Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 12

CẠNH TRANH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ

TRƯỜNG
I. Vấn đề chung
1/ Khái niệm:
- Cạnh tranh là gì?
Theo cách hiểu phổ thông thể hiện trong Từ điển ngôn ngữ tiếng Anh,
“competition” (cạnh tranh) là “một sự kiện hoặc một cuộc đua, theo đó các đối
thủ ganh đua để giành phần hơn hay ưu thế tuyệt đổi về phía mình”. Theo Từ
điển tiếng Việt, “cạnh tranh” là “ cố gắng giành phần hơn, phần thắng về mình
giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như nhau”.
- Nền kinh tế thị trường là gì?
Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, mọi hoạt
động sản xuất, kinh doanh và các quan hệ kinh tế đều được thực hiện thông qua
thị trường, chịu sự điều tiết, tác động của các quy luật kinh tế hoạt động trên thị
trường.
- Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là gì?
Dưới góc độ kinh tế chính trị, cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh quyết liệt
giữa các doanh nghiệp nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất
và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhuận cao nhất.
2/ Vai trò của sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường?
- Vai trò của cạnh tranh đối với nền kinh tế quốc dân:
Cạnh tranh là động lực phát triển kinh tế nâng cao năng suất lao động xã hội. Một
nền kinh tế mạnh là nền kinh tế mà các tế bào của nó là các doanh nghiệp phát triển
có khả năng cạnh tranh cao. Tuy nhiên ở đây cạnh tranh phải là cạnh tranh hoàn hảo,
cạnh tranh lành mạnh, các doanh nghiệp cạnh tranh nhau để cùng phát triển, cùng đi
lên thì mới làm cho nền kinh tế phát triển bền vững. Còn cạnh tranh độc quyền sẽ
ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế, nó tạo ra môi trường kinh doanh không bình
đẳng dẫn đến mâu thuẫn về quyền lợi và lợi ích kinh tế trong xã hội, làm cho nền
kinh tế không ổn định.
- Vai trò của cạnh tranh đối với người tiêu dùng:
 Trên thị trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng diễn ra gay gắt
thì người được lợi nhất là khách hàng. Khi có cạnh tranh thì người tiêu
dùng không phải chịu một sức ép nào mà còn được hưởng những thành
quả do cạnh tranh mang lại như: chất lượng sản phẩm tốt hơn, giá bán
thấp hơn, chất lượng phục vụ cao hơn…

 Đồng thời khách hàng cũng tác động trở lại đối với cạnh tranh bằng
những yêu cầu về chất lượng hàng hoá, về giá cả, về chất lượng phục
vụ… Khi đòi hỏi của người tiêu dùng càng cao làm cho cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp ngày càng gay gắt hơn để giành được nhiều khách
hàng hơn.

- Vai trò của cạnh tranh đối với doanh nghiệp:


 Cạnh tranh là điều bất khả kháng đối với mỗi doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường. Cạnh tranh có thể được coi là cuộc chạy đua khốc liệt
mà các doanh nghiệp không thể tránh khỏi mà phải tìm mọi cách vươn
nên để chiếm ưu thế và chiến thắng. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp
luôn tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, thay đổi kiểu
dáng mẫu mã đáp ứng nhu cầu của khách hàng.

 Cạnh tranh khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các công nghệ mới,
hiện đại , tạo sức ép buộc các doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực của mình để giảm giá thành, nâng cao chất lượng, cải tiến
mẫu mã, tạo ra các sản phẩm mới khác biệt có sức cạnh tranh cao.

