Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 7

CÂU CÁ MÙA THU- NGUYỄN KHUYẾN

Đề 3: Cảm nhận về bức tranh mùa thu và vẻ đẹp tâm hồn thi nhân trong bài Câu cá mùa thu
( Nguyễn Khuyến)
I. Mở bài
VD1: “ Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm” (Voltaire). Thơ ca
chỉ bật ra khi trong trái tim người nghệ sĩ đang rung lên những nhịp đập thổn thức, đang ngân lên những giai
điệu của tâm hồn. Chính bởi vậy mỗi vần thơ dù ngắn gọn nhưng lại có sức truyền cảm lớn đến với người
đọc. Và có những bài thơ ra đời cách chúng ta hàng thế kỉ nhưng tới nay vẫn còn nguyên giá trị. Tác phẩm
Câu cá mùa thu của tác giả Nguyễn Khuyến là một trong những thi phẩm như vậy. Đến với bài thơ người
đọc đặc biệt ấn tượng với bức tranh mùa thu đẹp: dịu nhẹ, thanh sơ , trong trẻo, tĩnh lặng và buồn điển
hình cho mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ và vẻ đẹp tâm hồn thi nhân
“ Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
………………………………….
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”

VD 2: Bàn về quy luật sáng tạo nghệ thuật , William Wordworth- thi sĩ người Anh từng nói “ Thơ ca là
sự bột phát của những tình cảm mãnh liệt”. Với ý niệm ấy, mỗi bài thơ chính là những dòng chảy cảm
xúc mạnh mẽ, mãnh liệt, giàu tâm huyết của người cầm bút. Đến với thơ là đi vào thế giới tâm tình của thi
nhân. Bởi thơ là tiếng lòng, là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc. Nhà thơ với“ trực giác nhiệm màu” ( Thạch
Lam), với tâm hồn nhạy cảm tinh tế dễ rung động trước ngoại cảnh đã bật lên tiếng thơ mà góp hương sắc
cho đời. Tác phẩm Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến chính là tiếng thơ như thế. Đọc bài thơ người đọc
đặc biệt ấn tượng với bức tranh mùa thu quê hương điển hình cho mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ và vẻ
đẹp tâm hồn thi nhân
“ Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
………………………………….
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
VD3: Nhà thơ Mayakovsky từng nói về sự tuyệt diệu của thơ: “ Trên đời có những thứ chỉ được giải
quyết bằng thơ”. Đơn giản là vì : Thơ ca là sự hiện thân cho những điều thầm kín nhất của trái tim và
những điều thiêng liêng nhất trong tâm hồn con người, thơ là kết tinh của cái Đẹp trong mọi hình thức nghệ
thuật. Những đặc trưng đó của thơ, thể hiện rõ nhất ở bài thơ “ CCMT ” của nhà thơ NK. Bài thơ đã vẽ lên
bức tranh mùa thu quê hương với những nét đặc trưng nhất của vùng đồng bằng Bắc Bộ và thể hiện
một cách tinh tế vẻ đẹp tâm hồn thi nh
“ Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
………………………………….
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
II. Thân bài
* Khái quát chung
* Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền của văn học trung đại Việt Nam. Ông là
người có tài năng, có cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc, từng bày tỏ thái độ kiên
quyết không hợp tác với chính quyền Thực dân Pháp.
