Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 67

BÀI 2: VAI TRÒ CỦA TỔNG GIÁM ĐỐC WTO TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI

QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN


2. Tổng Giám đốc WTO
Các Tổng giám đốc của Tổ chức Thương mại Thế giới:
Peter Sutherland, 1993 – 1995;
Renato Ruggiero, 1995 – 1999;
Mike Moore, 1999 – 2002;
Supachai Panitchpakdi, 2002 – 2005;
Pascal Lamy, 2005 – 2009 và 2009 – 2013;
Roberto Azevedo, 2013 – 2017 và 2017 – 2020;
Ngozi Okonjo-Iweala, 2020 –
Với tư cách là một tổ chức quốc tế thực thụ, WTO có một Ban thư ký rất quy mô, bao gồm
500 viên chức cá nhân và nhân viên thuộc biên chế chính thức của WTO. Đứng đầu Ban Thư kí
WTO là Tổng Giám đốc WTO. Tổng Giám đốc WTO do Hội nghị bộ trưởng bổ nhiệm với nhiệm
kỳ 4 năm.
Ngoài vai trò điều hành, Tổng Giám đốc của WTO còn có một vai trò chính trị rất quan
trọng trong hệ thống thương mại đa phương. Chính vì vậy mà việc lựa chọn các ứng  cử viên vào
chức vụ này luôn là một cuộc chạy đua ác liệt giữa các nhân vật chính trị quan trọng, cấp Bộ
trưởng, Phó Thủ tướng hoặc Tổng thống. Quyền hạn và trách nhiệm của Tổng Giám đốc do Hội
nghị Bộ trưởng quyết định. Biên chế Ban Thư ký WTO do Tổng Giám đốc quyết định. Tổng
Giám đốc và thành viên Ban Thư ký WTO có quy chế tương tự như của viên chức các tổ chức
quốc tế, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo các quyết định và tôn chỉ của WTO. Họ được hưởng
các quyền ưu đãi miễn trừ tương tự như viên chức của các tổ chức chuyên môn cua Liên hợp
quốc. Cũng như những người tiền nhiệm trước kia trong GATT, Tổng Giám đốc WTO có vai trò
hết sức quan trọng, dẫn dắt các vòng đàm phán thương mại đa biên và giải quyết tranh chấp. Vị
trí đặc biệt của Tổng Giám đốc WTO thể hiện một trong những nét đặc trưng trong ngoại giao đa
phương ngày nay khi trên thực tế các quan chức lãnh đạo cao cấp của các tổ chức quốc tế ngày
càng đóng vai trò “điều hành'' (managing) nhiều hơn là “chấp hành'' (executive).
Khác với IMF hoặc WB, Ban Thư ký hoặc Tổng Giám đốc WTO không được các nước
thành viên chuyển giao thực hiện những quyền lực quan trọng và quan điểm của WTO không ảnh
hưởng đến việc hoạch định chính sách thương mại của các nước thành viên (đây là sự khác nhau
cơ bản giữa WTO và IMF hoặc WB).
PHẦN 2: NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA TỔNG GIÁM ĐỐC WTO TRONG QUÁ
TRÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN QUY ĐỊNH
Ở TRONG DSU
Mặc dù chức vụ Tổng Giám đốc của cơ quan thương mại lớn nhất hành tinh hầu như mang
tính nghi thức, tuy nhiên người nắm giữ vị trí này vẫn được coi là trung tâm thúc đẩy thương mại
và hợp tác toàn cầu.
Như đã nói, vai trò của Tổng Giám đốc WTO khá mờ nhạt. Người nắm giữ cương vị nêu
trên không thể tự mình tiến hành các cải cách về thể chế, buộc các quốc gia phải tiến hành những
hành động cụ thể hoặc soạn thảo các nghị trình chính sách nhưng không vì vậy mà phủ nhận vai
trò của tổng Giám đốc WTO trong cơ cấu giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia.
Đối với cá nhân độc lập có liên quan, DSU tuyên bố rằng Tổng Giám đốc (WTO) có thể
đề nghị môi giới, trung gian hoặc hòa giải nhằm hỗ trợ các Thành viên giải quyết tranh chấp của
họ (Điều 5.6 của DSU). Do không cần đến các thủ tục tại Điều 5 của DSU, Tổng Giám đốc đã
ban hành một thông báo chính thức tới các Thành viên của WTO. Trong thông báo này, Tổng
Giám đốc kêu gọi các Thành viên chú ý đến sự sẵn sàng hỗ trợ của ông như được quy định tại
Điều 5.6 của DSU, nhằm giúp giải quyết các tranh chấp mà không cần đến các Ban Hội thẩm và
Cơ quan Phúc thẩm. Thông báo cũng nêu chi tiết các thủ tục cần tuân thủ khi các Thành viên yêu
cầu Tổng Giám đốc hỗ trợ để có môi giới, trung gian hoặc hòa giải.
“Điều 5: Môi giới, hòa giải và trung gian
6. Tổng Giám đốc có thể, trên cương vị công tác chính thức của mình, đưa ra sáng kiến về
việc mình phải làm người môi giới, người hòa giải hoặc trung gian nhằm giúp các Thành viên
giải quyết tranh chấp.”
Tổng Giám đốc hoặc với sự nhất trí của các bên, một Phó Tổng Giám đốc được chỉ định sẽ
xử lý các thủ tục tố tụng. Không giống như thủ tục của Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm, quy
trình của môi giới, trung gian hoặc hòa giải không nên dẫn đến kết luận pháp lý, nhưng giúp đạt
được một giải pháp được cả hai đồng ý. Tổng Giám đốc có thể nhờ nhân viên Ban Thư ký hỗ trợ
quá trình, nhưng những nhân viên này phải hoàn toàn không tham gia các thủ tục giải quyết tranh
chấp tiếp theo (tức là ở giai đoạn Ban Hội thẩm). Yêu cầu đối với Tổng Giám đốc cũng phải xác
định xem đó có phải là môi giới, trung gian hoặc hòa giải hay không, mặc dù vai trò của Tổng
Giám đốc có thể thay đổi trong thủ tục Điều 5. Cuối cùng, tất cả các thông tin liên lạc trong quá
trình này sẽ được giữ bí mật và không bên thứ ba nào có thể tham gia vào quá trình này, ngoại trừ
trường hợp các bên đồng ý.
Ngoài ra, trong các quy định đặc biệt về thủ tục giải quyết các tranh chấp áp dụng cho các
nước đang phát triển của DSU ở Điều 24.2, cũng như các quy định về giải quyết tranh chấp trong
các hiệp định riêng lẻ dành một số ưu tiên về thủ tục dành cho các quốc gia đang phát triển, trong
trường hợp tham vấn thất bại, các nước đang phát triển có thể yêu cầu Tổng Giám đốc WTO
đứng ra làm trung gian, hoà giải trong các tranh chấp với các nước phát triển. Đây có thể coi là
một điểm nhấn quan trọng về vai trò của tổng Giám đốc WTO trong cơ chế giải quyết tranh chấp
nhằm khuyến khích các nước đang phát triển, những thành viên vốn rất e dè trước các cơ chế giải
quyết tranh chấp quốc tế do những hạn chế nhất định về khả năng tài chính cũng như trình độ
pháp lý, sử dụng cơ chế này.
“Điều 24: Thủ tục đặc biệt liên quan đến những thành viên kém phát triển nhất
2. Trong những trường hợp giải quyết tranh chấp có liên quan đến Thành viên kém phát
triển nhất, nếu không đạt được một giải pháp thỏa đáng trong quá trình tham vấn, Tổng Giám
đốc hoặc Chủ tịch DSB phải, theo yêu cầu của Thành viên kém phát triển nhất, đưa ra sáng kiến
làm môi giới, trung gian và hòa giải để giúp các bên giải quyết tranh chấp trước khi có yêu cầu
thành lập ban hội thẩm. Tổng Giám đốc hoặc Chủ tịch DSB, khi thực hiện việc hỗ trợ nói trên, có
thể tham khảo từ bất cứ nguồn nào được cho là thích hợp.”
Tổng Giám đốc WTO cũng thể hiện một số vai trò nhất định trong cơ chế giải quyết tranh
chấp như trong việc thành lập Ban Hội thẩm (Panel Establishment). Căn cứ theo Điều 8.7 DSU,
thành viên Ban Hội thẩm, nếu trong vòng 20 ngày sau ngày thành lập Ban Hội thẩm mà không có
sự nhất trí về Thành viên Ban Hội thẩm, theo yêu cầu của bất cứ bên nào, Tổng Giám đốc sau khi
tham vấn với Chủ tịch DSB và Chủ tịch của Hội đồng hay ủy ban liên quan phải quyết định thành
phần Ban Hội thẩm bằng việc bổ nhiệm các hội thẩm từ những người mà Tổng Giám đốc coi là
thích hợp nhất theo đúng bất kỳ quy tắc hoặc thủ tục đặc biệt hoặc bổ sung có liên quan nào của
những hiệp định có liên quan đang được áp dụng cho tranh chấp đó, sau khi tham vấn với các bên
tranh chấp.
“Điều 8: Thành phần Ban Hội thẩm
7. Nếu trong vòng 20 ngày sau ngày thành lập ban hội thẩm mà không có sự nhất trí về
Thành viên ban hội thẩm, theo yêu cầu của bất cứ bên nào, Tổng Giám đốc sau khi tham vấn với
Chủ tịch DSB và Chủ tịch của Hội đồng hay ủy ban liên quan phải quyết định thành phần ban hội
thẩm bằng việc bổ nhiệm các hội thẩm từ những người mà Tổng Giám đốc coi là thích hợp nhất
theo đúng bất kỳ quy tắc hoặc thủ tục đặc biệt hoặc bổ sung có liên quan nào của những hiệp
định có liên quan đang được áp dụng cho tranh chấp đó, sau khi tham vấn với các bên tranh
chấp. Chủ tịch của DSB phải thông báo cho các Thành viên về thành phần ban hội thẩm đã được
thành lập  như vậy không quá 10 ngày kể từ ngày Chủ tịch nhận được yêu cầu.”
Bên cạnh đó, Tổng Giám đốc WTO còn có một số quyền hạn và nhiệm vụ được quy định
ở các điều khoản của DSU như sau:
- Về thủ tục xét xử phúc thẩm mà Cơ quan Phúc thẩm xây dựng cần phải có sự tham vấn
với Chủ tịch DSB và Tổng Giám đốc. (Điều 17.9 DSU)
- Chú thích 12 Điều 21.3 DSU:
“[12]: Nếu các bên không thể đồng ý về trọng tài viên trong vòng 10 ngày kể từ khi đưa
vấn đề này ra trọng tài, thì một trọng tài viên được Tổng Giám đốc chỉ định trong vòng 10 ngày,
sau khi tham vấn các bên.”
- Về bồi thường và tạm hoãn thi hành các nhượng bộ quy định ở Điều 22.6 DSU:
“ 6. Khi tình huống mô tả tại khoản 2 xảy ra, theo yêu cầu, DSB phải cho phép tạm hoãn
thi hành các nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác trong vòng 30 ngày kể từ ngày thời hạn hợp lý
kết thúc, trừ khi DSB có quyết định trên cơ sở đồng thuận từ chối yêu cầu đó. Tuy nhiên, nếu
Thành viên có liên quan phản đối mức độ tạm hoãn được đề xuất, hoặc khiếu nại rằng những
nguyên tắc và thủ tục nêu tại khoản 3 chưa được tuân thủ khi bên nguyên đơn yêu cầu cho phép
tạm hoãn nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác theo khoản 3(b) hoặc (c), thì vấn đề này phải
được đưa ra trọng tài. Việc phân xử bằng trọng tài như vậy phải do ban hội thẩm ban đầu tiến
hành, nếu các thành viên chấp nhận, hoặc do một trọng tài viên được Tổng Giám đốc chỉ định và
việc xét xử của trọng tài phải được hoàn tất trong vòng 60 ngày sau ngày thời hạn hợp lý kết
thúc. Nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác phải không bị tạm hoãn trong quá trình phân xử của
trọng tài.”
PHẦN 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN NHỮNG LẦN TỔNG GIÁM ĐỐC WTO THAM
GIA VÀO QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
Trên thực tế, có thể lấy hai ví dụ điển hình nhất cho vai trò của Tổng giám đốc WTO trong
cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia thành viên.
Đầu tiên, ông Ruggiero, cựu Tổng giám đốc của WTO đã đóng vai trò trung gian hoà giải
rất tích cực và có hiệu quả trong vụ tranh chấp giữa Mỹ và EU liên quan đến việc áp dụng các
đạo luật Helms-Burton và D’Amato-Kennedy năm 1997.
Tiếp theo, vào ngày 26/7, cựu Tổng Giám đốc Tổ chức Thương mại Thế giới ông Pascal
Lamy đã chỉ định ba thành viên Ban Hội thẩm xem xét vụ Việt Nam kiện Hoa Kỳ áp dụng các
biện pháp chống bán phá giá đối với mặt hàng tôm đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam.
Các thành viên gồm ông Mohammad Saeed, tham tán phái đoàn thường trực của Pakistan
tại WTO; bà Deborah Milstein, thuộc Bộ Công nghiệp, Thương mại và Lao động Israel, và ông
Iain Sandford, Giám đốc Tập đoàn thương mại quốc tế Australia. Ông Mohammad Saeed được
chọn làm Chủ tịch Ban Hội thẩm.
Tổng Giám đốc WTO đưa ra quyết định trên sau khi Việt Nam và Mỹ không thể nhất trí
với nhau về thành phần Ban Hội thẩm sau 60 ngày thảo luận.
Việt Nam đã đề nghị Tổng Giám đốc WTO chỉ định các thành viên Ban Hội thẩm. Trước
khi đưa ra quyết định này, ông Pascal Lamy đã gặp và tham vấn với đại diện của Việt Nam và
Mỹ.
BÀI 3: TRÌNH BÀY CƠ SỞ KHỞI KIỆN CỦA VIỆT NAM TRONG VỤ
KIỆN HOA KỲ - TÔM NƯỚC ẤM (DS404)
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ SỞ KHỞI KIỆN TRONG CƠ CHẾ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO
1.1. THẨM QUYỀN CỦA CƠ QUAN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO
(DSB)
Căn cứ vào quy định tại Điều 1.1 Thỏa thuận về các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh
chấp trong khuôn khổ WTO (DSU):
“Các quy tắc và thủ tục của Thỏa thuận này phải được áp dụng cho những tranh chấp được
đưa ra theo các quy định về tham vấn và giải quyết tranh chấp của những hiệp định được liệt kê
trong Phụ lục 1 của Thỏa thuận này (trong Thỏa thuận này được gọi là những “hiệp định có liên
quan”). Những quy tắc và thủ tục của Thỏa thuận này cũng được áp dụng cho việc tham vấn và
giải quyết tranh chấp giữa các Thành viên về quyền và nghĩa vụ của họ theo các quy định của
Hiệp định Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (trong Thỏa thuận này được gọi là “Hiệp định
WTO”) và của Thỏa thuận này được xem xét riêng hoặc cùng với bất cứ hiệp định có liên quan
nào khác.”
Như vậy, DSB không giải quyết tất cả các tranh chấp phát sinh giữa các thành viên WTO
mà chỉ giải quyết các tranh chấp theo những hiệp định được liệt kê trong Phụ lục 1 của DSU, bao
gồm: Hiệp định thành lập WTO; Các Hiệp định đa biên trong lĩnh vực thương mại hàng hóa;
Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS); Hiệp định về các Khía cạnh của Quyền Sở
hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại (TRIPS); Hiệp định về mua sắm Chính phủ (GPA); Hiệp
định về mua bán máy bay dân dụng; Hiệp định Quốc tế về Sữa; Hiệp định Quốc tế về Thịt bò và
chính DSU.
1.2. CƠ SỞ KHỞI KIỆN TRONG CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA
WTO
Một đơn kiện có thể được đưa ra khi một Thành viên phản đối biện pháp “làm triệt tiêu
hay phương hại những lợi ích theo các hiệp định có liên quan hoặc gây trở ngại cho việc đạt bất
cứ mục tiêu nào của các hiệp định có liên quan”. Một biện pháp có thể phủ nhận toàn bộ các lợi
ích của hiệp định có liên quan, lợi ích của một hiệp định cũng có thể bị phủ nhận hay suy giảm
bởi một biện pháp không vi phạm hiệp định hoặc một tình huống giữa các thành viên mà không
cần phải là một biện pháp. Do đó, các khiếu kiện có thể được giải quyết theo cơ chế giải quyết
tranh chấp trong WTO theo các cơ sở sau: khiếu kiện do có vi phạm, khiếu kiện trong trường hợp
không vi phạm và khiếu kiện dựa trên “sự tồn tại một tình huống khác”.
1.2.1. Khiếu kiện do có vi phạm
Điều 23.1 DSU quy định thành viên phải được quyền khiếu kiện tới WTO đối với bất kỳ
chính sách hay biện pháp thương mại của nước thành viên khác vi phạm các hiệp định liên quan
làm triệt tiêu hoặc phương hại tới lợi ích của mình có được từ các hiệp định này hoặc gây trở ngại
tới việc đạt được bất cứ mục tiêu nào của các hiệp định liên quan. Như vậy cơ sở đầu tiên và cơ
bản để thành viên có thể tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO là khiếu nại do có vi
phạm của thành viên khác.
Về nguyên tắc, Thành viên khi khiếu kiện phải chứng minh có sự vi phạm của bên bị
khiếu kiện trong việc thực hiện nghĩa vụ trong các hiệp định của WTO và điều này trực tiếp hoặc
gián tiếp dẫn tới sự triệt tiêu hoặc suy giảm một lợi ích hoặc việc đạt được một mục tiêu bị cản
trở. Tuy nhiên trên thực tế, điều kiện về sự vi phạm đóng vai trò quan trọng hơn sự triệt tiêu hay
suy giảm lợi ích. Do đó, khi bên khiếu kiện đã chứng minh được có hành vi vi phạm của bên bị
khiếu kiện, WTO chỉ yêu cầu chứng minh có sự suy đoán triệt tiêu hoặc suy giảm lợi ích.
Lúc này, bên bị kiện có thể chứng minh rằng hành vi vi phạm đó không có sự triệt tiêu
hoặc suy giảm một lợi ích hoặc việc đạt được một mục tiêu bị cản trở. Trên thực tế, chỉ trong một
vài trường hợp bên bị kiện lập luận vi phạm luật WTO không làm triệt tiêu hay suy giảm những
lợi ích phát sinh cho người khiếu nại,” nhưng cho tới nay chưa có trường hợp nào bên bị khiếu
kiện thành công trong việc thuyết phục cơ quan Giải quyết tranh chấp chấp thuận yêu cầu bác bỏ
suy đoán làm triệt tiêu hay suy giảm lợi ích khi có hành vi vi phạm các hiệp định của WTO.
1.2.2. Khiếu kiện trong trường hợp không vi phạm
Theo Điều XXIII:1(b) GATT và Điều 26.1 DSU, một Thành viên có quyền khiếu nại một
biện pháp thương mại của một thành viên khác ngay cả khi biện pháp đó không mâu thuẫn với
bất cứ hiệp định nào của WTO. Một khiếu nại của một Thành viên có thể được xem xét nếu một
lợi ích thu được một cách trực tiếp hay gián tiếp từ hiệp định có liên quan bị vô hiệu hay vi phạm
và việc thực hiện một trong các mục tiêu của hiệp định vì thế mà bị trở ngại.
Khi khiếu kiện trong trường hợp không vi phạm, bên khiếu kiện phải đưa ra “bản giải trình
chi tiết”, trong đó chứng minh được ba điều kiện
Thứ nhất, có sự phương hại hay làm vô hiệu một lợi ích hay vi phạm việc thực hiện một
trong các mục tiêu của hiệp định. Lợi ích ở đây thường là khả năng tiếp cận thị trường.
Thứ hai, xác định biện pháp không vi phạm - biện pháp thực tế xâm hại đến quyền lợi của
Thành viên nhưng không vi phạm hiệp định nào. Cụ thể hơn, bên khiếu kiện phải chỉ ra biện pháp
có thể đoán trước được là hợp lý (không vi phạm quy chế, biện pháp liên quan đến thuế quan,
biểu nhân nhượng hay nghĩa vụ) và làm giảm hoặc mất đi khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất
khẩu từ quốc gia mình.
Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa biện pháp và sự thiệt hại về lợi ích hay việc thực
hiện một trong các mục tiêu của hiệp định.
Tuy nhiên, do khiếu kiện này không phải là từ hành vi vi phạm của một Thành viên, nên
Ban Hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm chỉ đưa ra những khuyến nghị để các bên thỏa thuận, điều
chỉnh, nhằm đạt được sự “thỏa đáng cho cả hai bên” chứ không yêu cầu rút lại biện pháp thương
mại đó.
1.2.3. Khiếu kiện dựa trên “sự tồn tại một tình huống khác”
Ngoài hai tình huống khiếu kiện được nêu trên, WTO cho phép các Thành viên khiếu kiện
khi phát hiện tình huống gây thiệt hại về quyền lợi của mình. Trong trường hợp này, quốc gia
khiếu kiện cũng phải chứng minh về thiệt hại mà mình phải chịu hoặc trở ngại gây ra đối với việc
đạt được một trong các mục tiêu của hiệp định có liên quan. Tuy nhiên, khác với khiếu kiện thuộc
hai cơ sở trên, trên thực tế chưa có phán quyết nào trên cơ sở khiếu kiện này. Hay nói cách khác,
khiếu kiện dựa trên tình huống khác không tồn tại trên thực tế.
Một trong những lý do quan trọng khiến cho loại khiếu kiện này không tồn tại trên thực tế,
đó là đối với loại tranh chấp này DSB sẽ đưa ra quyết định giải quyết tranh chấp trên cơ sở
nguyên tắc đồng thuận. Bởi lẽ, nếu một thành viên không đồng ý với quyết định giải quyết tranh
chấp của DSB thì hệ quả đương nhiên là bên khiếu kiện sẽ không thành công trong vụ kiện này.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Như vậy, DSB sẽ có giải quyết tranh chấp giữa các thành viên WTO đối với những tranh
chấp được liệt kê tại phụ lục 1 của DSU. Và tranh chấp trong khuôn khổ WTO có thể được khiếu
kiện từ một hành vi vi phạm quy định hiệp định của WTO hoặc hành vi đó tuy không vi phạm
quy định hiệp định của WTO nhưng gây thiệt hại cho một hoặc nhiều thành viên khác hoặc một
tình huống khác. Có hai loại khiếu kiện đóng vai trò thiết thực trong cơ chế giải quyết tranh chấp
trong khuôn khổ WTO là khiếu kiện do có vi phạm và ít phổ biến hơn là khiếu kiện trong trường
hợp không không vi phạm. Ngoài ra, cơ sở thứ ba là khiếu kiện dựa trên “sự tồn tại một tình
huống khác” vẫn chưa có phán quyết nào.
Vụ kiện DS404 là vụ kiện đầu tiên mà Việt Nam với vai trò là nguyên đơn, khởi kiện Hoa
Kỳ về vấn đề tôm nước ấm xuất khẩu từ các doanh nghiệp nước ta. Vậy Việt Nam đã dựa trên
những cơ sở nào để khởi kiện Hoa Kỳ ra DSB, chúng ta sẽ tìm hiểu trong Chương 2: Cơ sở khởi
kiện của Việt Nam trong vụ kiện Hoa Kỳ - Tôm nước ấm (DS404).
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ KHỞI KIỆN CỦA VIỆT NAM TRONG VỤ KIỆN HOA KỲ -
TÔM NƯỚC ẤM (DS404)
2.1. BỐI CẢNH VỤ KIỆN
DS404 là vụ tranh chấp đầu tiên về chống bán phá giá mà Việt Nam khởi kiện ra WTO.
Nguyên đơn trong vụ kiện là Việt Nam; bị đơn là Hoa Kỳ; đồng thời các bên thứ ba bao
gồm: Trung Quốc, Liên minh Châu Âu, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mexico và Thái Lan.
Ngày 31/12/2003, Liên minh tôm miền Nam Hoa Kỳ (SSA) khởi kiện lên Bộ Thương mại
Hoa Kỳ (DOC) về việc bán phá giá tôm nhập khẩu từ 6 nước, trong đó có Việt Nam. Tháng
01/2004, DOC bắt đầu điều tra chống bán phá giá đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh của
Việt Nam, sau đó, tháng 02/2005, DOC chính thức áp thuế chống bán phá giá với các thuế suất:
(i) từ 4,3% đến 5,24% đối với từng doanh nghiệp bị đơn bắt buộc; (ii) mức 4,57% đối với các
doanh nghiệp bị đơn tự nguyện không được lựa chọn điều tra; (iii) mức thuế suất toàn quốc
25,76% cho tất cả các doanh nghiệp còn lại.
Và theo pháp luật về chống bán phá giá của Hoa Kỳ, sau tròn mỗi năm kể từ ngày lệnh áp
thuế chống bán phá giá của DOC được ban hành, DOC sẽ tiến hành rà soát hành chính (POR).
Theo đó, trong đợt rà soát lần 2 - POR2 (4/2007) và lần 3 - POR3 (4/2008), DOC đều ra
quyết định cuối cùng rằng các doanh nghiệp bị đơn bắt buộc đều nhận được mức thuế suất tối
thiểu, nhóm các doanh nghiệp bị đơn tự nguyện không được hưởng mức thuế suất theo thực tế
điều tra mà tiếp tục bị áp thuế chống bán phá giá theo điều tra ban đầu là 4,57%. Đồng thời, mức
thuế suất toàn quốc cũng áp dụng theo điều tra ban đầu là 25,76%.
Do đó, ngày 01/02/2010, Việt Nam gửi yêu cầu tham vấn đến Chính phủ Hoa Kỳ liên quan
đến các quyết định trong thủ tục chống bán phá giá của Hoa Kỳ đối với một số loại tôm nước ấm
đông lạnh từ Việt Nam theo thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO. Cụ thể, ngoài những rà soát
hành chính và rà soát đối với các nhà nhập khẩu mới, tham vấn còn đề cập đến một số điều luật,
quy định, thực tiễn và thủ tục hành chính của Hoa Kỳ, bao gồm cả phương pháp “Quy về 0”.
Các thủ tục bị khiếu kiện bởi Việt Nam bao gồm:
- Thứ nhất, các khiếu kiện của Việt Nam liên quan tới “Quy về 0”.
- Thứ hai, các khiếu kiện của Việt Nam liên quan tới quyết định giới hạn số lượng các nhà
xuất khẩu được chọn điều tra của Bộ Thương mại Hoa Kỳ.
- Thứ ba, các khiếu kiện của Việt Nam liên quan tới về mức thuế suất chung áp dụng cho
các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn trong điều tra rà soát hành chính lần 2 và 3.
- Cuối cùng, các khiếu kiện của Việt Nam liên quan tới biên độ phá giá phân bổ theo quy
tắc thuế suất toàn quốc trong nền kinh tế phi thị trường.
Vào ngày 18/7/2016, Việt Nam và Hoa Kỳ đã thông báo cho DSB rằng họ đã đạt được một
giải pháp được cả hai đồng ý, khép lại vụ kiện giữa hai quốc gia.
2.2. PHÂN TÍCH CƠ SỞ KHỞI KIỆN CỦA VIỆT NAM TRONG VỤ KIỆN HOA
KỲ - TÔM NƯỚC ẤM (DS404)
2.2.1. Các khiếu kiện của Việt Nam liên quan tới phương pháp “Quy về 0”
* Phương pháp “Quy về 0” (Zeroing) là gì?
“Quy về 0” (Zeroing) là một phương pháp được Hoa Kỳ sử dụng trong hầu hết các vụ điều
tra, rà soát thuế chống bán phá giá của nước này. Nội dung của phương pháp này là khi tính toán
biên độ phá giá chung, DOC chỉ tính các biên độ phá giá có giá trị dương (lớn hơn 0), biên độ phá
giá có giá trị âm sẽ được tự động chuyển về thành 0. Với phương pháp này, biên độ phá giá
chung được tính toán sẽ cao hơn, từ đó mức thuế chống bán phá giá cũng bị đội lên rất nhiều.
* Việt Nam cho rằng sử dụng phương pháp “Quy về 0” (Zeroing) là vi phạm Hiệp định
về Chống bán phá giá
Theo quan điểm của Việt Nam, việc Mỹ sử dụng phương pháp “Quy về 0” (Zeroing) là vi
phạm các Điều 9.3, 2.1, 2.4.2 và 2.4 ADA; và Điều VI.2 GATT 1994.
- Việt Nam cho rằng Mỹ vi phạm Điều 2.4 và 2.4.2 ADA
Theo nguyên tắc “so sánh công bằng” được quy định tại Điều 2.4 ADA, việc so sánh phải
được thực hiện trên tất cả các giao dịch xuất khẩu mới bảo đảm sự công bằng, vì trong các giao
dịch đó có giao dịch có biên độ phá giá dương nhưng cũng có các giao dịch có biên độ phá giá
âm và giữa chúng khi bù trừ cho nhau sẽ phản ánh một cách chính xác nhất về việc có bán phá
giá hay không và mức độ bán phá giá tác động lên thị trường nước nhập khẩu như thế nào. Vậy,
khi sử dụng phương pháp “Quy về 0” tất cả các giao dịch có biên độ phá giá âm là vi phạm vào
nguyên tắc “so sánh công bằng” mà Điều này quy định.
Bên cạnh đó, Việt Nam nhận định: thuật ngữ “so sánh một cách công bằng” tại câu đầu
tiên của Điều 2.4 ADA đặt ra nghĩa vụ độc lập đối với cơ quan có thẩm quyền điều tra khi so
sánh giá xuất khẩu và giá thông thường. Do đó, việc sử dụng phương pháp “Quy về 0” của DOC
là vi phạm nghĩa vụ này vì đã gạt bỏ một cách có hệ thống một số thương vụ ra khỏi phép so
sánh.
- Việt Nam cho rằng Mỹ vi phạm Điều 9.3, 2.1 ADA và Điều VI.2 GATT 1994
Theo Việt Nam, việc áp dụng phương pháp Zeroing của Mỹ sẽ tạo ra biên độ bán phá giá
cao hơn biên độ bán phá giá của toàn bộ sản phẩm và điều này là vi phạm Điều 9.3 ADA và Điều
VI.2 GATT 1994, theo đó, biên độ bán phá giá không được cao hơn biên độ bán phá giá của toàn
bộ sản phẩm.
Bên cạnh đó, Việt Nam viện dẫn quan điểm của Cơ quan phúc thẩm trong các án lệ trước
như vụ Mỹ - Zeroing (DS322), Mỹ - thép không gỉ (DS344), Mỹ - việc duy trì Zeroing (DS350)...
Theo đó, Cơ quan phúc thẩm cho rằng trong các vụ kiện này, việc áp dụng Zeroing là không phù
hợp với Điều 9.3 ADA và Điều VI.2 GATT 1994.
Đồng thời, Việt Nam nhấn mạnh Điều 3.2 DSU đòi hỏi sự an toàn và có thể dự đoán trước
của trình tự giải quyết tranh chấp, và việc từ chối đi theo các phán quyết trước kia đối với những
tình huống giống y hệt về tình tiết là đi ngược lại với mục đích này. Từ đó, Việt Nam cho rằng cơ
quan giải quyết tranh chấp nên đi theo án lệ này.
