Đề cương lsđ

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 22

1.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
2. Đảng ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lenin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước? Đưa phong trào yêu nước vào có ảnh hưởng đến bản chất
giai cấp công nhân không,vì sao?
3. Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược 1939-1945. Ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám
4. CMT8 là kết quả quá trình lãnh đạo chỉ đạo của Đảng? Phê phán quan điểm cho rằng
CMT8 là ăn may.
5. Đường lối kháng chiến chống Pháp? Ý nghĩa thắng lợi kháng chiến chống Pháp.
6. Chứng minh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất
đúng (trái quan điểm Bắc Âu?). Nội dung đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
Miền Bắc (đặc điểm, đường lối, thành tựu).
7. Ý nghĩa thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Miền Nam.
8. Làm rõ tính độc lập, tự chủ, sáng tạo thể hiện qua đường lối tiến hành đồng thời hai
chiến lược cách mạng được Đại hội 3 của Đảng đề ra.
9. Đặc điểm cả nước khi bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nội dung
đường lối chung cách mạng cả nước được Đại hội IV thông qua.
10. Làm rõ yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới (chứng minh đổi mới là khách
quan). Nội dung đường lối đổi mới được Đại hội VI thông qua.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
a. Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng
Hơn 7 thập kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã vượt
qua một chặng đường đấu tranh cách mạng cực kỳ khó khăn, gian khổ nhưng đã giành
được những thắng lợi rất vẻ vang:
Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã mở ra một kỷ
nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm, tổng kết sáng kiến của nhân dân, Đảng ta đã
đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc phù hợp với thực tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế mới.
Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển kinh tế theo con đường xã
hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực
và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm
chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Những thắng lợi đó bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó nhân tố hàng đầu quyết định là
sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng ta- Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện - một Đảng cách mạng thực sự vì nước, vì dân, ngoài
lợi ích đó Đảng không có lợi ích nào khác. Giành độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc
cho nhân dân là mục tiêu lý tưởng của Đảng. Vì vậy, vượt lên mọi thách thức, trong
phong ba bão táp, Đảng ta vẫn kiên định vững vàng không xa rời mục tiêu lý tưởng,
không run sợ trước kẻ thù, không nhụt chí trước những khó khăn chồng chất, không hạ
thấp vị trí tiên phong chiến đấu và trách nhiệm của người lãnh đạo, người tổ chức mọi
thắng lợi của cách mạng, một lòng một dạ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
b. Đường lối cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Đảng - nhân tố hàng đầu bảo đảm
vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
Đảng lãnh đạo trước hết và chủ yếu bằng cương lĩnh, đường lối, bằng chủ trương, chính
sách của Đảng. Đường lối chính trị đúng là cơ sở để đoàn kết thống nhất ý chí và hành
động của toàn Đảng, toàn dân, tạo nên sức mạnh của Đảng và của cách mạng.
Đường lối chính trị đúng đắn nghĩa là đường lối đó phải phản ánh được xu thế vận động
của lịch sử, đồng thời phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chân chính của đa số nhân dân.
Sức mạnh của Đảng chính là sự đồng tình ủng hộ của nhân dân, mà sự đồng tình và tin
cậy của nhân dân đối với Đảng trước hết nhờ có đường lối đúng đắn của Đảng.
Đường lối cách mạng của Đảng có vai trò to lớn trong việc thống nhất về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, củng cố niềm tin vào Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi những khuynh hướng
sai lầm về chính trị và tư tưởng làm cho Đảng ngày càng vững mạnh.
Sở dĩ Đảng ta có đường lối chính trị đúng đắn vì: Đảng có một nền tảng lý luận vững
chắc, một lý luận tiên phong dẫn đường, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh như Lênin đã nói: "Không có lý luận cách mạng không có phong trào cách mạng..."
Chỉ Đảng nào có được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn
vai trò chiến sĩ tiên phong. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã nắm
vững, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn
của cách mạng Việt Nam để đề ra đường lối đúng đắn phù hợp với sự phát triển của lịch
sử, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Hơn thế nữa, Đảng ta luôn quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng là sáng tạo, chân lý là
cụ thể. Vì vậy, trong lãnh đạo Đảng ta luôn ý thức vận dụng một cách độc lập, sáng tạo
vào thực tiễn Việt Nam. Một trong những bài học được Đảng ta rút ra là phải luôn luôn
xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tế, kết hợp nhuần nhuyễn sự kiên định về nguyên
tắc với sự linh hoạt, sáng tạo về phương pháp, đó là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng. Mọi sự giáo điều, chủ quan duy ý chí, xa rời thực tiễn cũng như xa rời các
nguyên tắc, mục tiêu cơ bản của cách mạng thì sẽ dẫn đến nguy cơ sai lầm, làm mất sự
lãnh đạo của Đảng.
Để đảm bảo vai trò lãnh đạo của mình, Đảng luôn quan tâm tới việc xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên của Đảng có phẩm chất, đạo đức cách mạng và năng lực công tác, thật
sự là những chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân.
Mỗi đảng viên của Đảng phải luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và bảo vệ lợi
ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, trung thành với lợi ích của giai cấp và của dân
tộc, một đời hy sinh phấn đấu vì lý tưởng của cách mạng và lợi ích của nhân dân.
Để giữ vững vai trò lãnh đạo, phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, lấy tự phê bình và phê bình làm vũ khí đấu
tranh để làm cho Đảng ngày càng vững mạnh. Đồng thời, luôn củng cố, giữ vững và tăng
cường sự đoàn kết trong Đảng, đảm bảo sự nhất trí cao về mục tiêu lý tưởng của Đảng,
để làm cho Đảng ngày càng vững mạnh, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Trong quá trình lãnh
đạo, bên cạnh những ưu điểm, trong Đảng cũng còn những yếu kém, thậm chí có lúc sai
lầm, khuyết điểm, song điều quan trọng, Đảng đã sớm phát hiện ra những yếu kém của
mình. Đảng công khai tự phê bình nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa
và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng vẫn được nhân dân tin yêu, thừa nhận là đội tiên
phong chính trị, người lãnh đạo duy nhất của dân tộc. Thực tiễn lịch sử đã khẳng định
rằng: ở nước ta, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, không có lực lượng nào khác có đủ sức
mạnh lãnh đạo cách mạng. Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta
vẫn có quyền tự hào nói rằng: Đảng ta thật vĩ đại.