* Thơ Nguyễn Khuyến thể hiện tình yêu sâu sắc với quê hương, đất nước, gia đình, bè bạn.,,đồng thời bộc
lộ tấm lòng ưu ái đối với dân với nước. Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ
Nôm. Mà trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến nức danh nhất là chùm thơ thu gồm ba bài: Thu vịnh, Thu
ẩm và Thu điếu. Riêng bài "Thu điếu", được khẳng định là "điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh
Việt Nam"( Xuân Diêu). Cả ba bài thơ có thể đều ra đời trong thời gian Nguyễn Khuyến cáo quan về ở ẩn,
sống gần gũi, gắn bó với mảnh đất làng Yên Đổ quê hương Bình Lục, Hà nam
* Mùa thu thường gieo vào lòng người những xúc cảm tinh tế. Bởi vậy, nó là đề tài quen thuộc trong thi ca
Đông, Tây kim cổ là đề tài quen thuộc trong thơ ca. Và bài thơ Câu cá mùa thu đã góp phần khơi thêm mạch
nguồn ko bao giờ vơi cạn về mùa thu muôn thưở
2. Phân tích
2.1 . Bức tranh mùa thu
a. Trước hết, bài thơ đã khắc họa một bức tranh mùa thu dịu nhẹ, thanh sơ, trong trẻo đầy ắp không
khí của một làng quê vùng đồng bằng – Bắc Bộ Việt Nam ( hoặc bức tranh thu bình dị, đơn sơ,
trong sáng, thanh nhã của làng quê…)
“Một cuộc thám hiểm thực sự không phải ở chỗ cần một vùng đất mới mà cần một đôi mắt mới ”. (M.
Prout). Điều quyết định tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm thi ca ko phải ở đề tài mà quan trọng là nhà thơ
phải có cách nhìn riêng, cách khám phá riêng. Viết về mùa thu, nhà thơ đã thể hiện cái nhìn có chiều sâu
và có những khám phá, phát hiện tinh tế
* Điểm nhìn để cảm nhận cảnh thu bắt đầu từ chiếc thuyền câu nhìn ra mặt ao, nhìn lên bầu trời, nhìn tới
ngõ trúc rồi lại trở về với ao thu và thuyền câu-> Cảnh thu được đón nhận từ gần đến cao xa rồi lại từ cao
xa trở về gần. Từ một khung ao hẹp, không gian mùa thu, cảnh sắc mùa thu mở ra thật nhiều hướng đa
dạng và sinh động, tất cả đều toát lên cái hồn thu, cảnh thu xiết bao thân thuộc của làng quê đồng bằng Bắc
Bộ
a1. Bài thơ được mở ra với hình ảnh xinh xắn, quen thuộc : “ao thu” và “chiếc thuyền câu” nhỏ bé:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
* Hình ảnh “ao thu”:
- H/ảnh “ao thu”: là h/ảnh gần gũi thân thuộc bình dị gắn bó với làng quê và cũng là nét đặc trưng của vùng
đồng chiêm trũng Bắc Bộ, quê hương của tác giả
+ Ao đã từng xuất hiện trong câu thơ của Nguyễn Trãi thế kỉ XV: “ Ao cạn vớt bèo cấy muống/ Đìa sen vớt
cỏ ương sen”
+ Và trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm : “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”
->Nguyễn Khuyến chọn: “ao thu” để khơi nguồn cảm hứng vì đó là điệu tâm hồn ông: chân thật, bình dị và
gắn bó với quê hương
- “ Ao thu” trong tấm lòng yêu thương và rung cảm của thẩm mĩ của NK đẹp, gợi cảm và đầy chất thơ. Ao
thu được miêu tả qua hai tính từ cực tả chỉ xúc giác : “lạnh lẽo” và thị giác: “trong veo”
+ “lạnh lẽo”: gợi không khí se se lạnh, đượm vẻ hiu hắt của mùa thu
+ “nước trong veo”: trong trẻo đến mức nhìn thấy tận đáy, hơn thế nó còn gợi ra độ thanh sạch, sự bất
động tĩnh lặng của mặt nước ao thu
+ hai âm : “eo” được gieo vần trong một câu thơ khiến cho cảm giác về cái lạnh và sự ngưng đọng của
không gian càng trở nên tuyệt đối đồng thời còn gợi ra ko gian nhỏ hẹp của ao thu
-> Nước ao trong veo tỏa hơi thu lạnh lẽo, sương khói mùa thu như bao trùm cảnh vật như vẽ lên trước mắt
người đọc một khoảng không gian mùa thu trong sáng và tĩnh lặng đến vô cùng . Bức tranh mùa thu
khiến ta nhớ tới mùa thu trong cái nhìn của thi sĩ đa tình Xuân Diệu
“Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò”
Và hình ảnh thu về trong hương ổi cùng làn gió qua cái nhìn ngỡ ngàng của Hữu Thỉnh :
“Bỗng nhận ra hương ổi/Phả vào trong gió se/Sương chùng chình qua ngõ/Hình như thu đã về”
* Trên nền cảnh ấy thấp thoáng h/ảnh “ một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”:
- Trong VHTĐ, h/ảnh con thuyền cũng là một thi liệu quen thuộc xuất hiện cùng các tao nhân mặc khách
trong thú tiêu dao, dạo chơi nơi non kì thủy trí , với những ẩn sĩ lánh đục về trong cày nhàn, câu quạnh.
