Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 18

Câu 2: Những điểm vận dụng cơ bản khi nghiên cứu triết học chính trị với

việc xây dựng nhà nước pháp quyền và nhà nước XHCN Việt Nam
Quan điểm về sự vận dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà
nước
(LLCT) - Việc vận dụng và phát triển những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin
về nhà nước là yêu cầu tất yếu, khách quan trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam
hiện nay. Nhưng vận dụng như thế nào, theo nguyên tắc nào? Bài viết phân tích
các quan điểm cần quán triệt trong quá trình vận dụng, bảo đảm sự vận dụng
đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
(LLCT) - Việc vận dụng và phát triển những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin
về nhà nước là yêu cầu tất yếu, khách quan trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam
hiện nay. Nhưng vận dụng như thế nào, theo nguyên tắc nào? Bài viết phân tích
các quan điểm cần quán triệt trong quá trình vận dụng, bảo đảm sự vận dụng
đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
1. Kiên định coi lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước kiểu mới là
kim chỉ nam trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta nhấn mạnh: “trong bất kỳ
điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi
mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin...” (1).
Điều này đã được chứng minh qua thực tiễn 30 năm đổi mới: “Công cuộc đổi
mới ở Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn, định hướng xã hội chủ nghĩa
được giữ vững. Thành công này bắt nguồn từ sự kiên định, vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta trong những điều
kiện và hoàn cảnh có tính đặc thù như Việt Nam”(2).
Về việc phát triển sáng tạo những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, cần thấm
nhuần quan điểm của C.Mác khi nói về học thuyết của mình rằng, đó không
phải là những giáo điều khô cứng mà là một học thuyết mở mang bản chất sáng
tạo và phải được phát triển không ngừng cùng sự phát triển của thực tiễn xã hội.
Yêu cầu phát triển những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin là tất yếu, khách
quan, bởi lẽ: “Học thuyết Mác - Lênin chỉ thể hiện sức sống trường tồn khi
được phát triển một cách toàn diện, bởi vì thế giới luôn biến đổi không ngừng.
Học thuyết Mác - Lênin có lạc hậu hay không lạc hậu hoàn toàn phụ thuộc vào
những người sẽ kế tục học thuyết đó”(3).
Với quan điểm chung về kiên trì vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin trong công cuộc đổi mới đất nước, coi chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ
nam cho mọi hành động như vậy, việc tiếp tục vận dụng những giá trị của chủ
nghĩa Mác - Lênin về nhà nước ở Việt Nam hiện nay cần quán triệt đầy đủ tinh
thần quan điểm đó.
Nội dung cụ thể giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước bao gồm: quyền
lực nhà nước thuộc về Nhân dân; nhà nước tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc pháp chế XHCN; nhà nước có cách thức tổ chức quyền lực và kiểm soát
quyền lực hợp lý; nhà nước XHCN do Đảng Cộng sản lãnh đạo... cần được tiếp
tục coi là kim chỉ nam trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam hiện nay. “Đây không chỉ là một trong những giá trị
bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin mà còn thể hiện những phát triển sáng tạo
của Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng về dân chủ và thực hành dân chủ của
Người” (4).
Gần 35 năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng và phát triển
sáng tạo những giá trị tư tưởng đó, đã đạt được những thành tựu quan trọng
trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và phát huy dân chủ XHCN ở
nước ta. Đảng ta đã xác định: “Dân chủ trở thành một mục tiêu trong hệ mục
tiêu của đổi mới, nhà nước pháp quyền đặt trong hệ đặc trưng của xã hội xã hội
chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Đây cũng là một trong những phương
thức xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, là vấn đề được chú trọng trong đổi
mới hệ thống chính trị ở nước ta”(5).
2. Vận dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước phải bảo
đảm tính biện chứng, toàn diện và đặt trong mối quan hệ với việc vận dụng
giá trị khác của chủ nghĩa Mác - Lênin
Việc tách ra vận dụng giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về từng vấn đề, từng
nội dung chỉ là một sự vận dụng giản đơn, phiến diện. Do đó, việc vận dụng
những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước phải bảo đảm tính biện
chứng, toàn diện. Nói cách khác, chúng ta không chỉ thuần túy, giản đơn vận
dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước, mà phải gắn chặt
việc vận dụng đó với vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách
mạng vô sản, về con đường đi lên CNXH, về dân chủ XHCN, về pháp luật,
pháp chế XHCN, về quyền con người, quyền công dân...
Chẳng hạn, từ luận điểm cốt lõi của chủ nghĩa Mác về “biến nhà nước từ cơ
quan đứng trên xã hội thành cơ quan hoàn toàn phục tùng xã hội”..., Đảng ta đã
khẳng định quyết tâm xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
hoạt động trên cơ sở pháp luật với một nền pháp chế dân chủ, bảo đảm quyền
con người, quyền công dân, bảo đảm sự phát triển tối đa và phát triển toàn diện
của con người (6).