 Cạnh tranh khốc liệt sẽ làm cho doanh nghiệp thể hiện được khả năng “
bản lĩnh” của mình trong quá trình kinh doanh. Nó sẽ làm cho doanh
nghiệp càng vững mạnh và phát triển hơn nếu nó chịu được áp lực cạnh
tranh trên thị trường.
3/ Bản chất của cạnh tranh:
Dưới giác độ kinh tế, cạnh tranh có bản chất sau:
- Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường
để giành giật khách hàng:
Trên thị trường, giữa khách hàng và nhà cung cấp, luôn luôn thể hiện nhu cầu, lợi
ích khác nhau. Khách hàng mong muốn mua được sản phẩm phù hợp nhất với giá rẻ
nhất có thể, trong khi đó, nhà cung cấp mong muốn bạn được sản phẩm càng nhanh
càng tốt để đầu tư phát triển sản xuất thu được nhiều lợi nhuận. Khuynh hướng này
là nguồn gốc tạo ra sự cạnh tranh, sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh trên thị
trường để lôi kéo khách hàng về phía mình. Để ganh đua với nhau, các chủ thể kinh
doanh phải sử dụng các phương thức, thủ đoạn kinh doanh được gọi là các hành vi
cạnh tranh của doanh nghiệp. Kết quả của cuộc cạnh tranh trôn thị trường làm cho
người chiến thắng mở rộng được thị phần, tăng lợi nhuận, kẻ thua cuộc mất khách
hàng và phải ròi khỏi thị trường. Quá trình cạnh tranh, ganh đua buộc các chủ thể
kinh doanh phải xem xét lại mình để làm sao sử dụng tất cả các nguồn lực một cách
hiệu quả.
- Quá trình cạnh tranh giữa các đối thủ diễn ra trên thị trường:

Các chủ thể kinh doanh khi tham gia vào thị trường luôn ganh đua nhau, giành cơ
hội tốt nhất để mở rộng thị trường. Tuy nhiên, cạnh tranh thường chỉ diễn ra giữa
các doanh nghiệp có chung lợi ích như cùng tìm kiếm nguồn nguyên liệu đầu vào
giống nhau hoặc cùng tìm kiếm thị trường để bán những sản phẩm tương tự nhau.
Điều đó làm cho các doanh nghiệp có chung lợi ích tranh giành trở thành đối thủ của
nhau. Chúng ta khó có thể thấy có sự cạnh tranh giữa một doanh nghiệp sản xuất xi
măng với một doanh nghiệp kinh doanh đồ ăn uống hoặc cũng khó có cạnh tranh
giữa hai nhà sản xuất quần áo ở hai quốc gia chưa hề có quan hệ thương mại. Bởi
vậy, lí thuyết cạnh tranh xác định sự tồn tại của cạnh tranh giữa các chủ thể kinh
doanh khi chúng là đối thủ của nhau và sự cạnh tranh, ganh đua giữa các đối thủ đó
được thể hiện trên thị trường.
- Cạnh tranh chỉ diễn ra trong điều kiện của cơ chế thị trường:
Cạnh tranh là hoạt động nhằm tranh giành thị trường, lôi kéo khách hàng về phía
mình của các chủ thể kinh doanh nên cạnh tranh chỉ diễn ra trong cơ chế thị trường
khi mà công dân có quyền tự do kinh doanh, tự do thành lập doanh nghiệp, tự do tìm
kiếm cơ hội để phát triển sản xuất kinh doanh. Trong thời kì phong kiến, nhà nước
phong kiến luôn chủ trương hình thành và phát triển các phường, hội, các công xã
nông thôn mang tính khép kín, tự cung tự cấp, do đó cạnh tranh không có điều kiện
để phát triển. Trong nền kinh tể kế hoạch hoá tập trung - nơi mà nhà nước là nhà đầu
tư duy nhất nắm quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế nên không thể nói đến kinh
tế thị trường, không thể tồn tại quyền tự do kinh doanh của cá nhân, do đó cạnh
tranh cũng không thể tồn tại với tính chất là sự ganh đua kinh tế giữa các chủ thể
kinh doanh trên thị trường.
Luật cạnh tranh năm 2014 (luật hiện hành) cũng như luật về cạnh tranh của nhiều
nước trên thế giới (Trung Quốc, Hàn Quốc, Bungari, Nhật Bản...), tuy đều không
đưa ra. khái niệm cạnh tranh nhưng bao gồm các quy phạm nhằm tạo lập và duy trì
môi trường kinh doanh bình đẳng, đảm bảo sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh
diễn ra theo trật tự và trong khung khổ được pháp luật quy định.
II. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
2/ Đặc trưng của cạnh tranh?
- Mặc dù được nhìn nhận dưới những góc độ khác nhau, song theo các lý thuyết
về kinh tế, cạnh tranh là sản phẩm riêng có của nền kinh tế thị trường, là linh
hồn và là động lực cho sự phát triển của thị trường. Từ đó, cạnh tranh được
mô tả bởi ba đặc trưng căn bản sau đây:
 Một, cạnh tranh là hiện tượng xã hội diễn ra giữa các chủ thể kinh
doanh:
Cạnh tranh chỉ có thể tồn tại nếu như các chủ thể có quyền tự do hành
xử trên thị trường. Tự do khế ước, tự do lập hội và tự chịu trách nhiệm
sẽ đảm bảo cho các doanh nghiệp có thể chủ động tiến hành các cuộc
tranh giành để tìm cơ hội phát triển trên thương trường. Mọi kế hoạch để
sắp đặt các hành vi ứng xử, cho dù được thực hiện với mục đích gì đi
nữa, đều hạn chế khả năng sáng tạo trong kinh doanh. Khi đó, mọi sinh
hoạt trong đời sống kinh tế sẽ giống như những động thái của các diễn
viên đã được đạo diễn sắp đặt trong khi sự tự do, sự độc lập và tự chủ
của các doanh nghiệp trong quá trình tìm kiếm khả năng sinh tồn và phát
triển trên thương trường không được đảm bảo.
 Hai, về mặt hình thức, cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa
các doanh nghiệp. Nói cách khác, cạnh tranh suy cho cùng là
phương thức giải quyết mâu thuẫn về lợi ích tiềm năng giữa các nhà
kinh doanh với vai trò quyết định của người tiêu dùng:
Trong kinh doanh, lợi nhuận là động lực cho sự gia nhập thị trường, là
thước đo sự thành đạt và là mục đích hướng đến của các doanh nghiệp.
Kinh tế chính trị Macxít đã chỉ ra nguồn gốc của lợi nhuận là giá trị
thặng dư mà nhà tư bản tìm kiếm được trong các chu trình của quá trình
sản xuất, chuyển hoá giữa tiền – hàng.
Trong chu trình đó, khách hàng và người tiêu dùng có vai trò là đại diện
cho thị trường, quyết định giá trị thặng dư của xã hội sẽ thuộc về ai. Ở
đó mức thụ hưởng về lợi nhuận của mỗi nhà kinh doanh sẽ tỷ lệ thuận
với năng lực của bản thân họ trong việc đáp ứng nhu cầu của khách
hàng, người tiêu dùng trong xã hội.
 Ba, mục đích của các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh là cùng
tranh giành thị trường mua hoặc bán sản phẩm.
Khi xác định được các doanh nghiệp cùng trên một thị trường liên quan
mới có thể kết luận được rằng các doanh nghiệp đó là đối thủ cạnh tranh
của nhau. Khi họ có chung khách hàng hoặc đối tác để tranh giành, có
chung một nguồn lợi ích để hướng đến mới có căn nguyên nảy sinh ra sự
ganh đua giữa họ với nhau.
3/ Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường bao gồm những hình thức, loại
hình nào?
3.1/ Cạnh tranh trong nội bộ ngành và sự hình thành giá trị thị trường: (khái niệm,
mục đích, biện pháp cạnh tranh, kết quả).

