nhị nhân duyên), gây ra khổ. Khái quát là bởi tam độc: tham, sân, si.
Diệt đế: Phật giáo khẳng định cái khổ có thể diệt được, có thể chấm dứt được luân hồi để đến với niết
bàn, nơi bình an, hạnh phúc. Muốn diệt khổ phải diệt tham, sân, si, diệt thập nhị nhân duyên, đưa ý
thức của con người về trạng thái tĩnh, hư không.
Đạo đế: Phật giáo chỉ ra con đường giải thoát, diệt khổ, tức là tiêu diệt tham, sân, si. Con đường tiêu
diệt vô minh gổm tám con đường chính (Bát chính đạo) để đạt đến trạng thái niết bàn. Tám nguyên
tắc này có thể thâu tóm vào ba điều học tập, rèn luyện là Tam học: Giới - định - tuệ (tức là giữ giới
luật, thực hành thiền định và khai thông trí tuệ).
Ý nghĩa:
Tóm lại, Phật giáo là một tôn giáo lớn của thế giới. Nhưng học thuyết triết học Phật giáo có sự kế
thừa một cách chọn lọc truyền thống tư tưởng Ấn Độ. Lý tưởng thiện chân trong học thuyết này thể
hiện như là một đức tính tốt đẹp mà con người cần phải và có thể đạt được. Mỗi con người muốn đạt
được sự giải thoát phải thực sự nỗ lực trên cơ sở tự do lựa chọn của mình. Để khẳng định phẩm chất
đạo đức cá nhân, con người phải chiến thắng chính bản thân mình. Trong khổ đau và giải thoát ra
khỏi nỗi khổ đó, mọi người đều bình đẳng.
Tuy nhiên, xu hướng xuất thế, lảng tránh cuộc sống thực tiễn trần thế là điểm yếu, là xu hướng yếm
thế của Phật giáo. Phật giáo khuyến khích con người tu luyện theo cách hướng nội, làm thay đổi
tâm lý cá nhân chứ không có mục đích cải tạo xã hội, cải tạo tự nhiên theo hướng tích cực.
2. Triết học Hy lạp cổ đại (SGK)
Hy Lạp là trung tâm văn minh của phương Tây cổ đại. Sự hình thành triết học Hy Lạp là kết
quả khái quát những giá trị cao quý nhất từ thần thoại, sử thi, nghệ thuật và những hoạt động văn hóa
tinh thần của xã hội cổ đại - một thế giới đã đạt đến trình độ phát triển khá cao về mặt kinh tế - xã
hội, cao đến mức nhiều thành tựu của Hy Lạp cổ đại đã trở thành khuôn thước mẫu mực cho sự phát
triển về sau. về điều này C.Mác đã khẳng định: “mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh
thần của thời đại mình”1. Là những hình thức triết học đầu tiên của nhân loại, triết học Hy Lạp là
xuất phát điểm cho mọi tiến bộ về sau của phương Tây và của loài người, từ thế giới quan và nhân
sinh quan đến khoa học, nghệ thuật, giáo dục.Triết học Hy Lạp cổ đại có những đặc điểm sau:
- Chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại mang tính chất phác. Các nhân tố cấu thành thế giớimà các
nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại hướng tới thường là các yếu tố trực quan trong đời sống hằng
ngày như đất, nước, lửa, không khí... Do hạn chế của sự khái quát thuộc về trình độ nhận thức đặc
trưng của thời đại nên các nhà triết học cổ đại đã đồng nhất vật chất với một hoặc một số dạng biểu
hiện của vật chất, làm hạn chế vai trò phương pháp luận của triết học và không đáp ứng được sự
phát triến của khoa học tự nhiên trong quan niệm về vật chất như ở các giai đoạn về sau.
- Triết học Hy Lạp cổ đại đã khai sinh ra những tư tưởng biện chứng với đặc trưng tiêu biểu
của nó là tự phát và ngây thơ. Các nhà triết học đã nhìn nhận các sự vật, hiện tượng và thế giới
trong sự biến đổi nhưng đó chỉ là kết quả của cảm nhận trực quan, thiếu tính liên hệ sâu sắc, phổ
biến, bản chất.
- Với tư cách là kho tàng tri thức tổng hợp, kết tinh những gì tinh túy nhất mà nhân loạiđã tích
lũy được, triết học Hy Lạp cổ đại đã dung chứa hầu hết các vấn đề của thế giới quan và là tiền đề
cho sự phát triển của toàn bộ triết học phương Tây về sau. Ph. Ăngghen đánh giá: “từ các hình thức
muôn vẻ của triết học Hy Lạp, đã có mầm mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan
sau này”. Đặc điểm này cũng tạo nên nét đặc thù của triết học phương Tây trong so sánh với triết học
phương Đông
CHƯƠNG 2:
Phép biện chứng duy vật
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Khái niệm: Chỉ sự quy định, tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các yếu tố trong mỗi sự vật, hiện
tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau, tồn tại phổ biến trong thế giới.
Tính chất:
o Tính khách quan: Mối liên hệ giữa các sự vật hiện, hiện tượng trong thế giới có tính khách
quan vì nó tồn tại tất yếu, độc lập với ý thức chủ quan của con người.
o Tính phổ biến: Mối liên hệ phổ biến có tỉnh phổ biến, vì nó tồn tại trong tất cả các lĩnh vực,
trong mọi sự vật, hiện tượng và trong tất cả các quá trình phát triển của mỗi sự vật, hiện tượng.
o Tính đa dạng: Mối liên hệ phổ biến có tính đa dạng phong phú vì nó có tồn tại trong những
hoàn cảnh, điều kiện cụ thể nhất định, có tính chất vai trò và vị trí khác nhau.
Ý nghĩa:
Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, đa dạng, do đó
muốn nhận thức đúng và có phương pháp tác động hiệu quả vào mỗi sự vật phải có quan điểm toàn
diện. Quan điểm toàn diện đòi hỏi phải xem xét đầy đủ các mối liên hệ của sự vật đó với các sự vật
khác; bao gồm liên hệ trực tiếp và gián tiếp; đồng thời xem xét các mối liên hệ giữa các yếu tố, thuộc
tính bên trong của sự vật. V.I. Lênin viết: “ Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát
và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”.
Quan điểm toàn diện bao hàm quan điểm lịch sử cụ thể: phải nhận thức đầy đủ các mối liên hệ của sự
vật, nắm được bản chất bên trong, trực tiếp, đồng thời phải nhận thức được không gian, thời gian,
điều kiện cụ thể của sự vật tồn tại, trên cơ sở đó mới nắm bắt được xu hướng biến đổi của sự vật.
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, là cách xem xét từng mặt, từng mối liên hệ
tách rời nhau, không thấy được mối liên hệ đa dạng của sự vật.
III. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng, chúng ta rút ra quan
điểm toàn diện và quan điểm lịch sử – cụ thể trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.