Học tập, nghiên cứu để hiểu biết về quá trình đấu tranh cách mạng và truyền thống của
Đảng không phải chỉ để tự hào về Đảng, mà quan trọng hơn là thanh niên cần nâng cao
hơn nữa niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, ra sức phấn đấu thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, để công cuộc đổi mới giành thắng lợi to lớn hơn. Trên những vị trí
công tác, lao động và học tập của mình, thanh niên phải góp phần tích cực vào công tác
xây dựng, bảo vệ Đảng, góp phần làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh; ra
sức học tập, rèn luyện phấn đấu để trở thành những đảng viên của Đảng, đem tài năng và
sức trẻ cống hiến cho sự nghiệp của Đảng, làm cho những thành tựu và truyền thống của
Đảng ngày càng phát triển và phong phú hơn.
2. Đảng ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lenin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước? Đưa phong trào yêu nước vào có ảnh hưởng đến
bản chất giai cấp công nhân không,vì sao?
a. Đảng ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lenin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước
Xuất phát từ những luận điểm của Mác và Ăng-ghen về đảng vô sản, Lênin đã phát triển
hoàn chỉnh học thuyết về đảng cộng sản, trong đó bao gồm lý luận cơ bản về sự ra đời
của đảng cộng sản: đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa
học và phong trào công nhân; lý luận này dựa trên ba căn cứ, phản ánh quá trình phát
triển khách quan của xã hội:
_ Đảng cộng sản xuất hiện trên cơ sở phong trào công nhân: Đảng cộng sản chỉ xuất hiện
trong những điều kiện lịch sử nhất định dưới sự tác động của những quy luật khách quan
của xã hội, cụ thể là tác động của những quy luật tư bản chủ nghĩa. Những quy luật khách
quan này đã tạo ra những nhân tố chủ quân nhằm thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa bằng
chế độ xã hội mới cao hơn. Nhân tố chủ quan đó trước hết là giai cấp công nhân có giác
ngộ và được tổ chức lại, đủ khả nang để lật đổ chế độ tư bản và xây dựng xã hội cộng sản
chủ nghĩa.
_ Muốn cho đảng cộng sản có thể ra đời, cần phải có sự tồn tại của học thuyết Mác –
Lênin: Theo Lênin, phong trào công nhân không thể thắng lợi nếu như không có lý luận
cách mạng khoa học. Học thuyết Mác-xít xuất hiện bên ngoài phong trào tự phát của
công nhân, mặt khác nó đã ra đời như là kết quả phá triển khách quan và tất yếu của tư
tưởng cách mạng. Nó đã xuất hiện từ cơ sở tư tưởng và khoa học, được vun đắp bởi các
nhà đại diện của giới trí thức cách mạng. Theo V. Lênin với Tuyên ngôn của đảng cộng
sản, chủ nghĩa Mác đã trở thành thế giới quan hoàn chỉnh của giai cấp công nhân.
_ Đảng cộng sản ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và
phong trào công nhân: Sự kết hợp giữa lý luận cách mạng khoa học và phong trào công
nhân là một quá trình tất yếu của việc thành lập đảng. Từ giai cấp công nhân, đã xuất hiện
đội tiên phong của mình; những phần tử tiên tiến này tập hợp thành tổ chức chính trị,
thành đảng cộng sản.
Các đảng cộng sản trên thế giới ra đời trên cơ sở kết hợp của 2 yếu tố: chủ nghĩa mac-
lênin và phong trào công nhân nhưng đảng cộng sản việt nam thì lại co 3 yếu tố đó là
thêm phong trào yêu nước. Vậy thì điều gì tạo nên sự khác biệt giữa đảng cộng sản việt
nam và các đảng cộng sản ở các nước khác?
Đó là do tình hình, đặc điểm Việt Nam khác với các nước khác. Người dân Việt Nam yêu
nước nên ngay khi Pháp xâm lược nhân dân Việt Nma ko ngừng đứng lên đấu tranh vì
tinh thần yêu nước, trong đó có rất nhiều phong trào tiêu biểu: phong trào cần vương,
phong trào nông dân yên thế, con đuờng cứu nước của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,
khởi nghĩa yên bái...... tất cả những phong trào đó đều là phong trào yêu nước. Đặc biệt
đại diện cho tinh thần yêu nước rõ nhất là của Nguyễn Ái Quốc, chính người đã có ý
tưởng ra đi tìm đường cứu nước cho dân tộc chỉ vì xuất phát từ lòng yêu nước, ko muốn
dân tộc mãi nằm trong kiếp lầm than. Và từ tinh thần yêu nước người đã tìm thấy con
đường cứu nước, con đường chủ nghĩa mác le nin - cách mạng tháng 10 nga. Người đã
tìm mọi cách để truyền chủ nghĩa ấy vào trong nước. Qua một khoảng thời gian dài nỗ
lực truyền bá, chủ nghĩa mác len nin ở nước ta đã hài hòa cùng phong trào yêu nước và đi
sâu vào phong trào công nhân. Xuất phát từ yêu cầu đó, 3 tổ chức cộng sản: Đông Dương
Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đã ra đời,
sau hợp nhất lại thành một tổ chức là Đảng Cộng sản Việt Nam
Vậy Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra đời trên cơ sở của phong trào yêu nước + chủ nghĩa
mác le nin + phong trào công nhân.
b. Đưa phong trào yêu nước vào có ảnh hưởng đến bản chất giai cấp công nhân không
 Lý do đưa PTYN vào PTCN
Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lenin khi đưa PTYN trở thành
một trong ba yếu tố kết hợp dẫn đến việc hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Lý do
Người đưa PTYN vào là vì:
_ Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn trong lịch sử Viêt Nam có vai trò rất
lớn và là nhân tố chủ đạo quyết định thắng lợi của sự nghiệp chống giặc ngoại xâm của
dân tộc ta. Ở Việt Nam, phong trào yêu nước có trước phong trào công nhân.
_ Khi giai cấp công nhân ra đời và có phong trào đấu tranh thì phong trào yêu nước
không bài xích mà kết hợp được ngay với phong trào công nhân. Cơ sở của sự kết hợp ấy
là do ở nước ta tồn tại mâu thuẫn cơ bản giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với bọn đế
quốc và tay sai. Chính vì thế, các phong trào đều có yêu cầu chung, mục tiêu chung.
_ Đầu thế kỷ 20, nông dân Việt Nam chiếm khoảng 95% dân số. Phong trào đấu tranh
của nông dân chống ngoại xâm và bè lũ tay sai đã có một bề dày truyền thống. Do điều
kiện lịch sử chi phối, đến những năm 20 và 30, ở Việt Nam không có công nhân nhiều
đời, công nhân Việt Nam xuất thân chủ yếu trực tiếp từ những nông dân không có ruộng
=> Giai cấp nông dân Việt Nam là bạn đồng minh tự nhiên với giai cấp công nhân.
