Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 10

Ý thức là gì? Nguồn gốc của ý thức? Bản chất của ý thức?

Lấy ví dụ về ý
thức?

Khi xã hội ngày càng phát triển thì một điều không thể phủ nhận đó chính là
những ý thức của con người tác động đến sự vật cũng thay đổi theo. Các trạng
thái của ý thức cũng được liên kết với các trạng thái của kinh nghiệm để cấu trúc
được biểu thị trong nhận thức được phản ánh trong cấu trúc của kinh nghiệm.
Vậy ý thức được định nghĩa ở đây là gì? Nguồn gốc và bản chất của ý thức? Lấy
ví dụ? Hãy tìm hiểu nội dung liên quan đến ý thức trong bài viết dưới đây:

1. Ý thức là gì?

Theo tâm lý học thì ý thức được định nghĩa là hình thức phản ánh tâm lý cao
nhất chỉ có ở con người. Ý thức được hiểu theo định nghĩa của triết học Mác-
Lenin là một phạm trù song song với phạm trù vật chất.

Ý thức là trạng thái có ý thức về một cái gì đó. Cụ thể hơn, đó là khả năng trực
tiếp biết và nhận thức, cảm nhận hoặc nhận thức được các sự kiện. Một định
nghĩa khác mô tả nó là trạng thái trong đó chủ thể nhận thức được một số thông
tin khi thông tin đó trực tiếp có sẵn để thực hiện theo hướng của một loạt các
hành động.

Ý thức được xác định là một khái niệm tương đối. Nó có thể tập trung vào một
trạng thái bên trong, chẳng hạn như cảm giác nội tạng, hoặc vào các sự kiện bên
ngoài bằng cách nhận thức cảm tính. Nó tương tự như cảm nhận một cái gì đó,
một quá trình phân biệt với quan sát và nhận thức (bao gồm một quá trình cơ
bản làm quen với các mục mà chúng ta nhận thức được).

Ý thức hoặc “cảm nhận” có thể được mô tả là một cái gì đó xảy ra khi não được
kích hoạt theo những cách nhất định, chẳng hạn như khi màu đỏ là những gì
được nhìn thấy sau khi võng mạc được kích thích bởi sóng ánh sáng. Việc hình
thành khái niệm này được đặt ra trong bối cảnh khó khăn trong việc phát triển
một định nghĩa phân tích về nhận thức hoặc nhận thức cảm tính.

Ý thức cũng được kết hợp với ý thức theo nghĩa là khái niệm này biểu thị một
kinh nghiệm cơ bản như cảm giác hoặc trực giác đi kèm với kinh nghiệm về
hiện tượng. Cụ thể, điều này được gọi là ý thức về kinh nghiệm. Đối với ý thức,
nó đã được mặc định là phải trải qua các cấp độ thay đổi liên tục.

Những ý kiến phổ biến về ý thức cho rằng hiện tượng mô tả một điều kiện nhận
thức về bản thân (tự nhận thức). Lý thuyết hệ thống hiện đại, cung cấp những
hiểu biết sâu sắc về cách thế giới hoạt động thông qua sự hiểu biết rằng tất cả
các hệ thống đều tuân theo các quy tắc của hệ thống, tiếp cận sự tự nhận thức
trong tầm hiểu biết của nó về cách thức hoạt động của các hệ thống sống phức
tạp lớn.

Theo Gregory Bateson, ý thức là động lực của sự tự tổ chức và nhận thức là điều
cốt yếu trong sự tồn tại của quá trình này. Lý thuyết hệ thống hiện đại cho rằng
con người, với tư cách là hệ thống sống, không chỉ nhận thức về môi trường mà
còn nhận thức về bản thân, đặc biệt là với khả năng logic và tò mò.

