tài liệu thêm

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 16

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỚI

SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA


I.CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRI THỨC
Từ Đại hội Đảng lần thứ III, Đảng ta luôn coi công nghiệp hóa (CNH) là nhiệm vụ
trung tâm của cả thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội và xác định thực chất là ''Quyết
tâm thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực hiện phân công mới về lao động xã hội là quá trình
tích lũy xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng''. Quan điểm này
tiếp tục được các kỳ Đại hội Đảng tiếp theo củng cố và mở rộng.
Công nghiệp hóa là một giai đoạn tất yếu của mỗi quốc gia. Đối với nước ta, từ một
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, muốn tiến lên CNXH, nhất thiết phải trải qua CNH.
Vai trò Công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH):
- Giúp phát triển lực lượng sản xuất, làm thay đổi căn bản công nghệ sản xuất, tăng
năng suất lao động
- Là thời kỳ tạo tiền đề vật chất để không ngừng củng cố và tăng cường vai trò của
kinh tế nhà nước trong điều tiết sản xuất và dẫn dắt thị trường.
- Là động lực phát triển kinh tế-xã hội, tạo điều kiện tăng cường củng cố an ninh-
quốc phòng
- Là tiền đề cho việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức tham gia một
cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế.
Thuận lợi của nước ta: là nước đi sau, có thể học hỏi được kinh nghiệm thành công
của những nước đi trước có cơ hội rút ngắn thời gian thực hiện quá trình này. (VD: Anh thực
hiện CNH đầu tiên, mất 120 năm; Mỹ mất 90 năm; Nhật Bản mất 70 năm; và các nước công
nghiệp mới (NICs) có hơn 30 năm)
Việt Nam thực thực hiện quá trình trong bối cảnh loài người đang bắt đầu chuyển
sang phát triển kinh tế tri thức (KTTT), với sự bùng nổ của tự động hóa, công nghệ thông tin,
gen, nano, vật liệu mới... Việc chuyển nền kinh nước ta sang hướng phát triển dựa vào tri
thức trở thành yêu cầu cấp thiết không thể trì hoãn.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp đi lên CNXH, trong bối cảnh toàn cầu hóa, chúng ta
phải tiến hành đồng thời hai quá trình: Chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công
nghiệp (CNHHĐH); chuyển từ kinh tế nông-công nghiệp lên KTTT. Ở nước ta, hai quá trình
này được lồng ghép với nhau, kết hợp các bước đi tuần tự với các bước phát triển nhảy vọt,
tức là gắn CNH-HĐH với phát triển KTTT.
Phát triển KTTT nước ta là thực thi chiến lược vận dụng tri thức mới vào tất cả các
ngành kinh tế, làm tăng nhanh giá trị của sản phẩm; giảm tiêu hao tài nguyên và lao động.
Nước ta xác định, KTTT là công cụ hàng đầu để rút ngắn thời gian thực hiện quá trình CNH-
HĐH.
Nội dung trung tâm của thực hiện CNH-HĐH gắn với phát triển KTTT là lựa chọn
để có thể bỏ qua một số thế hệ công nghệ trung gian, đi thẳng vào công nghệ cao, công nghệ
mới nhằm nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công
nghiệp dịch vụ có hàm lượng tri thức, giá trị gia tăng cao.
Chúng ta cần phải đẩy mạnh việc sử dụng những tri thức mới của nhân loại bằng
nhiều hình thức khác nhau:

1
- cần chủ động học hỏi và nhập khẩu những công nghệ mềm
- đổi cách cải tiến để thích nghi với điểu kiện nước ta.
- tiếp cận là liên tục và không có điểm dừng.
 Đây là điều kiện để chúng ta rút ngắn quá trình CNH-HĐH gắn với việc vận
dụng tri thức mới vào tất cả các ngành kinh tế.
II. CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản của phát triển bền vững trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, cần cụ thể hóa nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng thân thiện với môi trường
Chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng bền vững là biện pháp hữu hiệu nhất có khả năng
phòng ngừa và hạn chế tối đa các tác động xấu đối với môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH-HĐH.
Cần có sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn Đảng và toàn xã hội về nhận thức và hành động,
trong chỉ đạo điều hành và đặc biệt trong tổ chức triển khai các hoạt động bảo vệ môi trường
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, gắn với phát triển KTTT.
III. CÔNG NGHIỆP HÓA THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI VÀ SỰ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG
Nói chung tầm quan trọng của công cuộc công nghiệp hoá đối với đất nước của Đảng ta là
khá nhất quán và xuyên suốt.
Khái niệm công nghiệp hoá đã được bổ sung thêm những nội dung mới, gắn công nghiệp hoá
theo nội dung mới ấy với sự phát triển lâu bền của toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội.
Muốn có sự phát triển bền vững trong suốt quá trình công nghiệp hoá thì tăng trưởng kinh tế
phải đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phải sử dụng tiết kiệm các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, phải bảo vệ và cải thiện được môi trường.
Phát triển bền vững đó là sự phát triển kết hợp chặt chẽ được đồng thời ba mục tiêu: kinh tế,
xã hội, môi trường.
HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ THÁNG 2/30
 Bối cảnh lịch sử:
- Thế giới: 
-  Từ nửa sau thế kỷ XIX, các nước tư bản Âu-Mỹ có những chuyển biến mạnh mẽ
trong đời sống kinh tế-xã hội. Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai
đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa), đẩy
mạnh quá trình xâm chiếm và nô dịch các nước nhỏ, yếu ở châu Á, châu Phi và khu
vực Mỹ-Latinh, biến các quốc gia này thành thuộc địa của các nước đế quốc
->  phong trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ, rộng khắp, nhất là ở châu Á .
- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm biến đổi sâu sắc tình
hình thế giới. 
- Trong nước:
-  1/9/1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại Đà Nẵng và từ đó từng bước
thôn tính Việt Nam. Triều đại phong kiến nhà Nguyễn bấy giờ khủng hoảng trầm
trọng, từng bước thỏa hiệp rồi đầu hàng thực dân Pháp.( Hiệp ước Nhâm Tuất, Giáp
Tuất, Hắc Măng và Pa tơ nốt)

2
- Trái ngược với triều đình, nhân dân VN không chịu khuất phục. Rất nhiều phong trào
yêu nước diễn ra sôi nổi và mạnh mẽ. Thế nhưng với sự chênh lệch quá lớn về trang
bị và lực lượng, đa số phong trào đều bị đàn áp rất đẫm máu.
-  Thực dân Pháp thực hiện chính sách "Chia để trị" và hai cuộc khai thác thuộc địa
(1897-1914 và 1919-1929) nhằm biến VN thành thị trường tiêu thụ hàng hóa và vơ
vét toàn bộ về cho chính quốc. Chúng thực hiện chính sách "ngu dân", dùng rượu cồn
và thuốc phiện đầu độc người dân.