- KN: Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp kinh doanh
trong cùng một ngành, cùng sản xuất một loại hàng hóa.
- Mục đích: Mục đích của cạnh tranh trong nội bộ ngành là nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch.

- Biện pháp cạnh tranh: các doanh nghiệp ra sức cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, hợp
lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động để hạ thấp giá trị cá biệt của hàng hóa, làm cho
giá trị hàng hoá của doanh nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá đó.

- Kết quả của cạnh tranh trong nội bộ ngành là hình thành giá trị thị trường (giá trị xã hội)
của từng loại hàng hoá.

 Chúng ta biết rằng, cùng một loại hàng hóa được sản xuất ra trong các doanh nghiệp
sản xuất khác nhau, do điều kiện sản xuất (điều kiện trang bị kỹ thuật, trình độ tổ
chức sản xuất, trình độ tay nghề của người lao động ...) khác nhau, cho nên hàng
hoá sản xuất ra có giá trị cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường các hàng hoá phải
bán theo một giá thống nhất, đó là giá cả thị trường. Giá cả thị trường dựa trên cơ sở
giá trị thị trường (giá trị xã hội):

3.2/ Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành lợi nhuận bình quân: (khái niệm,
mục đích, biện pháp cạnh tranh, kết quả).

- KN: Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ở
các ngành khác nhau.

- Mục đích của cạnh tranh giữa các ngành là nhằm tìm nơi đầu tư có lợi nhất.

- Biện pháp cạnh tranh là các doanh nghiệp tự do di chuyển vốn của mình từ ngành này sang
ngành khác, tức là tự phát phân phối vốn (c và v) vào các ngành sản xuất kinh doanh khác
nhau.