Ngoài ra, dựa vào án lệ của WTO, Việt Nam cho rằng Điều VI GATT và Điều 2.1 ADA
quy định “bán phá giá” và “biên độ bán phá giá” đối với sản phẩm được nhắm đến bởi toàn bộ
cuộc điều tra, chứ không phải đối với các mẫu hoặc loại sản phẩm. Theo Việt Nam, phương pháp
của Mỹ không giúp đem lại một biên độ bán phá giá dựa trên tất cả các phép so sánh trung gian
và do đó không tính được một biên độ bán phá giá cho toàn bộ sản phẩm.
* Việt Nam cho rằng việc Hoa Kỳ sử dụng phương pháp “Quy về 0” gây ra sự triệt
tiêu, suy giảm lợi ích đối với Việt Nam
Với việc áp dụng cách tính toán không hợp lý thông qua phương pháp “Quy về 0”
(Zeroing), vào ngày 01/02/2005, DOC đã kết luận Việt Nam bán phá giá và ban hành lệnh áp
thuế chống bán phá giá đối với các doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam.
Quyết định của DOC về mức thuế suất cuối cùng áp dụng đợt rà soát hành chính lần 2 là
bất công và đã làm doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam rơi vào tình thế rất khó khăn vì các
doanh nghiệp Việt Nam bị DOC lựa chọn điều tra và tính thuế suất riêng (Minh Phú và
Camimex) đều có mức thuế suất không đáng kể (làm tròn về 0). Mặc dù đã nộp đơn xin rà soát lại
mức thuế suất nhưng các doanh nghiệp là bị đơn tự nguyện của Việt Nam không được DOC xem
xét số liệu và hồ sơ để tính thuế riêng và cũng không được hưởng mức thuế suất bằng 0 khi mức
thuế tính cho tất cả các bị đơn bắt buộc là 0 hoặc không đáng kể.
Vì thế, trong vụ kiện tôm nước ấm này, việc Hoa Kỳ áp dụng phương pháp “Quy về 0” là
vi phạm yêu cầu liên quan đến việc so sánh công bằng tại Điều 2.4 của ADA và triệt tiêu, làm suy
giảm lợi ích đối với Việt Nam.
2.2.2. Các khiếu kiện của Việt Nam liên quan tới quyết định giới hạn số lượng các nhà
xuất khẩu được chọn điều tra của Bộ Thương mại Hoa Kỳ
* Việt Nam cho rằng quyết định giới hạn số lượng các nhà xuất khẩu được chọn điều
tra của Bộ Thương mại Hoa Kỳ là vi phạm Hiệp định về Chống bán phá giá
Việt Nam cho rằng việc DOC quyết định giới hạn số lượng các bị đơn thuộc diện kiểm tra
là trái với các Điều 6.10, 6.10.2, 9.3, 11.1, và 11.3 ADA.
- Việt Nam cho rằng Mỹ vi phạm Điều 6.10 ADA
Theo Việt Nam, DOC đã áp dụng câu thứ hai của Điều 6.10 ADA (cho phép trong vài
trường hợp nhất định, các cơ quan điều tra được xác định biên độ phá giá riêng cho chỉ một số
nhà xuất khẩu được chọn điều tra) nhằm mục đích tước bỏ quyền lợi chính đáng của các nhà xuất
khẩu bị điều tra theo câu đầu tiên của Điều 6.10 (đưa ra các quy tắc chung mà biên độ phá giá
riêng được xác định cho từng nhà xuất khẩu bị điều tra). Việt Nam cho rằng Mỹ không thể sử
dụng ngoại lệ quy định tại Điều 6.10 để không thực hiện những nghĩa vụ quy định tại những điều
khác của hiệp định. Hơn nữa, điều này cũng làm cho các Điều khoản 9.3, 11.1 và 11.3, vốn dựa
trên sự tồn tại của biên độ bán phá giá riêng lẻ, trở nên vô nghĩa.
- Việt Nam cho rằng Mỹ vi phạm Điều 9.3 ADA
Theo quy định tại Điều 9.3 ADA, mức thuế chống bán phá giá không vượt quá biên độ phá
giá. Việt Nam cho rằng việc DOC từ chối không xem xét các doanh nghiệp yêu cầu đồng nghĩa
với việc DOC không đảm bảo việc mức thuế chống bán phá giá không vượt quá biên độ phá giá.
- Việt Nam cho rằng Mỹ vi phạm Điều 11.1 ADA
Theo quy định tại Điều 11.1 ADA, thuế chống bán phá giá chỉ áp dụng trong khoảng thời
gian và mức độ cần thiết để chống lại các trường hợp bán phá giá gây thiệt hại trong nước. Theo
quan điểm của Việt Nam, quy định này cho phép mỗi nhà xuất khẩu/sản xuất có quyền yêu cầu
hủy lệnh chống bán phá giá áp dụng cho mình với điều kiện chứng minh được là hành vi bán phá
giá đã chấm dứt. Thế nhưng, các doanh nghiệp Việt Nam không được lựa chọn xem xét sẽ không
thể thực hiện quyền của mình theo điều này (cũng như theo luật của Mỹ quy định về việc ngừng
áp thuế chống bán phá giá).
- Việt Nam cho rằng Mỹ vi phạm Điều 11.3 ADA
Theo quy định tại Điều 11.3 ADA, thuế chống bán phá giá phải chấm dứt không muộn hơn
5 năm kể từ khi được áp dụng trừ khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định rằng việc hết hạn hiệu
lực thuế chống bán phá giá có thể dẫn đến sự tiếp tục cũng như tái phát sinh hiện tượng phá giá
và các thiệt hại. Theo quan điểm của Việt Nam, để quyết định chấm dứt áp dụng lệnh bán phá
giá, Mỹ phải tính khả năng có thể tiếp tục bán phá giá của từng doanh nghiệp dựa trên biên độ
bán phá giá của họ. Ngoài ra, theo Luật Mỹ, trong bối cảnh rà soát hoàng hôn, để được chấm dứt
áp dụng lệnh chống bán phá giá, doanh nghiệp chứng minh rằng mình đã chấm dứt bán phá giá,
nhưng điều này không thể thực hiện được vì DOC từ chối xem xét từng doanh nghiệp.
Vì vậy, Việt Nam cho rằng Mỹ phải áp dụng ngoại lệ quy định tại Điều 6.10 một cách phù
hợp với các nghĩa vụ của mình quy định tại các điều khác của ADA.
* Việt Nam cho rằng việc Hoa Kỳ quyết định giới hạn số lượng các nhà xuất khẩu được
chọn điều tra của Bộ Thương mại Hoa Kỳ gây ra sự triệt tiêu, suy giảm lợi ích đối với Việt
Nam
DOC dựa vào việc sử dụng điều tra mẫu để lựa chọn các công ty bị điều tra hay rà soát
riêng lẻ các vụ điều tra chống bán phá giá. Luật chống bán phá giá của Mỹ cho phép DOC có
thẩm quyền giới hạn cuộc điều tra chỉ đối với một số nhà sản xuất được lựa chọn. Trong vụ kiện
này, số lượng doanh nghiệp Việt Nam được chọn mẫu rất ít, trong đợt rà soát lần 1 Việt Nam có
84 doanh nghiệp bị đơn nhưng chỉ 3 doanh nghiệp được chọn mẫu, lần 2 có 101 doanh nghiệp
nhưng chỉ chọn 2... DOC cũng hạn chế số doanh nghiệp Việt Nam được tính biên độ bán phá giá
riêng lẻ. DOC cho rằng, việc rà soát tất cả các doanh nghiệp là không khả thi và không đủ nguồn
lực để thực hiện trong thời hạn định trước.
Việc hạn chế điều tra của Mỹ dẫn đến nhiều hậu quả bất lợi cho các doanh nghiệp Việt
Nam bởi vì những doanh nghiệp không có cơ hội được tham gia vào vụ kiện phải chấp nhận mức
thuế do DOC xác định dựa trên mức thuế của các công ty bị điều tra. Vì vậy, những nhà sản xuất
không được lựa chọn thì hoàn toàn phụ thuộc vào các bị đơn được lựa chọn.
2.2.3. Các khiếu kiện của Việt Nam liên quan tới về mức thuế suất chung áp dụng cho
các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn trong điều tra rà soát hành chính lần 2 và 3
* Việt Nam cho rằng việc Mỹ áp dụng mức thuế suất chung cho các bị đơn tự nguyện
không được lựa chọn là vi phạm Hiệp định về Chống bán phá giá
Điều 9.4 ADA quy định trường hợp liên quan đến mức thuế áp dụng đối với các bị đơn tự
nguyện không được lựa chọn. Điều khoản này không quy định phương pháp mà các Thành viên
phải sử dụng để tính mức thuế này, mà chỉ đưa ra một giới hạn: mức thuế này không được vượt
quá bình quân gia quyền của biên độ phá giá của các doanh nghiệp được lựa chọn. Tuy nhiên,
Điều 9.4 còn đưa ra một điều kiện: các cơ quan thẩm quyền trong quá trình thực thi quy định tại
khoản này sẽ không xét tới các trường hợp có biên độ bán phá giá bằng 0 hoặc ở mức de minimis
hoặc ở mức biên độ được xác định dựa trên các chứng cứ sẵn có. Đây là một lỗ hổng của Điều 9.4
bởi nó không quy định mức độ tối đa của thuế chống bán phá giá áp dụng trong trường hợp tất cả
các biên độ bán phá giá đều bị loại bỏ khỏi quá trình tính toán. Trong vụ kiện hiện tại, vấn đề đặt
ra rơi vào trường hợp này, bởi tất cả các doanh nghiệp thuộc diện bị điều tra trong các cuộc rà
soát hành chính thứ hai và thứ ba đều được kết luận là có biên độ bán phá giá bằng 0 hoặc de
minimis.
Theo Việt Nam, thuế suất chung được xây dựng trên biên độ phá giá theo Điều 9.4 ADA,
mà biên độ phá giá cần phải được tính dựa trên nền tảng phù hợp với Điều 2 ADA. Tuy nhiên,
phương pháp tính “Quy về 0” của Mỹ đã khiến cho kết quả tính vượt quá biên độ được tính đúng
nếu dựa trên Điều 2 ADA và do đó dẫn đến việc thuế suất chung mà Mỹ áp cho các bị đơn tự
nguyện nhưng không được lựa chọn là vi phạm Điều 9.4 ADA.
* Áp dụng mức thuế suất chung cho các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn gây ra
sự triệt tiêu, suy giảm lợi ích đối với Việt Nam
Việt Nam khẳng định rằng việc DOC sử dụng Phương pháp “Quy về 0” để tính toán biên
độ bán phá giá của các doanh nghiệp được lựa chọn trong cuộc điều tra ban đầu đã khiến cho các
doanh nghiệp bị đơn tự nguyện phải trả ra một khoản thuế bổ sung cao hơn một mức thuế mà
đáng lẽ các doanh nghiệp này không phải chịu.
2.2.4. Các khiếu kiện của Việt Nam liên quan tới biên độ phá giá phân bổ theo quy tắc
thuế suất toàn quốc trong nền kinh tế phi thị trường
* Nền kinh tế phi thị trường (NME) là gì?
Theo định nghĩa, nền kinh tế phi thị trường được dùng để chỉ các nền kinh tế nơi Chính
phủ có độc quyền hoặc gần như độc quyền về thương mại và nhà nước ấn định giá cả nội địa.
Theo đó, đối với các doanh nghiệp không được điều tra riêng, việc DOC áp thuế dựa trên cơ sở là
liệu hàng hóa nhập khẩu từ quốc gia có nền kinh tế phi thị trường hay không?
Căn cứ quy định trong Đạo luật về Chống bán phá giá của Hoa Kỳ, các nước mặc nhiên
được xem là quốc gia có nền kinh tế thị trường trừ khi Hoa Kỳ chính thức coi nước đó có nền
kinh tế phi thị trường. Nếu muốn được Hoa Kỳ công nhận là có nền kinh tế thị trường, quốc gia
bị coi là có nền kinh tế phi thị trường phải chứng minh nền kinh tế đó đáp ứng được các tiêu chí
do Hoa Kỳ quy định:
1. Mức độ chuyển đổi của đồng nội tệ;
2. Mức độ theo đó mức lương được xác định thông qua đàm phán tự do giữa người lao
động và đơn vị sử dụng lao động;
3. Mức độ theo đó việc liên doanh hoặc các dự án đầu tư nước ngoài được phép thực hiện;
4. Mức độ sở hữu của Chính phủ hoặc kiểm soát của các phương tiện sản xuất;
5. Mức độ kiểm soát của Chính phủ về việc phân bổ các nguồn lực, giá cả và sản lượng
của doanh nghiệp;
6. Các tiêu chí khác do DOC đưa ra.
Như vậy, 05 tiêu chí đầu tiên là những tiêu chí về mặt kỹ thuật, do đó Việt Nam hoàn toàn
có thể phấn đấu để đạt được. Tuy nhiên, tiêu chí cuối cùng “các tiêu chí khác do DOC đưa ra”
mang tính mở, mơ hồ và khác nhau tùy vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội... của từng quốc
gia. Vì vậy, quá trình xác định không được đánh giá trên những cơ sở khách quan, dẫn đến quyết
định liệu quốc gia đó có nền kinh tế thị trường hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào chủ quan
của DOC.
* Khái quát về thuế suất toàn quốc
Theo pháp luật Hoa Kỳ, đối với các nước có nền kinh tế phi thị trường (NME), trong đó có
Việt Nam, DOC đưa ra giả định rằng tất cả các nhà xuất khẩu trong nền kinh tế của các nước này
đang hoạt động như một thực thể thống nhất chịu sự kiểm soát của Chính phủ (government-wide
entity) do đó phải chịu cùng một mức thuế suất chống bán phá giá. Vì vậy, mức thuế đối với các
quốc gia này bao gồm 03 loại mức thuế như sau: mức thuế suất cụ thể áp dụng cho từng bị đơn
bắt buộc (individual rate); mức thuế suất chung áp dụng cho các bị đơn tự nguyện tham gia nhưng
không phải là bị đơn bắt buộc (“all others” rate); và mức thuế suất toàn quốc (country-wide rate
hoặc NME-wide rate) dành cho các doanh nghiệp còn lại.
Mức thuế suất toàn quốc được áp dụng đối với các doanh nghiệp Việt Nam, tuy rằng đã trả
lời bảng câu hỏi về “số lượng và chất lượng” (quantity & value - Q&V) của DOC đầy đủ và đúng
hạn nhưng không chứng minh được hoạt động độc lập, không chịu sự kiểm soát của Nhà nước.
Từ đó, DOC đã áp mức thuế suất đối với các doanh nghiệp điều tra riêng biệt là 4,57%,
trong khi đó mức thuế suất cho các doanh nghiệp còn lại là 25,76%.
* Việt Nam cho rằng biên độ phá giá phân bổ theo quy tắc thuế suất toàn quốc là vi
phạm Hiệp định về Chống bán phá giá
Trong khuôn khổ ADA, theo Việt Nam, việc sử dụng quy định và phương pháp được đề
cập ở trên trong việc xác định mức thuế suất toàn quốc là vi phạm Điều 6.8, Điều 9.4 ADA.
- Việt Nam cho rằng Mỹ vi phạm Điều 9.4 ADA
Những nghĩa vụ tại Điều 2 và 9 ADA xác định cơ sở tính toán biên độ chống bán phá giá
và thu thuế chống bán phá giá mà không đề cập đến trường hợp dự tính áp dụng mức thuế suất
toàn quốc dựa trên dữ kiện bất lợi có sẵn.
Theo Điều 9.4 ADA, cơ quan điều tra phải tiến hành điều tra xác định thuế suất riêng cho
từng bị đơn trong vụ việc chống bán phá giá; trong trường hợp không thể điều tra hết được (do số
lượng bị đơn quá nhiều và nguồn lực của cơ quan điều tra hạn chế), cơ quan này có thể chỉ điều
tra một số lượng bị đơn nhất định, số bị đơn còn lại (không được điều tra) sẽ được hưởng thuế
suất bằng bình quân gia quyền của các bị đơn được điều tra. Như vậy, với quy định này, sẽ chỉ có
02 loại thuế suất là “thuế suất riêng cho bị đơn bắt buộc” (individual rates), “thuế suất cho các bị
đơn còn lại” (“all others” rate) trong vụ điều tra chống bán phá giá.
Trong vụ kiện tôm của Việt Nam, để các doanh nghiệp được áp dụng mức thuế riêng biệt
thì họ còn phải vượt qua bài “kiểm tra tỷ lệ riêng biệt” (individual examination), theo đó, các
doanh nghiệp phải chứng minh được họ hoạt động độc lập, không có sự kiểm soát của Nhà nước
cả về mặt pháp luật và thực tế thì doanh nghiệp đó mới được áp dụng mức thuế riêng biệt. Còn lại
sẽ được áp dụng “thuế suất cho các bị đơn còn lại” (“all others” rate) trong vụ điều tra chống bán
phá giá. Tuy nhiên, DOC còn áp dụng thêm loại “thuế suất toàn quốc” cho các trường hợp bị đơn
không được lựa chọn điều tra và không thỏa mãn điều kiện “hoạt động độc lập, không chịu sự
kiểm soát của Nhà nước” mà đáng ra sẽ hưởng mức “all others” rate.
Đồng thời, Việt Nam lập luận rằng theo Điều 9.4 thì thuế suất loại “all others” được áp
dụng không kèm theo điều kiện khác, do đó việc DOC đặt thêm điều kiện “doanh nghiệp phải
chứng minh được mình độc lập khỏi sự kiểm soát của Nhà nước” là vi phạm điều khoản Hiệp
định của WTO.
- Việt Nam cho rằng Mỹ vi phạm Điều 6.8 ADA
Việt Nam lập luận rằng trong lần rà soát thứ 2, cho rằng DOC đã vi phạm Điều 6.8 và Phụ
lục II ADA bởi các công ty bị đơn bên phía Việt Nam đã không hề vi phạm việc không cung cấp
thông tin “cần thiết” cho phía Mỹ. Cụ thể hơn, phía Việt Nam cho rằng việc trả lời các câu hỏi
điều tra về “số lượng và chất lượng” (quantity & value - Q&V) của Mỹ là không cần thiết theo
Điều 6.8 ADA để có thể đưa ra mức thuế, bởi trong lần rà soát thứ 3 Mỹ đã không yêu cầu phía
các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp thông tin này mà thay vào đó lấy dữ liệu từ một cơ quan
khác trong Chính phủ Mỹ.
- Việt Nam cho rằng Mỹ vi phạm Điều 2 Phần I Nghị định thư gia nhập WTO của Việt
Nam và Đoạn 527, 254 và 255 Báo cáo của Ban Công tác
Việt Nam cho rằng hành vi này còn vi phạm Điều 2 Phần I Nghị định thư gia nhập WTO
của Việt Nam và một số đoạn trong Báo cáo của Ban Công tác về việc gia nhập của Việt Nam bởi
điều khoản gia nhập không cho phép áp dụng thuế suất toàn quốc trừ khi có quy định khác theo
ADA.
* Việt Nam cho rằng việc Hoa Kỳ sử dụng quy tắc thuế suất toàn quốc gây ra sự triệt
tiêu, suy giảm lợi ích đối với Việt Nam
Trong quá trình đàm phán Việt Nam gia nhập WTO, một số Thành viên đã xác định những
khó khăn nhất định có thể nảy sinh trong thủ tục chống bán phá giá liên quan đến hàng nhập khẩu
từ Việt Nam do nước đó chưa chuyển sang nền kinh tế thị trường đầy đủ.
Việt Nam cho rằng không có quy định nào trong Nghị định thư gia nhập của Việt Nam,
bao gồm cả Báo cáo của Ban Công tác, cung cấp cách giải thích thay thế Điều 9.4 trong bối cảnh
nhập khẩu từ các nước NME. Việt Nam cho rằng cả Nghị định thư gia nhập và Báo cáo của Ban
Công tác đều không cung cấp bất kỳ cơ sở nào để đối xử khác biệt đối với một công ty vì quyền
sở hữu của Chính phủ.
Như vậy, việc Hoa Kỳ áp mức thuế suất toàn quốc đối với các nhà xuất khẩu không chứng
minh được sự hoạt động độc lập, không có sự kiểm soát của Nhà nước là gây bất lợi đối với các
doanh nghiệp này, đặc biệt là gây khó khăn cho quá trình Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị
trường đầy đủ.
2.3. VIỆT NAM TRÌNH BAN HỘI THẨM CÁC CHỨNG CỨ CHỨNG MINH LỢI
ÍCH CỦA MÌNH BỊ TRIỆT TIÊU, SUY GIẢM
2.3.1. Chứng cứ chứng minh cho khiếu kiện liên quan đến phương pháp “Quy về 0”
Thứ nhất, Việt Nam đã trình lên Ban Hội thẩm các bản in của một số yếu tố trong chương
trình máy in của DOC (“logs và output”) cho thấy việc áp dụng phương pháp Zeroing cho 2 công
ty ở Việt Nam đc lựa chọn để rà soát trong kỳ rà soát hành chính thứ hai và thứ ba - Minh Phú và
Camimex.
Thứ hai, Việt Nam trình lên Ban Hội thẩm bản ghi nhớ về các vấn đề đặt ra và quyết định
đi kèm với các quyết định cuối cùng của DOC trong các kỳ rà soát hành chính liên quan. Trong
bản ghi nhớ này, DOC thừa nhận đã sử dụng phương pháp “Quy về 0” khi rà soát hành chính.
Thứ ba, Việt Nam cung cấp Bản tuyên thệ của Michael Ferrier - một nhà phân tích thương
mại, chứa những đoạn thể hiện việc sử dụng rộng rãi chương trình tính biên độ của DOC và trong
đó cũng bao gồm việc sử dụng phương pháp “Quy về 0” khi tính biên độ phá giá.
2.3.2. Chứng cứ chứng minh cho khiếu kiện liên quan đến quyết định giới hạn số lượng
các nhà xuất khẩu được chọn điều tra của Bộ Thương mại Hoa Kỳ
Việt Nam đã đệ trình lên Ban Hội thẩm một bức thư từ hồ sơ của lần xem xét hành chính
lần thứ ba, và chỉ ra rằng trong đợt rà soát hành chính này, Fish One - một trong những nhà xuất
khẩu của Việt Nam, đã yêu cầu đối xử với tư cách bị đơn tự nguyện và đề nghị cung cấp cho
DOC tất cả các thông tin cần thiết để tính toán biên độ chống bán phá giá. Theo Việt Nam, thông
qua các cuộc họp và đệ trình chính thức lên DOC, Fish One đã nỗ lực để đạt được một số đảm
bảo rằng dữ liệu trình lên DOC sẽ được chấp nhận. Nhưng DOC đã từ chối trực tiếp giải quyết
yêu cầu này và cho đến khi bị buộc phải đưa ra câu trả lời cho Fish One trong quyết định sơ bộ
thì DOC mới làm điều này. Vì vậy, Việt Nam khẳng định việc ban đầu DOC từ chối đáp ứng yêu
cầu của Fish One có thể được hiểu là “không khuyến khích” các phản hồi tự nguyện, và điều này
đã chứng minh DOC vi phạm Điều 6.10 ADA.
2.3.3. Chứng cứ chứng minh cho khiếu kiện liên quan đến mức thuế suất chung áp
dụng cho các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn trong điều tra rà soát hành chính lần 2
và 3
Việt Nam sử dụng các chứng cứ tương tự như chứng cứ đã cung cấp khi khiếu kiện về
phương pháp “Quy về 0” của DOC: Việt Nam cung cấp cho Ban Hội thẩm nhật ký lập trình của
DOC và kết quả chương trình máy tính liên quan đến hai bị cáo Việt Nam được chọn để kiểm tra
cá nhân trong cuộc điều tra - Minh Phú và Camimex. Việt Nam cũng một lần nữa dựa vào bản
tuyên thệ Ferrier, và Bản ghi nhớ về các vấn đề đặt ra và quyết định đi kèm với các quyết định
cuối cùng của DOC trong các kỳ rà soát hành chính liên quan.
2.3.4. Chứng cứ chứng minh cho khiếu kiện liên quan đến biên độ phá giá phân bổ
theo quy tắc thuế suất toàn quốc trong nền kinh tế phi thị trường
Ở nội dung khiếu kiện này, Việt Nam không có bất kỳ một văn bản hay một bản tuyên thệ
nào được trình lên Ban hội thẩm. Mà thay vào đó, Việt Nam đã đưa ra những lập luận để cáo
buộc sự vi phạm ADA của Hoa Kỳ. Phần bình luận về những lập luận này sẽ được trình bày tài
tiểu mục 2.4.
2.4. BÌNH LUẬN
2.4.1 Vụ kiện DS404 có thuộc thẩm quyền của cơ quan giải quyết tranh chấp WTO
(DSB) không?
Theo quy định tại Điều 1.1 DSU, DSB có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh
giữa các thành viên WTO theo bất kỳ hiệp định nào được liệt kê trong Phụ lục 1 của DSU bao
gồm: Hiệp định thành lập WTO; 12 Hiệp định đa phương trong lĩnh vực thương mại hàng hóa;
Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS); Hiệp định TRIPS; Hiệp định về mua sắm
Chính phủ (GPA); Hiệp định về mua bán máy bay dân dụng; và chính DSU.
Trong vụ kiện DS404, nguyên đơn là Việt Nam, bị đơn: Hoa Kỳ. Xét thấy, Hoa Kỳ gia
nhập WTO năm 1995 và vào ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ
chức này. Như vậy, có thể thấy cả nguyên đơn và bị đơn trong vụ án này đều là thành viên của
WTO.
Về nội dung khiếu kiện, Việt Nam khiếu kiện Hoa Kỳ về các biện pháp chống bán phá giá
đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam và cho rằng Hoa Kỳ đã vi
phạm các Điều khoản trong ADA. Xét thấy, nội dung khiếu kiện của Việt Nam liên quan đến
ADA - một trong 12 Hiệp định đa phương trong lĩnh vực thương mại hàng hóa được liệt kê trong
Phụ lục 1 của DSU (Điều 1.1 DSU).
Từ những phân tích trên, có thể xác định đây là tranh chấp phát sinh giữa hai quốc gia
thành viên WTO theo một hiệp định được liệt kê trong Phụ lục 1 của DSU (cụ thể là ADA). Do
đó, căn cứ Điều 1.1 DSU, vụ kiện DS404 thuộc thẩm quyền của cơ quan giải quyết tranh chấp
của WTO là DSB.
2.4.2 Cơ sở khiếu kiện của Việt Nam có xác đáng hay không?
Theo sự tìm hiểu và nghiên cứu các tài liệu có liên quan cũng như căn cứ vào bối cảnh vụ
việc, các cơ sở lập luận và bằng chứng chứng minh Việt Nam đã đệ trình lên Ban hội thẩm xét về
cơ bản, hầu hết cơ sở khiếu kiện của Việt Nam liên quan đến các biện pháp chống bán phá giá đối
với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam được đệ trình lên Ban hội thẩm là
xác đáng và đánh đúng vào trọng tâm vấn đề.
2.4.2.1. Bình luận về cơ sở khiếu kiện liên quan đến phương pháp “Quy về 0”
Việt Nam đã đưa ra những lập luận cũng như chứng cứ đầy tính thuyết phục, đi đúng vào
trọng tâm để chứng minh Hoa Kỳ đã vi phạm ADA trong việc sử dụng phương pháp “Quy về 0”.
Thứ nhất, Việt Nam đã đệ trình lên Ban hội thẩm các bản in của một số yếu tố trong
chương trình bản in của DOC (“logs” and “output”). Trong đó, phần “logs” cho thấy chương trình
quy định không tính những kết quả so sánh âm khi tính tổng thuế chống bán phá giá đối với một
nhà xuất khẩu được rà soát. Cách tính này tạo nên sự không chính xác ở phần “output” đối với
Minh Phú và Camimex. Đa số các thương vụ của Minh Phú và Camimex sang Mỹ (cả giá trị và
số lượng) đều bị loại bỏ không được tính vì giá xuất khẩu bằng hoặc cao hơn giá thông thường.
Thứ hai, việc Việt Nam cung cấp bản ghi nhớ về các vấn đề đặt ra và quyết định đi kèm
với các quyết định cuối cùng của DOC trong các kỳ rà soát hành chính liên quan đã cho thấy sự
thừa nhận của DOC đối với việc sử dụng phương pháp “Quy về 0” khi rà soát hành chính. Ví dụ,
tại kỳ rà soát hành chính thứ hai, DOC tuyên bố cơ quan này đã “tiếp tục từ chối việc bù trừ khi
tính biên độ bán phá giá dựa trên các thương vụ trong đó giá xuất khẩu vượt quá giá thông thường
trong kỳ rà soát này”. Ở rà soát hành chính thứ ba, DOC nhận định “khi một trong các thương vụ
đc xem xét trong kỳ rà soát này vượt quá giá thông thường, mức vượt quá sẽ ko đc tính vào bù trừ
cho biên độ phá giá ở các thương vụ khác”.
Thứ ba, Việt Nam cung cấp Bản tuyên thệ của một nhà phân tích thương mại, ông Michael
Ferrier, trong đó có chứa những đoạn phân tích chi tiết về phương pháp “Quy về 0” để tính toán
biên độ phá giá nói chung và được DOC sử dụng trong bối cảnh cụ thể của thủ tục chống bán phá
giá tôm. Bản tuyên thệ giải thích thêm rằng chương trình máy tính chứng thực cho việc loại bỏ
này bằng bất kỳ kết quả so sánh nào từ 0 trở xuống (các so sánh mà giá xuất khẩu vượt quá giá trị
bình thường) có thể được tìm thấy trong “outputs” cho Minh Phú và Camimex. Các kết quả đầu
ra này ghi lại, đối với mỗi công ty trong số hai công ty Việt Nam này, khối lượng và giá trị bán
hàng dưới giá trị bình thường, cũng như khối lượng và giá trị tổng doanh số bán hàng của mỗi
nhà sản xuất sang Hoa Kỳ trong giai đoạn xem xét. Cuối cùng, bản tuyên thệ cũng xác định các
dòng lập trình loại trừ bất kỳ kết quả so sánh nào dưới 0 trong việc tính toán tỷ lệ đánh giá dành
riêng cho nhà nhập khẩu.
Như vậy, có thể thấy các chứng cứ khiếu kiện mà Việt Nam đưa ra liên quan đến phương
pháp “Quy về 0” là đầy tính thuyết phục và chứng minh được rằng việc Hoa Kỳ áp dụng phương
pháp “Quy về 0” trong các đợt rà soát hành chính lần thứ hai và thứ ba đối với doanh nghiệp Việt
Nam được lựa chọn là vi phạm ADA.
2.4.2.2. Bình luận về cơ sở khiếu kiện liên quan đến việc DOC giới hạn số lượng các nhà
xuất khẩu được chọn điều tra
Liên quan đến nội dung này, Việt Nam cho rằng hành động của DOC trong việc xử lý các
yêu cầu nhất định của các nhà xuất khẩu/nhà sản xuất Việt Nam trong các đợt rà soát hành chính
đang được đề cập “không khuyến khích” các phản ứng tự nguyện. Đồng thời, Việt Nam cũng đệ
trình lên Ban Hội thẩm một bức thư từ hồ sơ của lần xem xét hành chính lần thứ ba để củng cố
lập luận của mình.