Vận dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước phải bảo đảm
đồng bộ với vận dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội, về sứ mệnh của giai cấp công nhân, về giá trị thặng
dư, về giải phóng và phát triển con người, về văn hóa, về môi trường sinh thái,
về xây dựng Đảng(7)... Điều đó đòi hỏi sự tương thích giữa vận dụng chủ nghĩa
Mác - Lênin trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phát triển nền kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây
dựng Đảng, xây dựng nền dân chủ XHCN, xây dựng nền văn hóa XHCN, xây
dựng con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
3. Vận dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước phải bảo
đảm phát huy những thành tựu, đồng thời khắc phục những thất bại, sai
lầm của chủ nghĩa xã hội hiện thực và rút ra những kết luận, bài học phù
hợp cho Việt Nam
Muốn vận dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước ở Việt
Nam một cách hiệu quả, cần nghiên cứu chỉ ra những thành công  của các nhà
nước XHCN trên thế giới, chỉ rõ những nhà nước đó đã vận dụng đúng đắn
những nội dung gì trong quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin về nhà
nước. Đồng thời, cần chỉ ra những sự vận dụng sai lầm, giáo điều, chủ quan,
duy ý chí của các nhà nước đó để có thể khắc phục.
Trong bài viết “Cách mạng Tháng Mười Nga và chủ nghĩa xã hội hiện thực: Giá
trị lịch sử và ý nghĩa thời đại”, GS, TS Nguyễn Xuân Thắng khẳng định:
“Thành tựu nổi bật của một thế kỷ xây dựng CNXH là sự lớn mạnh nhanh
chóng, sức hấp dẫn của CNXH và sự xuất hiện nhiều mô hình XHCN trên thế
giới... Nhiều thành tựu trong tổ chức quản lý xã hội của CNXH đã khiến cho
các nước tư bản chủ nghĩa cũng phải thừa nhận và học tập. Thế giới đã phát
triển bình đẳng hơn, công bằng hơn. Sự lựa chọn con đường XHCN đã trở thành
một xu thế lớn”(8).
Từ cuối thế kỷ XX đến nay, hàng loạt mô hình CNXH thời kỳ cải cách, đổi mới
thành công trên thế giới. Thành công của các mô hình nêu trên đều có sự vận
dụng và phát triển những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước. Trong
đó, bài học thành công trong xây dựng Nhà nước pháp trị XHCN đặc sắc Trung
Quốc và Nhà nước dân chủ xã hội ở các nước Bắc Âu và Aixơlen cần được vận
dụng trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
Nhà nước ở các nước Bắc Âu luôn năng động tận dụng những cơ hội, thành tựu
của khoa học công nghệ, đồng thời khắc phục có hiệu quả những tác động tiêu
cực của kinh tế thị trường. Mô hình quản lý nhà nước ở các nước Bắc Âu đều
đang chuyển sang mô hình “quản trị công mới”, “nhà nước kiến tạo” phục vụ
người dân và doanh nghiệp, xây dựng “chính phủ liêm chính” quản trị tốt các
lĩnh vực của đời sống xã hội; đổi mới nền dân chủ phù hợp với bối cảnh toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế... Nguyên nhân thành công của mô hình Bắc Âu đó
là xây dựng nhà nước kiến tạo bằng hoàn thiện thể chế, tăng cường quản lý phát
triển xã hội và phát huy dân chủ. Đây chính là những bài học quý báu về vận
dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về “biến nhà nước từ cơ quan
đứng trên xã hội trở thành cơ quan hoàn toàn phục tùng xã hội” và “nhân dân
tham gia quản lý nhà nước” mà Việt Nam rất cần nghiên cứu và học tập, tiếp
thu.
Trung Quốc cũng đã có rất nhiều thành công trong vận dụng  những giá trị của
chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước, đặc biệt trong thời Tổng Bí thư Tập Cận
Bình xây dựng Nhà nước pháp trị XHCN đặc sắc Trung Quốc. “Đường lối pháp
trị xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc là tôn chỉ xuyên suốt, thành tựu xây
dựng pháp trị của Trung Quốc, suy cho cùng, chính là mở ra đường lối pháp trị
xã hội chủ nghĩa Trung Quốc”(9). Bài học về sự kiên trì sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản đã được Tổng Bí thư Tập Cận Bình chỉ rõ: “Điều căn bản trong quản
trị đất nước của chúng ta chính là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc
và chế độ xã hội chủ nghĩa”(10).
Trong quá trình vận dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước
ở Việt Nam hiện nay cần có chủ trương vận dụng đúng đắn, khoa học, khách
quan, tránh tình trạng quan liêu, giáo điều, chủ quan, duy ý chí, sai lầm trong
nhận thức lý luận về xây dựng nhà nước và quản lý xã hội dẫn đến sai lầm trong
mô hình thiết kế, cơ chế vận hành của nhà nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay cần tránh những sai lầm trong nhận thức lý
luận và vận dụng quan điểm của các nhà kinh điển Mác- Lênin về nhà nước của
Đảng Cộng sản ở Liên Xô và một số nước Đông Âu. Chẳng hạn đã không tuân
thủ những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền XHCN,
nên đã biến Đảng dần trở thành tổ chức chính trị độc tôn quyền lực, đứng trên
pháp luật. Đồng thời, cần khắc phục căn bệnh hình thức về tính dân chủ của nhà
nước kiểu mới. “Việc hạn chế dân chủ như một thứ rào cản, hạn chế sự sáng tạo
trong xã hội, hạn chế vai trò của nhân dân trong giám sát quyền lực, phản biện
các chính sách xã hội... Đó cũng chính là mảnh đất tốt cho chủ nghĩa quan liêu,
là môi trường thuận lợi cho sự chuyên chế, độc đoán, là căn bệnh làm cho Đảng,
Nhà nước xa rời nhân dân, nhân dân mất dần niềm tin vào Đảng và Nhà
nước”(11).