1. Quan điểm toàn diện


Quán triệt quan điểm toàn diện, chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng như sau:

– Trong nhận thức, trong học tập:


+ Một là, xem xét các mối quan hệ bên trong của sự vật, hiện tượng.
Tức là xem xét những mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các tuộc tính khác nhau
của chính sự vật, hiện tượng đó.

+ Hai là, xem xét các mối quan hệ bên ngoài của sự vật, hiện tượng.
Tức là, xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự vật,
hiện tượng khác, kể cả trực tiếp và gián tiếp.

+ Ba là, xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ với nhu cầu thực tiễn.
Ứng với mỗi con người, mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người bao giờ
cũng chỉ phản ánh được một số hữu hạn những mối liên hệ. Do đó, trí thức đạt được về sự vật, hiện
tượng chỉ là tương đối, không trọn vẹn, đầy đủ.

Ý thức được điều này sẽ giúp ta tránh được tuyệt đối hóa những tri thức đã có, tránh xem đó là những
chân lý luôn luôn đúng. Để nhận thức được sự vật, chúng ta phải nghiên cứu tất cả những mối liên hệ.

+ Bốn là, tuyệt đối tránh quan điểm phiến diện khi xem xét sự vật, hiện tượng.
Phiến diện tức là chỉ chú ý đến một hoặc một số ít những mối quan hệ. Cũng có nghĩa là xem xét
nhiều mối liên hệ nhưng đều là những mối liên hệ không bản chất, thứ yếu… Đó cũng là cách cào
bằng những thuộc tính, những tính quy định trong bản thân mỗi sự vật.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ đến chỗ khái quát để
rút ra cái bản chất, cái quan trọng nhất của sự vật, hiện tượng. Điều này không đồng nhất với cách
xem xét dàn trải, liệt kê.

– Trong hoạt động thực tiễn


+ Quan điểm toàn diện đòi hỏi, để cải tạo được sự vật, chúng ta phải dùng hoạt động thực tiễn để biến
đổi những mối liên hệ nội tại của sự vật và những mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với những sự vật
khác.

Để đạt được mục đích đó, ta phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, phương tiện khác nhau để tác
động nhằm làm thay đổi những mối liên hệ tương ứng.

+ Quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi chúng ta phải kết hợp chặt chẽ giữ “chính sách dàn đều” và
“chính sách có trọng điểm”. Ví dụ như trong thực tiễn xây dựng, triển khai chính sách Đổi Mới, Đảng
Cộng sản Việt Nam vừa coi trọng đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…, vừa nhấn
mạnh đổi mới kinh tế là trọng tâm.

2. Quan điểm lịch sử – cụ thể


Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong không – thời gian nhất định và mang dấu ấn của không – thời
gian. Do đó, ta nhất thiết phải quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể khi xem xét, giải quyết mọi vấn đề
do thực tiễn đặt ra.

Nội dung cốt lõi của quan điểm này là chúng ta phải chú ý đúng mức đến hoàn cảnh lịch sử – cụ thể
đã làm phát sinh vấn đề đó, tới bối cảnh hiện thực, cả khách quan và chủ quan, của sự ra đời và
phát triển của vấn đề.

Nếu không quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể, cái mà chúng ta coi là chân lý sẽ trở nên sai lầm. Vì
chân lý cũng phải có giới hạn tồn tại, có không – thời gian của nó.