- Nhiều giai cấp mới được hình thành và giai cấp cũ bị phân hóa. Cơ bản nhất có 2 giai
cấp: Địa chủ và nông dân (đông đảo nhất). Ngoài ra còn có: giai cấp công nhân ( quan
trọng nhất), tư sản, tiểu tư sản, sĩ phu yêu nước. Mâu thuẫn trong xã hội cũng ngày
càng gay gắt hơn.
- Nhiều luồng tư tưởng yêu nước được du nhập vào nước và được các nhà yêu nước
tiếp nhận như: Duy tân minh trị, Cách mạng tư sản Pháp, Cách mạng Tân Hợi,... và
quan trọng nhất là Cách mạng tháng 10 Nga. Và đồng thời lúc đó, rất nhiều phong
trào yêu nước diễn ra sôi nổi và mạnh mẽ( Nông dân Yên Thế, Phan Bội Châu và
Phan Châu Trinh). Thế nhưng hầu hết các  phong trào này rất nhanh chóng bị td Pháp
đàn áp.

=> Nhiệm vụ lịch sử cấp thiết đặt ra cho thế hệ yêu nước đương thời là cần phải có một
tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc. 

 Chuẩn bị để thành lập Đảng:


- 1911, Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm  đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Qua trải nghiệm thực tế qua nhiều nước, Người đã nhận thức được rằng một cách rạch
ròi: “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc
lột và giống người bị bóc lột”, từ đó xác định rõ kẻ thù và lực lượng đồng minh của
nhân dân các dân tộc bị áp bức.

- Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã tác động mạnh mẽ tới nhận
thức của Nguyễn Tất Thành-đây là cuộc “cách mạng đến nơi”. Người từ nước Anh trở
lại nước Pháp và tham gia các hoạt động chính trị hướng về tìm hiểu con đường Cách
mạng Tháng Mười Nga, về V.I.Lênin.

- Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến
bộ nhất lúc đó ở Pháp. Tháng 6-1919, tại Hội nghị của các nước thắng trận trong
Chiến tranh thế giới thứ nhất họp ở Versailles, (Vécxây, Pháp) , Tổng thống Mỹ 
Wooderow Wilson (Uynxơn) tuyên bố bảo đảm về quyền dân tộc tự quyết cho các
nước thuộc địa. Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Ái Quốc thay mặt Hội những
người An Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam
(gồm tám điểm đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam) ngày 18-6-1919. Tiếc thay,
bản yêu sách này không được tiếp nhận nhưng đã tạo ra một tiếng vang lớn trong dư
luận quốc tế.
- Tháng 7-1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo L'Humanité (Nhân đạo), số ra
ngày 16 và 17-7-1920. -> Người đã nhận thức được con đường đúng đắn và ủng hộ
việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (12-
1920) tại thành phố Tua (Tour). Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán
thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin thành lập). Ngay sau đó, Nguyễn
Ái Quốc cùng với những người vừa bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản đã tuyên bố

3
thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản-tức là Đảng Cộng sản Pháp. Với sự
kiện này, Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng
sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến
quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc.

 Tư tưởng: 
- Từ giữa năm 1921, tại Pháp, cùng một số nhà cách mạng của các nước thuộc địa khác,
Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sau đó sáng lập tờ báo Le
Paria (Người cùng khổ). Người viết nhiều bài trên các báo Nhân đạo, Đời sống công
nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư tín quốc tế,... 
- Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành lập,
Nguyễn Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương. Vừa
nghiên cứu lý luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, dưới nhiều phương thức phong phú, Nguyễn Ái Quốc tích cực tố
cáo, lên án bản chất áp bức, bóc lột, nô dịch của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân
các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng.
Người chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù
chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế
giới. Đồng thời, Người tiến hành tuyên truyền tư tưởng về con đường cách mạng vô
sản, con đường cách mạng theo lý luận Mác-Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó
giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ
thuộc. 
- Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm
cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy” . Đảng mà không
có chủ nghĩa cũng giống như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.
Phải truyền bá tư tưởng vô sản, lý luận Mác-Lênin vào phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam.

 Chính trị:
- Người khẳng định rằng, con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là giải phóng
giai cấp, giải phóng dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản. Đường lối chính trị của Đảng cách mạng phải hướng tới giành
độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào, hướng tới xây dựng nhà nước
mang lại quyền và lợi ích cho nhân dân.
- Nguyễn Ái Quốc xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một
bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.
- Về vấn đề Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng trước hết phải
có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với
dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành
công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.

 Tổ chức:
-  Sau khi lựa chọn con đường cứu nước-con đường cách mạng vô sản-cho dân tộc Việt
Nam, Nguyễn Ái Quốc thực hiện “lộ trình” “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức
họ, đoàn kết họ, đ¬ưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập” . Vì vậy, sau một thời gian
hoạt động ở Liên Xô để tìm hiểu, khảo sát thực tế về cách mạng vô sản, tháng 11-
1924, Người đến Quảng Châu (Trung Quốc)-nơi có đông người Việt Nam yêu nước
hoạt động-để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập đảng cộng sản. Tháng 2-1925,
Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm Cộng sản
đoàn.

4
- Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên tại
Quảng Châu (Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn. Hội đã công bố chương trình,
điều lệ của Hội, mục đích: để làm cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành độc
lập cho xứ sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới  (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực
hiện chủ nghĩa cộng sản).
- Hội đã xuất bản tờ báo Thanh niên (do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ
đạo), tuyên truyền tôn chỉ, mục đích của Hội, truyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin và
phương hướng phát triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam. Báo in
bằng tiếng Việt và ra hằng tuần, mỗi số in khoảng 100 bản. Ngày 21-6-1925 ra số đầu
tiên, đến tháng 4-1927, báo do Nguyễn Ái Quốc phụ trách và ra được 88 số. Sau khi
Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu (4-1927) đi Liên Xô, những đồng chí khác trong
Tổng bộ vẫn tiếp tục việc xuất bản và hoạt động cho đến tháng 2-1930 với 202 số (từ
số 89 trở đi, trụ sở báo chuyển về Thượng Hải). Một số lượng lớn báo Thanh niên
được bí mật đưa về nước và tới các trung tâm phong trào yêu nước của người Việt
Nam ở nước ngoài. Báo Thanh niên đánh dấu sự ra đời của báo chí cách mạng Việt
Nam.   
- Sau khi thành lập, Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc trực
tiếp phụ trách, đưa người từ trong nước đến để đào tạo và bồi dưỡng lý luận chính trị.
- trở về Châu Á và hoạt động ở Xiêm (tức Thái Lan). 
- Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho những người
Việt Nam yêu nước tại Quảng Châu, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á
Đông xuất bản thành cuốn Đường Cách mệnh. Đây là cuốn sách chính trị đầu tiên của
cách mạng Việt Nam, trong đó tầm quan trọng của lý luận cách mạng được đặt ở vị trí
hàng đầu đối với cuộc vận động cách mạng và đối với đảng cách mạng tiên phong.
Đường Cách mệnh xác định rõ con đường, mục tiêu, lực lượng và phương pháp đấu
tranh của cách mạng. Tác phẩm thể hiện tư tưởng nổi bật của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
dựa trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào đặc điểm của Việt Nam.
Những điều kiện về tư tưởng, lý luận, chính trị và tổ chức để thành lập Đảng đã được
thể hiện rõ trong tác phẩm. 
- đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã bắt đầu phát triển cơ sở ở
trong nước, đến đầu năm 1927 các kỳ bộ được thành lập.