Song song với khắc phục những sai lầm trong nhận thức và vận dụng nội dung
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước, Đảng Cộng sản Việt Nam cần
khắc phục những sai lầm về thái độ, phương pháp, cách thức vận dụng những
nội dung lý luận đó. “Sai lầm trong nhận thức lý luận còn thể hiện ở phương
pháp không đúng khi tiếp cận với chủ nghĩa Mác - Lênin, sự bảo thủ, hẹp hòi
trong thái độ ứng xử với những giá trị của văn minh nhân loại, nhất là những gì
liên quan đến CNTB. Đặc biệt, sự độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ và chủ
nghĩa cá nhân là nguyên nhân cản trở, không cho phép phát triển hệ thống lý
luận khoa học, khách quan, đúng đắn trong điều kiện CNXH hiện thực mô hình
Xôviết”(12).
4. Vận dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước phải bảo
đảm phát triển những giá trị đó sao cho phù hợp với thực tiễn phát triển
của cơ sở hạ tầng xã hội
Những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước chỉ có thể phát huy tác
dụng và có sức lan tỏa trong xã hội hiện đại khi nó được phát triển một cách
toàn diện và tương thích với thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0, toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế hiện nay. Bởi lẽ, “Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin là những thiên tài, nhưng các ông cũng bị quy định bởi thời đại, vì vậy
không thể đòi hỏi học thuyết của các ông trả lời thay cho các thế hệ sau, nhất là
đối với những vấn đề chưa xuất hiện ở thời đại các ông, hoặc thực tiễn thời đại
đó chưa đặt ra”(13). Việc vận dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về
nhà nước, đặc biệt về vai trò, chức năng của nhà nước, phương thức vận hành,
quản lý của nhà nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 phải được
phát triển sao cho thích ứng với thời đại mới.
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang được hình thành với xu hướng phát triển
dựa trên nền tảng tích hợp cao độ của hệ thống kết nối số hóa - vật lý - sinh học.
“Cuộc cách mạng sản xuất mới này được dự đoán sẽ tác động mạnh mẽ đến mọi
quốc gia, chính phủ, doanh nghiệp và người dân khắp toàn cầu, cũng như làm
thay đổi cách chúng ta sống, làm việc và sản xuất” (14).
Vận dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước ở Việt Nam
trong bối cảnh hiện nay đòi hỏi phải tôn trọng quy luật khách quan của sự phát
triển kinh tế - xã hội, xuất phát từ thực tiễn của Cách mạng công nghiệp 4.0,
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay đối với nhà nước. Đồng thời, cần
phải nghiên cứu những yêu cầu mới đang đặt ra đối với nhà nước trong bối cảnh
hiện nay, bảo đảm sao cho sự vận dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin
về nhà nước thực sự tương thích và đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu
và đối phó với những thách thức do Cách mạng công nghiệp 4.0, toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế đặt ra.
Trong xã hội công nghệ thông tin, công nghệ số hiện nay, Nhà nước không chỉ
một chiều ứng dụng những thành tựu của công nghệ hay chỉ một chiều chịu sự
tác động, áp lực, thách thức mạnh mẽ từ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 mà
còn có vai trò, trách nhiệm to lớn trong việc hoạch định chính sách, pháp luật,
xây dựng và phát triển xã hội công nghệ thông tin, xã hội tri thức, nền kinh tế tri
thức, kinh tế số. Thực hiện yêu cầu đó chính là vận dụng quan điểm mà C.Mác
và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh: “Nhà lập pháp phải coi mình như là nhà khoa
học tự nhiên. Ông ta không làm ra pháp luật, ông ta không phát minh ra chúng
mà chỉ nêu chúng lên; ông ta biểu hiện những quy luật nội tại của những mối
quan hệ tinh thần thành những đạo luật thành văn có ý thức”(15).
5. Vận dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước cần tiếp
thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại về vấn đề nhà nước phù hợp với bối cảnh
thế giới đã thay đổi, lý luận và thực tiễn về nhà nước cũng đã thay đổi
“Học thuyết Mác - Lênin được vận động trong một hệ thống đa dạng của các
trào lưu tư tưởng. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin không bao giờ coi lý
luận của mình là độc tôn chân lý, mà luôn luôn được cọ xát với các quan điểm
lý luận khác; là một quá trình phát triển, tự vượt qua chính mình, trên cơ sở
khoa học”(16).
V.I.Lênin cũng đã chỉ ra một công thức về CNXH, đồng thời là một chỉ dẫn
phương pháp luận rất quan trọng trong cách tiếp nhận các giá trị của văn minh
nhân loại: “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài: Chính quyền
xô-viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các tơ-rớt ở Mỹ +
ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc. etc. ++ = ∑(tổng số, tổng kết lại) = chủ nghĩa
xã hội”(17).