_ Phong trào yêu nước Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ 20 ghi dấu ấn to lớn bởi vai
trò của tầng lớp trí thức. Hàng loạt các tổ chức yêu nước ra đời trong những năm 20 mà
thành viên và cả những người lãnh đạo đều là trí thức. Họ mang một bầu nhiệt huyết yêu
nước, thương nòi, căm thù bọn cướp nước và bọn bán nước. Nhạy cảm với thời cuộc, họ
đón nhận những luồng gió mới, cả những ảnh hưởng của các trào lưu dân chủ tư sản, cả
tư tưởng XHCN qua các sách báo.
 Ảnh hưởng hay không
Đảng là kết quả kết hợp CNMLN-PTCN-PTYN nhưng Đảng không phải là toàn bộ giai
cấp công nhân, toàn bộ nhân dân, toàn bộ dân tộc mà chỉ là đội tiền phong của giai cấp
CN, của ND và DT. Hồ Chí Minh đã có những phát kiến sáng tạo, phản ánh mối quan hệ
biện chứng giữa bản chất giai cấp công nhân với tính dân tộc và tính nhân dân của Đảng
nhưng không xóa nhòa ranh giới giữa giai cấp hay bản chất của Đảng. Và dù tất cả giai
cấp trong xã hội đều hướng đến mục tiêu chung là giải phóng dân tộc nhưng giai cấp
công nhân vẫn là giai cấp lãnh đạo cách mạng, đội tiên phong của toàn dân tộc.

3. Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược 1939-1945. Ý nghĩa của Cách mạng Tháng
Tám
a. Chuyển hướng chỉ đạo chiến lược 1939-45
 Trang 58 trở đi
 Hoàn cảnh lịch sử:
Trong nước :
_ Ngày 28-9-1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm cộng sản, đóng cửa các tờ
báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đông người.
_ Thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất tàn bạo, thủ tiêu quyền tự do, dân chủ
giành được trong thời kỳ 1936-1939…
_ Lợi dụng Pháp đầu hàng Đức, ngày 22-9-1940 phát xít Nhật tấn công Lạng Sơn rồi đổ
bộ vào Hải Phòng.
_ Ngày 23-9-1940, Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật.
_ Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc, phát xít Pháp – Nhật trở nên gay gắt hơn bao
giờ hết.
Thế giới: Tháng 9-1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chính phủ Pháp thi hành
biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa.
Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ. Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.
Tháng 6-1940, Chính phủ Pháp đầu hàng Đức.
 Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:
_ Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược được từng bước hoàn chỉnh qua ba hội
nghị:
+ Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 6 (11-1939) mở đầu sự chuyển
hướng.
+ Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 7 (11-1940) tiếp tục bổ sung nội
dung chuyển hướng
+ Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (5-1941)hoàn chỉnh nội dung
chuyển hướng.
- Nội dung cơ bản chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:
+ Đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu: mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi
được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phát xít Pháp-
Nhật. Ban Chấp hành Trung ương quyết định tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia
ruộng đất cho dân cày” bằng khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian
chia cho dân cày nghèo”, “Chia lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô, giảm
tức”…
+ Thành lập Việt Nam Độc lập đồng minh (còn gọi là Việt Minh) để đoàn kết, tập hợp
lực lượng cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc thay cho hình thức mặt trận trước
đó; đổi tên các hội phản đế thành hội cứu quốc
+ Xác định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và
nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại; ra sức phát triển lực lượng cách mạng (bao gồm lực
lượng chính trị và lực lượng vũ trang), xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng.
+ Xác định phương châm và hình thái khởi nghĩa ở nước ta: lãnh đạo cuộc khởi nghĩa
từng phần trong từng địa phương giành thắng lợi mở đường cho một cuộc tổng khởi
nghĩa to lớn.
+ Chú trọng công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của
Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ cho cách mạng và đẩy mạnh công tác
vận động quần chúng.
=> Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, nhận thức nhiệm vụ giải phóng dân
tộc lên cao hơn hết thảy, tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước trong Mặt trận
Việt Minh, xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng ở cả nông thôn và thành thị, xây
dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, nâng cao hơn nữa năng lực tổ chức và
lãnh đạo của Đảng là tinh thần chung của quá trình chuyển hướng chỉ đạo chiến lược.
 Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:
- Quá trình chuyển hướng chỉ đạo chiến lược được hoàn chỉnh góp phần giải quyết mục
tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc, đưa đến những chủ trương, sự
chỉ đạo đúng đắn để thực hiện mục tiêu đó.
- Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược giúp cho nhân dân ta có đường hướng đúng để tiến
lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự
do cho nhân dân.
- Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng giúp công tác chuẩn bị giành độc lập dân
tộc diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương trong cả nước, cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ
phong trào cách mạng của quần chúng vùng lên đấu tranh giành chính quyền.
+ Lực lượng cách mạng đã tích cực xây dựng các tổ chức cứu quốc của quần chúng, đẩy
nhanh việc phát triển lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh của quần chúng.
+ Đảng đã chỉ đạo việc vũ trang cho quần chúng cách mạng, từng bước xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân làm cơ sở đưa tới sự ra đời của Việt Nam Giải phóng quân sau
này.
+ Đảng Cộng sản Đông Dương cũng chỉ đạo việc lập các chiến khu và căn cứ địa cách
mạng, tiêu biểu là căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai và căn cứ Cao Bằng.
b. Ý nghĩa CMT8
Cuối trang 80 trở đi
4. CMT8 là kết quả quá trình lãnh đạo chỉ đạo của Đảng? Phê phán quan điểm cho
rằng CMT8 là ăn may.