Trong thơ Nguyễn Khuyến: đây là một h/ảnh giản dị gắn với ao chuôm của làng quê
- Thi liệu ko mới nhưng sắc điệu thẩm mĩ đã khác: Nhà thơ chẳng gợi tả màu sắc mà chỉ độc tả dáng hình: “
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
+ Số từ “một” kết hợp với từ láy “tẻo teo” khiến ta hình dung chiếc thuyền như bị thu hẹp nhỏ dần đến mức
như co lại thành một nét chấm trên chiếc ao thu, con thuyền như đang thu mình lại trong lẻ loi, đơn chiếc
+ Đây là cảm nhận rất tinh tế bởi theo Xuân Diệu, vùng đất chiêm trũng Bình Lục ( Hà nam) có cơ man nào
là ao, nhiều ao nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà bé tẻo teo
=> Cái “tẻo teo” của con thuyền cùng với cái “lạnh lẽo, trong veo” của ao thu đã đem đến cho ta một cảm
giác kì lạ về h/ảnh làng quê đất Việt giản dị, mộc mạc đơn sơ nhưng hồn thu thì vẫn đẹp kiêu sa như một
bức tranh thủy mặc với những nét chấm phá tuyệt diệu. Như vậy, hai câu đề ko chỉ giới thiệu cảnh câu cá
mùa thu mà còn gợi ra vẻ đẹp của mùa thu Bắc Bộ. Câu thơ ko trực tiếp bày tỏ tâm trạng nhưng đã thấp
thoáng nỗi niềm tâm sự của thi nhân
a 2. Bức tranh thiên nhiên mùa thu không chỉ có những hình ảnh quen thuộc mà còn có những sắc
màu và đường nét tinh tế: “sóng biếc, lá vàng”
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
* Màu sắc:
- Bức tranh có màu biếc của sóng “sóng biếc”: gợi liên tưởng đến làn nước trong xanh, hiền hòa. Màu biếc
ko phải là màu trong xanh đơn thuần mà là màu xanh trong của ngọc. Dường như đó là kết quả của sự hòa
hợp giữa độ trong veo của nước với cái xanh ngắt của bầu trời và một chút nắng vàng nhẹ của mùa thu
- Có sắc vàng của là “lá vàng”: đây là thi liệu quen thuộc, gợi cảm, là tín hiệu của mùa thu. Sắc vàng ko
chỉ có trong văn học trung đại mà trong VH hiện đại cũng có biết bao thi nhân đã ngợi ca
“ Con nai vàng ngơ ngác/ Đạp trên lá vàng khô” ( Tiếng Thu- Lưu Trọng Lư)
Hay “ Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông” ( Bích Khê)
-> Hai câu thơ đã pha màu cho bức tranh thu nhưng chỉ có 2 sắc màu nổi bật: biếc và vàng. Màu biếc của
sóng hòa hợp với sắc vàng của lá cũng đủ để tạo nên một bức tranh quê đơn sơ mà lộng lẫy . Nói khác đi,
đây là một sự hòa sắc tạo hình đạt đến sự thú vị thể hiện những khám phá phát hiện tinh tế về mùa thu và
tài năng nghệ thuật tuyệt vời của thi nhân.
* Chuyển động: Bức tranh thu ko chỉ có tĩnh mà còn có chuyển động: một sự chuyển động nhẹ, khẽ khàng ,
tinh vi: “Sóng hơi gợn tí – Lá khẽ đưa vèo”
- H/ảnh “ Sóng hơi gợn tí”: khiến ta hình dung những làn sóng biếc xao động khi gió thu khẽ khàng lướt qua
chỉ hơi gợn trên mặt ao thành hình
- H/a: “Lá khẽ đưa vèo” là một h/ảnh giàu sức gợi
+ “vèo” là tính từ miêu tả tốc độ bay nhanh nhẹ nhàng vút qua rồi mất hút của chiếc lá mùa thu
+Từ “vèo” còn là từ ngữ biểu thị âm thanh của chiếc lá rơi, lá vàng cũng theo gió mà đưa vèo thành tiếng .