- Kết quả của cạnh tranh giữa các ngành là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá trị
hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất.

 Chúng ta đều biết rằng, ở các ngành sản xuất kinh doanh khác nhau, do có những
điều kiện tự nhiên, kinh tế, kỹ thuật và tổ chức quản lý khác nhau, nên tỷ suất lợi
nhuận giữa các ngành cũng khác nhau.

VD: (Trang 76 giáo trình)

4/ Tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:

4.1/ Những tác động tích cực: (Nêu VD, số liệu)


- Cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động lực thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị
trường.
- Cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt và phân bổ các nguồn lực kinh tế của xã
hội một cách tối ưu.
- Cạnh tranh kích thích tiến bộ kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, thúc đẩy
lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh.
- Cạnh tranh góp phần tạo cơ sở cho sự phân phối thu nhập lần đầu.
- Cạnh tranh tạo ra khối lượng sản phẩm đa dạng, phong phú, chất lượng tốt, giá
thành hạ, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng và xã hội.
Vd:Cổ nhân có câu: “Sống trong hoạn nạn, chết trong an lạc”. Ý chỉ, con người chỉ khi
sống trong nghịch cảnh mới có thể sinh tồn. Đồng thời trong nghịch cảnh không
những chiến thắng tâm trạng, không ngừng khắc phục khó khăn.