a. CMT8 là kết quả qt lãnh đạo của Đảng
Chủ trương của Đảng: Coi trọng công tác xd đảng; Chỉ thị Pháp – Nhật bắn nhau, xác
định Nhật là kẻ thù của CMVN; Phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong 15
ngày (Xem trang 200 và ~ trang 75)
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám có nhiều nguyên nhân, trong đó nhân tố hàng đầu
là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sự lãnh đạo đó trước hết là sự
hoạch định đúng đắn Cương lĩnh, đường lối cách mạng. Ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh trở về nước. Người đã cùng Trung ương Đảng phát triển, bổ
sung đường lối giải phóng dân tộc, được nêu bật tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-
1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt quyền lợi của
bộ phận, của giai cấp dưới lợi ích và sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Tập hợp, đoàn kết
rộng rãi toàn dân tộc, phát triển lực lượng chính trị trong Mặt trận Việt Minh, từ đó xây
dựng, phát triển lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng. Đi từ khởi nghĩa từng phần
đến Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, xây dựng Nhà nước cộng hòa dân chủ Việt
Nam. Chú trọng phát triển tình thế cách mạng và nắm bắt thời cơ. Xây dựng Đảng vững
mạnh bảo đảm sự thống nhất nhận thức và hành động trong toàn Đảng. Nội dung cơ bản
đó của đường lối tiếp tục được phát triển sáng tạo, cụ thể hóa tại Hội nghị Thường vụ
Trung ương (2-1943), Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đ.C.S.Đ.D Nhật - Pháp
bắn nhau và hành động của chúng ta” (12-3-1945) và nhất là Hội nghị toàn quốc của
Đảng ở Tân Trào - Tuyên Quang (14 - 15-8-1945). Đường lối cách mạng đúng đắn đã
dẫn dắt phong trào cách mạng của toàn dân tộc phát triển mạnh mẽ bảo đảm đi đến thắng
lợi.
Thứ hai, Đảng biết coi trọng phát triển lực lượng, chủ động nắm bắt thời cơ, dự đoán
được tình hình, biết địch, biết ta trăm trận trăm thắng và quan trọng là Đảng và Bác Hồ
biết tập hợp được khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong nhân dân cả nước. Khi biết cao
trào kháng Nhật cứu nước dấy lên thành cao trào trong cả nước và dự đoán Nhật sẽ hất
cẳng Pháp khỏi Đông Dương để tranh dành quyền lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi
toàn dân “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng
dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Hồ Chí Minh cùng các nhà lãnh đạo Trường
Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng phân tích sâu sắc tình
hình trong nước và chiến tranh thế giới thứ II để đi đến khẳng định: “Lúc này thời cơ
thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên
quyết giành cho được độc lập”.
Lúc đó, Quân Nhật ở Đông Dương rệu rã. Chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim hoang
mang. Ngày 13/8/1945 TƯ Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập UB khởi nghĩa toàn quốc, ra
quân lệnh số 1, chính thức phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước Chiều ngày
16/8/1945 một đơn vị quân giải phóng do Võ Nguyên Giáp chỉ huy từ Tân Trào tiến về
giải phóng thị xã Thái Nguyên mở đầu cho CM tháng tám. Từ 14 đến 18/8/1945 có 4 tỉnh
giành được chính quyền: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh và Quảng Nam. Ngày
19/8/1945 Hà Nội giành được chính quyền. Ngày 23/8 ta giành chính quyền ở Huế. Ngày
25/8 ta giành chính quyền ở Sài Gòn. Ngày 28/8 hầu hết các địa phương trong cả nước
giành được chính quyền. Như vậy, chỉ trong vòng 15 ngày (từ 14/8 đến 28/8/1945) tổng
khởi nghĩa tháng Tám đã thành công trong cả nước. Lần đầu tiên trong cả nước chính
quyền về tay nhân dân. Ngày 30/8 vua Bảo Đại thoái vị. Ngày 2/9/1945 tại quảng trường
Ba Đình chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập
khai sinh nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.
Việc giành chính quyền thành công trọn vẹn trong nửa cuối tháng 8-1945 là mẫu mực
tuyệt vời về nghệ thuật chớp thời cơ và do đó đã ngăn chặn được nguy cơ mới đe dọa vận
mệnh của dân tộc. Chính sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Trung ương có ý nghĩa
quyết định toàn cục, đồng thời cần phải nhấn mạnh tới tính chủ động, sáng tạo, tinh thần
trách nhiệm cao của đảng bộ các địa phương, của những cán bộ, đảng viên tiêu biểu. Chỉ
với gần 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo hơn 20 triệu đồng bào cả nước làm nên chiến
công có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Lịch sử mãi mãi ghi công những cán bộ, đảng viên
kiên trung cùng sự hy sinh, chiến đấu của toàn dân. Sự vùng dậy của cả một dân tộc vì
độc lập, tự do với những người cộng sản dẫn đầu mãi mãi là hình tượng cao đẹp của cuộc
Cách mạng Tháng Tám.
b. Phê phán quan điểm CMT8 là ăn may
Thực tế lịch sử cho thấy không bao giờ có sự ăn may nào cả, thắng lợi của Cách mạng
tháng Tám là kết quả tất yếu từ sự chủ động, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và
lãnh tụ Hồ Chí Minh.
_ Kể từ mùa Xuân năm 1930, sau hơn 9 năm ra đời, mặc dù có những giai đoạn cách
mạng Việt Nam phải trải qua những khó khăn, thách thức khó lường, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã từng bước khẳng định uy tín, sức ảnh hưởng và năng lực lãnh đạo của một
chính đảng cách mạng.
_ Về tình hình quốc tế, khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai đến giai đoạn kết thúc, các
nước đồng minh đã giải quyết vấn đề Đông Dương trên cơ sở lợi ích của mình mà không
tính tới nguyện vọng và đóng góp của nhân dân nơi đây trong cuộc đấu tranh chung
chống chủ nghĩa phát xít. Từ đó, số phận của Việt Nam và Đông Dương đã bị chúng định
đoạt theo kiểu áp đặt, có tính chất thỏa thuận lợi ích. Danh nghĩa là “đồng minh giải giáp
quân Nhật” nhưng bản chất là “thực hiện lợi ích đã được thương lượng” giữa các nước
thắng trận. Cho nên, “thời đoạn vàng” để chúng ta thay đổi số phận là từ khi Nhật đầu
hàng đồng minh đến trước khi quân đồng minh vào Đông Dương tước khí giới của Nhật.
Nếu bỏ qua thời đoạn này, thì “chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp
ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
_ Giữa lúc lực lượng cách mạng và phản cách mạng, giữa dân tộc ta và bọn Anh, Mỹ,
Tưởng, Pháp đang diễn ra cuộc chạy đua giành lấy quyền làm chủ Việt Nam và Đông
Dương từ tay Nhật thì chúng ta nhờ đã tích cực chuẩn bị từ trước về mọi mặt, luôn trong
tư thế sẵn sàng tổng khởi nghĩa, bám sát tình hình để chớp thời cơ. Do vậy, chỉ trong
vòng hai tuần lễ, chúng ta đã lật ngược được tình thế, thay đổi số phận từng bị Pháp, Nhật
thống trị và các nước thắng trận trong thế chiến thứ hai đã “an bài”, thành một nước độc
lập, có chủ quyền; đồng thời, chúng ta cũng làm cho nhân dân thế giới thấy rằng, “nhân
dân Việt Nam không phải chỉ riêng mình mà chiến đấu mà còn vì hoà bình, dân chủ và
độc lập trên thế giới mà chiến đấu”.