Tuy nhiên, với bằng chứng chỉ là một lá thư trong đợt rà soát hành chính lần thứ ba thì
không đủ cho thấy DOC có bất kỳ hành động nào nhằm ngăn cản yêu cầu tự nguyện của Fish One
hoặc bất kỳ công ty nào khác. Hơn nữa, cáo buộc của Việt Nam không đề cập đến liệu việc điều
tra tất cả các doanh nghiệp có thực hiện được hay không và số lượng doanh nghiệp nên được
chọn là bao nhiêu. Chính vì thế, những cơ sở khiếu kiện liên quan đến vấn đề này mà Việt Nam
đã đưa ra là chưa xác đáng và không đánh trúng vào trọng tâm vấn đề. Đến giai đoạn này, đây là
nội dung duy nhất mà Việt Nam có thể xem là “chưa thắng” trong vụ kiện DS404.
2.4.2.3. Bình luận về cơ sở khiếu kiện liên quan đến mức thuế suất chung áp dụng cho các
bị đơn tự nguyện không được lựa chọn trong điều tra rà soát hành chính lần 2 và 3
Trong nội dung khiếu kiện liên quan đến vấn đề này, Việt Nam đã đưa ra ba lập luận
chính:
+ Thứ nhất, Việt Nam lập luận rằng DOC đã sử dụng “mô hình Zeroing” theo phương
pháp so sánh trung bình có trọng số trên bình quân gia quyền để tính toán biên độ bán phá giá của
những người trả lời được chọn trong cuộc điều tra ban đầu.
+ Thứ hai, theo Điều 9.4 yêu cầu biên độ bán phá giá được tính toán theo cách phù hợp với
Điều 2 là cơ sở để cơ quan quản lý tính toán thuế suất cho các bị đơn còn lại, vì vậy, việc cơ quan
điều tra dựa vào biên độ bán phá giá được tính bằng 0 trong việc xác định thuế suất cho các bị
đơn còn lại là không phù hợp với các quy định của Điều 9.4, bất kể thực tế là tất cả các biên độ
bán phá giá được xác định cho các nhà xuất khẩu được chọn bằng 0, tối thiểu hoặc dựa trên các
dữ kiện có sẵn.
+ Thứ ba, việc sử dụng phương pháp luận mô hình “Quy về 0” trong cuộc điều tra ban đầu
của DOC đã tạo ra biên độ bán phá giá cho các bị đơn được lựa chọn vượt quá biên độ phá giá
của những bị đơn này.
Những lập luận trên đã được Việt Nam sử dụng các bằng chứng tương tự như bằng chứng
đã cung cấp để hỗ trợ cho tuyên bố rằng DOC đã áp dụng phương pháp “Quy về 0” trong việc
tính toán tỷ suất lợi nhuận của từng cá nhân trong lần xem xét hành chính thứ hai và thứ ba: Việt
Nam cung cấp cho Ban hội thẩm nhật ký lập trình của DOC và kết quả chương trình máy tính liên
quan đến hai bị cáo Việt Nam được chọn để kiểm tra cá nhân trong cuộc điều tra - Minh Phú và
Camimex. Việt Nam cũng một lần nữa dựa vào bản tuyên thệ Ferrier, và Bản ghi nhớ về các vấn
đề đặt ra và quyết định đi kèm với các quyết định cuối cùng của DOC trong các kỳ rà soát hành
chính liên quan.
Từ những lập luận và chứng cứ mà Việt Nam đệ trình lên Ban hội thẩm, có thể thấy những
cơ sở khiếu kiện của Việt Nam liên quan đến tới mức thuế suất chung áp dụng cho các bị đơn tự
nguyện không được lựa chọn trong điều tra rà soát hành chính lần 2 và 3 là xác đáng và thuyết
phục. Điều này đồng thời cho thấy, khi khiếu kiện đến vấn đề này, Việt Nam đã có sự tìm hiểu và
nghiên cứu rất kỹ. Đây cũng là một trong những lý do làm tăng thêm phần thắng cho Việt Nam ở
nội dung khiếu kiện này.
2.4.2.4. Bình luận về cơ sở khiếu kiện liên quan đến biên độ phá giá phân bổ theo quy tắc
thuế suất toàn quốc trong nền kinh tế phi thị trường
Khác với những nội dung khiếu kiện khác khi lập luận về vi phạm các Điều khoản trong
Hiệp định chống bán phá giá của Hoa kỳ, Việt Nam đều có những chứng cứ đệ trình lên Ban hội
thẩm nhưng ở nội dung khiếu kiện này lại không có bất kỳ một văn bản hay một bản tuyên thệ
nào được trình lên Ban hội thẩm. Tuy nhiên, không cung cấp bằng chứng không đồng nghĩa là
những cơ sở khiếu kiện của Việt Nam liên quan đến biên độ phá giá phân bổ theo quy tắc thuế
suất toàn quốc trong nền kinh tế phi thị trường là không xác đáng. Bởi lẽ, Việt Nam đã có sự
chuẩn bị kỹ càng khi đưa ra những lập luận để cáo buộc sự vi phạm ADA của Hoa Kỳ đối với nội
dung khiếu kiện này.
Thứ nhất, Việt Nam đã chỉ ra được rằng những nghĩa vụ được quy định theo Điều 2 và 9
ADA xác định cơ sở tính toán biên độ chống bán phá giá và thu thuế chống bán phá giá đã không
đề cập đến trường hợp dự tính áp dụng mức thuế suất toàn quốc dựa trên dữ kiện bất lợi có sẵn.
Lập luận này dựa trên từ “bất kỳ” trong dòng thứ hai của Điều 9.4. Việt Nam hiểu việc sử dụng từ
này có nghĩa là Điều 9.4 điều chỉnh việc đánh thuế chống bán phá giá đối với “bất kỳ” công ty
nào không được lựa chọn để kiểm tra riêng lẻ, không có ngoại lệ. Việt Nam cho rằng Điều 9.4 là
tuyệt đối, theo nghĩa là, trong trường hợp cơ quan điều tra hạn chế kiểm tra, cơ quan điều tra phải
tính thuế chống bán phá giá đối với tất cả các công ty không bị điều tra riêng lẻ, bất kể họ có đủ
điều kiện để được hưởng một mức thuế suất riêng biệt hay không, không lớn hơn biên độ phá giá
trung bình có gia quyền của các công ty được chọn, không bao gồm các tỷ lệ bằng 0, tối thiểu
hoặc dựa trên các dữ kiện có sẵn.
Thứ hai, Việt Nam đã phát hiện rằng không có quy định nào trong Nghị định thư gia nhập
của Việt Nam, bao gồm cả Báo cáo của Ban Công tác, cung cấp cách giải thích thay thế Điều 9.4
trong bối cảnh nhập khẩu từ các nước NME. Việt Nam cho rằng cả Nghị định thư gia nhập và
Báo cáo của Ban Công tác đều không cung cấp bất kỳ cơ sở nào để đối xử khác biệt đối với một
công ty vì quyền sở hữu của Chính phủ.
Có thể thấy rằng, hai luận cứ chính được Việt Nam dùng để lập luận nhằm bảo vệ cho luận
điểm biên độ phá giá phân bổ theo quy tắc thuế suất toàn quốc là vi phạm Hiệp định chống bán
phá giá là xác đáng và đi thẳng vào trọng tâm vấn đề. Chính những lập luận này đã giúp Việt
Nam không cần đệ trình bằng chứng mà vẫn có cơ hội giành thắng lợi cho nội dung khởi kiện liên
quan đến vấn đề trên.
2.4.3 Việt Nam có vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu hay không?
Theo Việt Nam, Ban Hội thẩm có thẩm quyền xem xét biện pháp “duy trì sử dụng các
thông lệ bị chống đối” của Mỹ khi xét xử vụ kiện. Bởi, Việt Nam đã thể hiện một cách phù hợp
yêu cầu xem xét biện pháp trên trong yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm của mình.
Tuy nhiên, theo Ban Hội thẩm, yêu cầu của Việt Nam không đề cập việc “duy trì sử dụng
các thông lệ bị chống đối” bởi tuy Việt Nam có đề cập đến phương pháp Zeroing trong yêu cầu
thành lập Ban Hội thẩm, nhưng yêu cầu đó không thể hiện trực tiếp cũng như gián tiếp, một cách
độc lập hay cùng với biện pháp khác, ý chí muốn Ban Hội thẩm xem xét một biện pháp của DOC
có khả năng lặp lại trong tương lai. Nói cách khác, yêu cầu của Việt Nam chỉ nhắm vào các biện
pháp đã tồn tại hoặc đang được thực hiện vào thời điểm nộp yêu cầu mà không nói đến các biện
pháp trong tương lai. Do đó, Ban Hội thẩm cho rằng không thể tìm thấy yếu tố nào thể hiện Việt
Nam muốn đề cập việc “duy trì áp dụng” trong yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm của mình.
Như vậy có thể thấy rằng tại yêu cầu tham vấn, Việt Nam có nhắc tới việc Mỹ tiếp tục “sử
dụng các thông lệ bị chống đối”. Tuy nhiên, yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm của Việt Nam
không thể hiện ý định này nên có thể xem như Việt Nam đã vượt quá khởi kiện ban đầu.
Có thể nói nguyên tắc nền tảng trong mọi thủ tục tố tụng quốc tế đó chính là phạm vi khởi
kiện phải được xác định rõ khi thủ tục bắt đầu. Nguyên tắc được lập ra dùng để bảo vệ quyền của
bên bị kiện bởi vì khi phạm vi khởi kiện không được xác định rõ ngay từ ban đầu thì có thể khiến
cho việc giải quyết tranh chấp bị gặp khó khăn. Hậu quả là các khiếu kiện trong những yêu cầu
không rõ ràng có thể bị gạt bỏ một phần hay toàn bộ. Nguyên tắc này được thể hiện chủ yếu tại
Điều 6.2 DSU.
Việc áp dụng Điều 6.2 DSU là không dễ. Thứ nhất, việc theo dõi nội dung khiếu kiện từ
giai đoạn đầu gần như không tồn tại vì các cuộc tham vấn được bảo mật, không thể kiểm soát
phạm vì tranh chấp thực sự của các bên là gì. Hơn nữa, các yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm nhìn
chung được thông qua một cách tự động (theo nguyên tắc đồng thuận nghịch) tại kỳ họp của DSB
và điều khoản tham chiếu của Ban Hội thẩm là điều khoản tham chiếu chuẩn được xây dựng dựa
trên yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm. Do đó, ở bước này, không ai đặt ra câu hỏi nội dung cụ thể
của yêu cầu này là gì. Chỉ ở giai đoạn sau, khi vụ kiện đã bắt đầu, gánh nặng mới được đặt lên vai
Ban Hội thẩm trong việc xem xét nội dung yêu cầu và tính phù hợp của nó với Điều 6.2 DSU
cũng như tự xác định phạm vi thẩm quyền của mình. Khi này, cuộc đấu tranh giữa các bên mới
trở nên gay gắt. Bị đơn thường chỉ trích yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm không rõ ràng để từ đó
yêu cầu Ban Hội thẩm gạt bỏ một phần hoặc toàn bộ các khiếu kiện của nguyên đơn. Nguyên đơn
bảo vệ tính phù hợp với Điều 6.2 DSU của yêu cầu của mình để các khiếu kiện được xem xét
càng nhiều càng tốt, từ đó tăng khả năng thắng kiện. Thứ hai, nội dung của Điều 6.2 DSU không
rõ ràng. Điều này đòi hỏi yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm phải đủ để trình bày các vấn đề một
cách rõ ràng. Tuy nhiên, như thế nào là đủ thì phải tùy vào từng trường hợp cụ thể.
Như đã đề cập, Việt Nam không bảo vệ được quan điểm của mình. Cuối cùng, Ban Hội
thẩm chỉ gói gọn phạm vi xem xét trong các vấn đề liên quan đến biện pháp của Mỹ áp dụng tại
các kỳ rà soát hành chính thứ hai và thứ ba. Thất bại này bắt nguồn chủ yếu từ nội dung của yêu
cầu thành lập Ban Hội thẩm của Việt Nam. Có lẽ, đây là kinh nghiệm mà Việt Nam nên rút ra
trong các lần tranh tụng tiếp theo tại WTO.

BÀI 5: TRÌNH BÀY VIỆC ÁP DỤNG BÁO CÁO CỦA AMICUS CURIAE TRONG
QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP WTO
PHẦN I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ AMICUS CURIAE
1. Định nghĩa
Amicus curiae là một thuật ngữ pháp lý có nguồn gốc từ tiếng Latin nghĩa là “bạn của Tòa
án”, mang nội hàm là [một] người, không phải là các bên tranh chấp, tự nguyện gửi ý kiến của
mình cho Tòa án các thông tin về những vấn đề pháp lý hoặc những vấn đề khác của vụ kiện để
hỗ trợ Tòa án giải quyết nội dung tranh chấp.1 Báo cáo amicus curiae có thể ủng hộ quan điểm
của một trong các bên tranh chấp nhưng cũng có thể ủng hộ từng phần quan điểm của mỗi bên
tranh chấp. Đây là chế định khá phổ biến trong luật tố tụng của các quốc gia trên thế giới, đặc
biệt là các quốc gia theo hệ thống pháp luật Anh - Hoa Kỳ.
Sự khác biệt giữa amicus curiae với bên thứ ba trong một vụ tranh chấp nằm ở chỗ amicus
gửi những chứng cứ và lập luận tới cơ quan tài phán một cách độc lập, không liên quan tới lập
luận của các bên tranh chấp. Bên thứ ba phải có lợi ích pháp lý liên quan đến vụ tranh chấp. Để
được tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp, bên thứ ba sẽ phải chứng minh rằng họ có
quyền và lợi ích liên quan và những lợi ích này sẽ bị ảnh hưởng do kết quả của việc giải quyết
tranh chấp. Đối với amicus curiae, điều này là không cần thiết.2
2. Quá trình hình thành và phát triển
Quy chế báo cáo amicus curiae có nguồn gốc từ luật La Mã, cho phép Tòa án mời các bên
ngoài tranh chấp cung cấp thông tin pháp lý hoặc sự kiện về vấn đề Tòa án không quen thuộc.3
Chế định amicus curiae được áp dụng lần đầu tiên trong hệ thống thông luật vào khoảng thế kỷ
XIV và được áp dụng phổ biến trong hệ thống tư pháp của Anh từ thế kỷ XVII và sau đó được
hầu hết các quốc gia theo hệ thống thông luật tiếp thu và áp dụng rộng rãi.4 Tại Hoa Kỳ, các Toà
án từ lâu đã công nhận và cho phép amicus curiae tham gia vào thủ tục tố tụng dưới nhiều hình
thức khác nhau như dưới dạng báo cáo pháp lý hoặc một báo cáo kỹ thuật liên quan tới vấn đề
của vụ việc đang được Tòa án thụ lý.
2. Cơ sở pháp lý sự tham gia của amicus curiae vào quá trình GQTC tại WTO
3.1. Điều 13 Bản thỏa ước về quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp
Cơ sở pháp lý cơ bản cho việc áp dụng quy chế amicus curiae trong cơ chế GQTC của
WTO là Điều 13 DSU. Theo quy định của Điều 13 DSU, mỗi Ban hội thẩm đều phải có quyền
tìm kiếm thông tin và tư vấn kỹ thuật từ bất cứ cá nhân hoặc cơ quan nào mà Ban hội thẩm coi là
phù hợp5 và có thể tìm kiếm thông tin từ bất kỳ nguồn nào có liên quan và có thể tham vấn
chuyên gia để nhận những ý kiến về những khía cạnh nhất định của vấn đề.6 Tuy nhiên, điều
khoản này không đề cập tới vấn đề báo cáo amicus curiae. Bên cạnh đó, nội dung của quy định
cũng mơ hồ vì từ “tìm kiếm” có thể được hiểu là Ban hội thẩm phải chủ động yêu cầu cung cấp
thông tin. Dó đó, có thể hiểu lập luận các báo cáo kỹ thuật của bên thứ ba, bao gồm cả báo cáo
amicus curiae, không có giá trị tham khảo nếu Ban hội thẩm không chủ động trưng cầu. Một vấn
đề pháp lý khác cũng rất quan trọng là liệu nội dung của Điều 13 DSU có bao trùm lên hoạt động
xét xử của tất cả các cơ quan GQTC của WTO (cụ thể là Cơ quan phúc thẩm) vì nội dung của
điều khoản này dường như chỉ đề cập tới Ban hội thẩm. Hay nói cách khác, Cơ quan phúc thẩm
có thể dựa trên quy định của Điều 13 DSU để tiến hành trưng cầu thông tin khi xem xét vụ việc.
Như vậy, việc tìm hiểu quy chế amicus curiae trong thủ tục GQTC của WTO chỉ có thể được
thực hiện thông qua các vụ kiện và thực tiễn xét xử của WTO.7 Cụ thể là qua các vụ kiện: DS58,
DS135, DS231 và DS600.
3.2. Điều 17.9 Bản thỏa ước về quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh
chấp
Điều 17.9 DSU cho phép Cơ quan phúc thẩm được xây dựng thủ tục làm việc sau khi
Tham vấn với Chủ tịch DSB và Tổng giám đốc và Cơ quan phúc thẩm phải thông báo cho các
thành viên để có thông tin. Tuy nhiên, Điều 17.9 DSU lại không đề cập đến báo cáo amicus
curiae. Không có quy định nào trong DSU hay Thủ tục làm việc quy định rõ việc Cơ quan phúc
thẩm có thể chấp nhận, xem xét hay có thể từ chối những đệ trình từ các bên khác ngoài các bên
trong tranh chấp.
3.3. Điều 16.1 của Thủ tục làm việc trong giai đoạn phúc thẩm
Điều 16.1 của Thủ tục làm việc trong giai đoạn phúc thẩm cho phép Cơ quan phúc thẩm
được áp dụng các quy tắc mang tính chất thủ tục dựa trên lẽ công bằng miễn là các thủ tục không
mâu thuẫn với các quy tắc, quy định của DSU hoặc các Hiệp định của WTO. Do đó, cơ quan
phúc thẩm có thể sử dụng báo cáo amicus curiae miễn là nó không trái với các quy định của
DSU, hiệp định của WTO và Cơ quan phúc thẩm phải thông báo cho các thành viên của mình.
4. Ưu điểm và nhược điểm của quy chế amicus curiae
4.1. Ưu điểm
Amicus curiae có thể đóng góp tích cực vào hoạt động của các Tòa án và cơ quan tài phán
quốc tế về nhiều mặt. Chẳng hạn, amicus curiae có thể kéo sự chú ý của Tòa án và cơ quan tài
phán quốc tế tới những vấn đề chứng cứ cũng như pháp lý mà, bởi một lý do nào đó, không được
các bên tranh chấp đề cập tới. Chức năng này đặc biệt quan trọng đối với những tranh chấp trong
những lĩnh vực mới và phức tạp. Amicus curiae có thể thông báo cho cơ quan tài phán những
nguồn thông tin mà cơ quan tài phán cần phải tiếp cận để hoàn thành chức năng của mình. Ngoài
ra, amicus curiae cũng có thể đề cập tới những vấn đề, thông tin liên quan tới lợi ích thực tế của
cộng đồng nhưng không được đề cập tới trong quá trình giải quyết tranh chấp vì không liên quan
trực tiếp đến lợi ích của các bên tranh chấp. Amicus curiae sẽ giúp cơ quan tài phán cũng như
các bên tranh chấp tiết kiệm thời gian và tiền bạc trong quá trình tố tụng. Do không bị ràng buộc
bởi phán quyết của cơ quan tài phán, họ có thể đưa ra những vấn đề mà các bên có thể bỏ qua bởi
các lý do khác nhau. Nói cách khác, họ có thể tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp vì
cộng đồng. Những amicus curiae, ví dụ như các tổ chức phi chính phủ (NGO), có thể đại diện
cho lợi ích toàn cầu bởi họ không ràng buộc bởi những nhiệm vụ cụ thể đối với chính phủ.
4.2. Nhược điểm
Tuy nhiên, amicus curiae cũng có thể tạo ra một số khó khăn cho quá trình giải quyết
tranh chấp. Trước hết, do không bị ràng buộc gì bởi những báo cáo và thông tin do mình cung cấp
nên vấn đề chính xác và khách quan của báo cáo amicus curiae luôn cần phải được kiểm tra.
Điều đó có thể cũng sẽ rất tốn kém. Bên cạnh đó, việc xuất hiện báo cáo amicus curiae có thể tạo
thêm gánh nặng cho các bên tranh chấp vì họ sẽ phải chuẩn bị những lập luận mới để trả lời
những vấn đề pháp lý và chứng cứ được báo cáo amicus curiae đề cập tới. Ngoài ra amicus
curiae có thể bị những quốc gia giàu có lợi dụng để tạo ra những sức ép đối với quyết định của
cơ quan tài phán, trong khi những quốc gia nghèo kém phát triển sẽ không có đủ nguồn lực để
thực hiện hành vi tương tự. Thêm vào đó, đối với cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, việc
cho phép các cá nhân và tổ chức phi chính phủ tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp sẽ phá
vỡ “cơ chế đóng” của định chế thương mại liên chính phủ. Đây cũng chính là những lí do quan
trọng dẫn tới việc nhiều quốc gia phản đối chế định amicus curiae trong khuôn khổ DSU.
PHẦN III: ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUY CHẾ AMICUS CURIAE
Thông qua các vụ tranh chấp, các cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO đã thiết lập một
số quy tắc quan trọng cho việc áp dụng quy chế amicus curiae như sau: Thứ nhất, các cơ quan
GQTC (bao gồm Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm) có thẩm quyền xem xét báo cáo amicus
curiae. Cơ sở pháp lý cho quy chế amicus curiae là quy định về quyền trưng cầu thông tin kỹ
thuật theo quy định của Điều 13 DSU. Đối với thủ tục phúc thẩm, việc áp dụng quy chế amicus
curiae của Cơ quan phúc thẩm còn dựa trên điều Điều 16.1 của Thủ tục làm việc. Ở đây cần lưu
ý là Điều 16.1 không quy định về vấn đề này mà chỉ đặt ra các điều kiện đối với việc thiết lập
các quy tắc mới cho thủ tục GQTC. Như vậy, Cơ quan phúc thẩm vẫn cần phải xem xét và làm
rõ cơ sở pháp lý cho quy chế amicus curiae tại giai đoạn phúc thẩm. Các cơ quan GQTC của
WTO có toàn quyền quyết định tiếp nhận, chấp thuận hoặc từ chối chấp nhận báo cáo amicus
curiae trong mọi trường hợp.
Thứ hai, tất cả các cá nhân và tổ chức đều có thể đệ trình hồ sơ amicus, không bắt buộc
phải là tổ chức đại diện cho chính phủ. Từ những phán quyết GQTC của Ban hội thẩm và Cơ
quan phúc thẩm có thể thấy phạm vị amicus curiae được chấp thuận trong khuôn khổ cơ chế
GQTC của WTO là rất rộng và phong phú, bao gồm các cá nhân là chuyên gia có uy tín khoa
học, các tổ chức NGO, công ty luật và các quốc gia (bao gồm cả thành viên WTO hoặc quốc gia
không phải là thành viên WTO). Tuy nhiên, cần lưu ý hiệp định giữa Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
và Tổ chức thương mại thế giới (WTO) không cho phép IMF thể hiện quan điểm bằng văn bản
trước Ban hội thẩm WTO. Như vậy, các báo cáo của các tổ chức này sẽ không được chấp nhận
trong thủ tục GQTC.
Thứ ba, các cá nhân và tổ chức mong muốn tham gia thủ tục GQTC của WTO với tư cách
amicus curiae có thể đệ trình, nhưng không có quyền yêu cầu hồ sơ của họ được chấp nhận và
xem xét bởi các cơ quan GQTC. Amicus curiae cũng không có quyền tham gia phiên điều trần
của WTO để bảo vệ hoặc giải thích quan điểm của mình.
Thứ tư, nếu một thành viên WTO quan tâm tới một vụ kiện trong khuôn khổ WTO, nhưng
không tham gia với tư cách là bên thứ 3 (có thể do không hoàn tất các thủ tục đăng ký hoặc
không được tham gia theo quy định của DSU) và gửi thông tin tới cơ quan giải quyết tranh chấp
thì thông tin đó sẽ bị coi là báo cáo amicus curiae. Cơ quan giải quyết tranh chấp có quyền chấp
nhận hoặc từ chối báo cáo đó theo như quy tắc thông thường. Thứ năm, báo cáo amicus curiae
phải phục vụ mục đích của từng giai đoạn GQTC. Cụ thể, báo cáo amicus curiae được nộp ở giai
đoạn sơ thẩm phải nhắm tới mục đích cung cấp tình tiết khách quan và các vấn đề pháp lý của vụ
việc;27 trong khi đó đối với giai đoạn phúc thẩm nó chỉ hạn chế ở mục tiêu giải quyết vấn đề
pháp lý của vụ việc.28 Thứ sáu, báo cáo amicus curiae không được lặp lại tình tiết khách quan
hoặc lập luận đã được các bên trong vụ kiễn đưa ra. Cơ quan GQTC sẽ từ chối chấp nhận các báo
cáo amicus curiae nếu phát hiện sự trùng lắp. Trong trường hợp một trong các bên tranh chấp
đính kèm báo cáo amicus curiae trong hồ sơ kiện của mình, thì báo cáo amicus sẽ trở thành một
phần của hồ sơ kiện của bên liên quan và khi đó các cơ quan GQTC của WTO sẽ buộc phải xem
xét và có ý kiến đối với nội dung lập luận của báo cáo amicus đó. Nhìn chung, việc áp dụng quy
chế amicus curiae trong thủ tục GQTC của WTO vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi. Ngoại trừ Hoa
Kỳ luôn ủng hộ áp dụng quy chế này rộng rãi trong khuôn khổ cơ chế GQTC của WTO, các
quốc gia khác không nhất quán về vấn đề này. Nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát
triển nghi ngờ về tính hợp lý và hiệu quả của quy chế này trong khuôn khổ cơ chế GQTC của
WTO. Họ cho rằng quy chế amicus curiae sẽ làm gia tăng gánh nặng cho tất cả các bên tranh
chấp, đặc biệt là các nước đang phát triển vì phần lớn các NGO có khả năng chi trả cho việc thực
hiện báo cáo amicus curiae đều ở những nước phát triển hoặc nhận tiền từ các nguồn tài trợ của
các nước phát triển cho nên các báo cáo đó có thể sẽ thiên về bảo vệ lợi ích của các nước phát
triển; cũng có nghĩa là ngoài những vấn đề được nêu bởi nước thành viên trong hồ sơ khởi kiện,
các quốc gia đang phát triển sẽ phải đối đầu với cả các vấn đề của báo cáo amicus curiae. Tuy
nhiên, sự hoài nghi này không thể loại bỏ hoặc phủ định thực tế về sự tồn tại của quy chế amicus
curiae đã được các cơ quan giải quyết tranh chấp xác lập và xác nhận nhiều lần trong thực tiễn
GQTC. Các quốc gia cần phải thích nghi với thực tế này. Hướng giải quyết tích cực nhằm loại
trừ sự bất đồng này là xây dựng niềm tin giữa các quốc gia. Các thành viên WTO (là các nước
phát triển) và NGO cần thiết lập quan hệ và tăng cường hoạt động trao đổi thông tin với các nước
đang phát triển và đặc biệt với NGO của các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy hoạt động của
họ; mặt khác, NGO của các nước đang phát triển cũng cần phải tự hoàn thiện và phát triển năng
lực của mình để có thể tham gia vào các hoạt động quốc tế.
PHẦN IV: BÀI HỌC CHO VIỆT NAM TRONG TRƯỜNG HỢP VIỆT NAM VẬN
DỤNG AMICUS CURIAE KHI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI WTO
Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO,29 Việt
Nam đã có đầy đủ tư cách để tham gia vào cơ chế GQTC của WTO. Việt Nam cũng đã khởi kiện
và thành công trong vụ kiện Hoa Kỳ - Tôm Việt Nam (DS404). Tuy nhiên, cơ chế GQTC của
WTO vẫn còn nhiều vấn đề pháp lý phức tạp, cụ thể ở đây là chế định amicus curiae. Việc
nghiên cứu chế định này đối với Việt Nam là cần thiết để có thể vận dụng một cách hiệu quả khi
tham gia thủ tục GQTC.
Thực vậy, chiến thắng của Việt Nam trong vụ kiện Hoa Kỳ - Tôm Việt Nam đã nhờ vào
đóng góp không nhỏ của một chuyên gia phân tích thương mại có tên là Michael Ferrier, người
từng làm việc cho USDOC30 trong phân tích cơ sở dữ liệu trên máy tính để áp dụng phương
pháp quy về không. Trong vụ kiện này, để chứng minh phương pháp quy về không đơn giản
(simple zeroing) được sử dụng bởi USDOC trong cuộc điều tra bán phá giá ban đầu cũng như
đợt rà soát hành chính tiếp theo đối với các doanh nghiệp Việt Nam, Việt Nam đã trình lên Ban
hội thẩm Bản khai có tuyên thệ của Michael Ferrier. Bản khai có tuyên thệ của ông Michael
Ferrier đã được Ban hội thẩm chấp nhận như một phần trong hồ sơ đệ trình của Việt Nam, được
dùng như một chứng cứ hữu hiệu để Ban hội thẩm đi đến kết luận là phương pháp quy về không
đơn giản trên thực tế đã được áp dụng bởi phía Hoa Kỳ.31 Tương tự, liên quan đến nội dung
khiếu kiện thứ hai của Việt Nam về phương pháp quy về không về mặt pháp lý (zeroing “as
such”), Bản khai có tuyên thệ của ông Micheal Ferrier cũng được Ban hội thẩm sử dụng như một
chứng cứ quan trọng, làm cơ sở cho kết luận về sự vi phạm của Hoa Kỳ.32 Đặc biệt, để bác bỏ
lập luận của Hoa Kỳ cho rằng Bản khai có tuyên thệ của ông Micheal Ferrier không được coi là
một “ý kiến của chuyên gia” nhằm chứng minh phương pháp quy về không về mặt pháp lý của
Hoa Kỳ, Ban hội thẩm đã trích dẫn các án lệ của Cơ quan phúc thẩm, theo đó Ban hội thẩm có
quyền sử dụng các tài liệu trong hồ sơ của các bên trong vụ tranh chấp bất chấp mục đích ban
đầu của người cung cấp chứng cứ đó. Vụ kiện Hoa Kỳ - Tôm Việt Nam cho thấy Việt Nam đã
vận dụng có hiệu quả vai trò của chuyên gia trong GQTC, góp phần vào thắng lợi của vụ việc,
cũng như tầm quan trọng của chế định amicus curiae trong GQTC tại WTO.