Những nỗ lực để mô tả ý thức bằng các thuật ngữ thần kinh đã tập trung vào
việc mô tả các mạng lưới trong não phát triển nhận thức về trình độ được phát
triển bởi các mạng lưới khác. Khi nhận thức cung cấp các tài liệu mà từ đó
người ta phát triển các ý tưởng chủ quan về kinh nghiệm của họ, người ta nói
rằng người ta nhận thức được trạng thái nhận thức của chính mình. Tổ chức
nhận thức về trải nghiệm bên trong của chính mình được giao một vai trò trung
tâm trong việc tự điều chỉnh.

3. Nguồn gốc của ý thức?

Theo quan điểm từ chủ nghĩa duy vật biện chứng thì ý thức được xác định là có
nguồn gốc từ tự nhiên và ý thức còn có nguồn gốc từ xã hội và nó được thể hiện
với nội dung cụ thể:

– Thứ nhất, nguồn gốc tự nhiên của ý thức

Bộ óc và sự hoạt động cùng các mối quan hệ thế giới khách quan và con người
được nhận định là các yếu tố tự nhiên là sự bắt nguồn và cũng là nguồn gốc tự
nhiên của ý thức. Sự hình thành ý thức từ con người đối với thế giới khách quan
là do có sự tác động của thế giới khách quan tới bộ óc của con người tạo ra khả
năng về sự hình thành ý này. Như vậy, có thể nhận định một điều rằng sự phản
ánh về thế giới khách quan từ con người được xem là ý thức.

Mà trong đó, phản ảnh được hiểu là sự sự tái tạo về đặc điểm dạng vật chất này
bởi dạng vật chất khác khi tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh sinh
học, phản ánh tâm lý, phản ánh vật lý hóa học, phản ánh năng động sáng tạo
được hiểu là hình thức của những sự phản ánh và phản ánh là một thuộc tính từ
tất cả các dạng vật chất.

Một hình thức thấp nhất và đặc trưng cho vật chất vô sinh là phản ánh về hóa
học vật lý. Những biến đổi về lý, hóa, cơ khi có sự tác động lẫn nhau bởi các
dạng vật chất vô sinh được nhận định là phản ánh về hóa học vật lý. Hình thức
được phản ánh chỉ mang tính thụ động của vật nhận tác động chứ phản ánh chưa
định hướng lựa chọn.
Phản ánh tâm lý được nhận định là sự phản ánh cho động vật đặc trưng đã được
phát triển đến trình độ mà có hệ thần kinh trung ương, phản ánh này thể hiện
dưới cơ chế phản xạ có điều kiện lên những tác động môi trường sống.

Hình thức để phản ánh năng động và sáng tạo bởi con người đó chính là phản
ánh ý thức.

Hình thức được phản ánh cao hơn và đặc trưng giới tự nhiên hữu sinh đó là phản
ánh sinh học. Quá trình phát triển giới tự nhiên hữu sinh, được thể hiện qua tính
kích thích, phản xạ và tính cảm ứng.

Thứ hai, nguồn gốc xã hội của ý thức bao gồm các nhân tố cơ bản nhất như lao
động và ngôn ngữ, nó trực tiếp tạo thành nguồn gốc xã hội của ý thức.

Một quá trình con người sử dụng về công cụ tác động với giới tự nhiên để thay
đổi giới tự nhiên phù hợp nhu cầu con người được nhận định là lao động. Còn
cái vỏ của vật chất từ ý thức, hình thức vật chất nhân tạo có vai trò trong thể
hiện, lưu trữ nội dung ý thức thì chính là ngôn ngữ.

4. Bản chất của ý thức?

Ý thức, nói một cách đơn giản nhất, là sự gửi gắm hay nhận thức về sự tồn tại
bên trong và bên ngoài. Bất chấp hàng thiên niên kỷ phân tích, định nghĩa, giải
thích và tranh luận của các triết gia và nhà khoa học, ý thức vẫn còn là điều khó
hiểu và gây tranh cãi, là “khía cạnh quen thuộc nhất và [cũng] bí ẩn nhất trong
cuộc sống của chúng ta”. Có lẽ khái niệm duy nhất được đồng ý rộng rãi về chủ
đề này là trực giác rằng ý thức tồn tại.