Nếu đặt cuộc Cách mạng tháng 8/1945 của Việt Nam trong bối cảnh khu vực, thế giới lúc
bấy giờ và trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam, chúng ta càng thấy sự vĩ đại, càng
khâm phục tài năng, tính sáng tạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và sức
mạnh đại đoàn kết, ý chí quyết tâm của cả dân tộc Việt Nam được kết tinh từ mấy ngàn
năm văn hiến. Với nhận thức ấy, chúng ta có đầy đủ cơ sở lịch sử khách quan để khẳng
định rằng, thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam không thể là
“một sự ăn may”.
5. Đường lối kháng chiến chống Pháp? Ý nghĩa thắng lợi kháng chiến chống Pháp.
a. Đường lối kháng chiến chống Pháp
Xem Lãnh đạo xây dựng và bảo vệ chính quyền, chuẩn bị kháng chiến trong cả nước
(1945-1946) trang 84; Lãnh đạo toàn quốc kháng chiến (1946-1950) trang 93; Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Đảng lãnh đạo đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến
thắng lợi (1951-1954) trang 101
b. Ý nghĩa thắng lợi kháng chiến chống Pháp
Cuối trang 110 trở đi
6. Chứng minh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy
nhất đúng (trái quan điểm Bắc Âu?). Nội dung đường lối cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở Miền Bắc (đặc điểm, đường lối, thành tựu).
a. Chứng minh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất
đúng
Vào những năm đầu của thế kỷ XX, nước ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối
cứu nước và giải phóng dân tộc. Chính trong điều kiện đó, Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí
Minh đã ra đi tìm đường cứu nước. Sau khi bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, Người tìm
thấy cơ sở lý luận chắc chắn cho con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Đó là con
đường cách mạng vô sản. Bác Hồ khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức: "Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát
triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn". "Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản". Tư tưởng đó đã được Đảng ta khẳng định, được cả dân tộc hưởng ứng và đi theo.
Đó là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam.
Sự lựa chọn này dựa trên cơ sở:
_ Chỉ có chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa cộng sản mới triệt để giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, đem lại
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, đem lại vị trí làm chủ chân chính cho người lao động.
Chủ nghĩa xã hội xóa bỏ triệt để chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất, là nguồn gốc sinh ra tình trạng người bóc lột người, xác lập chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất chủ yếu, cơ sở kinh tế đảm bảo cho nhân dân lao động thoát khỏi đói
nghèo, hướng tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, tạo điều kiện giải phóng và phát triển con người toàn diện. Độc lập dân tộc là điều
kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững
chắc cho độc lập dân tộc.
_ Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi mở ra một thời đại
mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Tính tất yếu của thời đại mới đã tạo khả năng và điều kiện để các dân tộc đi lên chủ nghĩa
xã hội, đem lại những nhận thức mới trong quan niệm và giải pháp giải quyết vấn đề giải
phóng dân tộc một cách triệt để.
_ Sức mạnh và thành tựu của chủ nghĩa xã hội, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa
đã thức tỉnh nhân loại, tạo khả năng đoàn kết các dân tộc để giữ gìn hòa bình, đẩy lùi
nguy cơ chiến tranh huỷ diệt, buộc chủ nghĩa tư bản phải điều chỉnh chính sách có lợi cho
người lao động; tạo khả năng hiện thực cho các nước lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội.
_ Trong hơn 7 thập kỷ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
đã đạt thành tựu quan trọng: Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất
với quy mô và trình độ hiện đại, đảm bảo ngày càng tốt hơn về vật chất và tinh thần của
nhân dân. Từ một nước Nga nghèo nàn và lạc hậu, sau một thời gian xây dựng đã trở
thành một cường quốc của thế giới, đạt được bước tiến lớn trong nghiên cứu khoa học,
chinh phục vũ trụ, có tiềm lực quân sự và quốc phòng hùng mạnh… tạo điều kiện cho
phong trào giải phóng dân tộc phát triển. Hàng trăm nước đã giành được độc lập dân tộc
góp phần quyết định vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới và hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đã
khẳng định tính đúng đắn của sự lựa chọn đó.
Nhưng lịch sử loài người đã không đi theo con đường thẳng tắp và phong trào cách mạng
cũng không tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm, thậm chí có những thất bại hoặc thoái trào.
Nhưng quan trọng hơn là từ trong sai lầm, khuyết điểm đó, tìm ra những nguyên nhân, rút
kinh nghiệm để đưa phong trào cách mạng tiến lên. Đó mới là một thái độ nghiêm túc,
đúng mực.
Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ do nhiều nguyên nhân
mà nguyên nhân trực tiếp là Đảng Cộng sản phạm những sai lầm nghiêm trọng về đường
lối chính trị, tư tưởng và tổ chức bắt đầu từ sự phản bội của người lãnh đạo chủ chốt; chủ
nghĩa đế quốc can thiệp vừa tinh vi, vừa trắng trợn, thực hiện "diễn biến hòa bình" ở Liên
Xô và các nước Đông Âu. Sự đổ vỡ đó không có nghĩa là sự sụp đổ của học thuyết về
chủ nghĩa xã hội, không phải là sự sụp đổ của phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới, bởi vì
hiện nay một số nước xã hội chủ nghĩa vẫn đang tiếp tục đứng vững và phát triển. Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ: "Lịch sử thế giới đang
trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa
xã hội vì đó là qui luật tiến hóa của lịch sử".