Trong tương lai, trong trường hợp xảy ra tranh chấp tại WTO mà một bên trong tranh
chấp là Việt Nam, khi đó Việt Nam cần chủ động vận dụng chế định amicus curiae một cách có
hiệu quả như đã từng thực hiện trong vụ kiện Hoa Kỳ - Tôm Việt Nam thông qua những cơ chế
hợp tác với các NGO, các tổ chức dân sự hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và sức khỏe
con người. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tiến hành những cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ
và hiệp hội doanh nghiệp vì họ là những chuyên gia trong lĩnh vực của họ. Do đó, họ có thể cung
cấp nguồn nhân lực là những chuyên gia cũng như các thông tin, tư vấn kỹ thuật quan trọng để từ
đó Việt Nam có thể đính kèm các thông tin đó trong hồ sơ đệ trình của mình. Cơ chế hợp tác chặt
chẽ giữa chính phủ và hiệp hội doanh nghiệp là một trong những yếu tố tiên quyết đảm bảo sự
thành công. Điều này cho thấy Việt Nam cần có một văn bản có tính quy phạm, có giá trị pháp lý
cao để giải quyết thích đáng cơ chế phối hợp hiệp hội doanh nghiệp với chính phủ trong việc đối
phó với các tranh chấp thương mại quốc tế nói chung và các tranh chấp tại WTO nói riêng.

BÀI 7: THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP RÚT GỌN ĐỐI VỚI CÁC QUỐC
GIA ĐANG PHÁT TRIỂN TRONG WTO
I. Thủ tục giải quyết tranh chấp theo thủ tục thông thường
Thủ tục giải quyết tranh chấp trong WTO được thực hiện bởi các cơ quan khác nhau, mỗi
cơ quan có chức năng riêng biệt, tạo nên tính độc lập trong hoạt động điều tra và thông qua quyết
định trong cơ chế này.
1. Các cơ quan giải quyết tranh chấp
a. Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB)
Cơ quan này thực chất là Đại hội đồng WTO, bao gồm đại diện của tất cả các quốc gia
thành viên. DSB có quyền thành lập Ban hội thẩm, thông qua các báo cáo của Ban hội thẩm và
của Cơ quan phúc thẩm, giám sát việc thi hành các quyết định, khuyến nghị giải quyết tranh
chấp, cho phép đình chỉ thực hiện các nghĩa vụ và nhượng bộ (trả đũa). Tuy nhiên, DSB chỉ là cơ
quan thông qua quyết định chứ không trực tiếp thực hiện việc xem xét giải quyết tranh chấp. Các
quyết định của DSB được thông qua theo nguyên tắc đồng thuận phủ quyết (đồng thuận nghịch).
Đây là một nguyên tắc mới theo đó một quyết định chỉ không được thông qua khi tất cả thành
viên DSB bỏ phiếu không thông qua. Điều này đồng nghĩa với việc các quyết định của DSB hầu
như được thông qua tự động vì khó có thể tưởng tượng một quyết định có thể bị bỏ phiếu chống
bởi tất cả các thành viên DSB. Nguyên tắc này khắc phục được nhược điểm cơ bản của cơ chế
giải quyết tranh chấp trong GATT 1947 nơi áp dụng nguyên tắc đồng thuận truyền thống - mọi
quyết định chỉ được thông qua khi tất cả các thành viên bỏ phiếu thông qua (mỗi thành viên đều
có quyền phủ quyết quyết định) – một rào cản trong việc thông qua các quyết định của cơ quan
giải quyết tranh chấp.
b. Ban hội thẩm (Panel):
Ban này bao gồm từ 3 - 5 thành viên có nhiệm vụ xem xét một vấn đề cụ thể bị tranh chấp
trên cơ sở các quy định WTO được quốc gia nguyên đơn viện dẫn. Kết quả công việc của Ban
hội thẩm là một báo cáo trình DSB thông qua, giúp DSB đưa ra các khuyến nghị đối với các Bên
tranh chấp. Trên thực tế thì đây là cơ quan trực tiếp giải quyết tranh chấp mặc dù không nắm
quyền quyết định (vì với nguyên tắc đồng thuận phủ quyết mọi vấn đề về giải quyết tranh chấp
khi đã đưa ra trước DSB đều được “tự động” thông qua). Các thành viên Ban hội thẩm được lựa
chọn trong số các quan chức chính phủ hoặc các chuyên gia phi chính phủ không có quốc tịch
của một Bên tranh chấp hoặc của một nước cùng là thành viên trong một Liên minh thuế quan
hoặc Thị trường chung với một trong các nước tranh chấp (ví dụ: Liên minh Châu u). Ban hoạt
động độc lập, không chịu sự giám sát của bất kỳ quốc gia nào.
Ban Hội thẩm không phải là cơ quan thường trực mà được thành lập cho một tranh chấp
cụ thể (adhoc) để xem xét các khía cạnh về tình tiết pháp lý của vụ kiện và nộp báo cáo lên DSB,
trong đó nêu rõ kết luận của mình về việc khiếu kiện có cơ sở hay không và các biện pháp hoặc
hành vi bị phản đối có phù hợp với WTO hay không.
c. Cơ quan Phúc thẩm (SAB):
Cơ quan Phúc thẩm là một thiết chế mới trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, cho
phép báo cáo của Ban hội thẩm được xem xét lại (khi có yêu cầu), đảm bảo tính đúng đắn của
báo cáo giải quyết tranh chấp. Sự ra đời của cơ quan này cũng cho thấy rõ hơn tính chất xét xử
của thủ tục giải quyết tranh chấp mới. SAB gồm 7 thành viên do DSB bổ nhiệm với nhiệm kỳ 4
năm (có thể được bầu lại 1 lần). Các thành viên SAB được lựa chọn trong số những nhân vật có
uy tín và có chuyên môn được công nhận trong lĩnh vực luật pháp, thương mại quốc tế và trong
những vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của các hiệp định liên quan. Tuy nhiên, việc xét xử phúc
thẩm trong từng vụ việc chỉ do 3 thành viên SAB thực hiện một cách độc lập. Khi giải quyết vấn
đề tranh chấp, SAB chỉ xem xét lại các khía cạnh pháp lý và giải thích pháp luật trong Báo cáo
của Ban hội thẩm chứ không điều tra lại các yếu tố thực tiễn của tranh chấp. Kết quả làm việc
của SAB là một báo cáo trong đó Cơ quan này có thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc đảo ngược lại các
kết luận trong báo cáo của Ban hội thẩm. Quy định về quốc tịch này không áp dụng cho các nước
đang hoặc kém phát triển là một bên tranh chấp. Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm được thông
qua tại DSB và không thể bị phản đối hay khiếu nại tiếp.
2. Trình tự giải quyết tranh chấp
a. Tham vấn (Consultation)
Bên có khiếu nại trước hết phải đưa ra yêu cầu tham vấn Bên kia (Điều 4 DSU). Việc
tham vấn được tiến hành bí mật (không công khai) và không gây thiệt hại cho các quyền tiếp
theo của các Bên. Bên được tham vấn phải trả lời trong thời hạn 10 ngày và phải tiến hành tham
vấn trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu (trường hợp khẩn cấp – ví dụ hàng hoá liên
quan có nguy cơ hư hỏng, các thời hạn này lần lượt là 10 ngày và 20 ngày). Bên được tham vấn
có nghĩa vụ "đảm bảo việc xem xét một cách cảm thông và tạo cơ hội thỏa đáng" cho Bên yêu
cầu tham vấn.
Bên bị khiếu kiện (là bên được đề nghị tham vấn) có nghĩa vụ chấp thuận xem xét một
cách thiện chí đề nghị tham vấn cũng như cố gắng tạo cơ hội để tham vấn (Điều 4.2 của DSU).
Thủ tục tham vấn chỉ là thủ tục được tiến hành giữa các Bên với nhau. DSB được thông
báo về thủ tục này và có trách nhiệm thông báo cho các quốc gia thành viên về yêu cầu tham vấn
nhưng cơ quan này không trực tiếp tham gia vào thủ tục tham vấn. Các quốc gia khác có thể xin
tham gia vào việc tham vấn này nếu Bên bị tham vấn thừa nhận rằng các quốc gia này có “quyền
lợi thương mại thực chất” trong việc tham vấn này. Thông thường các quốc gia đều cố gắng giải
quyết các bất đồng ở giai đoạn tham vấn nhằm hạn chế đến mức tối đa các thiệt hại về lợi ích cho
tất cả các bên đồng thời đảm bảo tính bí mật của các thông tin liên quan đến tranh chấp. Tuy
nhiên, các quy định về tham vấn trong WTO cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định như: làm thế
nào để định lượng hoặc kiểm nghiệm được việc thực hiện nghĩa vụ “tham vấn một cách thông
cảm” của Bên được yêu cầu tham vấn; trường hợp tham vấn đạt được một thỏa thuận thì thông
báo về kết quả tham vấn cần phải chi tiết đến mức nào để các Thành viên khác của WTO và cơ
quan có thẩm quyền kiểm tra được tính hợp pháp của thoả thuận tham vấn (tránh hiện tượng thỏa
thuận đạt được đơn thuần chỉ là sự thỏa hiệp về lợi ích giữa các bên mà không dựa trên các quy
định của WTO và thực tế vi phạm vẫn tồn tại…).
Khi có một tranh chấp phát sinh, nếu thành viên WTO có quyền lợi bị vi phạm lựa chọn
việc giải quyết bằng cơ chế của WTO thì thủ tục đầu tiên được tiến hành là tham vấn (Điều 4 của
DSU). Các cuộc tham vấn song phương tạo cho các bên một cơ hội để thảo luận vấn đề và tìm ra
một giải pháp thỏa đáng cho các bên mà không phải tranh tụng (Điều 4.5 của DSU). Ngay cả khi
các cuộc tham vấn để giải quyết tranh chấp thất bại, các bên vẫn luôn có khả năng, cơ hội tìm ra
được một giải pháp hòa giải với nhau ở bất kỳ bước nào trong quá trình giải quyết tranh chấp sau
đó.
b. Môi giới, Trung gian, Hoà giải (Good Office, Mediation, Consultation)
Bên cạnh thủ tục tham vấn, DSU còn quy định các hình thức giải quyết tranh chấp mang
tính “chính trị” khác như môi giới, trung gian, hoà giải. Các hình thức này được tiến hành trên cơ
sở tự nguyện, bí mật giữa các Bên tại bất kỳ thời điểm nào sau khi phát sinh tranh chấp (ngay cả
khi Ban hội thẩm đã được thành lập và đã tiến hành hoạt động). Tương tự như vậy, các thủ tục
này cũng có thể chấm dứt vào bất kỳ lúc nào. DSU không xác định bên nào (nguyên đơn hay bị
đơn) có quyền yêu cầu chấm dứt nên có thể hiểu là tất cả các bên tranh chấp đều có quyền yêu
cầu chấm dứt các thủ tục này.
c. Chức năng môi giới, trung gian, hoà giải do Tổng Thư ký WTO đảm nhiệm
Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có quy định về việc liệu một cá nhân hoặc một tổ chức có thể
đứng ra đảm trách vai trò môi giới, trung gian, hoà giải này không. Với các ưu thế nhất định như
tiết kiệm được về thời gian, tiền bạc, quan hệ hữu hảo giữa các bên tranh chấp… các phương
thức chủ yếu dựa trên đàm phán ngoại giao này được DSU đặc biệt khuyến khích sử dụng (Điều
3.7 DSU), và việc tìm ra được một giải pháp hợp lý thoả mãn tất cả các bên tranh chấp có lẽ còn
được coi trọng hơn cả việc đạt được một giải pháp phù hợp với các quy tắc thương mại trong
Hiệp định.
d. Thành lập Ban hội thẩm (Panel Establishment)
Yêu cầu thành lập Ban hội thẩm phải được lập thành văn bản sau khi Bên được tham vấn
từ chối tham vấn hoặc tham vấn không đạt kết quả trong vòng 60 ngày kể từ khi có yêu cầu tham
vấn (Điều 6 DSU). Tuy nhiên, như đã đề cập, yêu cầu thành lập Ban hội thẩm có thể đưa ra trước
thời hạn này nếu các bên tranh chấp đều thống nhất rằng các thủ tục tham vấn, hoà giải không
dẫn đến kết quả gì. Văn bản yêu cầu thành lập Ban hội thẩm phải nêu rõ quá trình tham vấn, xác
định chính xác biện pháp thương mại bị khiếu kiện và tóm tắt các căn cứ pháp lý cho khiếu kiện.
Yêu cầu này được gửi tới DSB để cơ quan này ra quyết định thành lập Ban hội thẩm. Nhờ có
nguyên tắc đồng thuận phủ quyết (đồng thuận nghịch) nên hầu như quyền được giải quyết tranh
chấp bằng hoạt động của Ban hội thẩm của nguyên đơn được đảm bảo.
Thành viên Ban hội thẩm, nếu không được các bên thống nhất chỉ định trong vòng 20
ngày kể từ khi có quyết định thành lập sẽ do Tổng Giám đốc WTO chỉ định trong số các quan
chức chính phủ hoặc các chuyên gia có uy tín trong lĩnh vực luật, chính sách thương mại quốc tế.
Trong trường hợp có nhiều nước cùng yêu cầu thành lập Ban hội thẩm để xem xét cùng một vấn
đề (ví dụ: một biện pháp thương mại của một quốc gia thành viên bị nhiều quốc gia khác phản
đối) thì DSB có thể xem xét thành lập một Ban hội thẩm duy nhất. Nếu vẫn phải thành lập các
Ban hội thẩm riêng rẽ trong trường hợp này thì các Ban hội thẩm này có thể có chung các thành
viên và thời gian biểu sẽ được xác định một cách hài hoà để các thành viên này hoạt động một
cách hiệu quả nhất.
Bất kỳ quốc gia thành viên nào có quyền lợi thực chất trong vấn đề tranh chấp đều có thể
thông báo cho DSB về ý định tham gia vụ việc với tư cách là Bên thứ ba. Các Bên thứ ba này
được tạo điều kiện để trình bày ý kiến bằng văn bản trước Ban hội thẩm.
Hoạt động của Ban hội thẩm (Panel Procedures): Ban hội thẩm có chức năng xem xét
vấn đề tranh chấp trên cơ sở các quy định trong các Hiệp định của WTO mà Bên nguyên đơn
viện dẫn như là căn cứ cho đơn kiện của mình để giúp DSB đưa ra khuyến nghị/quyết nghị thích
hợp cho các bên tranh chấp. Về nghĩa vụ chứng minh của các bên: Theo tập quán hình thành từ
GATT 1947, trường hợp khiếu kiện có vi phạm thì Bên bị đơn có nghĩa vụ chứng minh hành vi
vi phạm của Bên đó không gây thiệt hại cho Bên nguyên đơn; trường hợp khiếu kiện không có vi
phạm thì Bên nguyên đơn có nghĩa vụ chứng minh hành vi không vi phạm của Bên bị đơn gây ra
thiệt hại về lợi ích mà Bên đó đáng lẽ phải được hưởng theo quy định của Hiệp định hoặc chứng
minh sự cản trở đối với việc thực hiện một mục tiêu nhất định của Hiệp định. Đối với việc chứng
minh các vấn đề khác, mặc dù DSU không có quy định cụ thể về việc này, một tập quán chung
(vốn được áp dụng tại Toà án Quốc tế) đã được thừa nhận khá rộng rãi trong khuôn khổ cơ chế
này là bên tranh chấp đã đưa ra một chi tiết/thực tế có nghĩa vụ cung cấp các chứng cứ chứng
minh cho chi tiết/thực tế đó không phụ thuộc vào việc bên đó là nguyên đơn hay bị đơn trong
tranh chấp. Thủ tục hoạt động của Ban hội thẩm được quy định tại Điều 12 DSU. Ban hội thẩm,
sau khi tham khảo ý kiến của các Bên liên quan sẽ ấn định một thời gian biểu cụ thể cho phiên
xét xử đầu tiên (các Bên trình bày các văn bản giải trình tình tiết vụ việc và các lập luận liên
quan), phiên xét xử thứ hai (đại diện và luật sư của các Bên lần lượt trình bày ý kiến và trả lời
các câu hỏi của Ban hội thẩm – oral hearings). Sau phiên xét xử thứ hai, Ban hội thẩm soạn thảo
và chuyển đến các bên phần Tóm tắt nội dung tranh chấp của báo cáo để họ cho ý kiến trong một
thời hạn nhất định. Trên cơ sở các ý kiến này, Ban hội thẩm đưa ra Báo cáo tạm thời (mô tả vụ
việc, các lập luận, kết luận của Ban hội thẩm). Các Bên cho ý kiến về Báo cáo này. Nếu có yêu
cầu, Ban hội thẩm có thể tổ chức thêm một phiên họp bổ sung để xem xét lại tổng thể các vấn đề
liên quan. Sau đó Ban hội thẩm soạn thảo Báo cáo chính thức để gửi đến tất cả các thành viên
WTO và chuyển cho DSB thông qua. Trong quá trình xem xét vụ việc, Ban hội thẩm có thể tìm
kiếm thông tin từ nhiều nguồn khác nhau hoặc thành lập nhóm chuyên gia để tư vấn cho Ban về
các vấn đề kỹ thuật hoặc môi trường. Các phiên họp thảo luận và tài liệu lưu hành trong quá trình
hoạt động của Ban hội thẩm phải được giữ bí mật nhằm đảm bảo tính khách quan, độc lập của
Ban. Tuy nhiên một Bên tranh chấp có quyền công khai các tài liệu mà mình đã cung cấp cho
Ban hội thẩm.
Khác với cơ chế giải quyết tranh chấp trong GATT, DSU có quy định hết sức chặt chẽ về
các thời hạn cho hoạt động của Ban hội thẩm nhằm mục tiêu giải quyết nhanh chóng tranh chấp,
tránh để quá lâu làm ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ cũng như ý nghĩa của
khuyến nghị giải quyết tranh chấp. Điều 12 DSU quy định: - Ban hội thẩm phải bắt đầu công
việc giải quyết tranh chấp chậm nhất là 1 tuần sau khi được thành lập - Báo cáo chính thức phải
được hoàn thành chậm nhất là 6 tháng kể từ khi thành lập Ban hội thẩm (nếu là trường hợp hàng
hóa liên quan dễ bị hư hỏng thì thời hạn này là 3 tháng). Thời hạn này cũng có thể được DSB
kéo dài thêm trên cơ sở yêu cầu của Ban hội thẩm với lý do giải thích rõ ràng nhưng trong bất kỳ
trường hợp nào cũng không được gia hạn thêm quá 3 tháng. - Các thời hạn trên có thể được điều
chỉnh trong trường hợp tranh chấp có liên quan đến một nước đang phát triển Thông qua Báo cáo
của Ban hội thẩm (Adoption of Panel Report): Báo cáo của Ban hội thẩm được chuyển cho tất cả
các thành viên WTO và được DSB thông qua trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày Báo cáo được
chuyển cho các thành viên trừ khi một Bên tranh chấp quyết định kháng cáo hoặc DSB đồng
thuận phủ quyết Báo cáo (các Bên tranh chấp và các thành viên WTO khác có quyền đưa ra ý
phản đối có kèm theo lý do bằng văn bản đối với Báo cáo của Ban hội thẩm chậm nhất là 10
ngày trước khi DSB họp để thông qua Báo cáo). Báo cáo của Ban hội thẩm được lập thành văn
bản trong đó phải có các nội dung sau: trình bày các tình tiết thực tế của vụ việc, tường trình về
việc áp dụng các quy định của WTO trong các vấn đề liên quan, kết luận và các khuyến nghị
cùng với các căn cứ dẫn tới kết luận, khuyến nghị đó.
e. Trình tự Phúc thẩm (Appelate Review)
Các bên tranh chấp có thể kháng cáo các vấn đề pháp lý trong Báo cáo của Ban hội thẩm
(yêu cầu phúc thẩm) trên cơ sở yêu cầu chính thức bằng văn bản. Khi có yêu cầu này thủ tục
phúc thẩm sẽ được bắt đầu.
Trong quá trình làm việc của SAB, các Bên tranh chấp và các Bên thứ ba có quyền đệ
trình ý kiến bằng văn bản hoặc trình bày miệng tại phiên họp của cơ quan này. Hoạt động của
SAB được giữ bí mật. Việc xem xét và đưa ra Báo cáo phải được thực hiện với sự tham gia của
các Bên tranh chấp. Cơ quan Phúc thẩm ra Báo cáo trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày kháng cáo
(trường hợp có yêu cầu gia hạn thì có thể kéo dài thêm 30 ngày nữa nhưng phải thông báo lý do
cho DSB biết). Báo cáo này có thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc loại bỏ các vấn đề và kết luận pháp
lý của Ban hội thẩm. Các Bên không có quyền phản đối Báo cáo này. DSB thông qua Báo cáo
của Cơ quan Phúc thẩm trong thời hạn 30 ngày kể từ khi Báo cáo của SAB được chuyển đến tất
cả các thành viên trừ khi DSB đồng thuận phủ quyết. Khuyến nghị các giải pháp (Recommended
Remedies): Khi Báo cáo được thông qua xác định một biện pháp của một Bên là vi phạm quy
định của WTO, cơ quan ra Báo cáo phải đưa ra khuyến nghị nhằm buộc Bên có biện pháp vi
phạm phải tuân thủ quy định của WTO (yêu cầu bị đơn rút lại hoặc sửa đổi biện pháp liên quan)
và có thể đưa ra các gợi ý (không bắt buộc) về cách thức thực hiện khuyến nghị đó.
Trường hợp khiếu kiện không vi phạm, Bên thua kiện không phải rút lại biện pháp liên
quan (vì không có vi phạm) nhưng Báo cáo có thể khuyến nghị Bên thua thực hiện các dàn xếp
nhất định để thoả mãn các Bên liên quan (Báo cáo có thể đưa ra những gợi ý về biện pháp dàn
xếp thoả đáng, ví dụ: bồi thường) Thi hành (Implementation): Bên thua phải thông báo ý định về
việc thi hành khuyến nghị tại buổi họp của DSB triệu tập trong vòng 30 ngày kể từ ngày thông
qua Báo cáo. Nếu không thực hiện được ngay, Bên đó có thể được gia hạn thực hiện trong một
khoảng thời gian hợp lý (thời hạn này do DSB quyết định trên cơ sở đề nghị của các Bên; hoặc
do các Bên tranh chấp thỏa thuận trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày thông qua khuyến nghị; hoặc
theo phán quyết trọng tài tiến hành trong vòng 90 ngày kể từ ngày thông qua khuyến nghị). DSB
cũng là cơ quan giám sát việc thực thi khuyến nghị của các Bên liên quan. Trong thời gian quy
định cho việc thực hiện khuyến nghị, bất kỳ thành viên nào cũng có thể đưa vấn đề thực hiện
khuyến nghị này vào chương trình nghị sự của DSB; mỗi khi có đề nghị như vậy thì Bên phải
thực hiện khuyến nghị có nghĩa vụ giải trình bằng văn bản về việc thực hiện khuyến nghị của
mình gửi cho DSB chậm nhất là 10 ngày trước khi tiến hành phiên họp của DSB.
3. Giai đoạn thực thi phán quyết
Bên thua kiện phải sửa chữa sai phạm trong một thời gian hợp lý (Điều 21.3 DSU). Thời
gian này thường là khoảng 15 tháng, do các bên nhất trí đưa ra và DSB chấp thuận. Nếu các bên
không nhất trí được thì đưa ra Trọng tài quyết định. Sau 30 ngày khi "thời hạn hợp lý" đã hết mà
không thực hiện quyết định, không thỏa thuận được về đền bù thiệt hại thì bên nguyên đơn có
quyền xin DSB cho phép trả đũa. Có thể trả đũa trực tiếp hoặc trả đũa chéo (trả đũa chéo là trả
đũa khác lĩnh vực khi việc trả đũa cùng lĩnh vực không thực tế hoặc không hiệu quả).
a. Bồi thường và trả đũa (Compensation and Retaliation)
Bồi thường và trả đũa là các biện pháp giải quyết tạm thời được sử dụng nhằm đảm bảo
lợi ích của Bên thắng trong thời gian Bên thua không thể thực hiện được khuyến nghị của DSB
(thực hiện trong khi chờ đợi Bên thua thực hiện khuyến nghị). Các biện pháp này không làm
chấm dứt nghĩa vụ thực hiện khuyến nghị của Bên vi phạm.
Cụ thể, nếu Bên thua tạm thời không thể thực hiện được khuyến nghị của DSB, các Bên
tranh chấp có thể thỏa thuận về khoản bồi thường. Việc bồi thường phải được thực hiện trên
nguyên tắc tự nguyện và phù hợp với hiệp định có liên quan. Nếu các Bên không đạt được thỏa
thuận về việc bồi thường trong vòng 20 ngày kể từ khi hết hạn thực hiện khuyến nghị, Bên thắng
kiện có thể yêu cầu DSB cho phép áp dụng các biện pháp trả đũa song song (parralel retaliation)
hoặc trả đũa chéo (cross-retaliation). Cần lưu ý là DSU nghiêm cấm việc trả đũa đơn phương mà
không có sự chấp thuận của cơ quan này (quy định này thực chất nhằm chấm dứt hiện tượng trả
đũa đơn phương khá phổ biến trong thực tiễn giải quyết tranh chấp của GATT 1947).
Mức độ và thời hạn trả đũa do DSB quyết định theo đúng thủ tục quy định cho vấn đề này
trong DSU. Trả đũa song song thực chất là việc Bên thắng không phải thực hiện các nhân
nhượng thuế quan đối với hàng hoá của Bên thua trong cùng lĩnh vực mà Bên thắng bị thiệt hại.
Trả đũa chéo là hình thức trả đũa khác lĩnh vực bị thiệt hại trong trường hợp việc trả đũa song
song không thể thực hiện được (có thể trả đũa chéo lĩnh vực – khác lĩnh vực nhưng trong cùng
phạm vi điều chỉnh của một hiệp định; hoặc trả đũa chéo hiệp định – trả đũa trong một lĩnh vực
thuộc phạm vi điều chỉnh của một hiệp định khác nếu việc trả đũa song song và trả đũa chéo lĩnh
vực đều không thể thực hiện được).
i. Những vấn đề đối với quy định về trả đũa (retaliation)
Một trong số những thành tựu lớn nhất của Vòng đàm phán đa phương Uruguay đó chính
là sự hình thành của một cơ chế giải quyết tranh chấp hoàn thiện hơn trong khuôn khổ WTO.
Được biết đến với cái tên ‘Understanding on Rules and Procedures Governing the Settlement of
Disputes’ (WTO, 1995), cơ quan luật thương mại quốc tế này đã làm gợi lên những kỳ vọng về
một phương pháp giải quyết tranh chấp hiệu quả và dứt khoát hơn thời GATT. Tuy nhiên, vẫn có
khả năng một thành viên WTO bị phát hiện có các chính sách không nhất quán với WTO, có thể
không cải cách các chính sách đó đủ để thỏa mãn những người khiếu nại. Nếu trong trường hợp
đó, Ban hội thẩm của WTO nhận thấy các chính sách mới vẫn không phù hợp với các quy định
của WTO thì nước nguyên đơn có quyền được bồi thường. Nếu một thỏa thuận về bồi thường bị
trì hoãn, thì tại Điều 22 của Thỏa thuận về Giải quyết Tranh chấp (DSU), sẽ có điều khoản để
người khiếu nại trả đũa bị đơn. Nếu mức độ trả đũa không được thỏa thuận giữa các bên, trọng
tài sẽ xác định số tiền. Hai thành viên đầu tiên sử dụng điều khoản này là Mỹ và EC vào cuối
những năm 1990 (vụ chuối và thịt bò Hormone), với Mỹ là nguyên đơn còn EC là bị đơn1.
ii. Vấn đề ở quá trình giải quyết
Nếu một Ủy ban giải quyết tranh chấp của WTO hoặc Cơ quan phúc thẩm WTO thấy
chính sách thương mại của một thành viên không phù hợp với các quy tắc của WTO và các cam
kết của thành viên, thì thành viên đó sẽ được cho phép có một 'khoảng thời gian hợp lý' để điều
chỉnh chính sách cho phù hợp (Điều 21.3 của DSU). Trong thực tế, giai đoạn này diễn ra dao
động từ 3 đến 15 tháng. Nếu chính sách không thay đổi, các cuộc tham vấn giữa người khiếu nại
và bị đơn nên bắt đầu trước khi khoảng thời gian đó hết hạn, nhằm đạt tới một thỏa thuận chung
về vấn đề bồi thường. Nếu không đạt được thỏa thuận thỏa đáng trong vòng 20 ngày sau khi hết
'khoảng thời gian hợp lý', người khiếu nại có thể yêu cầu thẩm quyền từ Cơ quan giải quyết tranh
chấp của WTO (DSB) để 'đình chỉ nhượng bộ', nghĩa là để trả đũa (DSU Điều 22.2).
Trừ khi các bên đều không đồng ý , DSB sẽ cấp thẩm quyền đó trong vòng 30 ngày sau
khi hết thời hạn hợp lý. Nếu bị đơn phản đối số tiền trả đũa do người khiếu nại đề xuất, vấn đề
được chuyển đến Trọng tài viên để đưa ra quyết định trong vòng 60 ngày sau khi hết thời hạn
hợp lý (Điều 22.6 của DSU). Nhiệm vụ của Trọng tài viên là quyết định xem mức độ trả đũa
được đề xuất có tương đương với mức độ thiệt hại 'vô hiệu hóa hoặc suy giảm'. Quyết định đó
của Trọng tài là quyết định cuối cùng: không có lựa chọn kháng cáo hoặc có cơ hội để tìm kiếm
trọng tài thứ hai.
Dù nghe thủ tục này có vẻ đơn giản, nhưng nó lại xuất hiện một tình thế khó giải quyết
trong DSU. Nếu giả sử bị đơn đã sử dụng hết thời gian hợp lý của họ trước khi tuyên bố cải cách
chính sách vi phạm. Nếu nguyên đơn tin rằng sự cải cách là không đủ để tạo ra sự thống nhất với
những chính sách của WTO, vậy thì sẽ có cơ hội đưa vụ việc ra trước Ban hội thẩm. Ban hội
thẩm sẽ xem xét và đưa ra báo cáo trong vòng 90 ngày của yêu cầu đó (DSU Điều 21.5). Nếu
bên bị đơn vẫn không hài lòng với quyết định của Ban hội thẩm thì cần thêm 45 ngày nữa để cơ
quan phúc thẩm xem xét vấn đề. Sự nan giải ở đây nằm ở chỗ kể cả khi Ban hội thẩm và Cơ quan
phúc thẩm cho rằng chính sách được cải cách vẫn không thống nhất với chính sách của WTO, 20
ngày sau khoảng “thời gian hợp lý” để nguyên đơn đưa ra yêu cầu được quyền trả đũa sẽ hết hạn.
Cách giải thích tại Điều 21.5 và 22 DSU này có thể dẫn tới một vòng lặp kiện tụng vô tận.
Có một cách hiểu khác nữa, đó là có thể hiểu theo cách a) Điều 22.2 bao gồm khả năng
bên thua kiện không làm gì để tuân thủ theo những yêu cầu của cơ quan giải quyết tranh chấp, và
thời hạn 20 ngày này là để yêu cầu biện pháp trả đũa, và b) Điều 21.5 đặt ra trường hợp khi mà
bên thua kiện có tìm cách tuân thủ theo những yêu cầu được đưa ra và có một sự bất đồng quan
điểm về tính hoàn chỉnh của cải cách đó, lúc này thời hạn 20 ngày để yêu cầu biện pháp trả đũa
sẽ bắt đầu ở cuối Điều 21.5, khi có những phán quyết chống lại bị đơn. Với cách giải thích này,
không có tình huống khó xử nào trong luật: nhiệm vụ của Ban hội thẩm tuân thủ theo Điều 21.5,
đơn giản là quyết định xem một cải cách đã đầy đủ, thỏa đáng hay chưa.