Các ý kiến khác nhau về những gì chính xác cần được nghiên cứu và giải thích
là ý thức. Đôi khi, nó đồng nghĩa với tâm trí, và những lúc khác, một khía cạnh
của tâm trí. Trong quá khứ, đó là “cuộc sống bên trong” của một người, thế giới
của nội tâm, của suy nghĩ, trí tưởng tượng và hành động riêng tư. Ngày nay, nó
thường bao gồm bất kỳ loại nhận thức, kinh nghiệm, cảm giác hoặc nhận thức
nào.

Nó có thể là nhận thức, nhận thức về nhận thức, hoặc nhận thức về bản thân liên
tục thay đổi hoặc không. Có thể có các cấp độ hoặc trật tự ý thức khác nhau,
hoặc các loại ý thức khác nhau, hoặc chỉ một loại với các tính năng khác nhau.
Các câu hỏi khác bao gồm liệu chỉ con người có ý thức, tất cả các loài động vật,
hay thậm chí toàn bộ vũ trụ. Phạm vi nghiên cứu, quan niệm và suy đoán khác
nhau làm dấy lên nghi ngờ về việc liệu có đúng câu hỏi được đặt ra hay không

Đối với bản chất của ý thức đã được nhận định bằng nhiều ý kiến và quan điểm
khác nhau, và chưa có nhận định chung về bản chất của ý thức.
Theo triết học duy tâm quan niệm: ” Ý thức là một thực thể độc lập, là thực tại
duy nhất, từ đó cường điệu tính năng động của ý thức đến mức coi ý thức sinh ra
vật chất chứ không phải là sự phản ánh của vật chất”.

Theo các nhà triết học duy vật đều thừa nhận vật chất tồn tại khách quan và ý
thức là sự phản ánh sự vật đó. Chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên cơ sở lý
luận phản ánh: “về bản chất, coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan
vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo; ý thức là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan”.

Do đó, để hiểu về bản chất của ý thức cần dựa trên các yếu tố sau:

– Thứ nhất, vât chất và ý thức được chúng ta thừa nhận nhưng giữa chúng có sự
khác nhau mang tính đối lập. Trong đó, vật chất là cái được phản ánh, còn ý
thức là sự phản ánh, là cái phản ánh. Ý thức là hiện thực chủ quan, là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan. Trong khi đó, vật chất tồn tại khách quan, ở
ngoài và độc lập với ý thức.

+Thứ hai, những hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan đó chính là ý thứ.

+ Thứ ba ý thức là một hiện tượng xã hội.

5. Lấy ví dụ về ý thức?

Ý thức đã hình thành trong quá trình con người lao động, khi đó, con người đã
có ý thức tác động đến sự vật xung quan họ để có thể tạo ra những thứ họ muốn
theo đúng ý chí của họ. Ví dụ như:

Khi con người tham gia vào quá trình lao động sản xuất thì thay như giai đoạn
trước con người sử dụng cày cuốc để cày ruộng, đào mương, xây cầu, làm
đường,… thì ngày nay, con người đã ý thức được việc tăng năng suất lao
động bằng việt đưa máy móc vào hoạt động để tạo ra năng suất công việc như
mình mong muốn.

Ví dụ về phạm vi mô tả, định nghĩa hoặc giải thích là: sự tỉnh thức đơn giản, ý
thức về bản thân hoặc tâm hồn được khám phá bằng cách “nhìn vào bên trong”;
là một “dòng” nội dung ẩn dụ, hoặc là một trạng thái tinh thần, sự kiện tinh thần
hoặc quá trình tinh thần của bộ não; có phanera hoặc tính chất và tính chủ quan;
là ‘cái gì đó giống như’ để ‘có’ hoặc ‘là’ nó; là “nhà hát bên trong” hoặc hệ
thống kiểm soát điều hành của tâm trí
Phân tích tồn tại xã hội và ý thức xã hội? Các khái niệm tồn tại xã hội là gì?
ý thức xã hội là gì? Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và
ý thức xã hội?