Câu 3: Vấn đề xây dựng con người Việt Nam giai đoạn hiện nay cần chú ý
điể nào? Vì sao? Luận giải và liên hệ thực tiễn
Một số vấn đề về xây dựng con người Việt Nam
1. Khung cảnh thuận lợi và khó khăn
a. Thuận lợi
Một, đất nước đang tiếp tục chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong một xu
thế toàn cầu hóa. Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO);
được bầu làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc
(nhiệm kỳ 2 năm 2008 - 2009, làm Chủ tịch 1 năm); năm 2010 Việt Nam làm
Chủ tịch luân phiên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN); gia nhập
Hiệp định CPTPP. Việt Nam còn gia nhập nhiều tổ chức quốc tế khác nữa. Chắc
chắn rằng, với việc tham gia ngày càng nhiều và ngày càng tích cực vào các tổ
chức quốc tế, thì Việt Nam có nhiều cơ hội để phát triển, thu hẹp dần khoảng
cách tụt hậu về phát triển kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới.
Hai, Việt Nam đang tiếp tục ổn định về nhiều mặt. Đây là một trong những điều
kiện tiên quyết, tạo ra môi trường bên trong và bên ngoài để đất nước phát triển
nhanh hơn, vững chắc hơn, bởi vì không ít nước trong khu vực và trên thế giới
không dễ gì có được điều kiện này.
Ba, hơn bao giờ hết, con người Việt Nam đang khát khao cống hiến nhằm đưa
đất nước tiến nhanh và bền vững. Việt Nam đã thấu chịu thử thách qua nỗi nhục
bị nước ngoài đô hộ hàng nghìn, hàng chục năm, nay nỗi nhục nghèo nàn và lạc
hậu đang chích vào tâm trí của con người Việt Nam nói chung, cứa vào lòng tự
trọng của người Việt Nam. Chưa bao giờ ý chí vươn lên thoát khỏi tình trạng
kém phát triển lại mạnh như bây giờ trong con người Việt Nam.
Bốn, trong tình hình quốc tế nói chung và tình hình Việt Nam nói riêng đang ở
vào trạng thái vừa hợp tác vừa đấu tranh bởi xu thế ngày càng mạnh của toàn
cầu hóa, bên cạnh những khó khăn, thì cũng có những thuận lợi cho sự nghiệp
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đó là xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển; là
sự phát triển nhanh hơn rất nhiều của khoa học và công nghệ so với tất cả các
thời kỳ cách mạng kỹ thuật trước đây (thường được gọi là thời kỳ cách mạng
công nghiệp 4.0), mà Việt Nam là nước đi sau có thể có lợi thế rút ngắn các
bước phát triển.
 b. Khó khăn
Bên cạnh những mặt thuận lợi, riêng toàn cầu hóa đặt ra cho các nước trên thế
giới, đặc biệt là các nước đang phát triển những thách thức và nguy cơ hết sức
to lớn: vấn đề sinh thái, ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên, vấn đề dân
số và sức khỏe cộng đồng, sự phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm
mang tính quốc tế, đặc biệt nguy hiểm là tội phạm có tổ chức. Về mặt chính trị,
đó là những thách thức nghiêm trọng đối với chủ quyền quốc gia. Điều này ảnh
hưởng tới cả phẩm chất và năng lực của con người. Điều đó được lý giải bằng
sự tác động của kinh tế đối với chính trị. Sự hội nhập về kinh tế tăng lên sẽ kéo
theo sự hội nhập về chính trị. Từ đó đặt ra thách thức khắc nghiệt là hội nhập
nhưng không hòa tan. Với lôgíc đó, người ta nói đến sự suy yếu của mô hình
quốc gia dân tộc. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, người ta thường nói về
sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia dân tộc hơn là đề cập đến sự độc lập
hoàn toàn của các quốc gia đó. Có thể nói, không thể có một quốc gia đứng độc
lập hoàn toàn tách biệt khỏi với thế giới bên ngoài trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Vấn đề là ở chỗ, đứng như thế nào, thế đứng ra sao để hội nhập toàn cầu hóa,
trong đó quốc gia-dân tộc tham gia rất tích cực, rất sâu, rất rộng nhưng “anh vẫn
là anh”, đó quả thực là vấn đề của cốt cách/bản sắc văn hóa quốc gia - dân tộc.
Thế giới đang và sẽ trở nên bất an hơn bao giờ hết: thế giới tiếp tục có những sự
xung đột dân tộc, khu vực, tôn giáo; ranh giới giữa chiến tranh chính nghĩa và
chiến tranh phi nghĩa nhiều lúc bị mờ đi và bị chuyển cực; giữa chủ quyền và
nhân quyền; giữa sự can thiệp cần thiết của các tổ chức quốc tế, kể cả tổ chức
lớn nhất là Liên Hợp quốc, với việc vi phạm bốn yếu tố quyền dân tộc cơ bản
của mỗi quốc gia là độc lập - chủ quyền - thống nhất - toàn vẹn lãnh thổ, trở nên
mong manh khó phân biệt hơn bao giờ hết. Thế giới càng trở nên bất an hơn bởi
chủ nghĩa khủng bố và nguy cơ tiềm tàng vũ khí hạt nhân. Thế giới bị tàn phá
bởi chính con người trong nỗ lực/lòng tham tìm mọi cách tăng trưởng kinh tế
mà chưa chú ý đúng mức cũng như không giải quyết được các vấn đề khác,
trong đó có vấn đề môi trường sinh thái để phát triển bền vững.