+ “ Vèo”còn là yếu tố lấy động tả tĩnh, ko gian xung quanh phải tĩnh lặng đến độ nào thì nhà thơ mới có thể
nghe tiếng rơi của lá vì thế mà câu thơ như càng khắc sâu ấn tượng ở người đọc về một bức tranh thu thanh
vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị.
->Dùng từ “khẽ đưa vèo”, nhà thơ vừa gợi ra được tốc độ bay của gió vừa vẽ ra được độ rơi của chiếc lá
mùa thu. Ông quả là một bậc thầy về việc sử dụng từ ngữ trong miêu tả.
-> Nghệ thuật lấy động tả tĩnh càng khắc sâu ấn tượng ở ng đọc về một bức tranh thu thanh vắng, tĩnh lặng,
buồn thi vị.
+ Ý thơ khiến người đọc nhớ tới một vần thơ cổ
“ Ngô đồng nhất diệp lac/ Thiên hạ cộng tri thu”
(Ngô đồng một lá rơi cành/ Báo cho thiên hạ tin lành sang thu)
Nhìn chiếc lá vàng rơi, ta biết mùa thu đã về. Ở đây, Nguyễn Khuyến ko chỉ nhìn mà ông còn lắng
nghe được tiếng lá rơi trước gió “khẽ đưa vèo”. Chính vì vậy, nhà thơ Tản Đà đã hết lời ca ngợi chữ “vèo”
trong thơ Nguyễn Khuyến. Ông đã nói cả đời thơ của mình may ra mới có được câu thơ vừa ý : “ Vèo trông
lá rụng đầy sân” ( Cảm thu, tiễn thu)
-> Chữ “vèo” trong thơ 2 ông đều thể hiện tâm trạng bâng khuâng lắng nghe của thi nhân trước mùa thu của
đất trời
+ Với Nguyễn Khuyến, chữ “vèo” trong câu thơ dường như ko chỉ tả ngoại cảnh mà còn là tâm cảnh. Từ
“vèo” đâu chỉ tốc độ bay của lá mà còn gợi ra cảm nhận về thời thế. Thời gian vèo trôi với biết bao thay đổi
đáng buồn cho đất nước mà ông chẳng giúp được gì. Đó là tâm sự của một nhà nho nặng lòng với quê
hương, đất nước mà bất lực trước thời cuộc vần xoay nên càng cô đơn. Đúng như Lưu Trọng Lư đã khẳng
định “ Một câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi”
- Nghệ thuật đối ở 2 câu thực cũng rất điêu luyện: lá vàng >< sóng biếc; tốc độ “vèo” của lá bay tương ứng
với mức độ “tí” của gợn sóng tạo nên một không gian hai chiều trên dưới hữu tình, cân xứng hòa hợp
-> “ Thơ bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ” (Viên Mai). Thơ bắt nguồn và đơm hoa kết trái từ tình
cảm, cảm xúc của con người nhưng song song với mạch cảm xúc trong thơ lại là tài năng nghệ thuật của nhà
thơ. Với nghệ thuật đối, với các tính từ, trạng từ được sử dụng một cách hợp lí giàu chất tạo hình, tác giả
vừa vẽ lên được bức tranh có màu sắc thanh nhã vừa gợi được sự uyển chuyển sinh động của tạo vật. Cảnh
động mà tĩnh, hữu thanh mà vô thanh. Những làn sóng hơi gợn, những âm thanh mơ hồ của chiếc lá: “khẽ
đưa vèo” như xao động cõi lòng tĩnh lặng của nhà thơ.