 Thành lập Đảng cộng sản Việt Nam


- Các tổ chức cộng sản được thành lập
- Ngày 17-6-1929, đại biểu của các tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ họp tại số nhà 312 phố
Khâm Thiên (Hà Nội), quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông qua 
Tuyên ngôn, Điều lệ; lấy cờ đỏ búa liềm là Đảng kỳ và quyết định xuất bản báo Búa
liềm làm cơ quan ngôn luận.
- Tháng 11-1929, trên cơ sở các chi bộ cộng sản ở Nam Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng
được thành lập tại Khánh Hội, Sài Gòn, công bố Điều lệ, quyết định xuất bản Tạp chí
Bônsơvích
- Tại Trung Kỳ, Tân Việt Cách mạng đảng (là một tổ chức thanh niên yêu nước có cả
Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai…) chịu tác động mạnh mẽ của Hội Việt Nam Cách
mạng thanh niên-đã đi theo khuynh hướng cách mạng vô sản. Tháng 9-1929, những
người tiên tiến trong Tân Việt Cách mạng đảng họp bàn việc thành lập Đông Dương
Cộng sản Liên đoàn.
=> Sự ra đời ba tổ chức cộng sản trên cả nước diễn ra trong vòng  nửa cuối năm 1929
đã khẳng định bước phát triển về chất của phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh
hướng cách mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết của lịch sử Việt Nam.
Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ chức cộng sản ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng

5
sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều tự nhận là đảng cách
mạng chân chính, không tránh khỏi phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ
chức trên cả nước.
Sự chuyển biến mạnh mẽ các phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân ngày
càng lên cao, nhu cầu thành lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp lực
lượng toàn dân tộc và đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc ngày
càng trở nên bức thiết đối với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.

HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG:


- Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư cách là phái viên của
Quốc tế Cộng sản, ngày 23-12-1929, Nguyễn Ái Quốc đến Hồng Kông (Trung Quốc) triệu
tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đến họp tại Cửu
Long (Hồng Kông) tiến hành hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng
duy nhất của Việt Nam. 
- Thời gian Hội nghị từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930. (Sau này Đảng quyết nghị lấy ngày 3
tháng 2 dương lịch làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng)
Hội nghị thảo luận, tán thành ý kiến chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, thông qua các văn kiện
quan trọng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược
vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt
Nam. 
- Hội nghị xác định rõ tôn chỉ mục đích của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để
lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm
cho thực hiện xã hội cộng sản”. Quy định điều kiện vào Đảng: là những người “tin theo chủ
nghĩa cộng sản, chương trình đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái tranh đấu và dám hy sinh
phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận đảng” .
Hội nghị chủ trương các đại biểu về nước phải tổ chức một Trung ương lâm thời để lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Hệ thống tổ chức Đảng từ chi bộ, huyên bộ, thị bộ hay khu bộ, tỉnh bộ,
thành bộ hay đặc biệt bộ và Trung ương.
- Ngoài ra, Hội nghị  còn quyết định chủ trương xây dựng các tổ chức công hội, nông hội,
cứu tế, tổ chức phản đế và xuất bản một tạp chí lý luận và ba tờ báo tuyên truyền của Đảng.
Đến ngày 24-2-1930, việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất
được hoàn thành với Quyết nghị của Lâm thời chấp ủy Đảng Cộng sản Việt Nam, chấp nhận
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
có giá trị như một Đại hội Đảng. Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc ra Lời kêu gọi nhân dịp
thành lập Đảng. Mở đầu Lời kêu gọi, Người viết: “Nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản giải
quyết vấn đề cách mạng nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ”.

NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ


ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG

Bao gồm: Chánh cương vắn tắt của Đảng  và Sách lược vắn tắt của Đảng. 

Phản ánh: về đường hướng phát triển và  những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược
của cách mạng Việt Nam

Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam: 
Từ việc phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam-một xã hội thuộc địa nửa
phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có công nhân, nông dân với đế quốc

6
ngày càng gay gắt cần phải giải quyết,  đi đến xác định  đường lối  chiến lược của cách mạng
Việt Nam “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”. Như vậy, mục tiêu chiến lược được nêu ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã
làm rõ nội dung của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản.

Xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Cương lĩnh
đã xác định: Chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập cho
dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc được
đặt ở vị trí hàng đầu. 

Những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam về phương diện xã hội và phương diện kinh tế nêu
trên vừa phản ánh đúng tình hình kinh tế, xã hội, cần được giải quyết ở Việt Nam, vừa thể
hiện tính cách mạng, toàn diện, triệt để là xóa bỏ tận gốc ách thống trị, bóc lột hà khắc của
ngoại bang, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, đặc biệt là giải
phóng cho hai giai cấp công nhân và nông dân.

Lực lượng cách mạng: phải đoàn kết công nhân, nông dân-đây là lực lượng cơ bản, trong đó
giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng
tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai. Do vậy, Đảng “phải thu phục cho
được đại bộ phận giai cấp mình”, “phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày,… hết sức
liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối
với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì
phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”. Đây là cơ sở của tư tưởng chiến lược
đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp nhân
dân yêu nước và các tổ chức yêu nước,cách mạng, trên cơ sở đánh giá đúng đắn thái độ các
giai cấp phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam.

Phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh khẳng định phải bằng con
đường bạo lực cách mạng của quần chúng.

Xác định tinh thần đoàn kết quốc tế, Cương lĩnh chỉ rõ trong khi thực hiện nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và giai cấp
vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.

Xác định vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu
phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng” . “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân
và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”

=>  Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích các luận
điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong đó, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự
chủ, sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất  xã hội thuộc địa nửa phong kiến
Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ
yếu của dân tộc Việt Nam lúc đó, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ các
giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Từ đó, các văn kiện đã xác định
đường lối chiến lược và sách  của cách mạng Việt Nam, đồng thời xác định phương
pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lượng của cách mạng để thực hiện đường
lối chiến lược và sách lược đã đề ra.