Liên hệ Việt Nam


Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta không
những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của
sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời, chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các
phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu "dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", một mặt, chúng ta phải phát huy nội lực của đất
nước ta; mặt khác, phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hóa mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội và toàn cầu hóa kinh tế đưa lại.
Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải
chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát
triển. Thực tế cho thấy rằng, một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này, nhưng
sẽ không là luận điểm khoa học trong điều kiện khác. Vì vậy để xác định đúng đường lối, chủ trương
của từng giai đoạn cách mạng, của từng thời kỳ xây dựng đất nước, bao giờ Đảng ta cũng phân tích
tình hình cụ thể của đất nước ta cũng như bối cảnh lịch sử quốc tế diễn ra trong từng giai đoạn và
từng thời kỳ đó và trong khi thực hiện đường lối, chủ trương, Đảng ta cũng bổ sung và điều chỉnh cho
phù hợp với diễn biến của hoàn cảnh cụ thể.
1. Khái niệm về sự phát triển
– Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá
trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn.
– Ta cần phân biệt khái niệm “vận động” và khái niệm “phát triển“:
+ Vận động là mọi biến đổi nói chung. Khái niệm này có ngoại diên lớn hơn khái niệm phát triển.
+ Phát triển là sự vận động có khuynh hướng tạo ra cái mới hợp quy luật. Phát triển gắn liền với sự ra
đời của cái mới này.
Nhờ có sự phát triển, cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật cũng như chức năng
vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn. Như thế, phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận
động.
– Quan điểm biện chứng thừa nhận tính phức tạp, tính không trực tuyến của quá trình phát triển. Sự
phát triển có thể diễn ra theo con đường quanh co, phức tạp, trong đó không loại trừ bước thụt lùi
tương đối.
2. Tính chất của sự phát triển
2.1. Tính khách quan của sự phát triển
– Tất cả các sự vật, hiện tượng trong hiện thực luôn vận động, phát triển một cách khách quan, độc lập
với ý thức của con người. Đây là sự thật hiển nhiên, dù ý thức của con người có nhận thức được hay
không, có mong muốn hay không.
Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngày trong chính bản thân của sự vật, hiện tượng. Đó là sự thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập thuộc mỗi sự vật, hiện tượng.
Phát triển là quá trình tự thân (tự nó, tự mình) của mọi sự vật, hiện tượng.
– Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tính khách quan của sự phát triển đã phủ nhận quan
điểm của chủ nghĩa duy tâm và quan điểm siêu hình về sự phát triển.
Quan điểm duy tâm cho rằng nguồn gốc của sự phát triển ở các lực lượng siêu nhiên, phi vật chất
(thần linh, thượng đế), hay ở ý thức con người. Tức là đều nằm ở bên ngoài sự vật, hiện tượng.
Quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng về cơ bản là “đứng im”, không phát triển.
Hoặc phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về mặt lượng (số lượng, kích thước…) mà không có sự
biến đổi về chất.
2.2. Tính phổ biến của sự phát triển
Sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực, từ tự nhiên, xã hội và tư duy. Từ hiện thực khách quan đến
những khái niệm, những phạm trù phản ánh hiện thực ấy.
Trong hiện thực, không có sự vật, hiện tượng nào là đứng im, luôn luôn duy trì một trạng thái cố định
trong suốt quãng đời tồn tại của nó.
2.3. Tính kế thừa của sự phát triển
Sự phát triển tạo ra cái mới phải trên cơ sở chọn lọc, kế thừa, giữ lại, cải tạo ít nhiều những bộ phận,
đặc điểm, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ; đồng thời cũng đào thải, loại bỏ những gì tiêu cực, lạc
hậu, không tích hợp của cái cũ. Đến lượt nó, cái mới này lại phát triển thành cái mới khác trên cơ sở
kế thừa như vậy.
Đó là quá trình phủ định biện chứng. Là sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Quá trình
này diễn ra vô cùng, vô tận theo hình xoáy trôn ốc.
2.4. Tính phong phú, đa dạng của sự phát triển
Sự phát triển có muôn hình, muôn vẻ, biểu hiện ra bên ngoài theo vô vàn loại hình khác nhau.
Sự phong phú của các dạng vật chất và phương thức tồn tại của chúng quy định sự phong phú của phát
triển. Môi trường, không gian, thời gian và những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau tác động vào các sự
vật, hiện tượng cũng làm cho sự phát triển của chúng khác nhau.
Trong giới hữu cơ, sự phát triển biểu hiện ở khả năng thích nghi của cơ thể trước sự biến đổi của môi
trường, ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng cao hơn…
Sự phát triển trong xã hội biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội ngày càng lớn của
con người.
Đối với tư duy, sự phát triển là năng lực nhận thức ngày càng sâu sắc, toàn diện, đúng đắn hơn.
3. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về sự phát triển
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển của các sự vật, hiện tượng, chúng ta rút ra quan điểm
phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điển này đòi hỏi:
Thứ nhất: Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải đặt nó trong sự vận động và phát triển.
– Ta cần phải nắm được sự vật không chỉ như là cái nó đang có, đang hiện hữu trước mắt, mà còn phải
nắm được khuynh hướng phát triển tương lai, khả năng chuyển hóa của nó. Bằng tư duy khoa học, ta
phải làm sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó.
– Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt đối hóa một
nhận thức nào đó về sự vật có được trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, xem đó là nhận thức duy
nhất đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đưa chúng ta đến sai lầm
nghiêm trọng.
Thứ hai: Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát triển trong thực tiễn.
Ta cần phải xác quyết rằng các sự vật, hiện tượng phát triển theo một quá trình biện chứng đầy mâu
thuẫn. Do đó ta phải công nhận tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như một hiện tượng
phổ biến, đương nhiên.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với mỗi bước thụt lùi
tương đối của sự vật, hiện tượng. Bi quan về sự thụt lùi tương đối sẽ khiến chúng ta gặp phải những
sai lầm tai hại.
Thứ ba: Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
– Ta phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn trong mỗi sự vật, hiện tượng. Từ đó,
xác định biện pháp phù hợp giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển.
Việc xác định những biện pháp cũng cần căn cứ vào từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể của sự vật, hiện
tượng. Vì sự phát triển diễn ra theo nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn.
– Vì trong sự phát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện, cổ vũ cái mới phù hợp, tìm cách
thúc đẩy để cái mới đó chiếm vai trò chủ đạo.
Ta cũng phải tìm cách kế thừa những bộ phận, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ, đồng thời kiên
quyết loại bỏ những gì thuộc cái cũ mà lạc hậu, cản trở sự phát triển.
Thứ tư: Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến thức thực tiễn.
Tuyệt đối tránh bảo thủ, trì trệ trong tư duy và hành động.
– Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về lượng để tạo ra sự thay đổi về chất. Do đó,
chúng ta phải luôn nỗ lực, chăm chỉ lao động để làm cho sự vật, hiện tượng tích lũy đủ về lượng rồi
dẫn đến sự thay đổi về chất.