Tháng 1 - 1994, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng
đã chỉ ra bốn thách thức và đồng thời cũng là bốn nguy cơ lớn trong quá trình
phát triển của những năm sau đó ở Việt Nam: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh
tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát thấp, nhịp
độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường
cạnh tranh gay gắt; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục
được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện; nguy cơ
về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ diễn biến hòa bình của các thế lực
thù địch. Các nguy cơ đó có liên quan mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau”(2).
Việc chỉ ra bốn nguy cơ như vậy là rất chính xác. Đến các Đại hội sau đó và gần
đây nhất là Đại hội XII của Đảng (2016), Đảng đều khẳng định sự nhận định
đúng đắn của Nghị quyết Hội nghị này. Trong giai đoạn hiện nay, nguy cơ lớn
nhất, nguy cơ của mọi nguy cơ là: nguy cơ mất chế độ chính trị đang xây dựng;
và như vậy, rất khó khăn cho việc xây dựng con người Việt Nam.
2. Một số yêu cầu đặt ra cho việc xây dựng con người
a. Hai dự báo
Một là, thế giới tiếp tục bất an và sự cạnh tranh giữa các quốc gia-dân tộc sẽ
diễn ra khốc liệt hơn. Bản chất của nhân loại là cạnh tranh để sinh tồn và phát
triển. Có hai biểu hiện của cạnh tranh: Một, tiêu diệt đối phương để bản thân
mình tồn tại và phát triển. Hai, cạnh tranh lành mạnh hơn, hai bên hoặc nhiều
bên gọi nhau bằng “đối tác”, cùng hợp tác và phát triển. Hợp tác nhưng thực ra
là sự cạnh tranh để cùng tồn tại và cùng phát triển theo kiểu các bên cùng thắng.
Hiện nay, thế giới đang diễn ra đồng thời cả hai kiểu; không thật rõ kiểu nào
thắng thế, kiểu nào phổ biến hơn kiểu nào. Trong kiểu 1 có kiểu 2. Cho nên mới
có kiểu hỗn hợp là “vừa hợp tác vừa đấu tranh”. Dù kiểu gì đi chăng nữa thì vẫn
diễn ra việc cạnh tranh khốc liệt để tồn tại và phát triển.
Hai là, con người nói chung đang có xu hướng trượt dài về đạo đức. Đạo đức có
mặt biểu hiện rất cơ bản là thông qua sự hành xử của chính con người.  Xã hội
loài người đang bước sang một giai đoạn phát triển mới, khi những tiến bộ của
khoa học và công nghệ đã đưa con người tiến lên một bước mới trong việc tạo
ra các của cải vật chất. Thế kỷ XXI, mới chỉ chưa đầy hai thập niên, nhưng của
cải vật chất do con người làm ra đã bằng hàng mấy chục năm của thế kỷ trước
cộng lại. Nhưng, lẽ ra đi kèm theo sự tăng lên của của cải vật chất là sự tiến bộ
của văn hóa, của đạo đức, thì chúng ta chưa thấy điều đó. Kinh tế Việt Nam
phát triển trong những năm đổi mới, song văn hóa-đạo đức phát triển chưa
tương xứng.
Ngoài hai dự báo trên đây, có thể còn có sự phát triển như vũ bão của khoa học
công nghệ, nhất là công nghệ thông tin. Một chiếc smartphone phiên bản mới ra
đời ngày hôm nay thì ngày mai đã là lạc hậu. Giao lưu trực tuyến khi có mạng
toàn cầu internet đang được sử dụng phổ biến, phổ cập trên trái đất này. Trực
tuyến và tức thời đối với tất cả mọi người - đó là điểm mới mà nhiều người gọi
là “thế giới phẳng”. Sự phát triển của khoa học và công nghệ, tuy có nhiều hệ
lụy, nhưng làm cho con người phải nhanh chóng thích ứng trong không gian
cạnh tranh sinh tồn. Khái niệm thời gian - không gian trên thực tế hầu như đã bị
biến đổi. Đó là những bước tiến thần kỳ buộc con người phải điều chỉnh, thay 
đổi cả cách thức giao tiếp, ứng xử và chuẩn mực đánh giá đạo đức, nhân cách,
lối sống và về cả năng lực làm việc.
b. Một số vấn đề đặt ra
- Con người là trung tâm. Khi hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ và Việt Nam
nằm trong dòng xoáy của toàn cầu hóa, bị chế định trong “luật chơi” quốc tế đã
định sẵn mà chúng ta không có quyền sửa. Sự nghiệp xây dựng đất nước ta
trong môi trường quốc tế sẽ diễn ra trong hoàn cảnh cạnh tranh gay gắt hơn bao
giờ hết, nó đầy nghiệt ngã, quyết liệt gấp bội so với trước đây, rất có thể mức độ
và hệ số rủi ro sẽ rất lớn và dày hơn. Để chấp nhận vượt qua thách thức, nguy
cơ, đòi hỏi tất cả các thành viên hệ thống chính trị, trong đó nổi rõ con người
Việt Nam có những phẩm chất và năng lực vượt trội so với thời kỳ trước.