7
Như vậy, trước yêu cầu của lịch sử cách mạng Việt Nam cần phải thống nhất các tổ
chức cộng sản trong nước, chấm dứt sự chia rẽ bất lợi cho cách mạng, với uy tín chính
trị và phương thức hợp nhất phù hợp, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời triệu tập và chủ trì
hợp nhất các tổ chức cộng sản. Những văn kiện được thông qua trong Hội nghị hợp
nhất dù “vắt tắt”, nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho
cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một trang sử mới

Ý nghĩa việc thành lập Đảng:


- Chấm dứt sự khủng hoảng bế tắc về dường lối cứu nước, đưa cách mạng Việt Nam sang
một bước ngoặt lịch sử vĩ đại: cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của
cách mạng vô sản thế giới. Đó là kết quả của sự vận động phát triển và thống nhất của phong
trào cách mạng trong cả nước, sự chuẩn bị tích cực, sáng tạo, bản lĩnh của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc, sự đoàn kết, nhất trí của những chiến sĩ cách mạng tiên phong vì lợi ích của giai cấp và
dân tộc.
- Sản phẩm của sự  kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó cũng là  kết quả của sự phát triển cao và thống
nhất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam được soi sáng bởi chủ
nghĩa Mác-Lênin.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua tại Hội
nghị thành lập Đảng đã khẳng định lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản cương lĩnh
chính trị phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng những nhu cầu cơ
bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, định hướng chiến lược
đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Đường lối đó là kết quả của sự 
vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách đúng đắn, sáng
tạo và có phát triển trong điều kiện lịch sử mới. 
- Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã khẳng định sự
lựa chọn con đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam-con đường cách mạng vô sản. Con
đường duy nhất đúng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Sự lựa
chọn con đường cách mạng vô sản phù hợp với nội dung và xu thế của thời đại mới.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử phát triển của dân tộc
Việt Nam, trở thành  nhân tố hàng đầu quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác.

VAI TRÒ CỦA ĐẢNG TRONG SỰ NGHIỆP GIẢI PHÓNG DÂN TỘC ( 1930 - 1945 )

Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, là một mốc son lịch sử đánh dấu
bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam, đưa cuộc đấu tranh của dân tộc vào thời kỳ phát
triển mới. Với chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn, ngay trong thời kỳ đấu
tranh giành chính quyền (1930-1945), "Đảng ta đã tiêu biểu cả tinh thần cách mạng của giai
cấp và dân tộc, đủ lý thuyết, lãnh đạo năng lực của toàn dân đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc
lập tự do".
1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xác định nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc.
-  Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, yêu cầu bức thiết của dân tộc Việt Nam là tiến hành
công cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động, giành độc lập dân tộc 
-  Hướng theo thành công của cách mạng tháng Mười Nga (1917) và chủ nghĩa Mác - Lênin
làm nền tảng, Đảng và Nguyễn Ái Quốc đã xác định con đường cách mạng đúng đắn của dân
tộc ta là con đường cách mạng vô sản
2. Đảng xác định lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc

8
- Trước sự áp bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, Đảng đã tập hợp
đoàn kết nhân dân cả nước đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc. 
- Do sự chèn ép của tư bản đế quốc, Ban Thường vụ Trung ương Đảng trong Chỉ thị Về vấn
đề thành lập Hội "Phản đế đồng minh" (18-11-1930), chủ trương đoàn kết rộng rãi lực lượng
toàn dân tộc, bao gồm các giai cấp, tầng lớp và cá nhân yêu nước
- Đầu năm 1936, trong một bức thư ngỏ gửi các tổ chức cách mạng quốc gia và các nhóm
chống đế quốc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương "đoàn kết, tăng cường và củng
cố tất cả mọi lực lượng chống đế quốc ở Đông Dương".
- Từ tháng 7-1936, Đảng tập trung lãnh đạo cuộc vận động dân chủ, tập hợp rộng rãi mọi lực
lượng dân chủ, nhưng chủ yếu vẫn là lực lượng dân tộc.
- Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, tình hình Đông Dương có những biến chuyển lớn,
Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương nhằm tập hợp
rộng rãi "tất cả các giai cấp, các đảng phái, các phần tử phản đế muốn giải phóng cho dân
tộc".
- Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941) đã giải quyết vấn đề dân
tộc trong từng nước ở Đông Dương, thành lập ở mỗi nước một mặt trận riêng.
- Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, quy
tụ lực lượng và sức mạnh toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh cho độc lập tự do.
3. Chủ trương khởi nghĩa vũ trang, thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa
Để lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực
phản cách mạng, giành lấy và bảo vệ chính quyền 
- Từ quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh xác định bạo lực cách
mạng là bạo lực của quần chúng dựa vào hai lực lượng : lực lượng chính trị và lực lượng vũ
trang, tiến hành dưới hình thức : đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
- Luận cương chính trị tháng 10/ 1930, chủ trương ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con
đường “võ trang bạo động”
- Nhận thấy hoàn cảnh Đông Dương lúc bấy giờ, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (11/1940), đã phân tích nhận định để chuẩn bị lãnh đạo các dân tộc bị áp bức nổi
dậy giành độc lập dân tộc. 
- Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941) đề ra chủ trương khởi
nghĩa vũ trang, nhấn mạnh chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của toàn
Đảng, toàn dân ta “lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có
thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
- Trung ương Đảng khẳng định muốn gây cuộc khởi nghĩa bằng võ trang phải nhằm vào các
điều kiện chủ quan:
+ Mặt trận cứu quốc đã thống nhất được toàn quốc.
+ Nhân dân không thể sống được nữa dưới ách thống trị của Pháp - Nhật, mà đã sẵn sàng hy
sinh bước vào con đường khởi nghĩa.
+ Phe thống trị Đông Dương đã bước vào cuộc khủng hoảng phổ thông đến cực điểm vừa về
kinh tế, chính trị lẫn quân sự.
+ Những điều kiện khách quan thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa như quân Tàu đại thắng quân
Nhật, cách mạng Pháp hay cách mạng Nhật nổi dậy, phe dân chủ đại thắng ở Thái
Bình Dương, Liên Xô đại thắng, cách mạng các thuộc địa Pháp, Nhật sôi nổi và nhất là quân
Tàu hay quân Anh - Mỹ tràn vào Đông Dương.
- Với nghệ thuật khởi nghĩa dân tộc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta ra sức chuẩn bị lực lượng,
đi từ khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du kích cục bộ ở nông thôn, tiến lên đánh giá đúng
thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ phát động tổng khởi nghĩa ở cả nông thôn và thành thị,
dùng bạo lực cách mạng của quần chúng đập tan bộ máy chính quyền của đế quốc và tay sai,
thiết lập chính quyền cách mạng.