2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Vị trí: Là hạt nhân của phép biện chứng, vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển
của sự vật, hiện tượng.
Khái niệm mâu thuẫn:
o Dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đầu tranh và chuyển hoá giữa các mặt độc lập của mỗi sự
vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật hiện tượng.
o Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập, chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh
hướng vận động trái ngược nhau.
o Sự thống nhất của các mặt đối lập là tính quy định lẫn nhau giữa hai mặt đối lập, trong đó, sự
tồn tại của mặt đối lập này là điều kiện cho sự tồn tại của mặt đối lập kia.
o Sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập là khuynh hướng bài trừ, phủ định nhau và phá triển theo xu
hướng ngược nhau giữa hai mặt đối lập.
Tính chất:
o Tính khách quan của mâu thuẫn: Mọi sự vật trong tự nhiên, XH và tư duy không phải cái gì
cũng hoàn toàn thuần nhất mà là một hệ thống các yếu tố, các mặt, các khuynh hướng trái ngược
nhau, liên hệ hữu cơ với nhau tại nên những mâu thuẫn vốn có của sự vật.
o Tính phổ biến của mâu thuẫn: Không có sự vật nào không có mâu thuẫn, mâu thuẫn này mất
thì mâu thuẫn khác xuất hiện, từ đó sự vật phát triển không ngừng.
o Tính đa dạng phong phú của mâu thuẫn: Mỗi sự vật hiện tượng tồn tại trong mối liên hệ khác
nhau, trong những điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, vì vậy có nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, với
vai trò, vị trí khác nhau.
Sự chuyển hoá của mâu thuẫn: Quá trình vận động của mâu thuẫn biểu hiện trong sự thống nhấy
và đấu tranh giữa các mặt đối lập, tất yếu dẫn đến sự chuyển hoá giữa các mặt đối lập. Sự thống nhất
giữa các mặt đối lập là có điều kiện. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối,
cũng như sự phát triển, sự vận đông là tuyệt đối.
Ý nghĩa phương pháp luận:
o Khẳng định sự tồn tại của mâu thuẫn là tất yếu trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
o Cần phân biệt vị trí các loại mâu thuẫn khác nhau để có phương pháp giải quyết mâu thuẫn
phù hợp.
o Giải quyết mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực cho sự phát triển.

o + Phải có thái độ khách quan trong việc nhận thức mâu thuẫn của sự vật đó là thừa nhận tính khách
quan của mâu thuẫn, phát hiện kịp thời mâu thuẫn, xuất phát từ bản thân sự vật để tìm ra mâu thuẫn
của nó, phải xem xét phân tích một cách chi tiết, cụ thể.
o + Phải nắm vững phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó là thông qua đấu tranh giữa các mặt đối lập
chứ không được phép dung hòa các mặt đối lập, tuy nhiên phải vận dụng linh hoạt các hình thức đấu
tranh.
o + Phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức giải quyết mâu thuẫn thông qua hình thức chuyển hóa
mặt đối lập. Đó có thể là một trong hai mặt đối lập chuyển hóa vào mặt còn lại, hoặc mặt này thủ tiêu
mặt kia, hoặc cả hai mặt cùng chuyển hóa sang những hình thức mới của mình.