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất cho đến nay đã trải qua hơn 30 năm với 7
nhiệm kỳ Đại hội Đảng. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta càng thấy rõ hơn,
sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo đứng trước thời cơ, thách thức và nguy cơ
lớn, nếu Đảng ta biết nắm lấy thời cơ, vượt qua thách thức, đề phòng và khắc
phục được những nguy cơ, thì đất nước ta sẽ phát triển nhanh và bền vững trên
con đường CNXH. Điều này không có gì hơn là phụ thuộc vào chính yếu tố con
người.
Như vậy là, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong toàn cầu hóa đã trở
thành yêu cầu, dung môi buộc con người Việt Nam phải vươn lên về mọi mặt,
đưa đất nước sánh vai cũng các cường quốc năm châu. Đảng và nhân dân Việt
Nam đã xác định tiến bước trên con đường phát triển ấy. Do đó, hoàn cảnh này
chính là cú hích tích cực, tạo động lực mạnh mẽ để xây dựng con người Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay. Hồ Chí Minh đã nêu lên quan điểm rằng, muốn
xây dựng CNXH thì trước hết phải có con người XHCN. Học cách nói của Hồ
Chí Minh trên đây, chúng ta có thể nói rằng, muốn có xã hội phát triển công
nghiệp 4.0 thì phải có con người 4.0.
Muốn cạnh tranh thì phải có sức mạnh, có thế mạnh, biết nắm lấy mọi cơ hội
thuận lợi của Thiên - Địa - Nhân  để có được thế chân vạc Thời - Thế - Lực. 
Con người Việt Nam trong cuộc sinh tồn và phát triển phải bằng sức mạnh cạnh
tranh đúc từ sức mạnh nội tại kết hợp với yếu tố bên trong và bên ngoài, biến
ngoại lực thành nội lực. Để làm được những công việc vĩ đại đó thì cần những
con người có đủ phẩm chất và năng lực, phải là những người bằng bàn tay khối
óc của chính mình làm nên sự nghiệp lớn, đưa dân tộc tiến vào xã hội đã được
xác định: xã hội xã hội cộng sản, nơi mà ở đó con người được phát triển tự do,
toàn diện như C. Mác và Ph.Ăngghen đã nêu trong bản Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản cách đây 170 năm (tháng 2 -1848): Sự phát triển tự do của mỗi người
là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
- Chú trọng hơn về giáo dục. Giáo dục không chỉ là quốc sách mà còn là sinh
mệnh chính trị của dân tộc. Xét cho đến cùng, những sai lầm, khuyết điểm, hạn
chế của con người Việt Nam nói chung đều là do những sai lầm, khuyết điểm,
hạn chế của công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực này mà ra. Có một triết
lý được nhiều người thừa nhận: “Muốn dự đoán tương lai đất nước, hãy nhìn
vào giáo dục, muốn đánh giá nền giáo dục, hãy nhìn vào đãi ngộ đối với nhà 
giáo”. Trên thế giới ngày nay, những người giàu nhất thế giới chẳng có ai không
tốt nghiệp phổ thông, không ai mù chữ lại có thể trở thành chính khách. Chúng
tôi đồng cảm với ý kiến của bà Olga Yurievna, Bộ trưởng Bộ Giáo dục Liên
bang Nga khi cho rằng: “Bộ trưởng quan trọng nhất trong chính phủ là Bộ
trưởng Bộ Giáo dục. Bộ trưởng Bộ Y tế tồi cùng lắm chỉ gây khó khăn cho
người dân khám chữa bệnh và ảnh hưởng tới sức khỏe. Bộ trưởng Bộ Kinh tế
tồi cùng lắm là làm chậm sự phát triển kinh tế. Nhưng Bộ trưởng Bộ Giáo dục
tồi thì phá hoại cả tương lai của đất nước và của quốc gia”(3). Những năm 60
của thế kỷ XX, trước thành tựu khoa học và kỹ thuật vượt trội của Liên Xô,
Tổng thống Mỹ John Kennedy cho rằng: “Chúng ta thua người Nga bắt đầu từ
ghế nhà trường”(4).
Sự cố gắng của Đảng và Nhà nước ta đã được thể hiện cơ bản trong Chiến lược
Phát triển giáo dục, ban hành kèm theo Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13-6-
2012 của Thủ tướng Chính phủ cũng như trong Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày
9-6-2014 của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, mà
Chính phủ đã ra Nghị quyết số 102/NQ-CP ngày 31-12-2014 về Chương trình
hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI. Song, trên thực tế, việc
thực hiện các nghị quyết cũng như Chiến lược này còn rất lúng túng, trong đó
có nguyên nhân từ những cán bộ chủ chốt của ngành. Hàng chục năm qua, Nhà
nước đã có cố gắng thực hiện quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, do
đó, mỗi năm đã chi khoảng 20% ngân sách cho giáo dục. Đó là chưa kể kinh phí
xã hội chi trả cho các dịch vụ giáo dục. Đó là con số không nhỏ nếu đem so
sánh với các ngành khác. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đáng ghi nhận
về giáo dục, vẫn còn nhiều bất cập và rào cản từ cơ chế, chính sách, trong đó
phải kể đến cả sự bất cập về nhân sự cán bộ chủ chốt.