9
-  Đảng có sự sáng tạo về hình thức chính quyền nhà nước, nhằm giải quyết vấn đề cơ bản
của mọi cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền.
- Phù hợp với tính chất và lực lượng tham gia cách mạng, trong cuộc vận động cứu nước
1939-1945, Đảng có chủ trương mới về hình thức chính quyền nhà nước. Hội nghị lần thứ
sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11-1939) chủ trương thành lập chính quyền nhà nước
với hình thức cộng hoà dân chủ trong phạm vi toàn Đông Dương, mới về hình thức chính
quyền nhà nước.
- Với đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn của Đảng Cộng sản và tư tưởng độc lập tự do
của Hồ Chí Minh, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm Cách mạng Tháng Tám thành công, lập
nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Không thể phủ nhận rằng vai trò của Đảng vô cùng quan trọng trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc (1930-1945). Một điển hình sáng tạo của Đảng và Hồ Chí Minh, không chỉ có giá trị
khoa học trong việc phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể
ở thuộc địa, mà còn có giá trị thực tiễn vô cùng to lớn trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh
chống chủ nghĩa thực dân của dân tộc Việt Nam vì độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, để
lại những bài học lịch sử vô cùng quý báu cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày nay.

HOÀN CẢNH NƯỚC TA SAU CMT8 VÀ CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TRONG GIAI
ĐOẠN 1945 - 1946, CHO BIẾT BÀI HỌC CÓ THỂ ÁP DỤNG TRONG CÔNG CUỘC
XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY?

Hoàn cảnh nước ta sau CMT8:

Sau khi CMT8 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, công cuộc bảo vệ và xây
dựng đất nước đứng trước nhiều thuận lợi cơ bản và khó khăn thử thách.
Thuận lợi:
- Trên thế giới, CNXH đã trở thành hệ thống lớn mạnh do Liên Xô đứng đầu, phong trào cách
mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển,  phong trào dân chủ và hòa bình cũng vươn
lên mạnh mẽ.
- Trong nước, chính quyền nhân dân được thành lập, có hệ thống từ trung ương đến địa
phương. Nhân dân lao động đã làm chủ được đất nước.Lực lượng vũ trang được tăng cường.
Chính Phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa được toàn dân tin tưởng và ủng hộ.

Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi đó, chính quyền non trẻ đứng trước vô vàn những khó khăn và thử
thách cần phải vượt qua.
- Nền độc lập của chúng ta chưa được quốc gia nào trên thế giới công nhận.
- Thù trong, giặc ngoài chống phá quyết liệt.
+ Ở Miền Bắc: Cuối tháng 8- 1945 theo thỏa thuận của phe Đồng Minh ở hội nghị Potsdam,
trong tháng 9 – 1945, gần 20 vạn quân của chính phủ Tưởng Giới Thạch dưới danh nghĩa
quân Đồng Minh kéo vào miền Mắc nước ta từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc. Quân Tưởng với danh
nghĩa giải giáp quân đội Nhật nhưng thực chất chỉ gây ra cho ta nhiều khó khăn về kinh tế,
rối ren về chính trị.
+ Ở Miền Nam: Quân Anh, quân Pháp đồng lõa với nhau đánh chiếm Sài Gòn hòng tách
Miền Nam ra khỏi Việt Nam
- Chúng ta còn phải đối mặt với những khó khăn về kinh tế do hậu quả của chế độ cũ để lại.
- Ngân sách nhà nước trống rỗng, nạn đói, nạn dốt, thiên tai.. khắp mọi nơi.Nền kinh tế bị trì
trệ, lạc hậu, ruộng đất bị bỏ hoang.

10
-Tệ nạn xã hội tràn lan, cướp của giết
người…                                                                                                                                          
                                                                                                                        
Chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng.

Trước tình hình mới, Trung ương đảng đã sáng suốt phân tích tình thế cách mạng thế giới,
sức mạng mới của Dân tộc để vạch ra chủ trương, giải pháp nhằm giữ vững chính quyền, bảo
vệ độc lập. Ngày 25-11-1945, Đảng ra chỉ thị về kháng chiến kiến quốc, vạch ra con đường đi
lên của Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.

Về chỉ đạo chiến lược: Đảng ta xác định mục tiêu cần nêu cao của cách Mạng Việt Nam lúc
này vẫn là dân tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này là “ Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”
nhưng không phải giành độc lập mà là giữ độc lập.

Về xác định kẻ thù: Đảng phân tích âm mưu của các nước Đế quốc đối với Đông Dương và
chỉ rõ “ Kẻ thù chính của chúng t a là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu
tranh vào chúng”. Vì vậy phải lập “Mặt trận dân tộc thống nhất chống Thực dân Pháp xâm
lược”, mở rộng mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp của nhân dân.

Về phương hướng nhiệm vụ: Đảng nêu ra 4 nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cần khẩn trương
thực hiện là “ Củng cố chính quyền, Chống thực dân Pháp xâm lược, Bài trừ nội phản và Cải
thiện đời sống nhân dân”. Đảng chủ trương kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện
khẩu hiệu “Hoa- Việt thân thiện” đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và “Độc lập về chính
trị, nhân nhượng về kinh tế” đối với Pháp.

Ngoài ra Đảng còn đề ra các biện pháp để thực hiện các nhiệm vụ trên:
-         Về chính trị xã hội: Tổ chức bầu cử quốc hội, lập ra hiến pháp, bộ máy chính quyền
hoàn thiện từ trung ương đến địa phương. Các đoàn thể như Mặt Trận Việt Minh, Hội Liên
Hiệp Quốc Dân Việt Nam, Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam…được xây dựng và mở rộng.
-         Về quân sự: Động viên lực lượng toàn dân kiên trì kháng chiến và tổ chức lãnh đạo
kháng chiến lâu dài.
-         Về kinh tế: Phát động phong trào tăng gia sản xuất, xóa bỏ các thứ thuế, khôi phục lại
các nhà máy.
-         Về ngoại giao: phải kiên trì nguyên tắc “ bình đẳng, tương trợ, thêm bạn, bớt thù”
trong quan hệ với các nước.

Bài học có thể áp dụng:

-Thứ nhất, bài học đề cao thế hợp pháp và sức mạnh của chính quyền cách mạng.