b. Bức tranh mùa thu quê hương mang vẻ đẹp trong sáng, thanh nhã nhưng tĩnh lặng và đượm buồn
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Không gian của bức tranh thu được mở rộng cả chiều cao và chiều sâu với nét đặc trưng của cảnh thu
vùng đồng bằng Bắc Bộ: thanh, cao, trong, nhẹ:
* Chiều cao của không gian được thể hiện bằng sự lơ lửng của tầng mây và độ thăm thẳm của da trời xanh
ngắt:
- Tầng mây lơ lửng: là tầng mây ở trạng thái di chuyển nhẹ, nằm ở khoảng lưng chừng không có điểm tựa
như đẩy bầu trời lên cao hơn
- Bầu trời thu thật đẹp, thật tinh khôi bởi một màu “xanh ngắt” - đây là sắc màu dường như có sức ám ảnh
sâu đậm trong tâm hồn Nguyễn Khuyến nên trong các bài thơ của ông thường có sắc xanh này

“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt”


(Thu ẩm)
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”
(Thu vịnh)
+ “xanh ngắt””là xanh đến độ tuyệt đối , ko hề pha lẫn , ko gợn tạp , một màu xanh duy nhất lan tỏa khắp
bầu trời
+ “xanh ngắt” còn là sắc màu gợi cảm giác bình yên thanh tĩnh, vắng lạnh của làng quê, gợi ra cái nhìn vời
vợi của nhà thơ – của ông lão câu cá
-> Màu xanh ngắt của bầu trời, sự lơ lửng của tầng mây phải chăng còn là màu sắc nội tâm , màu sắc của
tâm trạng. Đó ko chỉ là màu khách quan đặc trưng của mùa thu mà còn là tâm trạng nhiều ẩn ức , là chiều
sâu tâm hồn đầy trăn trở của thi nhân
- Đến đây, ta thấy NK một mặt vừa tiếp thu quan điểm mĩ học của thơ ca cổ điển , mặt khác ông lại có
những sáng tạo riêng
+ NK tiếp nối thơ ca cổ khi khắc họa cảnh thu bằng nét vẽ “trời thu và nước thu”giống như câu thơ của
Vương Bột đời Đường “Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”
hay tứ thơ của Nguyễn Du “ Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng”
+ Nhưng ông lại có sự sáng tạo riêng ở chỗ: cũng nói đến nước thu nhưng là làn nước trong veo của mùa
thu đồng bằng Bắc Bộ; cũng nói đến màu xanh của bầu trời nhưng đó là màu xanh ngắt lơ lửng phân vân
giữa đất trời cao rộng
-> Câu thơ ko mới ở thi liệu nhưng tinh thần lại rất mới . Nguyễn Khuyến đã Việt hóa thể thơ Đuwòng luật
bằng những công thức ước lệ gần gũi như thế
* Chiều sâu của không gian lại được thể hiện bằng độ quanh co uốn lượn của “ Ngõ trúc quanh co khách
vắng teo”
- Trúc vốn là một thi liệu gắn liền với quan niệm thẩm mĩ, với lí tưởng đạo đức của con người gợi khí tiết
thanh cao của người quân tử. Nguyễn Khuyến vẫn sử dụng thi liệu cổ nhưng là để gợi đến ko gian xanh tươi
yên bình của mùa thu làng quê đất Việt
- Hình ảnh “ngõ trúc” như tô đậm hơn sắc xanh của cảnh vật, bao trùm toàn bộ không gian của bức tranh
thu. Đến đây ta hiểu rõ hơn nhận định của Xuân Diệu về cái thú vị của bài thơ: “Cái thú vị ở bài thơ Thu
điếu là ở các điệu xanh: xanh ao, xanh bờ, xanh sóng , xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm
ngang của chiếc lá thu rơi”
- Ngõ trúc lại được miêu tả qua từ “quanh co” khiến người đọc hình dung ra hình ảnh một con đường vòng
lượn uốn khúc sâu hun hút gợi cảm giác heo hút, cô đơn
- Cảm giác đó một lần nữa nhấn mạnh qua từ “ vắng teo”: từ vắng gợi đến sự thưa thớt vắng vẻ ; từ “vắng