Không ngừng nâng cao sự tự tin, không cam chịu lạc hậu đứng sau người khác. Phải
có tinh thần ý chí kiên cường, trăm lần bẻ cũng không cong. Thì mới mãi mãi bất bại.
Ngược lại nếu không có chí tiến thủ, mọi việc chỉ muốn an nhàn, hưởng lạc. Thì ắt sẽ
không làm nên trò trống gì cả.
4.2/ Những tác động tiêu cực: (Nêu VD, số liệu)
- Cạnh tranh cũng gây ra sự ô nhiễm môi trường và mất cân bằng sinh thái.
Trong nền kinh tế thị trường, vì mục tiêu lợi nhuận, nên các chủ thể kinh tế
phải giảm chi phí sản xuất đến mức tối thiểu, do đó các chất thải do quá trình sản xuất sinh
ra không được các doanh nghiệp xử lý, gây ô nhiễm môi trường, làm thiệt hại cho người
tiêu dùng và xã hội. Hơn nữa, cũng vì mục tiêu lợi nhuận, nên các doanh nghiệp tìm mọi
thủ đoạn để tập trung khai thác bừa bãi, khai thác kiệt quệ tài nguyên, gây mất cân bằng
sinh thái, làm giảm hiệu quả của nền kinh tế.
- Trong cạnh tranh không lành mạnh, các chủ thể kinh tế thường dẫn đến những
hành vi vi phạm đạo đức kinh doanh, vi phạm pháp luật.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh không lành mạnh như các chủ thể kinh tế dùng
những thủ đoạn làm phương hại đối thủ cạnh tranh, đến người tiêu dùng và xã hội để thu
lợi nhuận cao nhất về mình. Đó là họ thường sử dụng các hành vi vi phạm đạo đức kinh
doanh, vi phạm pháp luật, làm hàng giả, hàng nhái, trốn lậu thuế, tung tin giả, ... tất cả
những hành vi đó sẽ gây thiệt hại lợi ích cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính, làm
thiệt hại lợi ích cho người tiêu dùng và xã hội.
-Cạnh tranh góp phần làm gia tăng sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội.
Trong cạnh tranh, những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trang bị kỹ thuật tiên
tiến, hiện đại, có trình độ tay nghề lao động cao, hợp lý hóa sản xuất tốt, thì sẽ có năng
suất lao động cao, có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết,
họ sẽ không ngừng mở rộng sản xuất kinh doanh và do đó sẽ có lãi cao và giàu lên nhanh
chóng. Ngược lại, những người không có điều kiện kinh doanh thuận lợi, trang bị kỹ thuật
lạc hậu, trình độ tay nghề thấp, tổ chức quản lý yếu kém, năng suất lao động thấp, hao phí
lao động cá biệt sẽ cao hơn hao phí lao động xã hội cần thiết,. Họ sẽ bị thua lỗ, phá sản và
sẽ trở thành những người nghèo khó trong xã hội.
III. Thực trạng của sự cạnh tranh trong nền kinh tế VN hiện nay:
1. Ưu điểm:
- Để thúc đẩy kinh tế phát triển và giải quyết công ăn việc làm, Nhà nước đã
từng bước nới lỏng cạnh tranh. Tuy nhiên, cho đến nay các mục tiêu phát triển
ổn định và việc làm được đặt lên trên mục tiêu hiệu quả.Nhà nước tôn trọng các
qui luật khách quan của nền kinh tế thị trường, trong đó có qui luật cạnh tranh và
hạn chế bớt tiêu cực của thị trường.
- Bước đầu Luật Cạnh tranh 2018 ( Luật Cạnh tranh 2018 được xây dựng trên cơ
sở có sự kết hợp chặt chẽ giữa tư duy kinh tế và tư duy pháp lý trong đó nhấn
mạnh mục tiêu tăng cường hiệu quả thực thi, có những điểm sửa đổi so với luật
cạnh tranh 2004) đã được triển khai thực hiện và dần đi vào cuộc sống, đặc biệt
trong bối cảnh tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn ra trên thế giới, hoạt động mua
bán, sáp nhập doanh nghiệp có xu hướng gia tăng, đặc biệt là xu hướng gia tăng
các giao dịch mua bán, sáp nhập có vốn đầu tư nước ngoài.
- Thực hiện tốt công tác giám sát thị trường, kiểm soát các hoạt động tập trung
kinh tế trên cơ sở những quy định mới về điều kiện, quy trình, thủ tục… góp
phần tạo lập môi trường kinh doanh công bằng, lành mạnh và một lần nữa khẳng
định, phát huy vai trò, chính sách mới của Luật Cạnh tranh 2018 trong quá trình
phát triển kinh tế, xã hội.
VD: - Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, khu vực DN nhỏ và vừa (DNNVV)
chiếm trên 95%, tổng số DN đăng ký, tạo ra khoảng 60% GDP, tạo ra hơn 90%
việc làm cho người lao động. Điều này khẳng định DNNVV đang là trụ cột
chính trong nền kinh tế đất nước. Xác định rõ vai trò quan trọng, những năm
qua, Việt Nam có nhiều nỗ lực hỗ trợ, tháo gỡ nhiều khó khăn, thúc đẩy khu vực
DNNVV phát triển.
- Cùng với đó, Chính phủ ban hành nhiều chính sách về ưu đãi về thuế, tín dụng
cho DN, nhất là đối với các DNNVV; tạo nguồn vốn và mặt bằng sản xuất kinh