Liên hệ:

Trong mỗi mâu thuẫn thường có hai mặt đối lập liên hệ gắn bó với nhau tạo tiền đề cho nhau cùng tồn
tại, triết học gọi đó là sự thống nhất giữa các mặt đối lập.
Ví dụ như trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những chiều hướng trái
ngược với nhau. Sản xuất chính là việc tạo ra của cải vật chất, sản phẩm để có thể đáp ứng được nhu
cầu của người tiêu dùng. Còn tiêu dùng là mục đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả những sản
phẩm được sản xuất ra đều cần có người tiêu dùng.
Sản xuất là việc tạo ra sản phẩm và là đối tượng có thể cung cấp cho việc tiêu dùng. Nếu như không
có quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm tiêu dùng thì sẽ không thể có tiêu dùng.
Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng cho tiêu dùng, đây không phải là đối tượng
nói chúng mà là đối những đối tượng nhất định do bản thân sản xuất làm môi giới cho người tiêu
dùng.
Do đó sản xuất không chỉ là đối tượng của tiêu dùng mà nó còn quyết định về phương thức tiêu dùng.
Sản xuất cung cấp các sản phẩm cho tiêu dùng và tạo ra nhu cầu cho người tiêu dùng. Điều này có
nghĩa là chỉ khi sản xuất ra một loại sản phẩm nào đó thì mới tạo ra nhu cầu tiêu dùng đối với sản
phẩm đó.
Do vậy có thể thấy được rằng sản xuất và tiêu dùng chính là sự thống nhất của hai mặt đối lập, chúng
có tính chất tương đồng và có mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau từ đó tạo điều kiện cho nhau
cùng chuyển hóa, cùng phát triển.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử
1. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Khái niệm phương thức sản xuất:
Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định.Phương thức sản xuất
chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương
ứng.
- Khái niệm lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản
xuất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất,
trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản
xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất.
- Khái niệm quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản
xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong
tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.

Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất:

Đó là sự vận động trong mối quan hệ biện chứng, tác động và chuyển hóa lẫn nhau. Lực lượng
sản xuất phát triển, tất yếu sẽ dẫn tới sự thay đổi của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất thay đổi sẽ
tác động trở lại lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là nguồn gốc và động lực cho sự phát triển của lịch sử xã hội từ thấp đến cao. C.Mác đã khẳng
định rằng: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội
mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay – đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ
sản xuất đó – mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất
vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở
thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng
xã hội”.

Ý nghĩa quy luật:

Về lý luận, quy luật này chỉ ra nguồn gốc, động lực xuyên suốt trong lịch sử phát triển xã hội là mâu
thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Về thực tiễn, quy luật định hướng cho
sự nghiệp xây dựng xã hội hiện nay trên các mặt: phát triển con người, phát triển lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất một cách phù hợp, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vận dụng:
Để phát triển lực lượng sản xuất trong bối cảnh kinh tế tri thức đang thịnh hành, Đảng ta chú trọng
đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xác định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai
đoạn tới là tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri
thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu; huy
động và phân bổ có hiệu quả mọi nguồn lực phát triển. Xây dựng cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động
hợp lý, phát huy lợi thế so sánh, có năng suất lao động và năng lực cạnh tranh cao, tham gia sâu rộng
vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; có văn minh công nghiệp chiếm ưu thế trong sản xuất và
đời sống xã hội; phát triển nhanh và bền vững phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn”.
Cùng với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta nhấn mạnh đến việc đổi mới giáo dục,
đào tạo; phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ trong việc phát triển lực lượng sản xuất.
Đảng ta nhấn mạnh: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài… Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học - công nghệ, yêu cầu
phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động” và “Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ,
làm cho khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế”.
Trên trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, việc xây dựng quan hệ sản xuất trên ba mặt cấu thành
của nó cũng được Đảng ta quan tâm. Đại hội XII chú ý đến “phương thức quản lý, quản trị hiện
đại; phát huy tiềm năng con người và khuyến khích tinh thần sản xuất kinh doanh của mọi
người”.Đại hội cũng đã nhấn mạnh đến mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất trong nền kinh tế của nước ta hiện nay.

2. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng


Khái niệm:
o Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất, hợp thành cơ cấu kinh tế - xã hội nhất định,
bao gồm: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống. Trong
đóm quan hệ sản xuất thống trị đóng vai trò chủ đạo, chi phối các mối quan hệ sản xuất còn lại.
o Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức,
tôn giáo, nghệ thuật,... cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội,
các đoàn thể xã hội, ... được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định. KTTT mang tính giai cấp
Quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT
o Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng.
▪ Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội, chúng thống nhất biện
chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng.
▪ Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chỗ: Mỗi cơ sở hạ
tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó. Tính chất của kiến trúc thượng
tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về
kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Tất cả các
yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo,... đều trực tiếp hay
gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
▪ Cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo.
o Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.
▪ Thông qua chức năng chính trị- xã hội của kiến trúc thượng tầng
▪ Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầngm nhưng có
vai trò, vị trí khác nha, theo hai khuynh hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển
Ý nghĩa: Mối quan hệ biện chứng này là điều kiện để phát huy vai trò của văn hoá tinh thần, các thiết
chế chính trị, XH, đặc biệt là phát huy vai trò nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống XH.
Vận dụng:
Thứ nhất, Đảng ta đã rút ra được một số kinh nghiệm sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI,
trong đó có kinh nghiệm thứ ba là “gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó:
phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa - nền tảng tinh
thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên”.
Thứ hai, Đảng ta xác định trong 5 năm tới, phải “đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi
phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị” và Đảng đã nêu ra mục tiêu tổng quát,
trong đó đề cập đến việc gắn bó chặt chẽ giữa xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng: “Tăng
cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm
đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Thứ ba, quá trình xây dựng “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” thể hiện rõ nét
nhất mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở nước ta hiện nay. Mối quan hệ này
cần quán triệt, vận dụng những nội dung trong Văn kiện Đại hội XII, với ba nội dung cơ bản: Một là,
cần nhận thức đúng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai là, tiếp tục hoàn thiện
thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp.Ba là, nâng cao năng
lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội và phát huy vai
trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
3. Mối liên hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
CHƯƠNG 3
Vai trò của thế giới quan và phương pháp luận của triết học đối với sự phát triển KH
1. Thế giới quan và phương pháp iuận
- Khái niệm thế giới quan
Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ thống các quan điểm về thế giới và về vị thế của con người
(bao hàm cả xã hội và nhân loại) trong thế giới đó; tức là hệ thống quan điểm về mối quan hệ của con
người với thế giới và với chính mình.
Thế giới quan của toàn xã hội thay đổi qua các thời đại được diễn ra dưới tác động của văn hoá nói
chung của các thời đại. Kiểu tư duy của mỗi thời kỳ lịch sử thể hiện quan hệ đánh giá của con người
với thế giới mới trong mỗi thời kỳ.
Thế giới quan là những quan niệm chung, vĩ mô, khái quát, định hướng của con người về mối quan
hệ giữa thế giới với con người.
- Kết cấu và những hình thức chủ yếu của thế giới quan
+ Về mặt kết cấu, những thành phẩn quan trọng cấu thành thế giới quan thường được thừa nhận (một
cách tương đối) gồm:
- Những quan điểm và quan niệm sống chủ yếu.
- Những lý tưởng lớn và ý chí quy định hành vi.
- Niềm tin và những tín ngưỡng cơ bản.
- Tình cảm và thái độ chủ yếu.
- Những nguyên tắc và khuôn mẫu hoạt động.
- Hệ thống giá trị và những định hướng giá trị cơ bản cho nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Khi thực hiện chức năng của mình, thế giới quan luôn có xu hướng giả lược hoá, lý tưởng hoá những
dạng thức phong phý của văn hoá và lịch sử trong đời sống XH hiện thực được con người định ra
cho mình một các lý tưởng hoá, thành những khuôn mẫu văn hoá điều chỉnh hành vi.
+ Về mặt loại hình, thế giới quan thường được phân loại thành các hình thức chủ yếu sau:
. Phân loại theo chủ thể của thế giới quan:
Thế giới quan của các tầng lớp, các giai cấp xã hội.
Thế giới quan của các cộng đổng xã hội khác.
Thế giới quan của toàn xã hội, hay của một thời kỳ lịch sử nào đó của một xã hội.
. Phân loại theo trình độ của bản thân thế giới quan:
Thế giới quan thường ngày.
Thế giới quan huyền thoại.
Thế giới quan tôn giáo.