1. Các khái niệm tồn tại xã hội là gì? Ý thức xã hội là gì?

* Tồn tại xã hội là toàn bộ đời sống vật chất của XH và những điều kiện sinh
hoạt vật chất của nó. Đây là hình thức biểu hiện của vật chất trong lĩnh vực XH,
bao gồm 3 yếu tố cơ bản:

+ Phương thức SX: đầu tiên nhất, quyết định nhất.

+ Môi trường tự nhiên

+ Điều kiện dân số * Ý thức xã hội là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng,
những tâm tư, tình cảm, những tập tục truyền thống, những thiên hướng, hứng
thú… của XH phản ánh lại tồn tại XH ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất
định.

– Nếu phân chia theo chiều ngang (tạo các cấp độ cao thấp) thì ý thức xã hội XH
bao gồm 2 cấp độ cơ bản:

+ Ý thức xã hội thông thường

+ Ý thức lý luận (ý thức xã hội khái quát từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn)
Trong hai cấp độ trên, thì vai trò quan trọng nhất thuộc về hai yếu tố là tâm lý
XH và hệ tư tưởng.

+ Tâm lý XH là bộ phận của ý thức xã hội thông thường, nó bao gồm những tâm
tư tình cảm, những tập tục truyền thống, những thói quen, tập quán… của XH
phản ánh trực tiếp những điều kiện sinh hoạt vật chất hàng ngày của XH, đây là
bộ phận có tính bền vững và bảo thủ cao.

+ Hệ tư tưởng là bộ phận của ý thức lý luận, nó bao gồm những quan điểm tư
tưởng đã được hệ thống hóa thành chỉnh thể học thuyết để phản ánh những lợi
ích cơ bản và địa vị của một giai cấp nhất định.

– Nếu phân chia ý thức xã hội theo chiều dọc thì ý thức xã hội bao gồm các hình
thái ý thức xã hội khác nhau: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo
đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, triết học, khoa học…
2. Về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:

2.1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội:

Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và quyết
định ý thức. Trong lĩnh vực XH thì quan hệ này được biểu hiện là: tồn tại xã hội
có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức xã hội, điều đó được thể hiện cụ thể là:

– Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể tìm
nguồn gốc tư tưởng trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong chính tồn tại
xã hội. Do đó phải tồn tại xã hội để lý giải cho ý thức xã hội.

– Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức SX đã
thay đổi thì sớm hay muộn thì ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.

2.2. Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của ý thức xã hội lên tồn
tại xã hội:

Sự lệ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội không phải lúc nào cũng diễn ra
trực tiếp mà cần phải xét đến cùng qua nhiều khâu trung gian mới thấy được, bởi
vì ý thức xã hội có tính độc lập của mình. Tính độc lập tương đối của ý thức xã
hội được thể hiện dưới các hình thức sau:

– Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Sở dĩ như vậy bởi vì:

+ Do nó chỉ là phản ánh của tồn tại xã hội nên thường biến đổi sau;

+ Do nó có những bộ phận có tính bền vững, tính bảo thủ cao (tâm lý XH, tôn
giáo…);

+ Do có những lực lượng XH luôn tìm cách duy trì tính lạc hậu trên (nhằm cai
trị ND, nô dịch ND…).

Xem thêm: Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

– Vai trò tiên phong vượt trước của tri thức khoa học, bộ phận này trong ý thức
xã hội có khả năng nắm bắt các quy luật vận động khách quan, từ đó đưa ra
được những dự báo, tiên đoán về sự phát triển của XH, nên có thể đi tồn tại xã
hội nên có thể đi trước một bước so với tồn tại xã hội (VD dự báo của Mác về sự
sụp đổ của CNTB…).

– Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội có thể làm cho nó có một
trình độ phát triển cao hơn so với tồn tại xã hội. Nên có những dân tộc với trình
độ kinh tế, chính trị kém phát triển nhưng đời sống tinh thần lại rất phát triển,
chẳng hạn dân tộc Đức ở thể kỷ XIX: kinh tế lạc hậu so với Châu Âu, nhưng văn
hóa tinh thần cực kỳ phát triển (âm nhạc, hội họa….).