doanh; cung cấp thông tin thị trường và xúc tiến thương mại, nâng cao năng lực
quản trị DN, đào tạo nghề cho lao động... Những động thái tích cực này này
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho DN Việt Nam nói chung và DNNVV
nói riêng.
2. Hạn chế:
Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam còn nhiều bất cập. Thể hiện:
a) Tình trạng cạnh tranh bất bình đẳng:
Cạnh tranh bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà nước với
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, giữa các doanh nghiệp trong
nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp nhà
nước được hưởng nhiều ưu đãi từ phía nhà nước như: các ưu đãi về vốn đầu tư,
thuế, vị trí địa lý, thị trường tiêu thụ,… Ngoài ra các doanh nghiệp này còn tập
trung trong tay một lượng lớn các ngành nghề quan trọng: điện, nước, than, dầu
lửa, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải…, các doanh nghiệp tư nhân không
được coi trọng. Các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động theo một qui chế riêng,
không được ưu đãi từ nhà nước. Điều này gây thiệt hại lớn về kinh tế, bởi về một
số doanh nghiệp nhà nước làm ăn hiệu quả, chây ì, trông chờ vào nhà nước gây ra
lãng phí nguồn lực xã hội, trong khi các công ty tư nhân hoạt động năng nổ và
hiệu quả hơn. Ngoài ra do những qui định không hợp lí trong hoạt động của các
doanh nghiệp nước ngoài gây nên sự e ngại về đầu tư vào nước ta của các công ty
nước ngoài sự e ngại về đầu tư vào nước ta của các công ty nước ngoài.
VD:
- Tuy nhiên, thực tế cho thấy, DN Việt Nam nói chung và cộng đồng DNNVV
nói riêng đã và đang đối mặt với nhiều vấn đề làm ảnh hưởng đến hiệu quả,
sức cạnh tranh. Báo cáo chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam công bố hàng năm cho thấy, chi phí
vay vốn ngân hàng của DNNVV thường cao hơn so với của DN lớn, khoảng
1-2%/năm; tỷ lệ chi phí không chính thức đối với DNNVV còn lớn.
- Các rào cản về thể chế, liên quan đến các vấn đề như: Thừa nhận vai trò DN tư
nhân nói chung, pháp lý tài sản, thủ tục hành chính, môi trường cạnh tranh bất
bình đẳng, chất lượng đội ngũ công vụ, tính minh bạch và trách nhiệm giải
trình của Nhà nước... là những rào cản ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh
tranh của DN.
- Mặc dù, số lượng DN tư nhân tăng hàng năm nhưng quy mô bình quân của
mỗi DN còn nhỏ. Cùng với đó, năng suất lao động thấp, chưa thực hiện đầy đủ
các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động đã làm
giảm đi chất lượng công việc trong khu vực DNNVV, do vậy, các DN này
càng rơi vào vị thế bất lợi khi cạnh tranh.
b) Hành vi cạnh tranh của các doanh nghiệp:
– Một số doanh nghiệp thông đồng câu kết với nhau nhằm tăng sức cạnh tranh
của các doanh nghiệp trong hội, để từ đó mà loại bỏ các doanh nghiệp khác bằng
cách ngăn cản không cho các doanh nghiệp khác tham gia hoạt động kinh doanh,
hạn chế việc mở rộng hoạt động, tẩy chay không cung cấp sản phẩm hoặc dịch
vụ, chèn ép các doanh nghiệp phải tham gia vào hiệp hội hoặc cho phá sản.
– Hành vi lạm dụng ưu thế của doanh nghiệp để chi phối thị trường. Hành vi này
xuất phát từ một số tổng công ty đọc quyền hoặc các công ty lớn có khả năng chi
phối thị trường. Các công ty này dựa vào thế mạnh của mình mà sử dụng các biện
pháp cạnh tranh không lành mạnh để loại trừ đối thủ cạnh tranh, thao túng thị
trường. Với sức mạnh độc quyền các công ty áp đặt giá cả độc quyền, độc quyền
mua thì mua với giá thấp, độc quyền bán thì bán với giá cao để thu lợi nhuận siêu
ngạch, hoặc để loại trừ đối thủ cạnh tranh họ có thể hạ giá bán xuống thấp hơn so
với chi phí sản xuất.
– Sáp nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp
Việc thành lập các tổng công ty hoặc liên doanh là việc sáp nhập các công ty
thành viên lại với nhau, việc này diễn ra theo quyết định của nhà nước. Các công
ty sáp nhập hay liên doanh với nhau làm tăng mức độ tích tụ hay tập trung của thị
trường. Các công ty liên doanh sáp nhập hay hợp nhất với nhau đều làm cho thị
trường tập trung hơn, giảm bớt đối thủ cạnh tranh tăng khả năng chi phối độc
quyền thị trường của các tổng công ty hay các liên doanh, làm triệt tiêu cạnh
tranh trong kinh doanh.

– Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Hiện nay nước ta chưa có khung pháp lí hoàn chỉnh cho cạnh tranh nên việc xác
định, xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là khó khăn. Điều đó tạo
điều kiện cho các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngày càng phát triển
mạnh. Một số hành vi cạnh tranh khong lành mạnh như:
Nạn hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng được tung ra thị trường. Việc
hàng giả, hàng nhái bán trên thị trường sẽ gây thiệt hại cho người tiêu dùng, làm
giảm uy tín của các công ty làm ăn chân chính có sản phẩm bị làm nhái.
c. Độc quyền của một số tổng công ty:
Một số tổng công ty với thế mạnh về kinh tế của mình đã kiến nghị với chính phủ
thực hiện chính sách bảo hộ ngăn cản nhập khẩu, chính sách bao cấp, lãi suất ưu
đãi để duy trì vị thế độc quyền của mình. Nhiều tổng công ty đã lợi dụng sức
mạnh tài chính, những ưu đãi đặc quyền của mình và đưa ra những quy định bất
lợi cho các đối thủ cạnh tranh nhằm loại bỏ các đối thủ cạnh tranh.
VD: Việc thành lập các tổng công ty 90 – 91 được coi là có ý nghĩa quan trọng
đối với nền kinh tế trong phạm vi cả nước hoặc bộ ngành, địa phương. Các tổng
công ty này là tập hợp các doanh nghiệp Nhà nước sản xuất cùng loại sản phẩm
lại với nhau, việc làm này nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt
Nam trên trường quốc tế.
Thực tế, cho thấy rằng việc các tổng công ty 90, 91 ra đời đã gây cản trở cho môi
trường cạnh tranh mà các tổng công ty đó hoạt động. Tạo ra sự cạnh tranh bất
bình đẳng giữa tổng công ty và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác trong
cùng một lĩnh vực.
d. Độc quyền tự nhiên trong các ngành kết cấu hạ tầng:
Độc quyền tự nhiên tồn tại trong những ngành kết cấu hạ tầng đòi hỏi vốn đầu tư
lớn mà lợi nhuận đem lại chậm và không đáng kể. Ngoài ra độc quyền tự nhiên
còn tồn tại trong những ngành kinh tế quan trọng, ảnh hưởng mạnh mẽ đến chiến
lược phát triển kinh tế của đất nước như: Điện, nước, dầu khí, đặc biệt này chỉ có
một hoặc một vài doanh nghiệp Nhà nước được phép hoạt động. Các doanh
nghiệp này kinh doanh theo mô hình khép kín theo chiều dọc vừa thực hiện các
khâu đầu vừa thực hiện các khâu cuối. Do hình thức hoạt động như vậy nên hạn
chế cạnh tranh hay dường như không có đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Do
vậy các tổng công ty có thể đưa ra những mức giá chung cao hơn so với mức giá
thực tế của sản phẩm để thu được lợi nhuận siêu ngạch cao. Điều này làm cho
người tiêu dùng mất nhiều chi phí hơn để sử dụng các hàng hoá dịch vụ trong khi
chất lượng không tương xứng.
Thí dụ: giá điện ở Việt Nam là 0,07USD/kwh so với Thái Lan là 0,04 USD, phí
vận hành, cảng đối với 1 vạn tấn ở cảng Sài Gòn là 40.000USD, cảng Bangkok là
20.000USD, cước viễn thông từ Hà Nội gọi đến Tokyo hết 7,92USD/3phút, từ
Bangkok hết 2,48USD.
IV. Kết luận:
1. Quan điểm của nhóm về vấn đề trên:
Những phương hướng hoàn thiện mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh mới cho
Việt Nam là phù hợp với những quan điểm định hướng phát triển chung hiện
nay với nhiều chuyển biến tích cực: Chặng đường 11 năm thực hiện Cuộc vận
động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” đã tạo được sự chuyển
biến tích cực. Đặc biệt, đầu năm 2020, dịch COVID-19 lan rộng trên toàn cầu,
nhiều doanh nghiệp bị đứt gãy thị trường xuất khẩu và nguồn nguyên liệu, các
đơn hàng bị ngừng trệ. Song với quy mô gần 100 triệu dân, thị trường nội địa đã
trở thành bệ đỡ cho doanh nghiệp khai thác, vượt qua khó khăn, đưa kinh tế tăng
trưởng.Sau 11 năm triển khai thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu
tiên dùng hàng Việt Nam” tới nay, hàng Việt tại các hệ thống siêu thị trong
nước luôn đạt tỷ lệ từ 90% trở lên. Đã tạo được sự chuyển biến tích cực ở cả
người tiêu dùng lẫn người sản xuất, tăng năng lực cạnh tranh của DN nước nhà.
Nhà nước tôn trọng các qui luật khách quan của nền kinh tế thị trường, trong đó
có qui luật cạnh tranh và hạn chế bớt tiêu cực của thị trường. Tuy nhiên hiện nay
việc nhận thức về cạnh tranh và độc quyền kinh doanh ở nước ta chưa nhất
quán, chưa nhận thấy vai trò quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế, vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước nên chưa có quan điểm dứt khoát về ủng hộ cạnh
tranh lành mạnh và chống độc quyền trong kinh doanh. Nhà nước chưa có
những qui định cụ thể, những cơ quan chuyên trách theo dõi giám sát các hành
vi liên quan đến cạnh tranh và độc quyền. Bên cạnh đó tư tưởng chưa coi trọng
khu vực kinh tế tư nhân và việc thành lập hàng loạt các tổng công ty 90, 91 cũng
ảnh hưởng không tốt đến môi trường cạnh tranh. Do những tồn tại đấy mà thực
trạng cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam còn nhiều bất cập
Trắc nghiệm (10 câu): (Làm giúp tôi :D )

You might also like