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bên cạnh những thành tựu, chúng ta
cũng còn có khuyết điểm, yếu kém, những vấp váp sai lầm. Đảng ta đã sớm nhận thức ra
những thiếu sót, khuyết điểm và tự nhận khuyết điểm trước nhân dân, đã sửa chữa và sửa
chữa có kết quả, đem lại lòng tin của nhân dân với Đảng. Đảng đã khởi xướng và lãnh
đạo công cuộc đổi mới toàn diện vì chủ nghĩa xã hội, với quyết tâm và trí tuệ của toàn
Đảng, sự tham gia tích cực của nhân dân, công cuộc đổi mới ở nước ta trong hơn 17 năm
qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng, khẳng định đường lối đổi
mới là đúng đắn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: "Chủ nghĩa
xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự
thức tỉnh của các dân tộc có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy
luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội"
Xét trên cơ sở lý luận và thực tiễn, cả tình hình trong nước và kinh nghiệm quốc tế, muốn
thay đổi căn bản cuộc sống của người lao động từ kiếp nô lệ làm thuê trở thành người
làm chủ, không có con đường nào khác ngoài con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Mọi con
đường khác đều không được nhân dân ta chấp nhận. Vì vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta
cần kiên định vững vàng với mục tiêu, lý tưởng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn là con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
b. Đặc điểm miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
 Đặc điểm miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá độ lên cnxh
Sau khi hòa bình được lập lại, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Tuy nhiên, miền Bắc
bước vào khôi phục kinh tế trong điều kiện có nhiều khó khăn. 143.000 ha ruộng đất bị
bỏ hoang, hàng trăm ngàn gia đình không có nhà ở, hàng chục vạn người không có việc
làm, nhiều tệ nạn do xã hội cũ để lại còn hoành hành, phần lớn xí nghiệp ngừng hoạt
động, hàng hoá khan hiếm. Nhiệm vụ trước mắt là tiếp quản những vùng giải phóng theo
quy định của Hiệp định Giơnevơ. Việc tiếp quản đó bước đầu thuận lợi, nhân dân ta đã
làm chủ hoàn toàn Thủ đô từ ngày 10-10-1954. Hướng đấu tranh chủ yếu của nhân dân
miền Bắc thời kỳ này là chống âm mưu của địch dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào ta di cư vào
Nam. Trong hoạt động này, do chậm phát hiện và chưa thấy hết âm mưu thâm độccủa Mỹ
- Pháp, nên gần một triệu người miền Bắc đã bị cưỡng ép di cư vào Nam.
Xuất phát từ đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa, Đại hội III xác định rằng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là
một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt. Đó là quá trình đấu tranh gay go giữa hai
con đường, con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật nhằm đưa miền Bắc từ một nền
kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa. Cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội về kinh tế được
xem là hai mặt của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất, hai mặt này có
quan hệ mật thiết, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa được xem là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta
nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Cùng với cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa về kinh tế, phải tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa, nhằm
thay đổi cơ bản đời sống tư tưởng, tinh thần và văn hóa của toàn xã hội phù hợp với chế
độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
(Chép thêm trong sách trang 114 và 118)
 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã đề ra đường lối chung trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta là: Đoàn kết toàn dân, phát huy
truyền thống của nhân dân ta và đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa đưa miền Bắc
tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no,
hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc trở thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu
tranh thống nhất nước nhà.
 Thành quả và những hạn chế của miền Bắc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
từ năm 1954 đến năm 1975
Đã xây dựng được cơ sở vật chất – kỹ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội. Trong công
nghiệp, đã có những cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng như:
điện, than, cơ khí, hoá chất, luyện kim… Một số ngành công nghiệp nhẹ đã được xây
dựng. Trong nông nghiệp, nhiều công trình thuỷ lợi được xây dựng, bảo đảm tưới, tiêu
cho hàng chục vạn héc-ta đất canh tác. Đã có những cố gắng bước đầu trong việc áp dụng
một số thành tựu mới về khoa học – kỹ thuật tạo ra cho nông nghiệp những chuyển biến
lớn: tăng năng suất và tăng vụ, đảm bảo lương thực, thực phẩm trong chiến tranh.
Cơ cấu xã hội – giai cấp đã có sự thay đổi lớn. Các giai cấp bóc lột đã bị xoá bỏ. Giai cấp
công nhân đã trưởng thành cả về số lượng và chất lượng. Giai cấp nông dân đã trở thành
giai cấp nắm giữ quyền sở hữu tập thể tư liệu sản xuất chủ yếu – ruộng đất.
Khồi liên minh công nông được củng cố trên cơ sở mới. Tầng lớp trí thức xã hội chủ
nghĩa được tăng cường. Xã hội miền Bắc đã trở thành xã hội của những người lao động
bình đẳng. Các thành phần dân tộc chung sống trên tinh thần đoàn kết, hoà hợp dân tộc vì
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong
xã hội ngày càng được củng cố.
Sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế phát triển nhanh. Hoạt động văn hoá, nghệ thuật cũng
phát triển trên nhiều mặt với nội dung phong phú, góp phần xây dựng cuộc sống mới và
con người mới trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm chiến tranh, sản xuất vẫn được duy trì, có mặt tiếp tục phát triển.
Những nhu cầu thiết yếu về đời sống của nhân dân được bảo đảm. Đói rét, dịch bệnh
không xảy ra, an ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững. Tuy mức sống còn thấp
và có nhiều khó khăn, nhưng mọi người đều vững lòng tin tưởng và tham gia tích cực vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Và còn thực hiện xuất sắc vai trò hậu
phương lớn đối với tiền tuyến lớn, đóng góp sức người sức của cùng nhân dân miền Nam
đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, đồng thời hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc tế đối với
cách mạng Lào và cách mạng Campuchia.
Đặt vào hoàn cảnh lịch sử lúc đó, thì những thành tựu mà nhân dân ta đã đạt được là rất
lớn.
Song, nền kinh tế miền Bắc cũng bộc lộ những khó khăn, yếu kém. Sau hơn 20 năm xây
dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế miền Bắc còn mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, cơ sở
vật chất – kỹ thuật còn thấp kém, 80% lực lượng lao động xã hội vẫn là lao động thủ
công. Năng suất lao động rất thấp. Tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân chưa bảo
đảm được nhu cầu cơ bản của đời sống nhân dân và nhu cầu tích luỹ để xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Tình hình đó cộng với nhịp độ dân số tăng nhanh (gấp đôi so với 20 năm trước) làm cho
nền kinh tế gặp khó khăn gay gắt.
Nguyên nhân khó khăn: xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là
phổ biến đi lên chủ nghĩa xã hội, lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh ác liệt, quy mô
lớn kéo dài.
Đảng ta đã phạm những thiếu sót, khuyết điểm bắt nguồn từ nhận thức còn giản đơn,
nóng vội, duy ý chí, chịu ảnh hưởng của mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội của các
nước khác, không tính toán đầy đủ đến hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của nước ta, muốn
đi nhanh lên chủ nghĩa xã hội, muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế khác trong khi
sản xuất còn thấp kém, ngăn chặn sự phát triển kinh tế hàng hoá.