 - Tập trung các nguồn lực xây dựng bộ tiêu chí con người Việt Nam. Đã có
không ít đề tài nghiên cứu khoa học và nhiều tác giả đã đưa ra các tiêu chí về
con người Việt Nam(5). Đại hội XII của Đảng cũng đã nêu lên một số nội dung
về xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới. Chẳng hạn:
- Xây dựng “con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện -
mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”(6), coi đó là
“một mục tiêu của chiến lược phát triển”(7).
- “Phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn,
trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật”(8) “mọi
người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.
Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các
giá trị cao đẹp, nhân văn. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn,
lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây
dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người”(9).
- Đối với đội ngũ đảng viên: “tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng”(10), “chống suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi
đôi với làm”(11).
Tổng hợp lại, có hai tiếp cận về xây dựng con người Việt Nam giai đoạn hiện
nay.
Tiếp cận thứ nhất: Có thể khái lược những tiêu chí của con người Việt Nam giai
đoạn hiện nay là: (1) Có sức khỏe tốt (hiểu sức khỏe là cả về thể xác và tinh
thần, theo đúng quan niệm của Hồ Chí Minh và của UNESCO); (2) Có tinh thần
yêu nước; (3) Có đạo đức tốt (bao gồm cả đạo đức nghề nghiệp), trong đó bao
hàm cả những nội dung mà trong văn kiện Đại hội XII đã nêu; (4) Có kỹ năng
sống tốt (bao gồm cả trí lực và kỹ năng công tác); (5) Có trách nhiệm công dân;
(6) Con người Việt Nam có những tố chất cơ bản của “công dân toàn cầu” trong
thế giới phẳng và trong hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa. Sự tách biệt các tiêu chí
như vậy chỉ là tương đối, vì trong tiêu chí này có một số nội dung nằm ở tiêu
chí kia, và ngược lại. 6 tiêu chí trên đây cần được triển khai nghiên cứu, luận
giải để xác định một cách chi tiết. Do vậy, có thể coi đây là 6 nhóm tiêu chí về
con người Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Tiếp cận thứ hai: Tiếp cận theo hướng như Đại hội XII của Đảng, trên 5 mặt: 1)
Đạo đức; 2) Nhân cách; 3) Lối sống; 4) Trí tuệ; 5) Năng lực làm việc. Từ tiếp
cận thứ hai này, có thể gộp vào hai nhóm, mỗi nhóm tập hợp các nội dung gần
nhau: Nhóm 1 - Đạo đức, nhân cách, lối sống; Nhóm 2 - Trí tuệ, năng lực làm
việc, trong “năng lực làm việc” có cả yếu tố bảo đảm sức khỏe.
Trong nhóm 1, cần bảo đảm các yếu tố sau đây:
- Có lòng nhân ái (hoặc tính nhân văn), tức là thái độ và hành động yêu thương
quý trọng con người, trước hết là từ những người thân thuộc, sau nữa mở rộng
ra con người quốc gia, con người quốc tế và đặc biệt là con người lao động, con
người dễ bị tổn thương trong xã hội. Nói chung là thái độ đối với nhân dân (hiếu
với dân).
- Có lòng yêu nước (cũng có thể đây là yếu tố “trung với nước” theo quan niệm
của Hồ Chí Minh). Yêu nước ở đây bắt đầu từ quê hương đến yêu những giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
- Có ý thức và hành động cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
- Con người phát triển toàn diện về chân - thể - mỹ, có lối sống giản dị, lành
mạnh, vì cộng đồng, có ý thức thượng tôn pháp luật.
Trong nhóm 2, cần bảo đảm các yếu tố sau đây:
- Xây dựng con người có đủ sức khỏe cơ bản để làm điều kiện tiên quyết có
năng lực trí tuệ và nâng cao năng lực, trí tuệ (Sức khỏe được hiểu ở đây không
chỉ là thể xác mà còn là sức khỏe tinh thần). Trách nhiệm này không chỉ thuộc
về ngành y tế nước nhà mà còn của cả hệ thống chính trị, của từng gia đình và
cá nhân. Ở đây đòi hỏi cả hệ thống chăm lo về dân số và phát triển, trong đó có
cả những nội dung về chăm lo cải thiện chất lượng nòi giống trong thế so sánh
với các nước trên thế giới.
- Con người được đào tạo một cách đầy đủ, theo bài bản tích cực trong hệ thống
giáo dục quốc dân, tiếp cận sự tiến bộ giáo dục quốc tế, đồng thời con người
Việt Nam trong thời kỳ này phải tự giáo dục, tự đào tạo (tự học suốt đời). Tất cả
những cái đó là vừa để có được những tri thức và kỹ năng cơ bản, cần thiết, phù
hợp với từng đối tượng, vừa coi trọng nền tảng cơ bản, vừa coi trọng chuyên
sâu.
- Làm trong sạch môi trường văn hóa đạo đức. Môi trường văn hóa đạo đức
hiện nay ở Việt Nam rất đáng lo ngại:
- Nạn ma túy trong xã hội. Ma túy hủy hoại sức khỏe, giống nòi, gia đình, cộng
đồng, xã hội. Mức độ nạn ma túy (sử dụng, buôn bán...)  hiện nay rất cao, mà
chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn. Ma túy đã len lỏi vào cả cộng đồng
nông thôn, nơi xưa nay thường được coi là ít biến động và ít giao lưu nhất, nơi
đang lưu giữ và vận hành nhiều truyền thống tốt đẹp. Sự lan tỏa của tệ nạn này
đang gia tăng cường độ, đặc biệt nghiêm trọng là đối với những địa phương
giáp ranh với nước ngoài.