Thế giới quan triết học.
Thế giới quan khoa học.
Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan; triết học giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố
và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử.
Triết học là công cụ lý luận hữu hiệu giúp con người nhìn nhận thế giới xung quanh cũng như tự xem
xét chính bản thân mình để xác định cho mình mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức
hoạt động đạt được mục đích, ý nghĩa đó.
- Khái niệm phương pháp luận
Phương pháp luận là hệ thống lý luận về các phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn, là hệ
thống các quan điểm, các nguyên tắc tìm kiếm, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp
nhận thức và hoạt động thực tiễn. Phương pháp luận bao gồm các nguyên tắc thế giới quan, các
nguyên tắc sử dụng phương pháp cho một ngành khoa học, một lĩnh vực nhận thức và hoạt động thực
tiễn. Phương pháp luận còn là lý luận về bản thân phương pháp.
- Phân loại và những hình thức chủ yếu của phương pháp luận
Từ những năm 1970, các nhà khoa học đã tương đối thống nhất chia phương pháp luận thành các loại
chủ yếu sau:
- Phương pháp luận triết học.
- Phương pháp luận khoa học chung, bao gồm cả phương pháp luận của các khoa học liên ngành, đa
nganh, xuyên ngành.
- Phương pháp luận của các khoa học cụ thể, chuyên biệt, bao gồm cả phương pháp luận của các khoa
học giáp ranh.
- Phương pháp luận của các hoạt động nghiên cứu, kỹ thuật, công nghệ chuyên biệt.
Phương pháp luận chung nhất, phổ biến nhất, có khả năng được sử dụng trong mọi ngành khoa học
là phương pháp luận triết học.
2.Triết học là cơ sở để giải thích và định hướng nhận thức và hoạt động của các khoa học
- Triết học có vai trò thúc đẩy (hoặc kìm hãm) sự phát triển của khoa học
+ Triết học sáng suốt dẫn đường cho khoa học phát minh, sáng chế.
Tất cả các phát minh khoa học, nhất là những phát minh có ý nghĩa vạch thời đại, dù nhà khoa học có
thừa nhận hay không, đểu được định hướng hay ảnh hưởng bởi những tư tưởng triết học dẫn đường
nào đó.
+ Sự hạn chế trong tư tưởng triết học sẽ dẫn tới cản trở khoa học và hoạt động thực tiễn.
Thực tế cho thấy, các nghiên cứu về phỏng sinh học và vận trù học gặp nhiều khó khăn khi ứng dụng
các phương pháp luận máy móc, cứng nhắc. Các nhà khoa học bị cầm tù trong các triết học này khó
có thể có những phát kiến hữu ích.
+ Phép biện chứng duy vật là cơ sở phương pháp luận của khoa học hiện đại, là công cụ để nhận
thức thế giới và cải tạo thế giới, định hướng phát triển khoa học.
- Phương pháp luận siêu hình cản trở sự phát triển của khoa học
Triết học siêu hình và phương pháp luận cơ học, máy móc trước đây đã được chứng tỏ là những loại
công cụ triết học dẫn nhà khoa học đến ngõ cụt. Bởi vậy, chủ động tránh và đoạn tuyệt triệt đế với
cách nhìn siêu hình trong sáng tạo, phát minh, lý giải và hoạt động khoa học là điều mà các nhà khoa
học luôn luôn phải đặc biệt chú ý.
3. Nhà khoa học không thể thiếu phương pháp luận triết học sáng suốt dẫn đường
- Thiếu tư duy triết học sáng suốt dẫn đường, nhà khoa học khó có thể xác định tốt những định hướng
nghiên cứu đúng đắn, tối ưu để đi tới những phát minh, sáng chế.
Tư duy triết học sáng suốt dẫn đường là cái không thể không có. Tất nhiên điều này không máy móc
đến mức thúc ép nhà khoa học nào cũng phải cố đi theo một loại triết học được coi là sáng suốt nào
đó. Vấn đề là ở chỗ, trước các tình huống có vấn đề, nhà khoa học thường có thể có nhiều lựa chọn.
Triết học sáng suốt, rất tự nhiên, sẽ mách bảo nhà khoa học và bản thân khoa học đi theo lựa chọn
nào.
+ Nhà khoa học đạt tới trình độ cao trong các khoa học chuyên ngành thường là những người có tư
duy triết học sâu sắc.
Những tri thức khoa học đỉnh cao thường là những tri thức giáp ranh với các miền tri thức khác, đòi
hỏi phải xử lý về phương diện triết học. Bản thân tri thức phương pháp luận của các ngành khoa học
chuyên biệt, tại các vùng giáp ranh, thường không còn đủ bao quát để dẫn đường cho chính nó. Mẫn
cảm triết học trong trường hợp này là phẩm chất cần phải có của các nhà khoa học cụ thể.
- Các nhà khoa học dù có thái độ thế nào đi nữa cũng vẫn bị triết học chi phối.
Không ít nhà khoa học chuyên ngành thường dị ứng với triết học, thậm chí có nhiều người ghét bỏ,
phủ nhận mọi ảnh hưởng của triết học đến mình. Tuy thế, với tính cách là một loại tri thức vĩ mô, giải
quyết các vấn đề nằm ở ngoại biên và bên trên của khoa học nên tư duy triết học lại là một thành tố
hữu cơ trong tri thức khoa học. Nhà khoa học không có cách nào tránh được việc giải quyết các quan
hệ ngẫu nhiên - tất yếu hay nhân quả trong ngành khoa học mà họ hoạt động.
Liên hệ chuyên ngành: Quy luật chuyển hoá lượng và chất và ngành Hoá học
CHƯƠNG 4
Cách mạng khoa học và công nghệ (tiến trình phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ;
bản chất, tác động và các xu hướng cơ bản của cách mạng khoa học và công nghệ; liên hệ thực
tiễn sự phát triển khoa học – công nghệ hiện nay).
Tiến trình phát triển của khoa học, kỹ thuât và công nghệ
Trong lịch sử khoa học, kỹ thuật và công nghệ có hai dạng thức phát triển:
+ Dạng thức tiến bộ hay tiến hóa: diễn ra chủ yếu theo kiểu tích lũy về lượng, tiến bộ từ từ, không
nhảy vọt, không đột biến trong sự phát triển