Nhưng kể cả cách giải thích thứ hai này cũng những khả năng cho bị đơn tạo ra một chuỗi
những cải cách không thích đáng , dù cho việc trả đũa vẫn tiếp tục cho đến khi nguyên đơn hoặc
Ban hội thẩm hài lòng với sự cải cách. Rõ ràng là khả năng của một sự giải quyết kéo dài có thể
được hạn chế bởi việc tăng cường các quy định về thủ tục khi xem xét DSU.
b. Trọng tài
Thủ tục trọng tài có thể được các Bên tranh chấp thoả thuận sử dụng trong các trường hợp
sau đây: Trong khuôn khổ cơ chế giải quyết tranh chấp DSU: trọng tài có thể được sử dụng trong
các thủ tục sau:
Xác định thời hạn thực hiện khuyến nghị trong trường hợp Bên thua không thể thực hiện
ngay khuyến nghị;
Xác định mức độ trả đũa trong trường hợp Bên thua có kiến nghị về vấn đề này Trong
trường hợp này thủ tục trọng tài sẽ do các thành viên Ban hội thẩm ban đầu làm trọng tài viên.
Nếu các thành viên Ban hội thẩm không có điều kiện làm trọng tài viên thì trọng tài viên (là một
cá nhân hoặc một tổ chức) sẽ do Tổng Thư ký WTO chỉ định.
Trường hợp tranh cãi về mức độ trả đũa, trọng tài không đánh giá về bản chất biện pháp
trả đũa mà chỉ xem xét xem mức độ Bên thắng kiện đình chỉ các nhân nhượng/nghĩa vụ có tương
đương với mức độ thiệt hại mà Bên thắng kiện đã phải chịu không.
Ngoài khuôn khổ cơ chế giải quyết tranh chấp DSU: Các Bên tranh chấp có thể thỏa
thuận lựa chọn cơ chế trọng tài độc lập để giải quyết tranh chấp của mình mà không cần sử dụng
đến cơ chế của DSU (cơ chế sử dụng Ban hội thẩm, SAB…). DSU chỉ cho phép sử dụng trọng
tài để giải quyết các tranh chấp trong đó vấn đề tranh chấp (the isssues in conflict) đã được các
bên xác định một cách rõ ràng và thống nhất. Trong trường hợp này, quyết định lựa chọn giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài độc lập phải được các Bên tranh chấp thông báo đến tất cả các
thành viên WTO trước khi thủ tục tố tụng được bắt đầu. Các thành viên WTO chỉ có thể tham gia
thủ tục tố tụng nếu được các Bên tranh chấp đồng ý. Quyết định giải quyết của trọng tài phải
được các Bên tuân thủ nghiêm túc. Các Bên có nghĩa vụ thông báo về quyết định này cho các
thành viên WTO, cho Hội đồng hoặc cho Uỷ ban của Hiệp định có liên quan. DSU quy định
quyết định này của trọng tài phải phù hợp với các hiệp định có liên quan và không được gây thiệt
hại cho bất kỳ thành viên nào khác của WTO. Bất kỳ thành viên nào cũng có quyền đưa ra câu
hỏi liên quan đến quyết định này.
3. Khung thời gian đối với giải quyết tranh chấp theo thủ tục thông thường
4. Khung thời gian cho một quy trình giải quyết tranh chấp của WTO có thể tóm tắt như sau:
Việc xem xét vụ việc tại Ban Hội thẩm là không quá 6 tháng (Điều 12.8 DSU). Trong
trường hợp đặc biệt liên quan hàng hóa dễ hỏng thì khoảng 3 tháng (Điều 12.9, 4.9 DSU).
Trường hợp phức tạp, không thể đưa ra kết luận thời đã định thì Ban Hội Thẩm báo cáo
bằng văn bản cho DSB để gia hạn hợp lý nhưng không quá 3 tháng nữa (tổng thời gian không
vượt quá 9 tháng). Sau thời hạn đó trong vòng 90 ngày Ban Hội thẩm phải gửi Báo cáo về vụ
tranh chấp cho các bên và DSB.
Các bên nguyên đơn, bị đơn có quyền trình Cơ quan phúc thẩm xét phúc thẩm trong vòng
60 ngày kể từ ngày chính thức nhận báo cáo của Ban Hội thẩm. Trong trường hợp Cơ quan phúc
thẩm có yêu cầu gia hạn và đã thông báo lý do cho DSB thì có thể được gia hạn tối đa thêm 30
ngày (tổng thời gian để cơ quan phúc thẩm ra báo cáo trong trường hợp này sẽ là 90 ngày).
Như vậy, tổng thời gian đối với việc thông qua quyết định về một vụ kiện thường 9 tháng
(không phúc thẩm), 12 tháng (có phúc thẩm) theo Điều 20 DSU. Thời gian hợp lý thực hiện
quyết định do các bên nhất trí đưa ra và được DSB chấp thuận nhưng không vượt quá 15 tháng
kể từ ngày thông qua báo cáo của Ban Hội thẩm và phán quyết của Cơ quan Phúc thẩm (Điều
21.3 DSU). Nếu các bên không nhất trí đưa ra thời gian hợp lý thì do Trọng tài quyết định.
Sau 30 ngày kể từ "thời gian hợp lý" đã hết mà không thực hiện phán quyết, không thỏa
thuận được việc đền bù thiệt hại thì bên nguyên đơn báo cáo DSB cho phép thực hiện trả đũa.
II. Thủ tục giải quyết tranh chấp theo thủ tục rút gọn đối với các quốc gia đang phát
triển
1. Quốc gia đang phát triển
Các quốc gia được Liên Hợp Quốc chia thành hai loại chính, đó là các nước phát triển và
các nước đang phát triển. Việc phân loại các quốc gia dựa trên tình trạng kinh tế như GDP, GNP,
thu nhập bình quân đầu người, công nghiệp hóa, mức sống, v.v. Các quốc gia phát triển đề cập
đến nhà nước có chủ quyền, nền kinh tế có tiến bộ cao và sở hữu cơ sở hạ
tầng công nghệ tuyệt vời, so với các quốc gia khác.
Chưa có một định nghĩa chính thức, nhưng có thể tạm hiểu quốc gia đang phát triển là
quốc gia có mức sống tương đối thấp, trình độ phát triển công nghiệp còn kém, và chỉ số HDI và
thu nhập/đầu người từ thấp đến trung bình, nhưng đang trong giai đoạn phát triển kinh tế.
Để đo trình độ phát triển của một quốc gia có thể dựa vào rất nhiều yếu tố (GDP, HDI, ...)
nhưng tất cả đều không là yếu tố bắt buộc. Chẳng hạn, một số quốc gia có chỉ số GDP cao nhưng
vẫn là quốc gia đang phát triển, chẳng hạn trong năm 2021, Việt Nam đứng thứ 5 về GDP trong
khu vực Đông Nam Á với GDP khoảng 352 tỷ USD, xếp sau Singapore với vị trí thứ 4 với 364
tỷ USD. Năm 2020 là lần đầu tiên Việt Nam vượt Singapore để trở thành nền kinh tế lớn thứ 4
Đông Nam Á về GDP.
Nên quan trọng nhất chính là được các quốc gia công nhận và đối xử như quốc gia đang
phát triển. Thuật ngữ “nước đang phát triển” được định nghĩa bởi Liên hợp quốc và được WTO
công nhận trên cơ sở 3 tiêu chí: thu nhập thấp (low-income), sự yếu kém về tài sản nhân lực
(human assets weakness), tính dễ tổn thương về mặt kinh tế (economic vulnerability)3. Thông
thường, việc xác định thông qua phương thức "tự ứng cử" hoặc thông qua cơ chế phán quyết
tranh chấp của tòa phúc thẩm (SAB).
2. Thủ tục rút gọn theo yêu cầu của một nước thành viên đang phát triển
a. Khái quát
Chưa có một tên gọi hay định nghĩa chính thức, thủ tục rút gọn dành cho các quốc gia
đang phát triển được hiểu là các Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh về giải quyết
tranh chấp (DSU) cũng như các quy định về giải quyết tranh chấp trong các hiệp định riêng lẻ
dành một số ưu tiên về thủ tục dành cho các quốc gia đang phát triển.
Đây có thể coi là một điểm nhấn quan trọng của cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO
nhằm khuyến khích các nước đang phát triển, những thành viên vốn rất e dè trước các cơ chế giải
quyết tranh chấp quốc tế do những hạn chế nhất định về khả năng tài chính cũng như trình độ
pháp lý, sử dụng cơ chế này.
Về cơ bản, nguyên tắc SDT bao gồm 2 nội dung: thứ nhất, các nước đang phát triển có thể
chọn thủ tục nhanh hơn, yêu cầu có khung thời hạn dài hơn hay yêu cầu trợ giúp pháp lý; và thứ
hai, các thành viên WTO cũng được khuyến khích dành sự quan tâm đặc biệt đối với tình hình
của các nước thành viên đang phát triển4. Nếu một nước thành viên đang phát triển đưa ra khiếu
kiện đối với một nước thành viên phát triển, bên đi kiện có quyền viện dẫn đến thủ tục rút gọn
theo Quyết định BISD 14 S/18 ngày 5-4-19665thay vì sử dụng các điều khoản trong Điều 4, 5, 6
và 12 của DSU. Các quy định và thủ tục của quyết định năm 1966 có giá trị ưu tiên áp dụng so
với các quy định và thủ tục tương ứng trong các Điều 4, 5, 6 và 12 của DSU khi có sự khác biệt
(Điều 3.12 của DSU).
Trước hết, quyết định này quy định rằng Tổng giám đốc có thể làm môi giới, và tiến hành
tham vấn theo yêu cầu của nước đang phát triển nhằm tìm ra giải pháp cho tranh chấp, khi tham
vấn giữa các bên đã thất bại. (Điều 1 Quyết định BISD 14S/18 ngày 5-4-1966).
Thứ hai, nếu trong vòng hai tháng, những tham vấn do Tổng giám đốc tiến hành không
đem lại một giải pháp làm các bên hài lòng, Tổng giám đốc, theo yêu cầu của một trong các bên,
sẽ đệ trình một báo cáo về hành động của mình. DSB khi đó sẽ thành lập Ban Hội thẩm với sự
đồng ý của các bên. (Điều 4 Quyết định BISD 14S/18 ngày 5-4-1966).
Thứ ba, Ban Hội thẩm sẽ xem xét đầy đủ tới hoàn cảnh và những mối quan tâm có liên
quan đến đơn khiếu nại các biện pháp, và tác động của chúng đối với thương mại và phát triển
kinh tế của các thành viên bị ảnh hưởng. (Điều 6 Quyết định BISD 14S/18 ngày 5-4-1966) .
Thứ tư, quyết định chỉ cho phép Ban Hội thẩm có 60 ngày để đệ trình các kết luận của
mình tính từ ngày vấn đề được đưa ra Ban Hội thẩm. Nếu Ban Hội thẩm thấy rằng thời hạn này
là không đủ thì có thể gia hạn với sự đồng ý của bên khởi kiện. (Điều 7 Quyết định BISD 14S/18
ngày 5-4-1966)6.
Các khung thời gian của quyết định chỉ được áp dụng 1 lần theo GATT 1947 (Panel
report, EEC (Member States) - Bananas I.) nhưng vẫn chưa được áp dụng trong WTO. Trên thực
tế, các thành viên là các nước đang phát triển có xu hướng muốn có nhiều thời gian hơn để chuẩn
bị cho các bản đệ trình của họ. Tuy nhiên, họ thường nhấn mạnh rằng ban hội thẩm tôn trọng
khung thời gian tổng thể để hoàn thành thủ tục7.
Một trong các mục tiêu của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được ghi nhận ở lời nói
đầu của Hiệp định Marrakesh thành lập WTO là tạo điều kiện tối đa cho các quốc gia đang phát
triển (bao gồm cả các quốc gia kém phát triển) phát huy hết tiềm năng của họ để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế nước nhà nói riêng và thế giới nói chung, đồng thời giúp họ nhận được những lợi
ích tương xứng từ thương mại toàn cầu. Vì vậy ngoài việc quy định các điều khoản tạo điều kiện
thuận lợi cho các quốc gia đang phát triển như xem xét việc áp dụng các biện pháp khắc phục
thương mại, sở hữu trí tuệ,... thì việc quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp được áp dụng cho
các quốc gia đang phát triển là vấn đề thiết thực, khuyến khích các quốc gia tham gia vào cơ chế
giải quyết tranh chấp, sử dụng cơ chế đó như một công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích
của mình; đồng thời giúp cơ chế giải quyết tranh chấp hoạt động thực sự hiệu quả, góp phần đảm
bảo môi trường lành mạnh và phát triển cho các giao dịch thương mại quốc tế.
Đây có thể coi là một điểm nhấn quan trọng của cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO
nhằm khuyến khích các quốc gia đang phát triển, những thành viên vốn rất e dè trước các cơ chế
giải quyết tranh chấp quốc tế do những hạn chế nhất định về khả năng tài chính cũng như trình
độ pháp lý, sử dụng cơ chế này. Thủ tục rút gọn ưu tiên dành cho các quốc gia đang phát triển là
nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các quốc gia đang phát triển tham gia vào quá trình giải
quyết tranh chấp, tạo sự cân bằng giữa quốc gia phát triển và quốc gia đang phát triển khi bước
vào một tranh chấp. Thông thường, việc xác định thông qua phương thức "tự ứng cử" hoặc thông
qua cơ chế phán quyết tranh chấp của tòa phúc thẩm (SAB).
b. Giai đoạn Tham vấn:
Trong quá trình tham vấn, nếu không đạt được một giải pháp thỏa đáng trong quá trình
tham vấn, có thành viên kém phát triển thì Tổng Giám đốc WTO hoặc Chủ tịch DSB theo yêu
cầu của Thành viên kém phát triển, đưa ra sáng kiến làm môi giới, trung gian và hòa giải để giúp
các bên giải quyết tranh chấp trước khi có yêu cầu thành lập ban hội thẩm. Tổng Giám đốc hoặc
Chủ tịch DSB, khi thực hiện việc hỗ trợ nói trên, có thể tham khảo từ bất cứ nguồn nào được cho
là thích hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 24 DSU. Đây được coi là trách nhiệm giúp đỡ các
thành viên đang phát triển của Tổng Giám đốc, Chủ tịch DSB nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho các thành viên đang phát triển. Nếu tham vấn không giải quyết được tranh chấp trong vòng
60 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn, bên nguyên đơn có thể yêu cầu lập ban hội
thẩm. Bên nguyên đơn có thể yêu cầu thành lập ban hội thẩm trong thời hạn 60 ngày nói trên nếu
các bên tham vấn cùng cho rằng việc tham vấn đã không giải quyết được tranh chấp theo khoản
7 Điều 4 DSU. Trong trường hợp khẩn cấp, kể cả những trường hợp có liên quan đến hàng dễ
hỏng, các Thành viên phải tiến hành tham vấn trong khoảng thời gian không quá 10 ngày sau khi
nhận được yêu cầu. Nếu việc tham vấn đã không giải quyết được tranh chấp trong thời hạn 20
ngày sau ngày nhận được yêu cầu, bên nguyên đơn có thể yêu cầu thành lập Ban hội thẩm theo
khoản 8 Điều 4 DSU.
Theo Điều 4.10 DSU thì trong khi tham vấn, các Thành viên phải đặc biệt chú ý đến
những vấn đề cụ thể và quyền lợi của các Thành viên là các nước đang phát triển. Ngoài ra Điều
3.12 DSU cũng có quy định: mặc dù đã có quy định của khoản 11, nhưng nếu một đơn kiện dựa
trên bất kỳ một hiệp định có liên quan nào được một Thành viên đang phát triển khởi kiện chống
lại một Thành viên phát triển, thì bên nguyên đơn có quyền viện dẫn, như một biện pháp thay thế
cho các quy định của Điều 4, 5, 6 và 12 của Thỏa thuận này, các điều khoản tương ứng của
Quyết định ngày 5 tháng tư năm 1966 (BISD 14S/18), trừ khi Ban hội thẩm cho rằng thời hạn
quy định trong Điều 7 của Quyết định đó không đủ để đưa ra báo cáo của mình và khi có sự
đồng ý của bên nguyên đơn thì thời hạn đó có thể được kéo dài.
Điều 7 Quyết định 1966: Ban hội thẩm, trong thời hạn sáu mươi ngày kể từ ngày vấn đề
được đề cập đến, gửi các phát hiện và khuyến nghị của mình cho các bên ký kết hoặc cho Hội
đồng, để xem xét và quyết định…
Thời hạn tham vấn được quy định ở Điều 7 Quyết định 1966 là 60 ngày, tuy nhiên, theo
quy định của Điều 3.12 DSU thì thời hạn này nếu được nguyên đơn là nước đang phát triển đồng
ý thì thời hạn này sẽ được kéo dài (đến 90 ngày). Điều này thể hiện sự quan tâm đến quyền lợi
của các nước đang phát triển theo Điều 4.10 DSU. Điều 4.10 DSU quy định về việc chú ý các
vấn đề cụ thể và quyền lợi của các nước đang phát triển trong quá trình tham vấn vì đây là giai
đoạn tạo cho các bên một cơ hội để thảo luận vấn đề và tìm ra một giải pháp thỏa đáng cho các
bên mà không phải tranh tụng8. Ở giai đoạn này đối với các nước đang phát triển tham vấn song
phương với các nước phát triển đương nhiên cần thời gian lâu dài hơn để tìm ra được thỏa thuận
phù hợp nhất cho các bên đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Bên cạnh đó, việc kéo dài
thời hạn tham vấn cũng là xét tới việc hạn chế đưa các vụ tranh chấp có một/các bên là nước
đang phát triển tiến hành giải quyết tranh chấp theo thủ tục DSU.
Trường hợp tham vấn thất bại, các nước đang phát triển có thể yêu cầu Tổng giám đốc
WTO đứng ra làm trung gian, hoà giải trong các tranh chấp với các nước phát triển9. Điều 4
Quyết định 1966: Sau khoảng thời gian hai tháng kể từ khi bắt đầu các cuộc tham vấn… nếu
không đạt được giải pháp thỏa đáng cho cả hai bên, Tổng Giám đốc, theo yêu cầu của một trong
các Bên ký kết liên quan, đưa vấn đề ra trước các bên ký kết hoặc Hội đồng, đến những người
mà Tổng Giám đốc sẽ gửi báo cáo về hành động mà Tổng Giám đốc đã thực hiện, cùng với tất cả
thông tin cơ bản.
Như đã đề cập thì việc đưa vụ tranh chấp ra giải quyết theo thủ tục DSU không là ưu tiên
khi một/các bên tranh chấp là nước đang phát triển. Vì vậy, sau khi tham vấn không thành thì các
bên có thể tiến đến trung gian, hòa giải bởi Tổng Giám đốc WTO nhưng chỉ đối với tranh chấp
có bên có một/các bên còn lại là nước phát triển. Vì nếu tất cả các bên đều là nước đang phát
triển nhưng việc tham vấn đã không thành thì việc các bên tiến đến đưa vụ tranh chấp ra xét xử
sẽ có thiệt hại tương đương với nhau mà các bên đều đã lường trước được. Trong trường hợp
một/các bên còn lại là nước phát triển thì việc đưa vụ tranh chấp ra xét xử khi bên còn lại là nước
đang phát triển không gây ra đe dọa lớn đến như vậy với họ, thậm chí việc đưa ra xét xử có thể
nhanh chóng đem lại thắng lợi cho họ hơn, nên để bảo vệ bên yếu thế trong vụ tranh chấp thì quy
định này được hình thành.
Thực tế, việc đưa vụ tranh chấp ra giải quyết theo thủ tục DSU không là ưu tiên khi
một/các bên tranh chấp là nước đang phát triển. Bởi lẽ, trong trường hợp một/các bên còn lại là
nước phát triển thì việc đưa vụ tranh chấp ra xét xử khi bên còn lại là nước đang phát triển không
gây ra đe dọa lớn đến như vậy đối với nước phát triển, thậm chí việc đưa ra xét xử có thể nhanh
chóng đem lại thắng lợi cho họ hơn; vậy nên, để bảo vệ bên yếu thế trong quá trình giải quyết
tranh chấp thì quy định này được hình thành. Vì thế, sau khi tham vấn không thành thì các bên có
thể tiến đến trung gian, hòa giải bởi Tổng Giám đốc WTO khi có yêu cầu của bên nước đang
phát triển.
Về thời gian chuẩn bị
Điều 12.10 DSU quy định rằng: …Thêm vào đó, trong khi xem xét một đơn kiện đối với
một Thành viên đang phát triển, Ban hội thẩm phải tạo đủ thời gian cho Thành viên đang phát
triển để chuẩn bị và trình bày lập luận của mình. Các quy định ở khoản 1 Điều 20 và khoản 4
Điều 21 không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ vụ kiện nào theo khoản này.
Khi có đơn khởi kiện thì bên bị kiện luôn là bên bị động do không nắm chắc và biết trước
được tình hình vấn đề trong khi bên khởi kiện đã tham khảo, tìm hiểu trước (xét về mặt thực tế
thì thường bên khởi kiện đã nắm chắc phần thắng mới tiến hành khởi kiện). Bên cạnh đó, khi bên
bị kiện là nước đang phát triển thì việc thu thập chứng cứ, tài liệu liên quan để trình bày lập luận
của nước này đương nhiên sẽ lâu hơn so với các nước phát triển (vì những vấn đề liên quan đến
khả năng tài chính, pháp lý, nội bộ quốc gia…). Do đó, để đảm bảo tính công bằng trong xét xử
thì không chỉ bên khởi kiện mà bên bị kiện - đặc biệt là các quốc gia đang phát triển - cần có thời
gian nhiều hơn để chuẩn bị sẵn sàng lập luận, quan điểm của mình trước khi bước vào vụ kiện.
c. Trong giai đoạn xét xử:
i. Đối với Thành viên Ban hội thẩm
Theo Điều 8.10 DSU: Khi một tranh chấp xảy ra giữa một Thành viên phát triển và một
Thành viên đang phát triển, nếu có yêu cầu của Thành viên đang phát triển, thì Ban hội thẩm
phải có ít nhất một hội thẩm từ một Thành viên đang phát triển.
Việc xét xử tranh chấp cần được thực hiện khi cơ quan xét xử thực sự hiểu rõ về các bên
trong tranh chấp mới đưa ra được quyết định đúng đắn. Không một cá nhân nào xuất phát từ một
quốc gia phát triển có thể hiểu rõ hơn về các quốc gia đang phát triển như chính người đến từ
quốc gia của họ. Do đó, việc Ban hội thẩm có ít nhất một hội thẩm từ một thành viên đang phát
triển để nhận biết được các quốc gia đang phát triển phải đối mặt với cái gì nhằm hỗ trợ sẽ giúp
việc xét xử được diễn ra công bằng hơn.
Đây cũng là một quy định nhằm bảo vệ bên yếu thế hơn trong quá trình giải quyết tranh
chấp. Bởi lẽ, việc xét xử tranh chấp cần được thực hiện khi cơ quan xét xử thực sự hiểu rõ về các
bên trong tranh chấp mới đưa ra được quyết định đúng đắn và có lẽ, không một cá nhân nào xuất
thân từ một quốc gia phát triển có thể hiểu rõ hơn về các quốc gia đang phát triển như chính
người đến từ những quốc gia đang phát triển. Do đó, việc Ban hội thẩm có ít nhất một hội thẩm
đến từ một thành viên đang phát triển là để nhận biết được các quốc gia đang phát triển phải đối
mặt với điều gì, sẽ bị ảnh hưởng như thế nào, điều này sẽ giúp việc xét xử được diễn ra công
bằng hơn. Trên thực tế, Ban hội thẩm với tư cách là cơ quan giải quyết tranh chấp cần được chọn
từ các cá nhân trung lập nhất, không có liên hệ với các bên trong tranh chấp. Tuy nhiên, khi chọn
hội thẩm từ nước đang phát triển đã loại trừ nước đang phát triển đang tham gia tranh chấp ra
nên việc xét xử vẫn sẽ đảm bảo tính công bằng cho các bên.
ii. Đối với Quyền viện dẫn
Điều 3.12 DSU: Mặc dù đã có quy định của khoản 11, nhưng nếu một đơn kiện dựa trên
bất kỳ một hiệp định có liên quan nào được một Thành viên đang phát triển khởi kiện chống lại
một Thành viên phát triển, thì bên nguyên đơn có quyền viện dẫn, như một biện pháp thay thế
cho các quy định của Điều 4, 5, 6 và 12 của Thỏa thuận này… Trong trường hợp có sự khác biệt
giữa các quy tắc và thủ tục của điều 4, 5, 6 và 12 của Thỏa thuận này và các quy tắc và thủ tục
tương ứng của Quyết định đó, thì các quy tắc và thủ tục của Quyết định phải được ưu tiên áp
dụng.
Khi nước đang phát triển là nguyên đơn trong vụ kiện chống lại nước phát triển thì quyền
viện dẫn của nước đang phát triển này sẽ không chỉ gói gọn trong DSU mà có thể được thay thế
bởi một số quy định ở Quyết định 1966. Về cơ bản, Quyết định 1966 quy định cụ thể hơn các thủ
tục đặc biệt phù hợp cho nước đang phát triển trong quá trình giải quyết tranh chấp do đó sẽ tạo
lợi thế tốt hơn cho nước đang phát triển có cơ hội ngang bằng với nước phát triển trong việc giải
quyết tranh chấp. Bên cạnh đó, việc áp dụng Quyết định 1966 theo DSU được ưu tiên áp dụng
trên cả DSU đối với Điều 4 (Tham vấn), 5 (Môi giới, Hòa giải và Trung gian), 6 (Thành lập Ban
hội thẩm), 12 (Thủ tục của Ban hội thẩm) - các điều luật liên quan đến giai đoạn chuẩn bị xét xử
tranh chấp - khi các điều luật này có sự khác biệt so với Quyết định 1966. Theo đó, khi tranh
chấp được đưa ra xét xử thì các bên dù là nước đang hay phát triển đều có khởi đầu bình đẳng
với nhau.
d. Trong giai đoạn thực thi phán quyết:
Trong khuôn khổ giám sát việc giải quyết, nếu tranh chấp do Thành viên đang phát triển
đưa ra, thì khi cân nhắc biện pháp thích hợp có thể được áp dụng, DSB phải cân nhắc không chỉ
phạm vi áp dụng về thương mại của các biện pháp bị khiếu nại, mà còn cả những ảnh hưởng của
chúng tới nền kinh tế của các Thành viên đang phát triển có liên quan theo quy định tại khoản 8
Điều 21 DSU. Các quốc gia đang phát triển ngành kinh tế sẽ còn nhiều hạn chế và khuyết điểm,
việc áp dụng các biện pháp mà không cân nhắc có thể làm tổn thương hoặc tổn thương nghiêm
trọng đến tình hình kinh tế của đất nước đó. Đây không phải là mục tiêu mà WTO hướng đến.
Trong giai đoạn thực thi phán quyết, DSB cần đặc biệt chú ý đến các vấn đề lợi ích của
các Thành viên là các nước đang phát triển liên quan đến các biện pháp là đối tượng của việc giải
quyết tranh chấp theo khoản 2 Điều 21 DSU. Việc chú ý đến lợi ích của các quốc gia đang phát
triển là thể hiện sự quan tâm đặc biệt của WTO đối với các quốc gia này. Điều này tạo nên một
chỗ dựa vững chắc khuyến khích các quốc gia tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp.
Trên thực tế, nền kinh tế của một nước đang phát triển thường là chưa được hoàn thiện và
tương đối dễ chịu tổn thương. Vì thế, việc áp dụng các biện pháp mà không thông qua việc cân
nhắc đến sự ảnh hưởng của nó trong môi trường của một nước đang phát triển có nghĩa là Ban
hội thẩm đã không xem xét kỹ lưỡng vấn đề, và sẽ dẫn tới hậu quả là đánh giá sai mức độ chịu
tác động của nền kinh tế của quốc gia đó. Điều này có thể dẫn đến kết quả giải quyết tranh chấp
không thỏa đáng đối với nước đang phát triển tham gia tranh chấp.
Ở giai đoạn thực thi các phán quyết, các quy định trong DSU ghi nhận việc “yêu cầu đặc
biệt chú ý đến các vấn đề ảnh hưởng đến lợi ích của các Thành viên là các nước đang phát triển”
(Điều 21.2). Cũng bởi, quá trình thực thi các phán quyết có thể sẽ gây nên những ảnh hưởng
đáng kể (theo cả hướng tích cực hoặc tiêu cực) đối với những lợi ích kinh tế của các quốc gia
thành viên. Như vậy, với những quốc gia đang phát triển – những nước có cơ sở kinh tế vẫn chưa
thật sự hoàn thiện, vững chắc và tương đối dễ chịu tổn thương, các ưu đãi của DSU là nền tảng
để các quốc gia này tránh đi những thiệt hại, những ảnh hưởng tiêu cực lên nền kinh tế. Từ đó,
khuyến khích các quốc gia đang phát triển chủ động, cởi mở hơn trong việc tham gia vào cơ chế
giải quyết tranh chấp của WTO, nói chung và việc thực thi các khuyến nghị, phán quyết của cơ
quan giải quyết tranh chấp WTO, nói riêng.
Như vậy, theo như các quy định trên, thành viên là các nước đang phát triển sẽ được đặc
biệt chú ý đến các vấn đề lợi ích liên quan đến các biện pháp là đối tượng của vụ tranh chấp. Nếu
một biện pháp là đối tượng của việc giải quyết tranh chấp gây ra những ảnh hưởng xấu đến lợi
ích của các quốc gia đang phát triển, cơ quan giải quyết tranh chấp cần xem xét, cân nhắc trên các
yếu tố, hoàn cảnh cụ thể để có những điều chỉnh linh hoạt hơn, giúp đảm bảo được các lợi ích
của các quốc gia này.
Trên thực tiễn, Điều khoản này đã được áp dụng nhiều lần bởi các trọng tài viên hoạt
động theo Điều 21.3.(c) của DSU khi quyết định thời hạn hợp lý để thực thi các phán quyết,
khuyến nghị (vụ kiện “Indonesia – Một số biện pháp ảnh hưởng đến ngành công nghiệp ô tô”
(DS146), Trọng tài đã dựa vào Điều 21.2 của DSU yêu cầu bổ sung thêm một khoản thời gian
sáu tháng hoặc hơn để Indonesia có thể hoàn thành quá trình xây dựng các quy định trong nước
theo các phán quyết, khuyến nghị của DSB sau khi đã chứng minh được thỏa mãn các yếu tố tại
Điều 21.2 (Indonesia không chỉ là một quốc gia đang phát triển mà còn là một quốc gia đang
phát triển hiện đang trong tình hình kinh tế và tài chính tồi tệ. Indonesia đã tự tuyên bố rằng nền
kinh tế của họ là 'gần sụp đổ'. Trong những trường hợp rất cụ thể này, hoàn toàn có cơ sở để cho
rằng các vấn đề này đã ảnh hưởng đến lợi ích của Indonesia với tư cách là một quốc gia đang
phát triển).