- Bạo lực đang có xu hướng phát triển rất mạnh. Bạo lực diễn ra trên diện rộng,
ở cả ba không gian: gia đình, học đường, xã hội; cả ba mặt đó đều nghiêm trọng
như nhau. Có bạo lực ở học đường là do có bạo lực ở gia đình và xã hội, và
ngược lại.
- Mức độ tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, cũng đang có xu hướng tăng
mạnh. Tội phạm ở Việt Nam có xu hướng ngày càng gia tăng, biểu hiện trên
nhiều lĩnh vực. Đáng chú ý nhất và thật sự nguy hiểm khôn lường là sự gia tăng
của tội phạm có tổ chức.
- Văn hóa chính trị ở Việt Nam đang có nhiều tiêu cực. Tình trạng một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, kể
cả trong cán bộ cấp cao, diễn ra từ lâu mà Đại hội Đảng kỳ nào cũng nêu nhưng
vẫn chưa ngăn chặn, đẩy lùi được. Trong văn hóa chính trị hiện nay, chúng tôi
thấy rằng, đỉnh điểm của tiêu cực trong hệ thống chính trị là tham nhũng; là 4
biểu hiện của căn bệnh lệch lạc giữa nói và làm: (1) Nói nhiều làm ít; (2) Nói thì
hay làm thì dở; (3) Nói mà không làm; (4) Nói một đằng làm một nẻo.
Những điều trên đây cần có thể chế bảo đảm như là một nội dung của môi
trường văn hóa đạo đức. Có thể chế (Hiến pháp, pháp luật, những quy định dưới
luật...) để chế định hành vi của con người. Đồng thời, tích cực thực hiện chúng
trong cuộc sống; tạo ra tâm thế tích cực cho con người Việt Nam trong suy nghĩ
và hành động, tức là đòi hỏi tính tự giác của con người mà nếu thiếu nó, mọi cố
gắng xây dựng con người Việt Nam theo những điều tốt đẹp sẽ không có ý
nghĩa.
Trên đây là một số vấn đề đặt ra, cần chú ý để tập trung giải quyết, nếu thực sự
mong muốn xây dựng con người Việt Nam để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh
và bền vững đất nước.
Đã đến lúc không thể hô hào chung chung mà cần bắt tay vào hành động với ý
chí lớn lao, bởi đây là vấn đề rất hệ trọng, xây dựng con người và đi cùng với đó
là vấn đề tổ chức, bộ máy. Hơn lúc nào hết, chúng ta càng thấy rõ vấn đề xây
dựng con người quan trọng như thế nào, nó vừa là mục tiêu và vừa là động lực
của sự phát triển của xã hội Việt Nam. Sự nghiệp này là vĩ đại, không thể một
sớm một chiều mà xong. Đất nước đang đứng trước những thách thức lớn. Con
người Việt Nam đang đứng trước sứ mạng quang vinh nhưng đầy thách thức, đó
là đưa đất nước tiến nhanh và bền vững, góp phần xây dựng một thế giới văn
minh mà ở đó những giá trị về con người được coi trọng, được phát triển toàn
diện.
Câu 1: Vì sao sự phát triển các hình thái KT-XH là mọt qua trình lịch sử tự
nhiên
- Khái niệm hình thái kinh tế xã hội: là phạm trù chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch
sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp
với trình độ của
lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng
trên những quan hệ sản xuất đó.
- Kết cấu hình thái kinh tế xã hội bao gồm:
+ Quan hệ sản xuất.
+ Lực lượng sản xuất.
+ Kiến trúc thượng tầng.
- Sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý muốn chủ quan của
con người mà tuân theo các quy luật QHSX phù hợp trình độ phát triển của
LLSX, quy luật
KTTT phù hợp với CSHT.
- Nguồn gốc của mọi sự vận động và phát triển xã hội đều có nguyên nhân trực
tiếp hoặc gián tiếp từ sự phát triển của LLSX. Sự vận động và phát triển của các
hình thái kinh
tế xã hội có thể do tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai
trò quyết định là sự tác đông của các quy luật khách quan, đó là quá trình khách
quan. Tức là sự vận động phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là quá trình
lịch sử tự nhiên.

Câu 2: VN bỏ qua TBCN có phải tuân theo qui luạt không? Vì sao
Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
(TBCN) không phải theo phương thức trực tiếp, mà phải đi qua các bước trung
gian, phải bắc những “chiếc cầu nhỏ” đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Việc
bỏ qua chế độ TBCN, về cơ bản, chính là: “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu,
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”(1).

Bỏ qua việc xác lập vị trí chi phối của quan hệ sản xuất TBCN trong nền sản
xuất xã hội đang vận động đi lên CNXH, cũng có nghĩa ở đó còn tồn tại ở mức
độ nhất định các quan hệ sản xuất tư bản và tiền tư bản, chúng vận động và tác
động đến sự phát triển của nền kinh tế - xã hội đang định hướng đi lên CNXH.
Chính vì vậy, trong thực tiễn cần có những chính sách để các quan hệ này vận
động, đóng góp vào sự tăng trưởng chung, đồng thời hạn chế tác động tiêu cực
của chúng.

You might also like