+ Dạng thức cách mạng: diễn ra với những đột biến, nhảy vọt đi kèm với các phát minh lớn, làm đảo
lộn các lĩnh vực đó về hướng phát triển hay về quy mô, nhịp độ và tốc độ phát triển
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất: từ 1784, xảy ra khi loài người phát minh động cơ hơi nước,
tác động trực tiếp đến các ngành nghề như dệt may, chế tạo cơ khí, giao thông vận tải
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai: từ 1870, khi loài người phát minh ra động cơ điện, mang
lại cuộc sống văn minh, năng suất tăng nhiều lần so với động cơ hơi nước
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba (cách mạng kỹ thuật mới): Có 2 quan niệm về thời gian bắt đầu
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ bắt đầu từ năm 1969:
+ Quan điểm thứ nhất, các phát minh vĩ đại trong vật lý học, hóa học cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
là sự bắt đầu của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật và kéo dài cho đến hiện nay
+ Quan điểm khác, bắt đầu từ giữa thế kỷ XX (hoặc sau CTTG II): con người phát minh ra bóng bán
dẫn, điện tử, kết nối thế giới liên lạc được với nhau. Vệ tinh, máy bay, máy tính, điện thoai, internet,
… là những công nghệ hiện nay chúng ta thụ hưởng từ cuộc cách mạng này
Cách mạng khoa học và công nghệ (Cách mạng công nghiệp lần thứ 3) gồm 2 giai đoạn:
+ Cách mang khoa học và kỹ thuật (Cách mang khoa học - kỹ thuật) từ khi bắt đầu đến hết thập kỷ
70 của thế kỷ XX
+ Cách mạng khoa học và công nghệ (Cách mạng khoa học - công nghệ) từ thập niên 80 của thế kỷ
XX cho đến nay
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra từ những năm 2000, gọi là cuộc cách mạng số,
phát triển trên 3 trụ cột chính: kỹ thuật số, công nghệ sinh học, vật lý
+ Trí tuệ nhân tạo (AI)
+ Internet of things (IOF)
+ Robot, 3D, big data
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ IV được cho là đã bắt đầu từ vài năm gần đây, là cuộc cách
mạng về sản xuất thông minh dựa trên các thành tựu đột phá trong các lĩnh vực công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, công nghệ nano, … với nền tảng là các đột phá của công nghệ số.
Ở Việt Nam, những năm 60, 70 của thế kỷ XX trong các văn kiện chính thức của Đảng, Nhà nước,
thuật ngữ “cách mạng khoa học và kỹ thuật”, “cách mạng khoa học – kỹ thuật” được sử dụng rộng
rãi
Sang cuối thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay, thuật ngữ “cách mạng khoa học và công nghệ” được
sử dụng phổ biến
Bản chất, tác động và các xu hướng cơ bản của cách mạng khoa học và công nghệ; Liên hệ thực tiễn
sự phát triển khoa học – công nghệ hiện nay
Bản chất
Cách mạng khoa học và công nghệ là nội dung căn bản, hình thức đặc trưng, nổi trội của tiến bộ khoa
học, kỹ thuật và công nghệ
Cách mạng khoa học và công nghệ là xu thế hòa nhập, kết hợp, xoắn quyện với nhau thành một quá
trình hợp nhất các quá trình cách mạng trong khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Quá trình cách mạng
trong khoa học giữ vai trò dẫn đường và quyết định đối với các quá trình cách mạng trong kỹ thuật,
công nghệ và sản xuất nói chung
Vai trò, tác động
- Rút ngắn thời gian thực hiện các ý tưởng, thời gian đổi mới công nghệ sản xuất
VD: nếu trung bình ở thế kỷ XIX là khoảng 60 – 70 năm; đầu thế kỷ XX là 30 năm, đến thập kỷ 90
của thế kỷ XX là 3 năm (đối với điện thoại là 74 năm, đài phát thanh là 38 năm thì đến vô tuyến truyền
hình chỉ còn 13 năm, internet 3 năm)
- Nhiều ngành công nghiệp mới ra đời, làm biến mất một số ngành công nghiệp do cách mạng
công nghiệp tạo ra và đã từng thống trị, chi phối nền sản xuất trước đây
VD: những ngành nghề truyền thống sử dụng nhiều lao động sẽ dần mất đi, đồng thời xuất hiện những
ngành nghề mới với các hệ thống tự động hóa và robot thông minh. Trong lĩnh vực dệt may, trước
đây các nước có ngành dệt may phát triển, thiếu lao động -> dịch chuyển, thuê nhân công giá rẻ, dồi
dào -> hiện nay, công nghệ robot thay thế
- Giải phóng người lao động khỏi các chức năng thực hiện (vận chuyển, năng lượng, công nghệ),
bắt đầu thực hiện việc giải phóng cả các chức năng kiểm tra, quản lý các quá trình sản xuất và cả chức
năng logic
VD: con người ngày càng bị loại ra khỏi các quá trình sản xuất trực tiếp trong sản xuất công nghiệp
cổ điển; từ chỗ là người thực hiện các thao tác máy móc thành chủ thể quá trình sản xuất. MC Donald
xây dựng thêm 25.000 nhà hàng hoạt động chủ yếu bằng robot, chỉ còn 2, 3 người quản lý.
- Thực hiện việc hiện đại hóa hạ tầng cơ sở của nền kinh tế
VD: hệ thống giao thông, mạng lưới liên lạc viễn thông, cách mạng số - thành tựu quan trọng nhất,
gây ảnh hưởng to lớn nhất trong lịch sử của cách mạng thông tin: điện thoại, bưu điện điện tử, văn
phòng điện tử, chính phủ điện tử, …
- Thúc đẩy toàn cầu hóa và tạo ra nền sản xuất mới và nền kinh tế mới
+ Kinh tế hậu công nghiệp
+ Kinh tế siêu tượng trưng
+ Kinh tế tri thức
+ Nền kinh tế mềm
- Tạo ra hình thức tiền tệ mới: tiền tệ điện tử (bitcoin, litecoin, …)
- Tạo nên “bộ nhớ xã hội điện tử” bao gồm: hệ thống các máy tính, mạng kết nối các cấp và các
thiết bị nhớ gắn liền với chúng.
- Tạo cơ sở vật chất kỹ thuật và các phương tiện, công cụ rất hiệu quả để phát triển văn hóa:
sáng tạo, lưu giữ, giao lưu, trao đổi văn hóa giữa các dân tộc, các cộng đồng văn hóa, …

You might also like