Theo Điều 21.7 DSU quy định “Nếu vấn đề được thành viên đang phát triển đưa ra, thì cơ
quan giải quyết tranh chấp phải xem xét để có hành động tiếp theo thích hợp với các tình tiết”.
Có thể hiểu rằng, trong khuôn khổ giám sát việc thực thi các phán quyết, DSB cũng cần phải cân
nhắc có thêm hành động thích hợp (further action it might take) ngoài việc giám sát và báo cáo
hiện trạng nếu như một nước thành viên đang phát triển nêu lên vấn đề. Trên cơ sở này, các quốc
gia thành viên đang phát triển khi đặt ra những vấn đề đều sẽ nhận được sự quan tâm, xem xét và
thậm chí là sự tiếp nhận để có những hành động thích hợp trong hoàn cảnh đó của cơ quan giải
quyết tranh chấp. Đây cũng là một quy định nhằm khuyến khích các quốc gia đang phát triển tích
cực tham gia, chủ động nêu ra những vấn đề nhằm bảo vệ những lợi ích chính đáng của quốc gia
cũng như góp phần giúp các phán quyết được thực thi và đảm bảo giải quyết tranh chấp một cách
hữu hiệu nhất.
Ngoài ra, Điều 21.8 quy định “nếu tranh chấp do Thành viên đang phát triển đưa ra, thì
khi cân nhắc biện pháp thích hợp có thể được áp dụng, DSB phải cân nhắc không chỉ phạm vi áp
dụng về thương mại của các biện pháp bị khiếu nại, mà còn cả những ảnh hưởng của chúng tới
nền kinh tế của các Thành viên đang phát triển có liên quan.” Như đã nêu ở bên trên, các nước
đang phát triển do có nền kinh tế chưa đủ hoàn thiện, cũng như dễ dàng hứng chịu những tổn hại
nghiêm trọng khi có những tác động tiêu cực đến từ các vi phạm của các quốc gia thành viên
khác. Thiệt hại gây ra đôi khi không chỉ còn trong phạm vi thương mại của quốc gia đang phát
triển đó mà còn lan rộng ra toàn bộ nền kinh tế nói chung. Chính vì thế, DSB khi xem xét áp
dụng các biện pháp thì không chỉ xem xét trong phạm vi thương mại mà còn phải xem xét cả trên
phạm vi cả nền kinh tế đối với quốc gia đang phát triển đó.Theo đó, DSB có thể kiến nghị một số
giải pháp cụ thể mà để quốc gia phát triển thực hiện nhằm khôi phục đầy đủ quyền lợi cũng như
khắc phục được các thiệt hại đối với các quốc gia đang phát triển.
e. Ưu đãi khác dành cho các quốc gia đang phát triển
Điều 12.11 DSU: Khi một hoặc nhiều bên là nước đang phát triển Thành viên, báo cáo
của Ban hội thẩm phải chỉ ra một cách rõ ràng hình thức trong đó có tính đến các điều khoản có
liên quan đến chế độ đãi ngộ khác biệt và ưu đãi hơn đối với Thành viên là các nước đang phát
triển khi các điều khoản này là một phần của những hiệp định có liên quan mà những hiệp định
này đã được các nước đang phát triển nêu lên trong quá trình tiến hành các thủ tục giải quyết
tranh chấp.
Ngoài những hỗ trợ từ chính DSU thì việc thành viên là nước đang phát triển có tham gia
vào các hiệp định khác có ưu đãi/chế độ đãi ngộ đặc biệt được chính các thành viên này nêu lên
trong quá trình tiến hành giải quyết tranh chấp cũng sẽ được tính vào. Trên thực tế, việc coi một
quốc gia là đang phát triển có nghĩa là trong quá trình giải quyết tranh chấp quốc gia này sẽ nhận
được các hỗ trợ để có thể cân bằng khả năng của mình trong quá trình giải quyết tranh chấp. Việc
quốc gia đang phát triển được ưu đãi/có chế độ đãi ngộ khác biệt ở các hiệp định khác có liên
quan cũng xuất phát từ mục đích này nên việc tính cả những chế độ đãi ngộ khác biệt/ưu đãi này
là cần thiết để mục đích được thực hiện triệt để.
Trường hợp Bên khiếu kiện là một nước đang phát triển, khi cân nhắc các hành động phù
hợp, DSB cần phải tính không chỉ đến phạm vi thương mại của biện pháp bị khiếu kiện mà còn
phải lưu ý đến các tác động của biện pháp đó đối với toàn bộ nền kinh tế của nước đang phát
triển liên quan.11
Điều 6 Quyết định 1966: Khi tiến hành kiểm tra và có trước tất cả các thông tin cơ bản,
Ban hội thẩm phải tính đến tất cả các trường hợp và cân nhắc liên quan đến việc áp dụng các
biện pháp bị khiếu nại, và tác động của chúng đối với thương mại và phát triển kinh tế của các
Bên ký kết bị ảnh hưởng.
Theo đó, nền kinh tế, công nghiệp của một nước đang phát triển là chưa được hoàn thiện,
tương đối dễ chịu tổn thương. Nếu việc áp dụng các biện pháp không thông qua cân nhắc đến
ảnh hưởng của nó trong môi trường một nước đang phát triển tức Ban hội thẩm đã không xem
xét kỹ lưỡng vấn đề mà hậu quả là đánh giá sai mức độ chịu tác động của nền kinh tế, công
nghiệp của một nước. Điều này có thể cho ra kết quả giải quyết tranh chấp không thỏa đáng đối
với nước đang phát triển tham gia tranh chấp.
Khi giải quyết tranh chấp xảy ra giữa một thành viên phát triển và một thành viên đang
phát triển, nếu có yêu cầu của thành viên đang phát triển, thì Ban Hội thẩm phải có ít nhất một
thành viên hội thẩm từ một thành viên đang phát triển theo quy định của khoản 10 Điều 8 DSU.
Thành viên Hội thẩm này có thể là công dân của một quốc gia đang phát triển bất kì không nhất
thiết phải chính nước đang liên quan đến tranh chấp.
Trường hợp quốc gia đang phát triển là bị đơn trong một khiếu kiện, khi xem xét đơn kiện
Ban Hội thẩm phải tạo đủ thời gian để Thành viên này chuẩn bị và trình bày lập luận của mình;
và sẽ không bị ràng buộc bởi các quy định về thời hạn tại khoản 1 Điều 20 và khoản 4 Điều 21
DSU. Vì trình độ phát triển của các quốc gia đang phát triển còn nhiều hạn chế hơn các quốc gia
phát triển nên cần nhiều thời gian hơn để chuẩn bị cho lập luận của mình.
DSU có quy định một số quy tắc cụ thể đặc biệt chỉ áp dụng cho các thành viên kém phát
triển như khi xác định nguyên nhân của một vụ tranh chấp và xác định thủ tục giải quyết tranh
chấp có liên quan đến Thành viên kém phát triển nhất, cần có lưu ý đặc biệt đến tình hình đặc
biệt của các Thành viên kém phát triển nhất. Theo tinh thần đó, các Thành viên cần kiềm chế một
cách thích hợp việc khởi kiện theo những thủ tục này về các vấn đề có liên quan đến các Thành
viên kém phát triển nhất. Nếu phát hiện thấy có sự triệt tiêu hay làm phương hại đến lợi ích bắt
nguồn từ biện pháp do Thành viên kém phát triển nhất thực hiện, các bên nguyên đơn cần phải
kiềm chế một cách thích hợp trong việc yêu cầu bồi thường hoặc xin phép tạm hoãn thi hành các
nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác theo quy định tại khoản 1 Điều 24.
Khi một hoặc nhiều bên là nước đang phát triển Thành viên, báo cáo của ban hội thẩm cần
phải chỉ ra một cách rõ ràng hình thức trong đó có tính đến các điều khoản có liên quan đến chế
độ đãi ngộ khác biệt và ưu đãi hơn đối với Thành viên là các nước đang phát triển khi các điều
khoản này là một phần của những hiệp định có liên quan mà những hiệp định này đã được các
nước đang phát triển nêu lên trong quá trình tiến hành các thủ tục giải quyết tranh chấp theo
khoản 11 Điều 12.
Khi vụ việc có liên quan đến một nước đang phát triển, trong mọi trường hợp Bên khiếu
kiện là nước phát triển cần kiềm chế việc đưa vụ việc ra giải quyết theo thủ tục DSU, yêu cầu bồi
thường hay xin phép tiến hành các biện pháp trả đũa.
Là một ưu đãi thuộc nhóm các ưu đãi chung mà DSU đã dành cho các nước đang phát
triển. Điều 27 DSU khi quy định về trách nhiệm của ban thư ký cũng đã đặt ra trách nhiệm cung
cấp thêm tư vấn pháp lý và hỗ trợ về việc giải quyết tranh chấp cho các Thành viên là các nước
đang phát triển đối với cơ quan này. Cụ thể, “Ban thư ký phải cung cấp chuyên gia pháp lý có
năng lực từ các cơ quan dịch vụ hợp tác kỹ thuật của WTO cho bất cứ Thành viên nào là các
nước đang phát triển nếu có yêu cầu. Chuyên gia này phải giúp Thành viên là các nước đang
phát triển theo cách nhằm đảm bảo tính khách quan của Ban Thư ký.”. Có thể thấy, WTO đặt ra
trách nhiệm của ban thư ký trong việc cung cấp các tư vấn và hỗ trợ pháp lý cho các quốc gia
đang phát triển như là một ưu đãi nhằm hỗ trợ các quốc gia đang phát triển có thể thuận lợi hơn
trong việc thực hiện các thủ tục, cũng như có được sự tiếp cận sâu rộng hơn về những vấn đề
pháp lý có liên quan nhằm đảm bảo việc giải quyết tranh chấp được thực hiện một cách có hiệu
quả nhất.
Ban Thư ký phải tổ chức những khóa đào tạo đặc biệt cho các Thành viên có quan tâm về
những thủ tục và thực tế giải quyết tranh chấp nhằm tạo điều kiện cho các chuyên gia của các
Thành viên được cung cấp thông tin tốt hơn về lĩnh vực này theo khoản 3 Điều 27 DSU.
Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng, trách nhiệm cung cấp thêm tư vấn pháp lý và hỗ trợ
về việc giải quyết tranh chấp của ban thư ký chủ yếu là thông qua hoạt động cung cấp các
chuyên gia pháp lý đến từ các cơ quan dịch vụ hợp tác kỹ thuật của WTO (như ITTC – Viện đào
tạo và hợp tác kỹ thuật) và các chuyên gia này sẽ trực tiếp thực hiện việc tư vấn cũng như hỗ trợ
các quốc gia đang phát triển đối với các vấn đề liên quan đến việc giải quyết tranh chấp nhằm
đảm bảo tính trung lập, khách quan của ban thư ký.
II. Bình luận về thủ tục rút gọn
Thủ tục rút gọn trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO có thể được xem là một ưu
đãi dành cho các quốc gia thành viên đang phát triển với mục tiêu tạo mọi điều kiện thuận lợi để
các quốc gia đang phát triển có thể sử dụng hiệu quả cơ chế này để bảo vệ các quyền và lợi ích
của quốc gia, cũng như đảm bảo sự cân bằng giữa quốc gia phát triển và quốc gia đang phát triển
khi tham gia giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO. Tuy nhiên, có thể thấy, việc áp dụng
thủ tục rút gọn trên thực tế không chỉ mang lại những tác động tích cực mà vẫn còn nhiều khiếm
khuyết cần phải được đề cập; cụ thể:
1. Ưu điểm:
Khi một quốc gia đang phát triển đóng vai trò là nguyên đơn trong một vụ kiện với bên bị
đơn là quốc gia phát triển, quốc gia này có thể viện dẫn Quyết định 1966 (Quyết định về thủ tục
áp dụng đối với các tranh chấp giữa một Bên là nước phát triển và một Bên là nước đang phát
triển) – đưa ra những quy định cụ thể hơn về các thủ tục phù hợp cho nước đang phát triển trong
quá trình giải quyết tranh chấp (hơn hết, các quy định và thủ tục của Quyết định 1966 theo DSU
sẽ có giá trị ưu tiên áp dụng trên cả DSU đối với Điều 4 (Tham vấn), 5 (Môi giới, Hòa giải và
Trung gian), 6 (Thành lập Ban hội thẩm), 12 (Thủ tục của Ban hội thẩm)).
Theo Điều 1 Quyết định 1966, khi tham vấn thất bại, các quốc gia đang phát triển có thể
yêu cầu Tổng giám đốc WTO đứng ra làm trung gian, hoà giải và tiến hành tham vấn nhằm tìm
ra giải pháp cho tranh chấp. Như vậy, chỉ cần là khi các quốc gia đang phát triển đưa ra yêu cầu
(không phải cả 2 bên trong tranh chấp) thì Tổng giám đốc WTO sẽ thực hiện trách nhiệm này và
các quốc gia phát triển với tư cách là bị đơn dù muốn hay không, cũng phải tham gia vào thủ tục
này một cách thiện chí nhất. Theo đó, các quốc gia đang phát triển sẽ có nhiều cơ hội hơn để
đàm phán, tìm ra cách để giải quyết tranh chấp và nếu các bên đã giải quyết ổn thỏa thông qua
thủ tục này thì quốc gia đang phát triển cũng sẽ không phải tốn kém thêm quá nhiều chi phí để
tiếp tục vụ kiện ở những giai đoạn sau. Bên cạnh đó, khi bước vào giai đoạn xét xử, các nước
đang phát triển sẽ dễ rơi vào thế yếu hơn về cả kinh nghiệm cũng như thiếu thốn các nguồn lực
kinh tế so với các nước phát triển. Chính vì thế, các quốc gia đang phát triển có thể tận dụng thủ
tục này để giải quyết toàn bộ tranh chấp mà không cần phải đi đến những giai đoạn sau.
Ngoài ra, các quy định trong DSU liên quan đến các ưu đãi đối với các quốc gia đang phát
triển cũng sẽ đồng thời được áp dụng khi giải quyết tranh chấp theo thủ tục rút gọn. Do đó, các
quốc gia đang phát triển vẫn sẽ được đảm bảo nhận sự quan tâm của các thành viên khác cũng
như của cơ quan giải quyết tranh chấp trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp (nhận được các
hỗ trợ về mặt pháp lý; được xem xét về mặt lợi ích, kinh tế trong quá trình thực thi phán quyết và
khi các quốc gia khác thực hiện việc trả đũa...).
2. Khuyết điểm:
Liên quan đến thời hạn đưa ra báo cáo của Ban hội thẩm, Điều 7 Quyết định 1966 có quy
định chỉ cho phép Ban Hội thẩm có 60 ngày để đệ trình các kết luận của mình tính từ ngày vấn
đề được đưa ra Ban Hội thẩm. Như vậy, so với thủ tục thông thường – có thời hạn đưa ra báo cáo
của Ban hội thẩm ít nhất là 3 tháng (trường hợp đặc biệt liên quan hàng hóa dễ hỏng), và 6 tháng
đối với những trường hợp thông thường (chưa tính đến gia hạn) – thì đây là một khoản thời gian
ngắn hơn rất nhiều. Từ đó, quy định này hướng tới việc đòi hỏi Ban hội thẩm phải có sự xem xét,
quan tâm đặc biệt khẩn trương nhằm đưa ra báo cáo giải quyết vụ việc, tránh để vụ tranh chấp bị
kéo dài (các quốc gia đang phát triển với nguồn lực kinh tế không đủ lớn sẽ dễ chịu nhiều thiệt
hại). Tuy nhiên, trong một số vụ việc cụ thể, có ý kiến cho rằng 60 ngày là một khoản thời gian
quá ngắn để Ban hội thẩm có thể xem xét một cách toàn diện nhất cũng như đưa ra những nhận
định của mình, dẫn đến các việc giải quyết tranh chấp không thật sự được hiệu quả.
Cũng tại quy định về thời hạn đưa ra báo cáo của Ban hội thẩm (Điều 7 Quyết định 1966),
tương tự như ở thủ tục thông thường, Nếu Ban hội thẩm thấy rằng thời hạn này là không đủ thì
vẫn có thể gia hạn với sự đồng ý của bên khởi kiện. Tuy nhiên, ở thủ tục thông thường, khoảng
thời gian được gia hạn chỉ có thể tối đa là 3 tháng; trong khi đó, thủ tục rút gọn lại không ghi
nhận là thời hạn đưa ra báo cáo, Ban hội thẩm sẽ được gia hạn tối đa là bao nhiêu. Do đó, nếu
như tiếp tục gia hạn, thì vấn đề còn bỏ ngỏ này sẽ có thể gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến
hiệu quả giải quyết tranh chấp đối với các quốc gia đang phát triển.
Như vậy, nếu trong trường hợp không có gia hạn, Ban hội thẩm lại không có quá nhiều
thời gian để có thể xem xét cũng như đưa ra các kết luận một cách toàn diện nhất. Từ đó có thể
dẫn đến việc giải quyết tranh chấp không thật sự hiệu quả. Tuy nhiên, nếu trong trường hợp bên
khởi kiện đồng ý gia hạn thì lại không có một mức gia hạn tối đa nào được đặt ra để đảm bảo dù
có gia hạn thì vẫn không ảnh hưởng đến lợi ích của các quốc gia đang phát triển.
3. Tính ứng dụng
Thủ tục rút gọn, trên thực tế, vẫn còn ít được áp dụng trong các vụ kiện giải quyết tranh
chấp WTO. Mặc dù, thủ tục này là một thủ tục mang tính ưu đãi hơn dành cho các nước đang
phát triển, thế nhưng, các trường hợp quốc gia thành viên đang phát triển sử dụng thủ tục này khi
tham gia giải quyết tranh chấp lại khá ít ỏi. Một ví dụ điển hình là Việt Nam, khi khởi kiện các
quốc gia phát triển ra WTO, cũng chưa bao giờ sử dụng thủ tục rút gọn.
Trong một số vụ việc, thủ tục rút gọn vẫn chưa tạo ra được hiệu quả quá lớn trong việc hỗ
trợ các quốc gia đang phát triển giải quyết tranh chấp.

BÀI 8: VAI TRÒ CỦA TRỌNG TÀI TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP CỦA WTO
I. Khái quát chung về trọng tài quốc tế
1. Định nghĩa
a) Trọng tài quốc tế
Hiệp định La – Hay 1907 quy định: “Trọng tài quốc tế có đối tượng giải quyết là những
tranh chấp giữa các quốc gia qua sự can thiệp của những trọng tài viên do các quốc gia tranh
chấp tự chọn và đặt trên cơ sở của sự tôn trọng luật pháp”.
Trọng tài quốc tế tương tự như tranh tụng tại tòa án trong nước, nhưng thay vì diễn ra
trước tòa án trong nước, nó diễn ra trước các thẩm phán tư nhân được gọi là trọng tài. Nó là biện
pháp mang tính đồng thuận, trung tính, ràng buộc và có hiệu lực thi hành GQTC quốc tế, mà
thường nhanh hơn và ít tốn kém hơn so với thủ tục tố tụng của tòa án trong nước. Đôi khi nó
được gọi là một hình thức lai GQTC quốc tế, vì nó pha trộn các yếu tố của luật dân sự và thủ tục
luật chung, đồng thời cho phép các bên có cơ hội thiết kế các quy tắc tố tụng theo đó tranh chấp
của họ sẽ được giải quyết. Không giống như các bản án của tòa án trong nước, phán quyết của
trọng tài quốc tế có thể được thực thi ở gần như tất cả các quốc gia trên thế giới, làm cho trọng
tài quốc tế trở thành cơ chế hàng đầu để giải quyết các tranh chấp quốc tế.
b) Trọng tài trong DSU
Theo giáo sư Ph.Farrchar thuộc trường đại học Pans II thì: “Trọng tài là một phương thức
giải quyết tranh chấp, theo đó các bên giao cho một cá nhân (trọng tài viên) thẩm quyền giải
quyết tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau”.
Giáo sư M.Somarajah Khoa Luật Trường Đại học Quốc gia Singapore đưa ra một khái
niệm mang tính cụ thể hơn, theo đó: “Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp trên cơ sở
thoả thuận. Sự nhất trí của các bên là cơ sở của mọi hoạt động liên quan đến trọng tài…”.
Vậy, trọng tài trong DSU có thể được hiểu như là một phương thức GQTC trên cơ sở thỏa
thuận. Các trọng tài viên với tư cách nhóm, cá nhân có thể được gọi để phân xử một số vấn đề
nhất định ở một số giai đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp. Là những biện pháp thay thế
của việc GQTC có thể tạo thuận lợi cho việc giải quyết những tranh chấp nhất định có liên quan
đến những vấn đề được cả hai bên cùng xác định rõ. Kết quả trọng tài không thể kháng nghị
nhưng có thể được thực thi thông qua DSU.
2. Đặc trưng cơ bản của trọng tài quốc tế
Thứ nhất, quá trình trọng tài diễn ra trên cơ sở thoả thuận trọng tài được thiết lập bởi các
bên tranh chấp.
Thứ hai, thủ tục trọng tài được xác định bởi các bên và thường là một thủ tục xét xử kín
được điều khiển bởi hội đồng trọng tài gồm một hoặc một số lẻ các trọng tài viên.
Thứ ba, phán quyết của trọng tài về vụ tranh chấp là chung thẩm, buộc các bên phải thực
hiện.
Dù phụ thuộc vào sự lựa chọn của hai bên, nhưng trọng tài là một phương thức GQTC
trên cơ sở pháp luật, một phương thức mang tính chất duy trì luật pháp chứ không mang tính chất
thay đổi hay tạo ra luật pháp.
II. Vai trò của trọng tài trong DSU
Trong khuôn khổ DSU, trọng tài có thể được sử dụng:
- Xác định một khoảng thời gian hợp lý trong trường hợp Bên thua không thể thực hiện
được việc tuân theo ngay lập tức các khuyến nghị và phán quyết.
- Quyết định liệu mức tạm hoãn có tương ứng với mức triệt tiêu hay gây phương hại hay
không nếu Bên thua phản đối mức độ tạm hoãn được đề xuất, hoặc khiếu nại rằng những nguyên
tắc và thủ tục luật định chưa được tuân thủ.
Ngoài khuôn khổ DSU, các bên có thể thỏa thuận lựa chọn cơ chế trọng tài độc lập để
GQTC của mình mà không cần sử dụng đến cơ chế của DSU. DSU chỉ cho phép trọng tài giải
quyết các tranh chấp trong đó các vấn đề tranh chấp đã được các bên xác định rõ ràng.
1. Vai trò của trọng tài thay thế
CSPL: Điều 25 DSU
Từ Điều 25 DSU, ta thấy được vai trò của Trọng tài thay thế như sau:
- Việc giải quyết tranh chấp theo Trọng tài này là biện pháp thay thế nhanh chóng hơn
so với thủ tục GQTC thông thường của DSB
Theo quy định tại Điều 25 DSU thì Trọng tài sẽ có vai trò như một cơ quan GQTC, tức là
Trọng tài thay thế cho BHT và CQPT để giải quyết những tranh chấp nhất định. Nghĩa là vụ việc
đó đã chọn Trọng tài giải quyết thì không cần đến BHT và CQPT. Trọng tài theo Điều 25 thay
thế hoàn toàn BHT, CQPT trong việc GQTC.
- Chỉ giải quyết những việc được 2 bên xác định là đưa ra Trọng tài
Tại Điều 25.1 cũng có ghi rõ những tranh chấp nhất định này là “những tranh chấp có liên
quan đến những vấn đề đã được cả hai bên cùng xác định rõ”. Như vậy, đối với cơ quan GQTC
DSB thì các bên tranh chấp chỉ có thể khởi kiện khi đó là các vấn đề được quy định trong các
hiệp định có liên quan đến DSU. Đối với trọng tài, khi tranh chấp xảy ra không thuộc phạm vi
quy định của các hiệp định liên quan đến DSU thì các bên có thể chọn Trọng tài để giải quyết.
- Việc sử dụng Trọng tài dựa vào sự thỏa thuận của các bên và phải được thông báo
cho các thành viên hoặc DSB (không cần DSB thông qua)
Trong khi quyết định thành lập BHT hoặc thông qua Báo cáo của BHT và CQPT dựa trên
cơ chế đồng thuận nghịch của DSB, thì trong việc sử dụng trọng tài, 2 bên trong tranh chấp cùng
nhau xác định vấn đề cần giải quyết, thỏa thuận sử dụng Trọng tài và chỉ cần thông báo cho các
thành viên khác và DSB.
∙ Vụ án chứng minh: (DS160) Hoa Kỳ - Đoạn 110 (5) của Luật Bản quyền Hoa Kỳ
(“Vụ bản quyền Hoa Kỳ”)
- Nguyên đơn: Cộng đồng Châu Âu
- Bị đơn: Hoa Kỳ
Trong quá khứ từ khi thành lập WTO đến bây giờ, đây là vụ duy nhất nhờ đến Trọng tài
theo Điều 25 DSU. Vụ án liên quan đến việc Hoa Kỳ cho phép phát nhạc radio và nhạc truyền
hình ở một số địa điểm công cộng (bar, cửa tiệm, nhà hàng,..) mà không có giấy phép và không
nộp tiền bản quyền. EU cho rằng việc này là trái với Hiệp định TRIPs. Báo cáo được thông qua
của BHT yêu cầu Hoa Kỳ chỉnh sửa chính sách trong nước để phù hợp với Hiệp định TRIPs. Khi
Báo cáo bước vào giai đoạn thực thi, thì 2 bên không thống nhất được mức độ triệt tiêu hoặc xâm
hại về mặt lợi ích đối với Cộng đồng Châu u. Do đó, 2 bên thỏa thuận đem ra Trọng tài giải
quyết.
Ngày 23 tháng 7 năm 2001, Cộng đồng Châu u (EC) và Hoa Kỳ đã thông báo cho DSB
về thỏa thuận chung của 2 bên liên quan tới việc sử dụng Trọng tài theo Điều 25 DSU. Đối tượng
của Trọng tài là xác định mức độ triệt tiêu hoặc xâm hại về mặt lợi ích đối với Cộng đồng Châu
u do Đoạn 110 (5) của Luật Bản quyền Hoa Kỳ.
Thẩm quyền của Trọng tài nằm trong thỏa thuận của các bên: Các bên đồng ý rằng phán
quyết của Trọng tài sẽ là quyết định cuối cùng và họ sẽ chấp nhận như mức độ triệt tiêu hoặc
xâm hại cho bất kỳ thủ tục tố tụng nào trong tương lai theo Điều 22 của DSU liên quan đến tranh
chấp này.
2. Vai trò của Trọng tài hỗ trợ
CSPL: Điều 21.3 và Điều 22.6 DSU
a) Vai trò của Trọng tài theo Điều 21.3 DSU
Những khuyến nghị, phán quyết trong Báo cáo của BHT hoặc là từ CQPT thì phải được
bắt buộc thực hiện bởi các bên tranh chấp. Thêm vào đó, Bên thua phải thực hiện bản Báo cáo đó
trong thời hạn hợp lý để đảm bảo quyền lợi, cũng như làm giảm thiểu thiệt hại cho bên bị vi
phạm. Do đó, trong phạm vi 30 ngày kể từ ngày thông qua Báo cáo của BHT hoặc của CQPT thì
DSB phải tổ chức cuộc họp để Bên thua có thể trình bày kế hoạch thực hiện những khuyến nghị,
phán quyết trong Báo cáo.
Nếu không thể thực hiện được việc tuân theo ngay lập tức các khuyến nghị và phán quyết
thì Bên thua phải có một khoảng thời gian hợp lý để thực hiện. Cụ thể:
- Bên thua đưa ra khoảng thời gian mà quốc gia cho là hợp lý. Nếu DSB chấp nhận thì
khoảng thời gian ấy sẽ được xem là thời gian hợp lý.
- Tuy nhiên, nếu DSB không chấp nhận thì khi đó 2 bên có liên quan sẽ thỏa thuận để đưa
ra khoảng thời gian hợp lý khác. Trường hợp 2 bên thỏa thuận thành công thì đó sẽ là thời gian
hợp lý; nếu giữa 2 bên không đạt được 1 thỏa thuận nào về thời gian hợp lý thì khi đó Trọng tài
sẽ đảm nhiệm vai trò đó - Xem xét và quyết định 1 khoảng thời gian hợp lý để Bên thua thực hiện
những khuyến nghị, phán quyết. Theo nguyên tắc chung, thời gian hợp lý mà phía Trọng tài đưa
ra không được vượt quá 15 tháng tính từ ngày thông qua Báo cáo của BHT hay của CQPT. Tuy
nhiên, khoảng thời gian đó vẫn có thể kéo dài hoặc rút ngắn tùy theo từng trường hợp.
Tóm lại, vai trò của Trọng tài theo Điều 21.3.c DSU là xem xét, đưa ra một khoảng thời
gian hợp lý để Bên thua thực hiện những phán quyết, khuyến nghị trong Báo cáo của BHT hay
của CQPT.
b) Vai trò của Trọng tài theo Điều 22.6 DSU
Để đảm bảo Bên thua thực hiện những khuyến nghị, phán quyết trong thời gian hợp lý thì
DSB đã đưa ra cơ chế Bồi thường và trả đũa để bên thắng có thể áp dụng trong trường hợp hết
thời gian hợp lý mà Bên thua vẫn chưa thực thi Báo cáo của BHT hoặc của CQPT.
Bồi thường và trả đũa có thể được hiểu là những biện pháp mang tính tạm thời được dùng
để đảm bảo lợi ích của bên thắng trong thời gian mà bên còn lại không thể thực hiện những
khuyến nghị của DSB. Mặc nhiên, những biện pháp bồi thường và trả đũa không làm chấm dứt
nghĩa vụ thực hiện những phán quyết, khuyến nghị trong Báo cáo của DSB.
Nếu Bên thua tạm thời không thể thực hiện được những khuyến nghị trong Báo cáo đối
với bên thắng thì có thể thỏa thuận về khoản bồi thường. Điều này phải được thực hiện dựa trên
nguyên tắc tự nguyện và phù hợp với hiệp định có liên quan đến vụ việc. Tuy nhiên, nếu trong
20 ngày kể từ ngày kết thúc thời gian hợp lý để thực hiện khuyến nghị mà các bên vẫn chưa thỏa
thuận được về việc bồi thường thì bên thắng có thể yêu cầu DSB cho phép thực hiện những biện
pháp hoãn nhân nhượng, cũng như là những biện pháp trả đũa. Có 2 loại biện pháp trả đũa:
+ Trả đũa song song: Đây là biện pháp trả đũa mà trong đó bên thắng sẽ không phải thực
hiện những nhân nhượng thuế quan đối với hàng hóa của Bên thua trong cùng một lĩnh vực mà
bên thắng đang chịu thiệt hại do Bên thua không thực hiện những khuyến nghị của DSB.
+ Trả đũa chéo: Đây là hình thức trả đũa mà bên thắng sẽ không phải thực hiện những
biện pháp nhân nhượng thuế quan đối với những hàng hóa thuộc những lĩnh vực khác với lĩnh
vực của hàng hóa mà bên thắng đang chịu thiệt hại do Bên thua không thực hiện những khuyến
nghị, phán quyết của BHT hay của CQPT.