 Ý nghĩa của thành quả xây dựng chủ nghĩa xã hội từ 1954- 1975
Khẳng định chủ trương đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội ngay sau khi miền Bắc
hoàn toàn giải phóng là phù hợp với yêu cầu phát triển của cách mạng miền Bắc và yêu
cầu phát triển chung của cách mạng cả nước. Điều đó đã chứng minh tính đúng đắn, sáng
tạo của Đảng ta trong việc đề ra và chỉ đạo đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược
cách mạng ở hai miền: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu chung đánh thắng đế quốc Mỹ
xâm lược giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả
nước, thống nhất Tổ quốc và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Với tiềm lực của mình, miền Bắc đã xứng đáng là căn cứ địa của cách mạng cả nước, làm
tròn nhiệm vụ của hậu phương lớn, chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh thắng đế
quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam.
7. Ý nghĩa thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Miền Nam.
 Ý nghĩa thắng lợi
Kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhân dân ta đã đánh thắng kẻ thù lớn
mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ trong thế kỷ 20, giành độc lập hoàn toàn
cho Tổ quốc Việt Nam yêu quý, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài 115 năm của
chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta. Nhân dân ta gạt bỏ được trở ngại lớn nhất trong
cuông cuộc hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất đất
nước, tiến lên CNXH. Do đó, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mang
nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Đối với nhân dân ta
_ Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đánh dấu bước ngoặt rất cơ bản,
quyết định của con đường cách mạng mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra từ
trong Chính cương vắn tắt năm 1930 - Con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tự
do, ấm no, hạnh phúc.
_ Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kế tục thắng lợi Cách mạng
tháng 8-1945, phát huy thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-
1954), là trận đánh quyết định nhất của cuộc chiến đấu 30 năm (1945-1975) gian khổ, ác
liệt, giành lại và giữ vững nền độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc. Từ đây, cả dân tộc ta
tiến vào kỷ nguyên mới: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đẩy lùi nghèo nàn, lạc hậu,
tạo lập cuộc sống ấm no, hạnh phúc, công bằng, dân chủ, văn minh.
_ Qua cuộc chiến đấu và chiến thắng, Đảng ta, nhân dân ta, quân đội ta, cả dân tộc ta và
mỗi người Việt Nam được rèn luyện cả về phẩm chất và tài năng, càng nhận thức sâu sắc
hơn, đúng đắn hơn vị trí, khả năng và sức mạnh của mình trong thời đại mới.
_ Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã nâng vị thế chính trị của Việt
Nam trên thế giới lên một tầm cao mới và là niềm tự hào của mỗi người dân trong thế kỷ
XX và mai sau.
Đối với thế giới
_ Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là một thắng lợi
tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh
của nhân dân thế giới vì độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội.
_ Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã đập tan cuộc phản công lớn
nhất, kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, của chủ nghĩa đế quốc vào trào lưu cách
mạng của thời đại mà mũi nhọn là phong trào giải phóng dân tộc, mở đầu sự phá sản của
chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.
_ Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước làm sáng tỏ tính hiện thực, tính
phổ biến của xu thế phát triển của loài người tiến bộ, góp phần động viên cổ vũ các dân
tộc dũng cảm, kiên cường giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, thực hiện công
cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người và trực tiếp góp phần to
lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc của nhân dân hai nước láng giềng Lào và
Campuchia anh em.
_ Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là biểu tượng mới về sức mạnh
của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, làm tiêu tan
huyền thoại về sức mạnh của đế quốc Mỹ.
_ Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã nêu bật một chân lý: Trong
thời đại ngày nay, một dân tộc nước không rộng, người không đông, kinh tế kém phát
triển, song dân tộc ta đã đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của
một đảng mác xít-lêninít, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, nắm vững
ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực xâm lược.
8. Làm rõ tính độc lập, tự chủ, sáng tạo thể hiện qua đường lối tiến hành đồng thời
hai chiến lược cách mạng được Đại hội III của Đảng đề ra.
Trên cơ sở phân tích tình hình và đặc điểm nước ta, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III
của Đảng xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới: Một là, đẩy
mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ
trong cả nước. Cách mạng ở miền Bắc và cách mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược
khác nhau, song trước mắt đều hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, hòa
bình, thống nhất đất nước.
Đại hội còn xác định vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi
miền. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát
triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự
nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực
hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
trong cả nước.
Đại hội chủ trương kiên quyết giữ vững đường lối hòa bình để thống nhất nước nhà, vì
chủ trương phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân cả nước ta cũng như của
nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Song ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác, chuẩn bị
sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nó thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ của Đảng ta.
Đường lối trên phản ánh đúng quy luật vận động của cách mạng ở từng miền và chung
của cả nước trong giai đoạn 1954-1975, loại hình cách mạng này chưa từng được nhà lý
luận chính trị nào đề cập đến cũng như chưa từng xuất hiện trong lịch sử cách mạng thế
giới. Như vậy, một Đảng thống nhất lãnh đạo một đất nước tạm thời bị chia cắt, tiến hành
đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền là nét độc đáo và đặc điểm lớn
nhất của cách mạng nước ta.
9. Đặc điểm cả nước khi bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nội dung
đường lối chung cách mạng cả nước được Đại hội IV thông qua.
a. Đặc điểm cả nước khi bước vào thời kỳ quá độ đi lên cnxh
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã nêu lên ba đặc điểm lớn của đất nước
khi bước vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Một là, sau 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc chúng ta đã đạt được nhiều
thành tựu: xoá bỏ giai cấp bóc lột, xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, xây dựng
được cơ sở bước đầu của nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên sản xuất nhỏ vẫn là đặc điểm chủ yếu của nền
kinh tế miền Bắc. Miền Nam vừa thoát ra từ một xã hội thuộc địa kiểu mới, kinh tế về cơ
bản vẫn còn là sản xuất nhỏ. Vì vậy, nước ta vẫn đang ở trong quá trình từ một xã hội mà
nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa.
Hai là, cả nước hoà bình độc lập, thống nhất đang tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều
thuận lợi cơ bản: tinh thần cách mạng đang lên sau khi giành thắng lợi vĩ đại, nhân dân ta
cần cù thông minh, sáng tạo, tha thiết với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có Đảng
Cộng sản lãnh đạo, có sự ủng hộ chí tình của các nước xã hội chủ nghĩa và có những điều
kiện về lao động, tài nguyên phong phú… Bên cạnh đó cũng gặp nhiều khó khăn do hậu
quả của chiến tranh và các tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra.