Tháng 8 năm 1945, khi cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đi vào giai đoạn kết thúc, tình hình
thế giới thay đổi với nhịp độ cực kỳ nhanh chóng. Nhờ dự đoán đúng tình hình thế giới và
trong nước, khi biết Nhật Bản sắp đầu hàng Đồng minh và ở Việt Nam quân Nhật hoang
mang cực độ. Vì vậy, Đảng chủ trương phải giành được chính quyền và tuyên bố độc lập
trước khi quân đồng minh vào; đề cao vị trí của Việt nam Dân chủ Cộng hòa, giành thế hợp
pháp cho chính quyền mới, tranh thủ sự công nhận của quốc tế để tạo thuận lợi cho việc giao
dịch với đồng minh.
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập trước quốc dân và thế giới.
Lúc này quân Trung Hoa Dân quốc đã xuống sát biên giới, sắp vào Việt Nam. Còn quân Anh

11
- Ấn thì đến ngày 6/9/1945 mới đổ bộ vào Sài Gòn. Như vậy, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ra đời trái với mọi dự tính và dàn xếp của các nước lớn.
Ngày 6/1/1946, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử Việt Nam được tổ chức thành
công, ngày 6/3/1946 ta ký với Pháp Hiệp định Sơ bộ. Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn,
nhờ sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc, ta đã thành lập được một Chính phủ hoàn toàn hợp
pháp, hợp hiến, đại diện cho toàn thể nhân dân Việt Nam thực hiện chức năng đối nội, đối
ngoại. 
Ngày 3/10/1945, một tháng sau khi tuyên bố độc lập, Bộ Ngoại giao Chính phủ lâm thời ra
Thông cáo về chính sách ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng định mục tiêu
phấn đấu cho nền độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn của Việt Nam, hợp tác thân thiện với các
nước đồng minh và các dân tộc láng giềng, đồng thời kiên quyết chống thực dân Pháp gây ra
chiến tranh xâm lược. 
Trong mấy tháng cuối năm 1945 đầu năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhiều lần gửi thư,
công hàm đến các nước lớn Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc và Chủ tịch Đại hội đồng Liên
Hợp Quốc thông báo về sự ra đời và khẳng định tính hợp pháp của Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, tố cáo Pháp trở lại xâm lược Đông Dương.
Có thể nói, những sách lược ngoại giao nêu trên đã góp phần đề cao thế hợp pháp và sức
mạnh của chính quyền cách mạng để đương đầu với các thế lực hung hãn, tạo khả năng thêm
bạn bớt thù, tạo thuận lợi cho các hoạt động của chính quyền cách mạng non trẻ.
Trong giai đoạn hiện nay, khi tình hình trong nước và thế giới ngày càng diễn biến phức tạp,
Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng bài học này và việc đẩy mạnh hoạt động đối ngoại nhằm
tiếp tục nâng cao vị thế của Việt Nam, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển
kinh tế, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Điều này được thể hiện rõ nét thông qua việc từ chỗ bị
bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị, đến nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với hơn 180
nước, quan hệ kinh tế - thương mại đầu tư với trên 220 quốc gia và vùng lãnh thổ; quan hệ
với các nước láng giềng, khu vực, các nước lớn và các trung tâm kinh tế-chính trị hàng đầu,
các nước bạn bè truyền thống và đối tác tiềm năng ngày càng phát triển, đi vào chiều sâu, ổn
định, bền vững hơn. Với vai trò mở đường, phát huy sức mạnh của ngoại giao chính trị, ngoại
giao văn hóa, ngành ngoại giao đã khai thông, mở rộng và đưa quan hệ hợp tác của Việt Nam
với các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đi vào chiều sâu; đi tiên phong trong việc mở
rộng các thị trường, các lĩnh vực hợp tác quốc tế mới. Có thể nói chưa bao giờ Việt Nam có
được quan hệ hợp tác quốc tế rộng rãi và bình đẳng với các nước ở khắp các châu lục như
ngày nay. Vai trò và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Với việc nâng cao vị thế đó trước hết giúp cho Đảng và Nhà nước ta chống lại các thế lực thù
địch đã và đang liên tục chống phá cách mạng nước ta hết sức tinh vi và quyết liệt. Mặt khác,
nâng cao vị thế còn tạo uy tín cho Việt Nam trên trường quốc tế, điều này được thể hiện
thông qua việc Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên không thường trực Hội đồng Bảo
an Liên Hợp Quốc sau khi đạt số phiếu gần như tuyệt đối (183/190) vào năm 2007.  Đối với
các nước trong khu vực, Việt Nam còn có vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong tổ chức
ASEAN.
Để tiếp tục phát huy thành quả đó, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã xác định rõ một trong
ba mục tiêu đối ngoại và hội nhập kinh tế trong thời gian tới của Việt Nam là: “nâng cao vị
thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội trên thế giới”.