Theo nguyên tắc thì bên thắng sẽ áp dụng biện pháp trả đũa song song trước; trường hợp
không thể thực hiện được thì sẽ áp dụng biện pháp trả đũa chéo (cùng phạm vi điều chỉnh của
một hiệp định). Trường hợp vẫn không có hiệu quả thì khi đó có thể áp dụng biện pháp trả đũa
chéo hiệp định - trả đũa lên một lĩnh vực chịu sự điều chỉnh của hiệp định khác.
Mức độ và thời hạn thực hiện biện pháp trả đũa sẽ do DSB quyết định theo đúng thủ tục
được quy định trong DSU. Tuy nhiên, nếu Bên thua có phản đối mức độ trả đũa hay khiếu nại về
những thủ tục, nguyên tắc quy định tại Điều 22.3 DSU thì khi đó Trọng tài sẽ thể hiện vai trò của
mình thông qua việc xem xét những vấn đề trên. Trong trường hợp các bên có tranh cãi về mức
độ trả đũa, thì vai trò của Trọng tài là đánh giá mức độ trả đũa, hoãn nhân nhượng có tương
đương với mức độ thiệt hại mà bên thắng đang phải chịu không.
3. Vai trò của Trọng tài theo Hiệp định MPIA
a) Lịch sử ra đời
Ngày 10 tháng 12 năm 2019 là thời điểm hai trong số ba thành viên còn lại trên tổng số
bảy thành viên (4 người khác trước đó đã bị Mỹ từ chối) của CQPT thuộc WTO hoàn thành
nhiệm kỳ 4 năm, và có thể sau hai năm bị Mỹ cản trở bầu ủy viên mới đã dẫn đến cơ quan này bị
“tê liệt” tạm thời.
Ngày 30 tháng 4 năm 2020, EU chính thức gửi thông báo chính thức tới WTO liên quan
đến “Thỏa thuận về cơ chế trọng tài phúc thẩm tạm thời nhiều bên” (Multi Party Interim Appeal
Arbitration Arrangement - MPIA), đánh dấu việc cơ chế này chính thức được áp dụng tại WTO
để GQTC giữa các thành viên tham gia tại WTO. MPIA sẽ là phương án đảm bảo cho các thành
viên tiếp tục công việc GQTC của mình thay thế tạm thời cho việc sử dụng cơ chế GQTC 2 cấp
(giai đoạn BHT và CQPT) của WTO.
Tính đến thời điểm hiện tại, 19 thành viên WTO đã tham gia thỏa thuận này, gồm có: EU,
Trung Quốc, Canada, Úc, Singapore, Hong Kong, Brazil, Chile, Colombia,Costa Rica,
Guatemala, Iceland, Mexico, New Zealand, Na uy, Pakistan, Thụy Sỹ, Ukraine và Uruguay3.
b) MPIA với vai trò là phương pháp thay thế cho cơ chế phúc thẩm của DSU
Việc xây dựng cơ chế trọng tài tạm thời này căn cứ theo Điều 25 Thỏa thuận về các Quy
tắc và Thủ tục điều chỉnh việc GQTC của WTO (DSU). DSU cho phép các thành viên lựa chọn
GQTC bằng trọng tài bên cạnh cơ chế xử lý của Cơ quan GQTC DSB. Những quy định trong
Điều 25 được xây dựng nhằm cho phép cơ quan Trọng tài MPIA có thể “sao chép” một cách gần
như giống hệt một cơ quan xét xử phúc thẩm thông thường của DSU.
Bên cạnh đó, MPIA không vận hành song song với thủ tục phúc thẩm của WTO mà chỉ
được áp dụng tạm thời trong thời gian AB không thể hoạt động (MPIA sẽ không tồn tại khi AB
hoạt động trở lại). Các thành viên tham gia MPIA sẽ sử dụng MPIA và không tiến hành thủ tục
kháng cáo theo cơ chế AB khi AB được hoạt động trở lại. Tính tạm thời của MPIA cũng thể hiện
quyết tâm của các thành viên trong việc tiếp tục nỗ lực cải tổ, đưa AB hoạt động trở lại. Đây là
điểm mấu chốt để chứng tỏ sự khác nhau giữa Trọng tài trong MPIA và Trọng tài được quy định
tại Điều 25 DSU. Vốn dĩ Trọng tài trong MPIA là Trọng tài cũng dựa trên điều 25 DSU nhưng
chỉ xuất hiện trong trường hợp CQPT không thể hoạt động để xử lý tranh chấp, và sẽ không còn
dùng được Trọng tài MPIA nữa khi CQPT đã có thể quay trở lại làm việc bình thường. Còn đối
với Trọng tài theo Điều 25 DSU thì Trọng tài này luôn xuất hiện khi được các bên lựa chọn theo
Điều 25 ngay cả khi CQPT vẫn làm việc.
Quy trình GQTC bằng Trọng tài MPIA cần được thống nhất trong một thỏa thuận chung
giữa các thành viên sử dụng cơ chế này. Thỏa thuận về trọng tài phải được thông báo tới tất cả
các thành viên WTO trước khi được áp dụng trên thực tế. Kết luận của trọng tài cũng phải tuân
thủ quy định của Điều 21, 22 DSU (liên quan đến việc giám sát thực thi và bồi thường, trả đũa).
Thông báo chung của nhóm thành viên tham gia thỏa thuận cho biết “thỏa thuận mới này
hướng đến việc bảo lưu các nguyên tắc cơ bản của cơ chế giải quyết tranh chấp tại WTO và tất
cả thành viên WTO đều được tự do tham gia bất cứ lúc nào”. Cơ chế này được thiết kế theo
hướng đảm bảo nguyên tắc được chú trọng trong pháp luật thương mại quốc tế là quyền được
phúc thẩm trong GQTC.
c) Các vụ việc được áp dụng MPIA
Các vụ việc tranh chấp được áp dụng MPIA là: (1) các vụ việc tranh chấp trong tương lai
(bao gồm cả giai đoạn thực thi) giữa các thành viên đồng ý tham gia thỏa thuận MPIA; (2) các vụ
việc đang diễn ra vào thời điểm ngày 27 tháng 3 năm 2020, với điều kiện báo cáo sơ bộ cuối kỳ
của BHT (interim panel report) chưa được ban hành.
Để áp dụng MPIA trong từng vụ việc, các Thành viên có tranh chấp cần: (1) nêu rõ ý định
sử dụng cơ chế MPIA và thông báo về việc tham gia này với tất cả thành viên WTO trong vòng
60 ngày kể từ ngày thành lập BHT; (2) với các vụ việc đã thành lập BHT trước ngày 27 tháng 3
năm 2020 nhưng chưa ban hành báo cáo sơ bộ cuối kỳ, các bên tranh chấp cần thông báo về việc
tham gia thoả thuận trọng tài trong vòng 30 ngày kể từ ngày 27 tháng 3 năm 2020.
Theo thỏa thuận, MPIA chỉ áp dụng cho các thành viên WTO đăng ký tham gia. Tuy
nhiên, các thành viên WTO khác cũng có thể tham gia MPIA bất cứ khi nào bằng cách thông báo
lên DSB về việc tham gia. Ngày thành viên đó thông báo tham gia MPIA sẽ được tính là thời
điểm mốc thay cho thời điểm ngày 27 tháng 3 năm 2020 nêu trên.
d) Thẩm quyền xử lý của MPIA
Quy định về thẩm quyền của Trọng tài tương tự với quy định của CQPT. Theo đó, các
Trọng tài sẽ xem xét lại các vấn đề về pháp luật và giải thích pháp luật trong báo cáo của BHT;
bảo lưu, chỉnh sửa hoặc phản đối các phán quyết, kết luận của BHT. Trong trường hợp cần thiết,
kết luận của Trọng tài có thể bao gồm cả các khuyến nghị theo Điều 19 DSU (khuyến nghị các
bên sửa đổi biện pháp để phù hợp với hiệp định
liên quan). Các Trọng tài chỉ xem xét các vấn đề mà các bên nêu và thực sự cần thiết để
xử lý vụ việc tranh chấp. Những kết luận của BHT mà không bị kháng cáo sẽ cấu thành là một
bộ phận không tách rời của kết luận của trọng tài.
4. Vấn đề tồn đọng hiện nay là tại sao các quốc gia thành viên WTO lại kém tin tưởng
việc sử dụng Trọng tài
Có một vấn đề lớn hiện nay cần phải được các quốc gia thành viên WTO xem xét lại là
việc các thành viên vẫn có sự thiên vị hơn cho việc sử dụng cơ chế GQTC truyền thống của WTO
(BHT, CQPT) so với trọng tài.
Theo những phân tích trên thì chúng ta có thể hiểu được rằng việc sử dụng trọng tài sẽ
đem lại sự nhanh chóng trong quá trình tố tụng, giúp cho các bên có thể tham gia sâu vào việc
lựa chọn trọng tài viên, cũng như là có phần dễ dàng hơn trong việc chọn luật hay cơ sở pháp lý
để giải quyết. Nhưng thực tiễn rằng theo thống kê trên trang điện tử của WTO đến năm 2022 mới
chỉ có 39 vụ tranh chấp được xử lý bằng biện pháp trọng tài (bao hàm luôn cả Trọng tài theo điều
25 và điều 23 DSU, cùng với 3 vụ tranh chấp mới được xử lý xong bằng việc sử dụng Trọng tài
của MPIA).
Nhưng Trong khuôn khổ các tranh chấp tại WTO, có 60% tranh chấp đã trải qua bước
thành lập Panel, với 349 tranh chấp, trong đó có 261 tranh chấp đã được Cơ quan GQTC DSB
thành lập BHT, 195 báo cáo của BHT đã được thông qua và trở thành phán quyết của DSB
(chiếm 66% tranh chấp). Tiếp đó, khi các bên tranh chấp không đồng ý với báo cáo của Panel thì
có thể kháng cáo để AB xem xét theo Điều 17 DSU. Theo đó, có 137 thông báo kháng cáo được
gửi tới AB và 122 báo cáo của AB được thông qua và trở thành phán quyết cuối cùng của DSB.
Theo Valerie Hughes, cựu Giám đốc Ban Thư ký CQPT, đã mô tả sự dè chừng của các
quốc gia thành viên trong việc tận dụng tính linh hoạt của điều 25 Trọng tài là nó vẫn đang còn
khá “kỳ lạ” đối với một số quốc gia trước đây trong nước họ chưa phổ biến nhiều về vấn đề sử
dụng Trọng tài thương mại để GQTC thay cho Tòa án quốc gia đó, nên dẫn đến hệ quả là họ chỉ
tin vào những phương án GQTC gần giống như cơ quan tư pháp ở nước họ, mà cụ thể khi gia
nhập vào GATT, vào WTO thì họ cũng dùng tư duy đó để chọn cơ chế BHT và CQPT như là
phương án tốt nhất và quen thuộc nhất, vì vốn dĩ đây cũng là cơ quan bán tư pháp.
Bà cũng đề cập đến việc thiếu quy trình kháng cáo, vì nếu các bên lựa chọn sử dụng
Trọng tài theo điều 25, đối với một số các quốc gia chưa có kinh nghiệm nhiều về việc sử dụng
trọng tài thì khi sử dụng cơ chế này thì có khi tham vấn xong các bên sẽ bước vào xét xử ở trọng
tài ngay và khi phán quyết được ban hành thì các bên không thể có cơ hội kháng cáo, như vậy sẽ
rất bất lợi không chỉ với quốc gia ít kinh nghiệm mà còn đối với quốc gia yếu thế hơn. Và thực tế
là các phán quyết có thể không dựa trên các nguyên tắc pháp lý vì do các bên có thể tự lựa chọn
cơ sở pháp lý cũng như luật ứng dụng. Thêm vào đó khi bị xử thua, ngoài việc không được
kháng cáo, hạn chế kinh nghiệm nghiên cứu chọn cơ sở pháp lý thỏa đáng, chính xác, thì bên bị
thua kiện phải thực hiện ngay phán quyết của trọng tài, vì đây là “sân chơi” của các quốc gia và
đặc biệt là đang trong tranh chấp có thể hoặc không liên quan đến kinh tế, nhưng khi đã bị thua
thì sẽ dẫn đến quyền lợi, nghĩa vụ bị ảnh hưởng, và sau này có thể dẫn đến một số hệ quả chính
trị khác lớn hơn và có thể thiệt hại đến kinh tế nhiều hơn, nên vì điều đó mà các quốc gia với các
tư duy chính trị tuy khác nhau nhưng sẽ cùng chung một nhận định rằng sẽ ảnh hưởng ít nhiều
đến kinh tế sau này, đặc biệt là đối với các quốc gia kém phát triển, nền kinh tế thấp. Như vậy, đã
có rất ít động lực để các Bên thua kiện đồng ý với trọng tài vì những lý do này và do đó không có
triển vọng cho thỏa thuận trọng tài chung.
Dù vậy, trong một số vụ kiện hiện nay, đã dần xuất hiện nhiều hơn việc chấp nhận rộng
rãi quy trình Trọng tài trong việc xác định khoảng thời gian hợp lý theo Điều 21.3 và cả các quy
trình Trọng tài theo cả hai điều 21.3 và 22.6 DSU. Điều này cho thấy rằng các quốc gia thành
viên dần công nhận tính hợp pháp và sự hiệu quả của trọng tài.

BÀI 9: CƠ CHẾ GIÁM SÁT THỰC THI KHUYẾN NGHỊ VÀ PHÁN QUYẾT
CỦA DSB
1. Các thuật ngữ cơ bản
1.1. Khuyến nghị và phán quyết của DSB là gì?
Khi Báo cáo được thông qua xác định một biện pháp của một Bên là vi phạm quy định
của WTO, cơ quan ra Báo cáo phải đưa ra KN & PQ nhằm buộc bên có biện pháp vi phạm phải
tuân thủ quy định của WTO. Trường hợp khiếu kiện không vi phạm, bên thua kiện không phải
rút lại biện pháp liên quan (vì không có vi phạm) nhưng Báo cáo có thể khuyến nghị bên thua
thực hiện các dàn xếp nhất định để thoả mãn các bên liên quan (Báo cáo có thể đưa ra những gợi
ý về biện pháp dàn xếp thoả đáng, ví dụ: bồi thường). Như vậy, KN & PQ là quyết định được
đưa ra trong Báo cáo của Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm và được DSB thông qua về việc
bên nào có hành vi vi phạm quy định của WTO và bao gồm cả các các yêu cầu bên thua kiện rút
lại hoặc sửa đổi biện pháp liên quan hoặc có thể là các gợi ý, đề xuất (không bắt buộc) về cách
thức khắc phục các vi phạm.
1.2. Thực thi là gì?
Sau khi DSB thông qua Báo cáo của Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm, báo cáo trở
thành một KN & PQ của DSB và bên vi phạm có nghĩa vụ phải thực thi KN & PQ này. Như vậy,
thực thi chính là việc bên thua kiện phải thực hiện KN & PQ do DSB thông qua.
Theo đó, sau khi có phán quyết của DSB, bên thua kiện phải gửi cho DSB dự định của họ
về việc thực thi các KN & PQ của DSB. Về nguyên tắc các bên sẽ phải tuân thủ và thực thi các
KN & PQ của DSB ngay lập tức. Việc tuân thủ ngay lập tức này là điều thiết yếu nhằm bảo đảm
việc giải quyết hữu hiệu tranh chấp vì lợi ích của tất cả các Thành viên.
1.3. Giám sát thực thi là gì?
Khi các bên thực thi KN & PQ của DSB thì đòi hỏi cần có một cơ quan giám sát quá trình
thực thi cũng như các vấn đề liên quan đến việc thực thi này. Để bảo đảm là bên thua kiện sẽ
thực hiện nghiêm túc các KN & PQ của DSB và để tránh tình trạng "rơi vào im lặng", WTO đề
ra một cơ chế theo dõi và giám sát việc thực hiện các KN & PQ này. Theo Điều 2.1 DSU: “DSB
phải có thẩm quyền thành lập ban hội thẩm, thông qua các Báo cáo của ban hội thẩm và Cơ
quan Phúc thẩm, duy trì sự giám sát việc thực hiện các phán quyết và khuyến nghị, cho phép tạm
hoãn việc thi hành những nhượng bộ và nghĩa vụ khác theo các hiệp định có liên quan ”. Như
vậy, DSB là cơ quan của WTO có thẩm quyền giám sát việc thực hiện các KN & PQ. Theo đó,
trong vòng 30 ngày kể từ ngày thông qua báo cáo của Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm,
bên thua kiện phải thông báo cho DSB biết về những biện pháp mà nước này dự định áp dụng để
thực hiện các KN & PQ của DSB5 để DSB thuận lợi trong việc nắm thông tin, từ đó thực hiện
tốt chức năng giám sát việc thực thi.
2. Chấp hành/Thực thi nội dung khuyến nghị và phán quyết giải quyết tranh chấp
của DSB
Cơ chế giải quyết tranh của WTO chỉ thực sự phát huy được tác dụng khi các KN & PQ
được các bên tôn trọng thực thi. Vì thế, sau khi có phán quyết của DSB kết luận biện pháp
thương mại của một quốc gia là vi phạm hiệp định thương mại trong khuôn khổ WTO thì quốc
gia vi phạm có nghĩa vụ phải thực hiện phán quyết, tức phải rút lại các biện pháp đó và thay thế
bằng một biện pháp thương mại khác6. Nhưng DSU lại không quy định cụ thể “biện pháp khác”
là biện pháp nào, phải đáp ứng những điều kiện gì hay việc quy định thiếu chi tiết, không cụ thể
về vấn đề điều chỉnh việc thực thi phán quyết kéo theo việc chấp hành phán quyết dễ dàng bị các
quốc gia vi phạm cố tình bóp méo. Từ đó gây ảnh hưởng đến quyền lợi của quốc gia thắng kiện
bởi vì quyền lợi của họ không được khôi phục đầy đủ, nguyên vẹn7 và cũng gây ảnh hưởng đến
các quốc gia có lợi ích liên quan. Đồng thời, quy định thiếu chặt chẽ trên cũng khiến cho vấn đề
tranh chấp có khả năng bị kéo dài dai dẳng. Bởi vì khi quốc gia vi phạm thay thế biện pháp vi
phạm cũ bằng một biện pháp thương mại khác, nhưng biện pháp mới này lại có thể tiếp tục vi
phạm quy định của những hiệp định liên quan trong WTO và khi đó các quốc gia có lợi ích bị
xâm phạm lại buộc phải thực hiện thủ tục giải quyết tranh chấp mới từ đầu8. Vụ tranh chấp chuối
EC là một ví dụ điển hình cho vấn đề này, EC đã sử dụng những biện pháp nêu trên để kéo dài
thời gian cho việc thay đổi chế độ nhập khẩu chuối mang tính phân biệt đối xử của mình trong
gần 6 năm. Như vậy, việc DSU tạo điều kiện cho quốc gia áp dụng những biện pháp mới cũng
như không hạn chế những biện pháp đó có nội dung không phù hợp với quy định của các hiệp
định liên quan đã vô tình làm cho vấn đề tranh chấp bị kéo dài gần như là vô thời hạn. Đây là
một điểm yếu trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và hiện nay các quốc gia WTO đang
nỗ lực đàm phán để cụ thể hóa quy định về thực thi KN & PQ của DSB cũng như là hoàn thiện
hơn những quy định liên quan đến việc giải quyết tranh chấp của WTO.
3. DSB giám sát việc thực thi
DSB là cơ quan của WTO có thẩm quyền giám sát việc thực hiện các KN & PQcủa một
Thành viên đã được thông qua, trừ trường hợp liên quan đến các hiệp định nhiều bên. Bất kỳ
Thành viên WTO nào cũng có quyền đặt ra các vấn đề liên quan đến việc thực thi trước DSB vào
bất cứ thời điểm nào sau khi báo cáo được thông qua, cho đến khi vấn đề thi thực chấm dứt.11
Theo Điều 21.6 DSU thì: “vấn đề thực hiện các khuyến nghị, phán quyết phải được đưa vào
chương trình nghị sự của DSB12 sau 6 tháng kể từ ngày thời hạn hợp lý theo khoản 3 được ấn
định và phải vẫn nằm trong chương trình nghị sự của DSB cho tới khi vấn đề được giải quyết
xong. Ít nhất là 10 ngày trước mỗi cuộc họp như vậy, Thành viên liên quan phải cung cấp cho
DSB bản báo cáo bằng văn bản về tiến triển của việc thực hiện các khuyến nghị hoặc phán quyết
này”. Quy định này giúp củng cố cơ chế giám sát thực thi, đảm bảo rằng việc thực thi được thực
hiện và diễn ra đúng thời hạn cũng như phù hợp với các quy định của WTO. Không những vậy,
nó còn tăng cường tính công khai, minh bạch giữa các bên tham gia; giúp các Thành viên khác,
đặc biệt là bên bị vi phạm nắm bắt được tình hình thực thi của bên còn lại để kịp thời đưa ra các
yêu cầu về việc thực thi đầy đủ, đúng hạn và khẩn trương cũng như thông báo rằng họ đang theo
sát vấn đề một cách cặn kẽ, kịp thời. Điều 22.8 DSU quy định kể cả trong trường hợp đã được
thực hiện bồi thường, hoặc trong trường hợp các nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ khác đã bị tạm
hoãn nhưng những khuyến nghị yêu cầu điều chỉnh một biện pháp cho phù hợp với những hiệp
định có liên quan vẫn chưa được thực hiện thì DSB vẫn phải tiếp tục duy trì giám sát việc thực
hiện những KN & PQ đã được thông qua đó.
4. Khoảng thời gian thực thi
Điều 3.7 DSU ghi nhận: “trong trường hợp không đạt được một giải pháp thỏa mãn các
bên, mục tiêu đầu tiên của cơ chế giải quyết tranh chấp là bảo đảm việc dỡ bỏ những biện pháp
không phù hợp với luật lệ của WTO” và Điều 21.1 DSU bổ sung rằng: “Việc tuân thủ ngay lập
tức những khuyến nghị và phán quyết của DSB là cần thiết để bảo đảm việc giải quyết tranh
chấp một cách hữu hiệu”. Các quy định trên có nghĩa là sau khi các KN & PQ của DSB được
thông qua thì các quốc gia Thành viên phải bảo đảm chấm dứt những hành vi trái với quy định
của WTO ngay lập tức. Nếu việc tuân thủ ngay không thể thực hiện được thì theo Điều 21.3
DSU quốc gia bị buộc phải chấm dứt hành vi vi phạm đó sẽ được dành cho “một khoảng thời
gian hợp lý”. Đồng thời, bên thua kiện phải thực hiện nghĩa vụ tuyên bố dự định thực hiện các
KN & PQ của DSB tại một cuộc họp của cơ quan giải quyết tranh chấp với thời hạn 30 ngày kể
từ khi báo cáo thông qua.
Các nhà làm luật cho rằng “khoảng thời gian hợp lý” là khoảng thời gian gia hạn cho
Thành viên có liên quan để tiếp tục áp dụng các biện pháp không phù hợp sau đó sửa đổi cho phù
hợp. Trong khoảng thời gian đó, các quốc gia Thành viên liên quan sẽ không phải chịu trách
nhiệm với hậu quả của việc không thực thi14. Thông thường, “khoảng thời gian hợp lý” có tính
chất theo vụ việc và không thể áp dụng cho mọi trường hợp. Vì vậy, một “khoảng thời gian hợp”
là phải được giải thích nhất quán nhưng lại phải linh hoạt và cân bằng để phù hợp với các tình
huống cụ thể của mỗi vụ việc. Điển hình vụ US - Hot - Rolled Steel, khi xét về “tính hợp lệ” thì
trọng tài viên cần phải dựa trên sự linh hoạt trong các tình huống nên khoảng thời gian hợp lí
trong một tình huống có thể không hợp lí trong các tình huống khác. Tuy nhiên, một vấn đề cần
lưu ý là trường hợp trợ cấp bị cấm phải tuân thủ khoản 7 Điều 4 Hiệp định SCM: “Ban hội thẩm
sẽ khuyến nghị Thành viên đang duy trì trợ cấp bỏ ngay trợ cấp đó. Ban hội thẩm sẽ nêu rõ trong
khuyến nghị thời hạn để bỏ biện pháp đó.”
Theo Điều 21.3 DSU sẽ có ba trường hợp xác định “khoảng thời gian hợp lý” như sau:
i. Là khoảng thời gian do Thành viên có liên quan đề xuất, với điều kiện là thời hạn đó
được DSB thông qua; hoặc, nếu không được thông qua như vậy, thì là
ii. Khoảng thời gian được các bên tranh chấp thỏa thuận trong vòng 45 ngày sau ngày
thông qua các KN & PQ; hoặc, nếu không đạt được thỏa thuận như vậy giữa các bên, thì là
iii. Khoảng thời gian được xác định thông qua quyết định trọng tài có giá trị ràng buộc
trong vòng 90 ngày sau ngày thông qua các KN & PQ. Trong tố tụng trọng tài như vậy thì một
hướng dẫn đối với trọng tài viên là khoảng thời gian hợp lý để thực hiện các KN & PQ của Ban
hội thẩm hay Cơ quan phúc thẩm, không được vượt quá 15 tháng kể từ ngày thông qua báo cáo
của ban hội thẩm hoặc của Cơ quan phúc thẩm. Tuy nhiên, thời gian đó có thể dài hoặc ngắn
hơn, tùy thuộc vào các trường hợp cụ thể.
Đối với trường hợp thứ ba, mặc dù Trọng tài có thể là bất kỳ cá nhân hoặc nhóm người
nào, nhưng tính đến thời điểm này, phần lớn Trọng tài viên đều là Thành viên hoặc đã từng là
Thành viên của Cơ quan phúc thẩm. Họ không có bất kỳ thẩm quyền nào trong việc xác định
biện pháp thực thi; việc áp dụng biện pháp nào là phụ thuộc vào Thành viên thực hiện khuyến
nghị. Trọng tài chỉ có thẩm quyền đưa ra kết luận về thời hạn hợp lý trong vòng 90 ngày kể từ
ngày thông qua báo cáo của Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm. Nếu các Thành viên không
thể thoả thuận lựa chọn được Trọng tài trong vòng 10 ngày thì Tổng giám đốc WTO sẽ bổ nhiệm
Trọng tài trong vòng 10 ngày tiếp theo sau khi tham vấn các bên tranh chấp16. Điển hình là
trong vụ tranh chấp DS 234 về Đạo luật Đền bù Trợ cấp và Phá giá năm 2000: Ngày 14/03/2003,
các Nguyên đơn yêu cầu sử dụng trọng tài theo Điều 21.3.(c) DSU để xác định khoảng thời gian
hợp lý cho Hoa Kỳ thực thi các KN & PQ của DSB. Do không thể thống nhất được về Trọng tài
viên, ngày 24/03/2003, các Nguyên đơn đề nghị Tổng giám đốc WTO bổ nhiệm Trọng tài viên
trên cơ sở tham vấn với các bên theo như Ghi chú 12 của DSU. Bên cạnh đó, các kết luận do
Trọng tài đưa ra là chính thức và mang tính ràng buộc đối với các bên và dựa trên nguyên tắc:
thời hạn hợp lý không được vượt quá 15 tháng kể từ ngày thông qua báo cáo. Ví dụ trong vụ EC
– Hormones, trọng tài viên khi áp dụng Điều 21.3.(c) DSU đã lưu ý rằng: “ý nghĩa thông thường
của các thuật ngữ trong điểm c khoản 3 Điều 21 đã chỉ rõ rằng 15 tháng là một “nguyên tắc chỉ
đạo cho trọng tài”, và không phải là một quy định”. Như vậy, 15 tháng chỉ là một “nguyên tắc
chỉ đạo cho trọng tài” nên tùy vào từng trường hợp thời hạn hợp lý có thể ngắn hoặc dài hơn 15
tháng. Cụ thể nếu có sự đồng thuận giữa các bên tranh chấp, khoảng thời gian này có thể kéo dài
từ 4 tới 18 tháng18. Bên cạnh đó, đối với các quốc gia đang phát triển, WTO có các chính sách,
quy định đối xử đặc biệt nên Trọng tài viên khi xác định thời gian hợp lý cũng cần phải cân nhắc
đến lợi ích của các quốc gia này19. Khi các quốc gia này đưa ra được một cách cụ thể lợi ích của
họ bị ảnh hưởng như thế nào bởi việc xác định thời hạn hợp lý thì Trọng tài viên có thể xem xét
đến việc kéo dài hoặc rút ngắn thời hạn.
❖ Nhận xét:
Theo quan điểm của nhóm tác giả, nếu GATT 1947 còn những quy định chưa rõ ràng về
thời gian cũng như cơ quan giám sát việc thực thi thì WTO đã có khắc phục được tình trạng còn
bỏ ngỏ đó. Qua đó, cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO – DSB cũng đồng thời là cơ quan
giám sát quá trình thực thi phán quyết đối với các Thành viên tranh chấp. Việc đưa ra phán quyết
đối với vụ tranh chấp không mang tính chế tài hay phân định rõ ràng giữa bên thua kiện và thắng
kiện mà mục đích cuối cùng DSB muốn hướng tới là các biện pháp vi phạm hiệp định WTO
hoặc các thiệt hại ảnh hưởng đến lợi ích của một quốc gia Thành viên khác có chấm dứt hay
không. Do đó, cơ chế về thời hạn thực thi các KN & PQ của DSB là hoàn toàn hợp lý. Thực tế,
hầu hết các tranh chấp diễn ra sau khi có KN & PQ đều cần những khoảng thời gian hợp lý để
điều chỉnh sao cho phù hợp với quy định của WTO. Và đa số các bên trong tranh chấp đều thỏa
thuận được với nhau về khoảng thời gian cần thiết để thực thi này, đồng thời đa phần khoảng
thời gian này đều nằm trong khoảng thời gian cho phép theo quy định của DSU.
5. Rà soát việc thực thi phù hợp
Nếu các bên không thống nhất về việc nước vi phạm có thi hành KN & PQ của DSB hay
không hoặc việc thi hành KN & PQ đó có phù hợp với các hiệp định liên quan của WTO hay
không thì các bên tranh chấp có thể kiến nghị lên Ban hội thẩm để xem xét. DSB sẽ tham khảo
vấn đề này từ các Thành viên Ban hội thẩm ban đầu vào bất cứ lúc nào DSB có thể; khi ấy, Ban
hội thẩm đó sẽ có thời hạn 90 ngày để gửi báo cáo sau ngày vấn đề này được đưa cho Ban hội
thẩm và phải thông báo cho DSB nếu bị trì hoãn về lý do cùng với khoảng thời gian dự kiến phải
đệ trình báo cáo.
Nếu các bên tranh chấp phản đối về bản báo cáo, phán quyết của Ban hội thẩm thì có thể
kháng cáo phù hợp với Điều 16.4 DSU. Khi này giới hạn thẩm quyền của Cơ quan phúc thẩm sẽ
tương tự như trong vụ kiện ban đầu:
- Cơ quan Phúc thẩm ra Báo cáo trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày kháng cáo (trường hợp
có yêu cầu gia hạn thì có thể kéo dài thêm 30 ngày nữa nhưng buộc phải thông báo lý do cho
DSB biết). Báo cáo này có thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc loại bỏ các vấn đề và kết luận pháp lý
của Ban hội thẩm. Các Bên không có quyền phản đối Báo cáo này.