Ba là, hoàn cảnh quốc tế có nhiều thuận lợi, song cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cách
mạng và phản cách mạng còn diễn ra rất gay go phức tạp. Các thế lực phản cách mạng
quốc tế có nhiều âm mưu, hành động tinh vi thâm độc chống phá phong trào cộng sản
quốc tế.
b. Nd đường lối chung
Báo cáo đã xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là: “Nắm
vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến
hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học
- kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then
chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa; xây dựng
nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới
xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không
ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và
trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và
xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”.
10. Làm rõ yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới (chứng minh đổi mới là
khách quan). Nội dung đường lối đổi mới được Đại hội VI thông qua.
a. Chứng minh đổi mới là khách quan
Từ cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, thế giới đã diễn ra những biến
đổi to lớn, sâu sắc. Nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội
trầm trọng. Các nước tư bản chủ nghĩa, do điều chỉnh, thích ứng và sử dụng những thành
quả của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại nên đã vượt qua được những khó
khăn, kinh tế có bước tăng trưởng đáng kể. Để thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, cải tổ,
cải cách và đổi mới đã trở thành xu thế khách quan ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa.
Ở Việt Nam, sau khi thống nhất đất nước, chúng ta phải đứng trước nhiều khó khăn,
thách thức mới. Tư tưởng chủ quan, say sưa với thắng lợi, nóng vội muốn tiến nhanh lên
chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn, việc bố trí sai cơ cấu kinh tế, cộng với những
khuyết điểm của mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp bộc lộ ngày càng rõ,
làm cho tình hình kinh tế - xã hội rơi vào trì trệ, khủng hoảng: lạm phát, ngăn cản pt khoa
học công nghệ, tạo ra 1 lớp ng thụ động, coi trọng nền kt trao đổi bằng vật. Nước ta lại bị
các thế lực thù địch bao vây, cấm vận; chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía
Bắc gây ra… (xem ví dụ trang ~ 164)
Cuối những năm 70, ở một số địa phương bước đầu có những tìm tòi, thử nghiệm cách
làm ăn mới, đưa ra những lời giải đáp cho những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Ví dụ: xóa bỏ
cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chế độ tem phiếu; thực hiện các nghị quyết 6, 7, 8;
chuyển hẳn công tác quản lý hợp tác xã sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ
nghĩa;... Qua những thành công bước đầu đạt được trong quá trình tìm tòi, thử nghiệm đó,
Đảng và nhân dân ta càng nhận thấy để xây dựng chủ nghĩa xã hội hiệu quả hơn thì sự
thay đổi là cần thiết.
Thực trạng của đất nước lúc bấy giờ đặt ra một yêu cầu khách quan và bức thiết là phải
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, phải có những quyết sách khoa học để ổn định tình hình
kinh tế - xã hội của đất nước, vượt ra khỏi khủng hoảng để tiến lên.
b. Nd đổi mới
 Công tác tư tưởng phải được tiến hành toàn diện nhưng phải tuân theo các nguyên tắc:
_ Thực hiện công cuộc đổi mới có nghĩa là thay đổi phương thức, chiến lược đi lên chủ
nghĩa xã hội, nhưng không xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà thực hiện mục tiêu ấy
bằng phương thức, chiến lược mới.
_ Tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì tất yếu phải giữ vững vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, vì đây là nhân
tố tiên quyết để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
_ Tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản thì tất yếu phải lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng, bởi chủ
nghĩa Mác - Lê-nin không chỉ là nền tảng tư tưởng của Đảng, mà còn là cơ sở để xây
dựng hệ tư tưởng của toàn xã hội và nhờ đó mới có thể thực hiện được mục tiêu xã hội
chủ nghĩa.
_ Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội nói chung,
nhất là đối với lực lượng vũ trang (quân đội và công an). Đảng phải lãnh đạo toàn diện,
tuyệt đối và trực tiếp lực lượng vũ trang.
_ Hội nhập quốc tế, nhưng độc lập về chính trị, giữ vững chủ quyền quốc gia, tiếp tục
thực hiện con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
_ Công cuộc đổi mới cần có những bước đi thích hợp để bảo đảm vừa đổi mới, vừa ổn
định. Đổi mới phải bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, sau đó đến đổi mới về chính trị. Ngay
trong đổi mới kinh tế cũng đi từ đổi mới lĩnh vực nông nghiệp rồi đến các lĩnh vực khác.
 Đổi mới tư duy lý luận: Khắc phục bênh chủ quan duy ý chí; Nhận thức đầy đủ những
đặc trưng quy luật... của thời kỳ quá độ
 Đổi mới cơ cấu kinh tế: Nền kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng của thời kỳ quá độ;
Gồm kinh tế XHCN, tiểu sx hh TB thương nghiệp, TBNN, kinh tế tự nhiên
 Đổi mới vai trò quản lý điều hành KT-XH của nhà nc: NN quản lý điều hành KT-XH
bằng chính sách, luật pháp; Hoàn thiện bộ máy phù hợp với quá trình chuyển đổi cơ
chế
 Đổi mới chính sách VH-XH: Xác định mục tiêu, VH-Xh phải phù hợp yêu cầu và khả
năng; Phát huy yếu tố con người, phục vụ con người làm mục tiêu cao cả
 Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế: Xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao
cấp; Chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN
 Đổi mới chính sách đối ngoại hợp tác quốc tế: Củng cố các quan hệ với các nước
XHCN và các nước khác; Thu hút đầu tư nước ngoài, khuyến khích Việt kiều về đầu

 Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; Nâng cao
trình độ lý luận, năng lực thực tiễn, đổi mới công tác căn bản
 Đổi mới về quốc phòng an ninh: Đề cao cảnh giác, tăng cường QPAN, chủ động trong
mọi tình huống
 Bối cảnh thực hiện đường lối đổi mới: Nền KT chưa ra khỏi khủng hoảng, lạm phát
cao, đời sống nhân dân khó khăn; Trật tự an ninh, tiêu cực xã hội phức tạp, đạo đức
xã hội xuống cấp; Kết quả đổi mới chưa đủ để cũng cố nềm tin của ND đối với
CNXH; Lợi dụng quân tình nguyện vào cứu DT Cămpuchia để cô lập Việt Nam;
Quan hệ VN– TQ trở nên căng thẳng sau chiến tranh biên giới và biển đông; Các thế
lực thù địch, phản động ra sức chống phá Việt Nam
 Xem trang 168 trở đi

You might also like