12
-Thứ hai, bài học biết phân hóa kẻ thù
Sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, một thách thức nghiêm trọng đối với cách mạng
Việt Nam trong thời điểm này là đối phó cùng một lúc với nhiều thế lực quân sự đối địch ở
các nước lớn có mặt tại Việt Nam.
Ở miền Bắc, gần 200.000 quân Tưởng vào Việt nam với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật
từ vĩ tuyến 16 trở ra, mang theo các nhóm người Việt sống lưu vong ở Trung Quốc. Ở phía
Nam, 26.000 quân Anh - Ấn vào giải giáp quân đội Nhật. Thời gian này, ở nước ta còn có
khoảng 60.000 quân Nhật đang chờ giải giáp. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước này với nhau và có sách
lược phù hợp với từng đối tượng.
 Đối với Trung Hoa Dân quốc: Để vô hiệu hóa mặt tiêu cực và chống lại chủ trương Hoa
quân nhập Việt, diệt cộng cầm Hồ mà lực lượng của Tưởng đề ra khi vào Việt nam, chính
quyền cách mạng đã nêu khẩu hiệu Hoa - Việt thân thiện và thực hiện hòa hoãn với sách lược
mềm mỏng và bình tĩnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi thư điện cho Tưởng Giới Thạch
khẳng định tình hữu nghị và quan hệ lịch sử, văn hóa truyền thống lâu đời giữa hai nước;
triển khai nhiều hoạt động tăng cường hữu nghị với nhân dân Trung Quốc, nhắc nhở các địa
phương thực hiện đúng Hoa - Việt thân thiện, bảo vệ Hoa kiều, ngăn ngừa âm mưu ly gián
người Việt và người Hoa...
Khi phía Trung Hoa Dân quốc thấy không thể gây chuyện lật đổ chính quyền cách mạng của
ta, họ chuyển chính sách thúc đẩy các nhóm tay sai vu cáo, quấy phá, đòi Hồ Chí Minh từ
chức, đòi giải tán chính quyền... 
Ngày 11/11/1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán và rút vào hoạt động bí
mật. Ngày 2/3/1946, trong phiên họp đầu tiên của Quốc hội khóa I, ta đồng ý cho tay sai của
Trung Hoa Dân quốc một số chức vụ như Phó Chủ tịch, Bộ trưởng kinh tế và 70 ghế trong
Quốc hội không qua bầu cử...
Những sách lược khéo léo và đúng đắn trên là nước cờ cao tay, xoa dịu sự chống đối của
Trung Hoa Dân quốc và tay sai, góp phần ngăn chặn được nhiều âm mưu phá hoại và lật đổ
của chúng, nhưng vẫn bảo đảm nguyên tắc giữ vững chính quyền trong tay.
 Đối với Pháp: Trong khi thực hiện chính sách hòa hoãn với Trung Hoa Dân quốc, Trung
ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm dự đoán thực dân Pháp vẫn có khả năng vừa mở
rộng chiếm đóng khu vực phía Nam, vừa đưa quân ra Bắc thông qua một thỏa hiệp thay quân
với Tưởng Giới Thạch.
Ngày 28/2/1946, tại Trùng Khánh, Hiệp ước Hoa – Pháp được ký kết. Theo Hiệp ước này,
Trung Hoa Dân quốc đồng ý cho quân đội Pháp vào Bắc Đông Dương thay thế quân Trung
Hoa Dân quốc dưới danh nghĩa giải giáp quân Nhật. Đổi lại Pháp phải nhân nhượng cho
Trung Hoa Dân quốc một số quyền lợi về kinh tế. Như vậy, đây là lần thứ hai sau thỏa thuận
Postdam, Việt Nam lại phải đương đầu với một giải pháp do các nước lớn áp đặt.
Nhờ nhãn quan chính trị sáng suốt và sự nhạy bén trước chuyển biến mau lẹ của tình hình,
vào thời điểm khi cả Pháp và Trung Hoa Dân quốc đều cần phía Việt Nam thỏa thuận với
Pháp về một giải pháp mà hai bên có thể chấp nhận được để tránh cuộc xung đột mở rộng, thì
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng kịp thời nắm bắt khoảnh khắc lịch sử, ký bản
Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 theo những điều kiện có lợi nhất có thể được đối với Việt Nam, để
nhanh chóng đẩy 20 vạn quận Trung Hoa Dân quốc và tay sai của chúng ra khỏi nước ta,
chuẩn bị thực lực cho một cuộc chiến đấu mới mà ta biết không thể nào tránh khỏi.
Có thể nói với sự phân định về “bạn và thù” trong thời kỳ trước đây chính là cơ sở cho Đảng
ta định hình quan điểm “đối tác, đối tượng” trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa hội nhập quốc tế.
Nghị quyết 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về Chiến lược bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã xác định rõ mục tiêu, phương châm, quan điểm chỉ đạo và
nội dung, giải pháp để thực hiện; trong đó, việc xác định đối tác, đối tượng được đặc biệt coi

13
trọng. Đảng ta đã xác định: Những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan
hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có
âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta. Như vậy, Đảng ta đã chỉ ra các dấu hiệu cơ bản quan
trọng để nhận thức đâu là “đối tác” có thể mở rộng quan hệ hợp tác, đâu là “đối tượng” cần
kiên quyết đấu tranh. Và khi đã nhận thức về “đối tác và đối tượng” trong cùng một chủ thể
thì phải lấy mục tiêu “xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”
làm tiêu chuẩn để quyết định mức độ quan hệ hợp tác. Nghĩa là, trong khi mở rộng quan hệ
hợp tác với “đối tác” cần nêu cao tinh thần cảnh giác phát hiện các mâu thuẫn có thể nảy sinh
để kịp thời đấu tranh. Đồng thời, trong đấu tranh với “đối tượng” không có nghĩa là phân
tuyến đối đầu mà cần tranh thủ mọi cơ hội tìm hiểu, tạo lòng tin để đi đến “tôn trọng độc lập,
chủ quyền” của nhau mà mở rộng hợp tác bình đẳng cùng có lợi. Mục tiêu cơ bản lâu dài
trong nhận thức và vận dụng quan điểm “đối tác, đối tượng” là nhằm không ngừng tăng
cường đoàn kết, mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với bạn bè quốc tế. Đấu tranh với quan
điểm, tư tưởng nhận thức máy móc, khô cứng, khi xem “đối tác” là để hợp tác và chỉ rõ “đối
tượng” là để cô lập đấu tranh. Đặc biệt Đảng ta cũng khẳng định tính hai mặt tồn tại, đan xen
một cách phổ biến trong “mỗi đối tác” và “mỗi đối tượng”, đòi hỏi chúng ta phải có cái nhìn
biện chứng khoa học để trong từng thời điểm cụ thể nhận biết rõ đâu là đối tác để tranh thủ
hợp tác và đâu là đối tượng để đấu tranh. 
Với sự kế thừa những giá trị của Đảng trong hoạt động đối ngoại đó đã giúp cho Việt nam có
nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn để “thêm bạn, bớt thù”, tăng cường sự hợp tác hữu
nghị với các nước. Đồng thời, tranh thủ khai thác, phát huy được các mặt tích cực của các đối
tác để phát triển kinh tế - xã hội, hạn chế được những mặt tiêu cực của đối tượng, góp phần
bảo đảm sự ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Đến năm 2016, Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước; thiết lập quan hệ đối tác
chiến lược theo ngành với 2 nước; xác lập quan hệ đối tác toàn diện với 10 nước; trở thành
nước duy nhất tại Đông Nam Á xây dựng khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược và đối tác
toàn diện với tất cả 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các
nước lớn; có quan hệ đặc biệt với Lào, quan hệ hợp tác toàn diện với Campuchia; xây dựng
quan hệ đối tác chiến lược với những nước có vai trò quan trọng ở các khu vực khác như
châu Phi, Mỹ La-tinh…
Ngoài các đối tác nêu trên, Việt Nam cũng đã nhận ra các đối tượng cụ thể hiện nay của nước
ta như: Đối tượng có âm mưu lật đổ chế độ XHCN; đối tượng có tham vọng về chủ quyền
lãnh thổ; đối tượng do bị tác động của “DBHB” dẫn đến “tự chuyển hóa” có thể gây ra “biến
động chính trị”, hoặc tự giác trở thành đồng minh của đối tượng có âm mưu lật đổ chế độ ta;
đối tượng gây thảm họa thiên tai, môi trường có thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế, chính trị -
xã hội, tạo cơ hội để các đối tượng khác lợi dụng khoét sâu, thực hiện mục tiêu chiến lược
của họ… Trên cơ sở xác định các đối tượng cụ thể, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ
trương để đối phó với từng đối tượng khác nhau, từ đó giúp cho chúng ta bảo vệ được nền
hòa bình, độc lập dân tộc.