- DSB thông qua Báo cáo của Cơ quan phúc thẩm trong thời hạn 30 ngày kể từ khi Báo
cáo của Cơ quan phúc thẩm được chuyển đến tất cả các Thành viên trừ khi DSB đồng thuận phủ
quyết.
Theo khẳng định của Cơ quan phúc thẩm, Ban hội thẩm không chỉ có nhiệm vụ là kiểm
tra việc thực thi các KN & PQ của quốc gia vi phạm có được thực hiện đầy đủ hay không? Tức
xem xét việc thực thi có khắc phục được vi phạm hay không? Liệu rằng các biện pháp thực thi
được Ban hội thẩm cũ đưa ra trong báo cáo có phù hợp với hiệp định liên quan hay không? Mà
nhiệm vụ của Ban hội thẩm còn là xem xét cũng như đánh giá sự phù hợp, nhất quán của biện
pháp mới (về mặt tổng thể) so với các hiệp định có liên quan.
6. Trường hợp không thực thi phán quyết của DSB
Nếu các bên vi phạm không thực thi nghĩa vụ của họ theo KN & PQ trong một khoảng
thời gian hợp lý thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng các biện pháp: (i) bồi thường và (ii). Theo
tinh thần của Điều 22.1 DSU thì đây chỉ là những biện pháp mang tính tạm thời. Điều này có thể
hiểu rằng những biện pháp này được đưa ra với mục đích là răn đe, đe dọa hoặc thúc đẩy việc
thực hiện những KN & PQ chính thức của DSB. Các biện pháp này không được khuyến khích
thực hiện, mà giải pháp tốt nhất vẫn là các bên thực thi đầy đủ các KN & PQ của DSB. Cần lưu ý
là các biện pháp nêu trên không làm chấm dứt nghĩa vụ thực hiện KN & PQ của bên vi phạm.
6.1. Bồi thường
Bồi thường là biện pháp chế tài mang tính tạm thời được áp dụng khi phán quyết giải
quyết tranh chấp của DSB không được thực thi hoặc thực thi không đầy đủ trong khoảng thời
gian hợp lý và chỉ được áp dụng cho đến khi bên vi phạm thực thi KN & PQ của DSB hoặc đi
đến một thỏa thuận chung. Trong biện pháp này, bên thua kiện sẽ phải đưa ra mức nhượng bộ
thương mại bổ sung (thường là trong những lĩnh vực kinh tế liên quan đến lĩnh vực hai bên tranh
chấp với nhau) mà bên thắng kiện cho là tương xứng và hợp lý để bù đắp thiệt hại do hàng rào
thương mại mậu dịch liên quan gây ra.
Về cách thức bồi thường, cũng như về mức bồi thường sẽ do các bên thỏa thuận nhưng
không phải là việc thanh toán một khoản tiền cho bên bị vi phạm mà thông qua việc áp dụng các
nhượng bộ, bên bị vi phạm được hưởng lợi ích hay cam kết mở cửa thị trường mới từ bên thua
kiện trong những lĩnh vực mà bên thắng kiện quan tâm.
Về nguyên tắc, biện pháp bồi thường phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, thống
nhất giữa các bên tranh chấp và phải phù hợp với các hiệp định của WTO22. Đồng thời, khi đưa
ra yêu cầu bồi thường đối với quốc gia thua kiện thuộc một trong các Thành viên kém phát triển
nhất, các quốc gia là bên thắng kiện cần phải “kiềm chế một cách thích hợp” và cần có lưu ý đặc
biệt đến tình hình của quốc gia bên kia.23 Chính vì vậy, DSB vẫn sẽ là cơ quan xác định hình
thức và nội dung bồi thường có hợp lý hay không và cũng đồng thời có thẩm quyền quyết định
cho phép áp dụng biện pháp này để phòng ngừa những trường hợp biện pháp bồi thường không
phù hợp với những quy định có liên quan trong WTO.
Thông thường, trên thực tế, các bên không thể thỏa thuận và đi đến thống nhất về biện
pháp bồi thường trong thời hạn 20 ngày kể từ khi hết thời hạn hợp lý24. Bởi vì việc bồi thường
phải đạt được sự thống nhất của các bên tranh chấp, mà 20 ngày là thời hạn quá ngắn để các bên
có được tiếng nói chung. Đặc biệt, trong trường hợp việc bồi thường được áp dụng dưới hình
thức cắt giảm thuế quan thì theo nguyên tắc Tối huệ quốc (Most favoured nation - MFN), các
Thành viên còn lại của WTO ngoài bên bị xâm phạm lợi ích cũng sẽ được hưởng lợi, đồng nghĩa
với việc bên vi phạm bị thất thu nhiều khoản thuế quan. Từ đó vô hình chung khiến cho bên có
nghĩa vụ bồi thường càng khó chấp nhận thỏa thuận bồi thường. Khi này, để đảm bảo các KN &
PQ của DSB được thực thi thì bên nào đang viện dẫn đến các thủ tục giải quyết tranh chấp cũng
có thể yêu cầu DSB cho phép thực hiện biện pháp trả đũa thương mại.
6.2. Trả đũa thương mại/Hoãn thực hiện cam kết nhượng bộ thương mại
Trong khuôn khổ WTO, trả đũa thương mại được hiểu là việc tạm hoãn thi hành các
nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác theo các hiệp định có liên quan đối với bên thua kiện khi
không thực hiện KN & PQ của DSB và đồng thời các bên cũng không thỏa thuận được biện pháp
bồi thường thỏa đáng nào trong vòng 20 ngày sau ngày hết hạn thời hạn hợp lý. Trong một số
trường hợp, khi các hiệp định có liên quan của WTO đặt ra quy định cấm việc trả đũa thì các
biện pháp trả đũa này sẽ không được thực hiện và khi ấy, DSB không được cho phép tạm hoãn
thi hành các nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác nếu hiệp định có liên quan cấm việc tạm hoãn
thi hành như vậy.
Giống như bồi thường, trả đũa cũng chỉ là biện pháp tạm thời được đưa ra trong trường
hợp các KN & PQ không được thực hiện hoặc thực thi không đầy đủ trong khoảng thời gian hợp
lý và chỉ được áp dụng cho đến khi bên vi phạm thực thi KN & PQ của DSB hoặc đi đến một
thỏa thuận chung. Đồng thời, nếu phát hiện thấy có sự triệt tiêu hay làm phương hại đến lợi ích
bắt nguồn từ biện pháp do Thành viên kém phát triển nhất thực hiện, các bên nguyên đơn cần
phải “kiềm chế một cách thích hợp” trong việc tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc những
nghĩa vụ khác theo những thủ tục này. Ngoài ra, cần lưu ý là mức độ đình chỉ các nghĩa vụ được
DSB cho phép áp dụng phải tương đương với mức độ quyền lợi bị triệt tiêu hoặc bị gây phương
hại28. Như trong vụ tranh chấp chuối - EC, Trọng tài đã khẳng định rằng “mức độ triệt tiêu hoặc
gây phương hại” là mức độ thiệt hại của các quyền lợi do việc thực hiện biện pháp không phù
hợp với các quy định trong WTO gây ra, chứ không phải thiệt hại do việc thực hiện biện pháp bị
tranh chấp trong vụ kiện ban đầu. Cũng trong vụ kiện này, Cơ quan phúc thẩm xác định mức độ
thiệt hại dựa trên thiệt hại của bên đi kiện trong hoạt động thương mại với bên thua kiện, còn các
thiệt hại với các quốc gia thứ ba (thiệt hại gián tiếp) sẽ không được tính đến. Tuy nhiên, có một
ngoại lệ liên quan đến các tranh chấp về biện pháp trợ cấp bị cấm, theo Điều 4.10 của Hiệp định
SCM (Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp đối kháng - Agreement on Subsidies and
Countervailing measures) thì bên bị xâm phạm đến quyền lợi có thể áp dụng các biện pháp đối
kháng phù hợp. Tính “phù hợp” ở đây được hiểu là có thể cao hơn so với mức độ triệt tiêu quyền
lợi do bị vi phạm.
Cơ chế giám sát việc thực thi các KN & PQ của DSB quy định những mức độ của trả đũa
thương mại như sau:
i. Trả đũa song hành;
ii. Trả đũa chéo lĩnh vực;
iii. Trả đũa chéo Hiệp định.
❖ Nhận xét:
Nhìn chung, cho tới nay, các KN & PQ của DSB thường được thực thi bởi các Thành viên
và cơ chế trả đũa thương mại ít được sử dụng. Điều này thể hiện sự tôn trọng của các Thành viên
tham gia WTO dành cho cơ chế GQTC của WTO nói riêng cũng như sự tín nhiệm đối với hệ
thống WTO và luật của tổ chức nói chung32.
Dẫu vậy, cơ chế trả đũa thương mại trong DSU còn một số bất cập, hạn chế như sau: Theo
Điều 22.6 DSU thì DSB cho phép việc trả đũa trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hết thời hạn
hợp lý, trừ trường hợp tất cả các Thành viên DSB đồng thuận không thông qua yêu cầu hoặc có
sự khiếu nại của Thành viên liên quan về mức độ trả đũa cũng như sự vi phạm các nguyên tắc và
thủ tục quy định tại Điều 22.3 DSU33. Quy định này là bất cập bởi vì thời hạn 30 ngày nói trên
chủ yếu mang tính lý thuyết. Trên thực tế, trong hầu hết các trường hợp, mỗi khi một bên yêu
cầu áp dụng biện pháp trả đũa thì bên kia đều khiếu nại. Do đó DSB thường chỉ cho phép áp
dụng các biện pháp trả đũa khi các khiếu nại đã được giải quyết theo thủ tục quy định tại Điều
21.5 bởi Ban hội thẩm (và Cơ quan phúc thẩm nếu có).
Một số chuyên gia cho rằng việc áp dụng trả đũa như là biện pháp cưỡng chế là quá yếu
và rất khó có thể lường trước được hiệu quả kinh tế của nó đối với bên thắng kiện, đặc biệt trong
các vụ tranh chấp thương mại giữa các nước nhỏ với các nước lớn. Bởi lẽ các nước có nền kinh
tế lớn hơn thường có thói quen dựa theo các quy tắc có lợi cho mình theo kiểu cá lớn nuốt cá bé
hơn là tuân theo lẽ phải và sự công bằng. Đối với họ, biện pháp khắc phục tối ưu sẽ là một biện
pháp đủ tốt để có thể chống lại các đối thủ nhưng không gây bất lợi cho mình. Xu hướng này
cũng được đem ra xem xét trong việc giải thích lý do tại sao các biện pháp khắc phục của DSB
vẫn còn là một vấn đề tồn tại. Điều này dẫn đến một mối quan ngại về hiệu quả của biện pháp trả
đũa và bị trả đũa lại từ các Thành viên phát triển mạnh như Hoa Kỳ và EC. Về mặt lý thuyết, trả
đũa là một biện pháp khắc phục để đảm bảo sự tuân thủ đúng với các KN & PQ của DSB nhưng
thực tế, biện pháp này không đạt được hiệu quả thật sự đối với các Thành viên đang phát triển.
Biện pháp trả đũa có tác dụng đối với các đối tác thương mại lớn của các nước đang phát triển
hơn là đối với chính các nước ấy. Mục tiêu cơ bản của biện pháp trả đũa là làm cho bên vi phạm
tuân thủ các phán quyết của DSB, trong khi đó các nước đang phát triển có quyền lực kinh tế
kém hơn, sẽ lo ngại về hiệu quả của nó, đặc biệt là khi họ đấu tranh với các Thành viên phát
triển, những nước có quyền lực kinh tế mạnh hơn. Các nước đang phát triển cũng lo ngại nếu
thực hiện quyền trả đũa đối với các nước lớn hơn trong tranh chấp có thể họ sẽ bị mất các khoản
viện trợ hoặc các lợi ích khác trong kinh tế, thương mại hay ngoại giao.
Bên cạnh đó cũng có một số ý kiến cho rằng trả đũa thương mại là xâm phạm đến nguyên
tắc cơ bản của WTO (nguyên tắc tối huệ quốc). Tuy nhiên, theo quan điểm của nhóm tác giả,
việc quốc gia thắng kiện thực hiện các biện pháp trả đũa hay đền bù chỉ là đang tạm dừng các
thỏa thuận thương mại mang tính ưu đãi để thiết lập hàng rào thương mại tương ứng với phần
quyền lợi bị xâm phạm bởi quốc gia thua kiện, do đó việc đi lệch khỏi cam kết tự do hóa mậu
dịch chỉ mang tính tạm thời và thực tế cũng không phải chủ đích chính của các quốc gia.
7. Các thủ tục đặc biệt đối với trường hợp khiếu kiện không vi phạm và khiếu kiện
tình huống
Thông thường, đối tượng của các tranh chấp trong khuôn khổ WTO liên quan tới các biện
pháp không phù hợp với các hiệp định của tổ chức. Cho nên, một khi DSB đưa ra phán quyết kết
luận biện pháp thương mại của một quốc gia Thành viên là vi phạm quy định của hiệp định
thương mại trong khuôn khổ WTO thì Thành viên vi phạm phải rút lại các biện pháp bị coi là vi
phạm đó và thay thế bằng một biện pháp thương mại khác. Tuy nhiên, trong trường hợp khiếu
kiện không vi phạm và khiếu kiện tình huống, bên bị thua kiện không phải rút lại biện pháp liên
quan (vì không có vi phạm), dù rằng thủ tục thực thi KN & PQ của DSB cũng áp dụng đối với
hai loại khiếu kiện này. Để đảm bảo thực thi kết quả giải quyết tranh chấp, trong bản báo cáo của
Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm có thể khuyến nghị bên thua kiện thực hiện các dàn xếp
nhất định để thỏa mãn các bên liên quan. Nhưng thủ tục này có một số điểm khác biệt cần lưu ý
đối với hai loại khiếu kiện trên như sau:
7.1. Khiếu kiện không vi phạm
Khiếu kiện trong trường hợp không vi phạm xảy ra khi một Thành viên WTO cho rằng lợi
ích của mình bị triệt tiêu hoặc phương hại bởi biện pháp của một Thành viên khác, ngay cả khi
biện pháp đó không mâu thuẫn với bất cứ hiệp định nào của WTO35. Điều 26.1 DSU đưa ra các
quy định đặc biệt chỉ áp dụng đối với khiếu kiện không vi phạm:
- Không có nghĩa vụ loại bỏ biện pháp phù hợp với Hiệp định có liên quan của WTO;
- Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm phải khuyến nghị Thành viên có liên quan tìm
kiếm sự điều chỉnh thỏa đáng cho cả đôi bên;
- Bất cứ bên nào cũng có thể yêu cầu Trọng tài xác định mức độ lợi ích bị triệt tiêu hoặc
phương hại, và cũng có thể đề xuất những cách thức và biện pháp nhằm đạt được sự điều chỉnh
thỏa đáng cho cả đôi bên: những đề xuất như vậy phải không ràng buộc các bên tranh chấp;
- Việc bồi thường có thể là một phần của sự điều chỉnh thỏa đáng cho cả đôi bên như là
giải pháp cuối cùng giải quyết tranh chấp.
Có ý kiến cho rằng bởi vì với loại khiếu kiện không vi phạm không có yêu cầu rút lại biện
pháp, mà chỉ khuyến nghị nhằm đạt được sự điều chỉnh “thỏa đáng cho cả hai bên”, do đó thủ tục
khiếu kiện này dường như không hiệu quả36. Tuy nhiên, việc tạo ra một cơ sở pháp lý và thủ tục
thực thi cho loại khiếu kiện này là điều cần thiết. Dẫu cho số lượng tranh chấp phát sinh từ loại
khiếu kiện này ít hơn rất nhiều so với khiếu kiện vi phạm, nhưng qua đây góp phần cho thấy rằng
có một số hành vi không vi phạm bất cứ một hiệp định nào của WTO nhưng lại có khả năng gây
hạn chế, cản trở quá trình tự do hóa thương mại. Vì vậy, sự tồn tại của loại khiếu kiện này và
đảm bảo cho việc thực thi loại khiếu kiện này là thiết yếu nhằm góp phần vào việc thực hiện mục
tiêu chung của WTO – tự do hóa thương mại.
7.2. Khiếu kiện tình huống
Khiếu kiện tình huống xảy ra khi một Thành viên của WTO tiến hành khởi kiện vì cho
rằng lợi ích mà họ trực tiếp hay gián tiếp được hưởng theo hiệp định có liên quan đang bị triệt
tiêu hoặc phương hại hay việc đạt được mục đích của hiệp định đang bị cản trở do có sự tồn tại
của bất cứ tình huống nào khác với các tình huống mà những quy định tại Điều XXIII.1.(a) và
(b) của GATT 1994 có thể được áp dụng.
Các thủ tục của DSU chỉ áp dụng tới thời điểm tố tụng khi báo cáo của Ban hội phẩm
được chuyển tới các Thành viên. Cụ thể, Điều 26.2 DSU quy định rằng đối với loại khiếu kiện
này thì “Các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp trong Quyết định ngày 12/4/1989 (BISD
36S/61-67) phải áp dụng cho việc xem xét thông qua, việc giám sát và thực hiện những khuyến
nghị và phán quyết”, mà khoản 3 mục G của Quyết định ngày 12/4/1989 (BISD 36S/61-67) ghi
nhận: “Việc thông qua các báo cáo của ban hội thẩm bằng sự đồng thuận sẽ được tiếp tục, không
ảnh hưởng đến các điều khoản của GATT về việc ra quyết định vẫn còn áp dụng”. Như vậy, đối
với loại tranh chấp này thì DSB sẽ áp dụng nguyên tắc đồng thuận khi xem xét thông qua, khi
giám sát hay khi thực hiện những KN & PQ. Điều này đồng nghĩa với việc nguyên tắc đồng
thuận nghịch sẽ không được áp dụng khi thông qua báo cáo của Ban hội thẩm và khi DSB xem
xét cho phép áp dụng biện pháp đình chỉ các nghĩa vụ trong trường hợp một bên không thực thi
phán quyết.
Bởi vì các quy tắc và thủ tục giải quyết của khiếu kiện tình huống khá đặc biệt như đã đề
cập ở trên, vì thế bất kỳ Thành viên nào, bao gồm cả bên thua kiện cũng có thể ngăn cản việc
thông qua báo cáo của DSB bằng cách bỏ phiếu không thông qua, dẫn đến hệ quả là một Thành
viên rất khó hay thậm chí là không thể thành công trong việc khiếu kiện tình huống. Đồng thời,
Điều 26.2 DSU cũng ngầm loại trừ khả năng các bên có thể kháng cáo báo cáo của Ban hội thẩm
trong trường hợp khiếu kiện tình huống41.Do đó, cho tới nay chưa có một phán quyết nào của
DSB về loại khiếu kiện dựa trên cơ sở này.

BÀI 10: ĐIỀU KIỆN TRẢ ĐŨA THƯƠNG MẠI TRONG QUÁ TRÌNH
THỰC THI KHUYẾN NGHỊ VÀ PHÁN QUYẾT CỦA DSB
I. Khái quát về biện pháp trả đũa thương mại
1.1 Khái niệm trả đũa
“Trả đũa”: Việc áp dụng biện pháp “trả đũa” mang tính “đáp trả”, “đối lại”, mang lại
những gì mà bên kia đã mang đến cho mình (theo nghĩa tiêu cực) hay nói cách khác là gây cho
bên kia những mất mát, tổn thương, thiệt hại mà mình đã phải gánh chịu từ bên đó. Và nguyên
nhân của việc trả đũa này là từ sự không hài lòng, không thống nhất giữa các bên để có thể đưa
ra một giải pháp hài hòa, một thỏa thuận thích hợp cho cả hai bên.
1.2 Khái niệm về biện pháp trả đũa thương mại và cơ sở pháp lý
- Biện pháp trả đũa thương mại (hay còn được gọi là Việc bồi thường và tạm hoãn thi
hành các nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác) là các biện pháp giải quyết tạm thời được sử
dụng nhằm đảm bảo lợi ích của Bên thắng kiện trong thời gian Bên thua kiện không thể thực
hiện được khuyến nghị của Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) (giai đoạn trong khi chờ đợi
Bên thua kiện thực hiện khuyến nghị). Các biện pháp này không làm chấm dứt nghĩa vụ thực
hiện khuyến nghị của Bên vi phạm.
- Biện pháp trả đũa thương mại được quy định tại khoản 1 điều 22 DSU như sau: “Việc
bồi thường và tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác là những biện pháp
tạm thời được đưa ra trong trường hợp các khuyến nghị và phán quyết không được thực hiện
trong khoảng thời gian hợp lý. Tuy nhiên, việc bồi thường hay tạm hoãn thi hành các nhượng bộ
hoặc những nghĩa vụ nào khác không được là các biện pháp ưu tiên hơn việc thực hiện đầy đủ
khuyến nghị để làm cho một biện pháp phù hợp với các hiệp định có liên quan. Việc bồi thường
là tự nguyện, nếu được đưa ra thì phải phù hợp với các hiệp định có liên quan”
Cụ thể, nếu Bên thua kiện tạm thời không thể thực hiện được khuyến nghị của Cơ quan
Giải quyết Tranh chấp, các Bên tranh chấp có thể thỏa thuận về khoản bồi thường. Việc bồi
thường phải được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện và phù hợp với hiệp định có liên quan.
1.3 Chủ thể liên quan đến trả đũa thương mại
Bên A: bên yêu cầu áp dụng biện pháp trả đũa
Bên B: bên phản đối việc áp dụng biện pháp trả đũa của bên A
Bên trọng tài
II. Điều kiện áp dụng biện pháp trả đũa thương mại
2.1 Điều kiện về thời gian
Cơ sở pháp lý : khoản 2 Điều 22 DSU
“[…]Nếu không thỏa thuận được biện pháp bồi thường thỏa đáng nào trong vòng 20 ngày
sau ngày hết hạn thời hạn hợp lý, thì bất cứ bên nào đã viện dẫn tới các thủ tục giải quyết tranh
chấp cũng có thể yêu cầu DSB cho phép tạm hoãn thi hành việc áp dụng đối với Thành viên liên
quan những nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác theo các hiệp định có liên quan.”
Cụ thể như sau :
Đầu tiên, cơ quan ra Báo cáo phải đưa ra khuyến nghị nhằm buộc Bên có biện pháp vi
phạm phải tuân thủ quy định của WTO (yêu cầu bị đơn rút lại hoặc sửa đổi biện pháp liên quan)
và có thể đưa ra các gợi ý (không bắt buộc) về cách thức thực hiện khuyến nghị đó. Sau đó, bên
thua phải thông báo ý định về việc thi hành khuyến nghị tại buổi họp của DSB triệu tập trong
vòng 30 ngày kể từ ngày thông qua Báo cáo.
Nếu Bên thua kiện tạm thời không thể thực hiện được khuyến nghị của Cơ quan Giải quyết
Tranh chấp trong một thời hạn hợp lý cụ thể là 15 tháng theo điểm c khoản 3 Điều 21 DSU, các
Bên tranh chấp có thể thỏa thuận về khoản bồi thường.
Tiếp theo, 20 ngày sau khi các bên không nhất trí được một sự bồi thường thỏa đáng, bên
có quyền lợi bị xâm phạm có quyền yêu cầu áp dụng các biện pháp trả đũa.
Cần lưu ý ở đây rằng, thời hạn hợp lí của mỗi vụ án là khác nhau, do vậy thời hạn để áp
dụng các biện pháp trả đũa cũng có thể là khác nhau, tùy theo vụ án.
Như vậy, điều kiện về thời gian để bên yêu cầu áp dụng trả đũa là sau 20 ngày kể từ ngày
hết hạn thời hạn hợp lý mà các bên không thỏa thuận được.
2.2 Điều kiện về mức độ tương đương
Cơ sở pháp lý : khoản 4 Điều 22 DSU
“Mức độ tạm hoãn thi hành những nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác được DSB cho
phép phải tương ứng với mức độ triệt tiêu hoặc gây phương hại.”
- Điều 22.4 DSU đã giới hạn được phạm vi thiệt hại và tầm ảnh hưởng của biện pháp tạm
hoãn thi hành nghĩa vụ và những nhượng bộ khác, cụ thể, ở một giới hạn nhất định, quốc gia
thành viên của WTO khi thực hiện tạm hoãn những nhượng bộ và nghĩa vụ mà DSB cho phép
phải suy xét đến mức độ mà biện pháp tạm hoãn sẽ gây ra liệu có tương đương và thực sự thỏa
đáng đối với mức độ bị triệu tiêu hoặc phương hại hay không.
- Ngoài ra điểm đặc biệt của 22.4 DSU là việc xác định các khía cạnh khác liên quan đến
việc trả đũa vẫn còn là đặc quyền của Thành viên yêu cầu, còn nước thành viên bị yêu cầu chỉ có
thể phản đối theo Điều 22.6 Vấn đề này sẽ được xem xét lại theo thủ tục trọng tài. - Nghĩa vụ
chứng minh sự không phù hợp và mất cân xứng theo 22.4 DSU sẽ thuộc về bên có yêu cầu phản
đối, khi một bên cho rằng một Thành viên khác đã hành động trái với quy định của WTO thì phải
có nghĩa vụ chứng minh sự không phù hợp đó theo 22.4 DSU, tức là thành viên phản đối phải
trình bày lập luận và bằng chứng đầy đủ để thiết lập một yêu cầu hoặc một giả định rằng mức độ
đề xuất đình chỉ của thành viên đưa ra yêu cầu là không tương đương với mức độ vô hiệu hóa và
suy giảm gây ra bởi thành viên phản đối.
- Trong thực tiễn giải quyết, Trọng tài viên đã xem xét các mức độ đề xuất trả đũa của bên
yêu cầu với những tạm hoãn thi hành các nhượng bộ, nghĩa vụ tương ứng bằng một số tiền cụ thể
để đưa ra quyết định kèm theo những bằng chứng cho lập luận của mình.
2.3 Điều kiện về thứ tự áp dụng theo Điều 22.3 DSU
Theo khoản 3 Điều 22 DSU thì có thể hiểu rằng, thứ tự ưu tiên lần lượt là trả đũa song
hành, trả đũa chéo lĩnh vực, trả đũa chéo hiệp định
2.3.1 Trả đũa song hành
- Định nghĩa: Trả đũa song hành là việc nước bị thiệt hại tiến hành trả đũa trong lĩnh vực
thương mại mà nước đó bị thiệt hại và trả đũa tương ứng với mức độ thiệt hại mà nước đó phải
chịu
- Trả đũa song hành được quy định ở điểm a khoản 3 điều 22 DSU như sau: “Nguyên
tắc chung là bên nguyên đơn cần trước tiên tạm hoãn thi hành những nhượng bộ hoặc những
nghĩa vụ khác đối với cùng (những) lĩnh vực mà ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm đã xác
định là có vi phạm hoặc làm triệt tiêu hoặc gây phương hại”
- Điều kiện:
+ Là biện pháp trả đũa đầu tiên được phép áp dụng
+ Chỉ được áp dụng khi các bên không tự nguyện tháo bỏ các hàng rào thương mại phạm
pháp. + Phải trả đũa trong cùng một lĩnh vực đã xác định là có vi phạm
+ Trong trường hợp bên yêu cầu chứng minh được việc áp dụng chứng minh được trong
cùng lĩnh vực của một hiệp định thì có thể yêu cầu trọng tài xem xét trả đũa chéo lĩnh vực hay trả
đũa chéo hiệp định.
2.3.2 Trả đũa chéo lĩnh vực
- Định nghĩa: Trả đũa chéo lĩnh vực là hình thức trả đũa khác lĩnh vực nhưng trong cùng
phạm vi điều chỉnh của một hiệp định (khác với lĩnh vực đang xảy ra tranh chấp ban đầu) nếu
việc trả đũa song hành không thể thực hiện được.
- Trả đũa chéo lĩnh vực được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 22 DSU như sau:
“Nếu bên đó cho rằng việc tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ khác là không
thực tế hoặc không hiệu quả đối với cùng (những) lĩnh vực đó, thì bên đó có thể tạm hoãn thi
hành những nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác trong những lĩnh vực của cùng một hiệp
định;”
- Điều kiện: Hình thức trả đũa chéo lĩnh vực có điều kiện chung về thời hạn, mức độ và
nguyên tắc áp dụng tương tự các hình thức trả đũa khác. Tuy nhiên, hình thức trả đũa chéo lĩnh
vực chỉ được thực hiện trong trường hợp trả đũa song hành không thực tế hoặc không hiệu quả thì
bên thắng kiện có quyền yêu cầu DSB cho phép trả đũa chéo trong một lĩnh vực khác.
2.3.3 Trả đũa chéo hiệp định
- Định nghĩa: Trả đũa chéo hiệp định là hình thức trả đũa trong một lĩnh vực thuộc phạm vi
điều chỉnh của một hiệp định khác (khác với hiệp định đang xảy ra tranh chấp ban đầu) nếu việc
trả đũa song hành và trả đũa chéo lĩnh vực đều không thể thực hiện được.
- Trả đũa chéo hiệp định được quy định tại điểm c khoản 3 Điều 22 DSU như sau:
“Nếu bên đó cho rằng việc tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ khác là không
thực tế hoặc không hiệu quả đối với những lĩnh vực khác trong cùng hiệp định và những tình
huống đủ nghiêm trọng, thì bên đó có thể tìm kiếm việc tạm hoãn thi hành nhượng bộ hoặc những
nghĩa vụ khác theo một hiệp định có liên quan khác;”
- Điều kiện:
+ Chỉ được thực hiện trong trường hợp việc trả đũa song hành và trả đũa chéo lĩnh vực đều
không thể thực hiện được. (Bên thắng kiện cho rằng trả đũa song hành và trả đũa chéo lĩnh vực là
không thực tế hoặc không hiệu quả)
+ Chỉ được thực hiện trong những tình huống đủ nghiêm trọng.
2.3.4. Thành lập và xem xét mức độ đình chỉ tương đương theo thủ tục trọng tài
Thứ nhất, thủ tục trọng tài này sẽ do ban hội thẩm ban đầu tiến hành, nếu các thành viên
chấp nhận, hoặc do một trọng tài viên được Tổng Giám đốc chỉ định và việc xét xử của trọng tài
phải được hoàn tất trong vòng 60 ngày sau ngày thời hạn hợp lý kết thúc.
Thứ hai, theo Điều 22.7 DSU việc xem xét các mức độ vô hiệu hóa hoặc làm suy giảm
theo thủ tục trọng tài là một quá trình riêng biệt, độc lập để phát hiện hành vi xâm phạm các quy
định của WTO so với thủ tục của Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm.
Thứ ba, Trọng tài viên sẽ không xem xét bản chất của những nhượng bộ hoặc những nghĩa
vụ khác bị tạm hoãn nhưng phải quyết định liệu mức tạm hoãn có tương ứng với mức triệt tiêu
hay gây phương hại hay không. Trọng tài viên cũng có thể quyết định liệu đề xuất tạm hoãn
những nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ khác có được phép hay không theo hiệp định có liên quan.
Thứ tư, quyết định của trọng tài là quyết định chung thẩm, có hiệu lực bắt buộc và các bên
không thể yêu cầu xem xét lại.

You might also like