– Sự tương tác giữa các hình thái ý thức xã hội có thể tạo ra những quy luật đặc
thù, chi phối sự phát triển của ý thức xã hội, làm cho nó không hoàn toàn lệ
thuộc vào tồn tại xã hội. Cụ thể là ở những giai đoạn nhất định thường nổi lên
một hình thái ý thức xã hội chủ đạo, chi phối các hình thái ý thức còn lại (làm
cho toàn bộ XH phụ thuộc hoàn toàn vào ý thức chủ đạo: thời trung cổ thì tôn
giáo chi phối xã hội, ngày nay khoa học chi phối xã hội).

– Do có tính độc lập tương đối nên ý thức xã hội có thể tác động trở lại lên tồn
tại xã hội theo 2 xu hướng:

+ Nếu ý thức xã hội phản ánh đúng đắn các quy luật khách quan của tồn tại xã
hội thì nó có thể thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội. Vai trò này thuộc về ý
thức của những giai cấp tiến bộ và cách mạng.

+ Nếu ý thức xã hội phản ánh sai lệch, xuyên tác các quy luật khách quan của
tồn tại xã hội thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội. Tác động này
thuộc về ý thức của những giai cấp cũ, lạc hậu, phản động. Sự tác động của ý
thức xã hội lên tồn tại xã hội phụ thuộc vào mức độ thâm nhập của nó vào trong
phong trào của quần chúng nhân dân. Cho nên phải thường xuyên đấu tranh để
phổ biến tri thức khoa học và lý luận cách mạng cho quần chúng nhân dân, đồng
thời để đấu tranh để loại bỏ những tàn dư của văn hóa, tư tưởng cũ, phản động ra
khỏi quần chúng (không ảnh hưởng đến quần chúng nhân dân).
Phân tích tồn tại xã hội và ý thức xã hội? Các khái niệm tồn tại xã hội là gì?
ý thức xã hội là gì? Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và
ý thức xã hội?

1. Các khái niệm tồn tại xã hội là gì? Ý thức xã hội là gì?

* Tồn tại xã hội là toàn bộ đời sống vật chất của XH và những điều kiện sinh
hoạt vật chất của nó. Đây là hình thức biểu hiện của vật chất trong lĩnh vực XH,
bao gồm 3 yếu tố cơ bản:

+ Phương thức SX: đầu tiên nhất, quyết định nhất.

+ Môi trường tự nhiên

+ Điều kiện dân số * Ý thức xã hội là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng,
những tâm tư, tình cảm, những tập tục truyền thống, những thiên hướng, hứng
thú… của XH phản ánh lại tồn tại XH ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất
định.

– Nếu phân chia theo chiều ngang (tạo các cấp độ cao thấp) thì ý thức xã hội XH
bao gồm 2 cấp độ cơ bản:

+ Ý thức xã hội thông thường

+ Ý thức lý luận (ý thức xã hội khái quát từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn)
Trong hai cấp độ trên, thì vai trò quan trọng nhất thuộc về hai yếu tố là tâm lý
XH và hệ tư tưởng.

+ Tâm lý XH là bộ phận của ý thức xã hội thông thường, nó bao gồm những tâm
tư tình cảm, những tập tục truyền thống, những thói quen, tập quán… của XH
phản ánh trực tiếp những điều kiện sinh hoạt vật chất hàng ngày của XH, đây là
bộ phận có tính bền vững và bảo thủ cao.

+ Hệ tư tưởng là bộ phận của ý thức lý luận, nó bao gồm những quan điểm tư
tưởng đã được hệ thống hóa thành chỉnh thể học thuyết để phản ánh những lợi
ích cơ bản và địa vị của một giai cấp nhất định.