-Thứ ba, bài học biết nhân nhượng đúng lúc, nhân nhượng có giới hạn, nhân nhượng có
nguyên tắc

Ngày 02/9/1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã phải đối mặt với những khó
khăn về kinh tế, chính trị, văn hóa và đặc biệt là vấn đề an ninh quốc phòng. Đứng trước tình
hình đó, về mặt ngoại giao Đảng và Chính phủ đã thực hiện chính sách nhân nhượng, hòa
hoãn tạm thời, nhưng vẫn bảo đảm nguyên tắc độc lập và chủ quyền quốc gia dân tộc.

14
Thời gian đầu, trong điều kiện thực lực của chúng ta còn hạn chế, Đảng và Chính phủ đã phải
chấp nhận những điều kiện để thực hiện sách lược hòa với Trung Hoa Dân quốc, tập trung
chống thực dân Pháp xâm lược nhưng vẫn giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc như: Chính
phủ ta chấp nhận tiêu tiền Quan kim, Quốc tệ đã mất giá của chúng; cung cấp lương thực
thực phẩm cho chúng; nhượng cho tay sai của Trung Hoa Dân quốc 70 ghế trong Quốc hội
không qua bầu cử, bởi ta biết rằng với số phiếu 70, Trung Hoa Dân quốc vẫn không thể áp
đặt được Chính quyền cách mạng.
Khi giữa Trung Hoa Dân quốc và Pháp ký với nhau bản Hiệp ước thay quân, ta đã quyết định
ký với Pháp Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946), đồng ý cho Pháp đưa quân ra miền Bắc thay Trung
Hoa Dân quốc, tuy nhiên ta giới hạn số quân Pháp là 15.000 người, và số quân đó phải rút hết
về nước trong 5 năm.
Trong quá trình đàm phán, vấn đề gay cấn nhất là việc ta đòi Pháp công nhận Việt Nam là
một quốc gia độc lập, Pháp chỉ công nhận Việt Nam là tự trị, cuối cùng Chủ tịch Hồ Chí
Minh đưa ra quy chế quốc gia tự do. Tự do – chưa phải là độc lập nhưng là một nước có chủ
quyền.
Sau Hiệp định Sơ bộ, ta và Pháp mở Hội nghị trù bị Đà Lạt, Hội nghị chính thức ở
Fontainebleau, tuy nhiên, do phía Pháp ngoan cố giữ lập trường thực dân hiếu chiến, muốn
tái lập lại chế độ thuộc địa trên toàn Đông Dương, nên các Hội nghị đều đi đến thất bại. Và
để có thêm một khoảng thời gian hòa hoãn nữa, ta quyết định ký với Pháp Tạm ước
14/9/1946, nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế - văn hóa để ta có thêm
thời gian chuẩn bị lực lượng. Đảng Cộng sản Đông Dương nhận định: Tạm ước 14/9 là một
bước nhân nhượng cuối cùng, nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền của nước, là hại
quyền lợi cao trọng của dân tộc.
Với Hiệp định Sơ bộ và Tạm ước 14/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ ta đã đi những
nước cờ mạnh bạo, sắc sảo, trước tiên thể hiện thiện chí hòa bình của nhân dân Việt Nam đến
nhân dân thế giới, đặc biệt là đến nhân dân Pháp, góp phần tạo một phong trào phản chiến
của nhân dân Pháp chống chiến tranh xâm lược. Việc ký kết các thỏa thuận này là đỉnh cao
của nghệ thuật nhân nhượng có nguyên tắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trên biển Đông có nhiều biến đổi
khôn lường khiến nhiệm vụ phòng thủ, bảo vệ đất nước, nhất là an ninh trên biển ở Việt Nam
trở thành nhiệm vụ khó khăn với nhiều thách thức. Từ bài học lịch sử trên, Đảng và Nhà nước
ta đã có sự kế thừa và vận dụng sáng tạo vào hoạt động đối ngoại trong thời kỳ mới.
Dân tộc ta vốn đã từng hy sinh, tổn thất quá nhiều trong chiến tranh nên hơn ai hết chúng ta
rất yêu chuộng hòa bình. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn chủ trương giải quyết mọi vấn đề
bằng con đường hòa bình, thương thảo, hữu nghị, pháp lý chứ không bao giờ nhân nhượng,
đặc biệt trong vấn đề chủ quyền lãnh thổ.
Với chủ trương trên trong thời gian vừa qua, khi Trung Quốc công bố “đường lưỡi bò chín
khúc”, gây ra các vụ tranh chấp trên Biển Đông với các nước trong đó có Việt Nam. Đặc biệt
tháng 5/2014, Trung Quốc đã hạ đặtt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, sau đó còn liên tiếp gây khó khăn cho ngư dân
của ta trong việc đánh bắt xa bờ. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta có những chủ
trương khéo léo nhằm bảo vệ chủ quyền biển đảo như: kiên quyết yêu cầu Trung Quốc di
chuyển giàn khoan và các tàu hộ tống ra khỏi vùng biển của Việt Nam; tuyên truyền để nhân
dân và Chính phủ các nước hiểu hơn về chủ quyền của Việt Nam; kêu gọi nghị viện các nước
lên tiếng, trước hết là phải tuân thủ luật pháp Quốc tế, đặc biệt là Luật Biển năm 1982 mà
Trung Quốc là một thành viên cũng phải tuân thủ; cung cấp tài liệu về chủ quyền của Việt
Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp thực tế lịch sử và luật pháp quốc
tế. Đồng thời, Nhà nước đã ban hành các chính sách nhằm khuyến khích, hỗ trợ ngư dân đánh
bắt xa bờ để góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo; kết hợp chặt chẽ giữa thúc đẩy nhanh quá
trình dân sự hóa trên biển, nhất là ở một số vùng biển, đảo có vị trí chiến lược kinh tế với xây

15
dựng thế trận quốc phòng - an ninh trên biển vững mạnh, đủ khả năng bảo vệ chủ quyền quốc
gia trên biển; tập trung nỗ lực xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo vững mạnh… Từ
đó kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.
Lịch sử 86 năm ra đời và phát triển của Đảng ta cho thấy, càng trong những thời điểm khó
khăn, phức tạp thì bản lĩnh, trí tuệ, đạo đức, năng lực lãnh đạo của Đảng càng được khẳng
định. Với việc phát huy những bài học kinh nghiệm từ sách lược ngoại giao thời kỳ 1945-
1946 trong giai đoạn hiện nay chính là một trong những yếu tố quan trọng đem đến sự thành
công về mặt đối ngoại của Đảng. Chúng ta tin tưởng rằng, bài học thành công về mặt ngoại
giao của Đảng trong giai đoạn 1945-1946 sẽ tiếp tục được phát huy trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

16

You might also like