– Nếu phân chia ý thức xã hội theo chiều dọc thì ý thức xã hội bao gồm các hình
thái ý thức xã hội khác nhau: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo
đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, triết học, khoa học…

Xem thêm: Lực lượng sản xuất là gì? Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở
Việt Nam hiện nay
2. Về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:

2.1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội:

Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và quyết
định ý thức. Trong lĩnh vực XH thì quan hệ này được biểu hiện là: tồn tại xã hội
có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức xã hội, điều đó được thể hiện cụ thể là:

– Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể tìm
nguồn gốc tư tưởng trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong chính tồn tại
xã hội. Do đó phải tồn tại xã hội để lý giải cho ý thức xã hội.

– Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức SX đã
thay đổi thì sớm hay muộn thì ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.

2.2. Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của ý thức xã hội lên tồn
tại xã hội:

Sự lệ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội không phải lúc nào cũng diễn ra
trực tiếp mà cần phải xét đến cùng qua nhiều khâu trung gian mới thấy được, bởi
vì ý thức xã hội có tính độc lập của mình. Tính độc lập tương đối của ý thức xã
hội được thể hiện dưới các hình thức sau:

– Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Sở dĩ như vậy bởi vì:

+ Do nó chỉ là phản ánh của tồn tại xã hội nên thường biến đổi sau;

+ Do nó có những bộ phận có tính bền vững, tính bảo thủ cao (tâm lý XH, tôn
giáo…);

+ Do có những lực lượng XH luôn tìm cách duy trì tính lạc hậu trên (nhằm cai
trị ND, nô dịch ND…).

– Vai trò tiên phong vượt trước của tri thức khoa học, bộ phận này trong ý thức
xã hội có khả năng nắm bắt các quy luật vận động khách quan, từ đó đưa ra
được những dự báo, tiên đoán về sự phát triển của XH, nên có thể đi tồn tại xã
hội nên có thể đi trước một bước so với tồn tại xã hội (VD dự báo của Mác về sự
sụp đổ của CNTB…).

– Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội có thể làm cho nó có một
trình độ phát triển cao hơn so với tồn tại xã hội. Nên có những dân tộc với trình
độ kinh tế, chính trị kém phát triển nhưng đời sống tinh thần lại rất phát triển,
chẳng hạn dân tộc Đức ở thể kỷ XIX: kinh tế lạc hậu so với Châu Âu, nhưng văn
hóa tinh thần cực kỳ phát triển (âm nhạc, hội họa….).
– Sự tương tác giữa các hình thái ý thức xã hội có thể tạo ra những quy luật đặc
thù, chi phối sự phát triển của ý thức xã hội, làm cho nó không hoàn toàn lệ
thuộc vào tồn tại xã hội. Cụ thể là ở những giai đoạn nhất định thường nổi lên
một hình thái ý thức xã hội chủ đạo, chi phối các hình thái ý thức còn lại (làm
cho toàn bộ XH phụ thuộc hoàn toàn vào ý thức chủ đạo: thời trung cổ thì tôn
giáo chi phối xã hội, ngày nay khoa học chi phối xã hội).

– Do có tính độc lập tương đối nên ý thức xã hội có thể tác động trở lại lên tồn
tại xã hội theo 2 xu hướng:

+ Nếu ý thức xã hội phản ánh đúng đắn các quy luật khách quan của tồn tại xã
hội thì nó có thể thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội. Vai trò này thuộc về ý
thức của những giai cấp tiến bộ và cách mạng.

+ Nếu ý thức xã hội phản ánh sai lệch, xuyên tác các quy luật khách quan của
tồn tại xã hội thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội. Tác động này
thuộc về ý thức của những giai cấp cũ, lạc hậu, phản động. Sự tác động của ý
thức xã hội lên tồn tại xã hội phụ thuộc vào mức độ thâm nhập của nó vào trong
phong trào của quần chúng nhân dân. Cho nên phải thường xuyên đấu tranh để
phổ biến tri thức khoa học và lý luận cách mạng cho quần chúng nhân dân, đồng
thời để đấu tranh để loại bỏ những tàn dư của văn hóa, tư tưởng cũ, phản động ra
khỏi quần chúng (không ảnh hưởng đến quần chúng nhân dân).

You might also like