teo” đã đẩy độ vắng lên đến tận cùng . Cảnh vật chìm sâu vào tĩnh lặng và quanh co không tiếng động,
không một bóng người
-> Chỉ đến Nguyễn Khuyến ta mới thấy được nét quê thanh vắng, tĩnh lặng và êm ả như vậy. Trời sang thu,
không khí giá lạnh, đường làng vắng vẻ , ngõ trúc quanh co cũng vắng teo ko bóng người qua lại. Cảnh thu
dường như cũng lắng xuống cùng nỗi lòng thi nhân: êm đềm, vắng lạnh và thoáng một nỗi buồn cô tịch hiu
hắt. Thi nhân như đang chìm trong giấc mộng mùa thu, một mùa thu thoáng chút bâng khuâng man mác
nhưng lại gần gũi, thân thiết và gợi cảm vô cùng
=> Bằng chất liệu thi ca cổ điển và ngòi bút sáng tạo độc đáo, tài hoa, NK đã vẽ lên một bức tranh mùa thu
đẹp, trong sáng, thi vị nhưng đượm buồn hiu hắt. Sự kết hợp tinh tế của các hình ảnh, màu sắc và đường nét
và bút pháp tả cảnh ngụ tình, nghệ thuật lấy động tả tĩnh… vừa gọi dậy hồn thu vĩnh cửu trong sách vở vừa
đặc tả nét đặc trưng tiêu biểu của mùa thu đồng bằng Bắc Bộ. Đúng như Xuân Diệu đã nhận xét “ Cảnh
trong Câu cá mùa thu là điển hình hơn cả cho mùa thu ở làng cảnh Việt Nam”. Mùa thu của làng cảnh Việt
Nam trở nên tuyệt vời, diệu kì đến thế phải chăng nó được khúc xạ qua lăng kính của một tình yêu thiên
nhiên, quê hương tha thiết của nhà thơ.
2.2. Đằng sau bức tranh mùa thu quê hương, bài thơ còn thể hiện tinh tế sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn thi
nhân
Voltare đã từng khẳng định: “Thơ ca là âm nhạc của tâm hồn nhất là những tâm hồn cao cả đa
cảm”. Điều này thật đúng với“ CCMT”, bài thơ chính là tiếng lòng của một vị đại quan triều Nguyễn có tài
năng, có cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dân giữa thời cuộc rối ren của đất nước

- Đó là vẻ đẹp của một tâm hồn yêu thiên nhiên, gắn bó thiết tha với quê hương, đất nước của
nhà thơ: Bức tranh cảnh thu tuyệt đẹp đã hé mở cho chúng ta thấy cái tình thu của người trong cảnh. Nhà
thơ đã hòa mình vào thiên nhiên và cảm nhận về mùa thu bằng những xúc cảm tinh tế nhất để vẽ lên một
bức tranh thu trong sáng, thanh nhã mang vẻ đẹp của đồng quê bình dị dân giã. Phải gắn bó với quê hương
sâu nặng và yêu thiên nhiên tha thiết thì nhà thơ mới gợi được cái hồn riêng của mùa thu dân tộc giữa một
rừng thơ thu cổ điển ước lệ trong văn chương sách vở
- Đó là nỗi niềm và tâm sự trước thời thế của thi nhân : Nỗi niềm tâm sự này thấp thoáng trong
chiều dài bài thơ và đọng lại ở hai câu kết
“ Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Bài thơ khép lại với hình ảnh của ông lão đang câu cá trong không gian thu tĩnh lặng và tâm trạng u buồn
trước thời thế
+ Tư thế “tựa gối buông cần” là tư thế của người câu cá như co mình lại, thu mình lại trong dáng vẻ bất
động, trầm tư , suy nghĩ -> thi nhân đi câu cá mà dường như ko nghĩ đến chuyện câu cá Đây cũng là tâm
thế nhàn thoát vòng danh lợi nhưng nhà thơ về quê ở ẩn là để lánh đời: thân nhàn mà tâm ko nhàn bởi nỗi
trăn trở trước cảnh nước mát nhà tan, bởi sự bất lực của chính mình
+ Âm thanh: “Cá đâu…bèo”, nhất là từ “đâu” gợi lên sự mơ hồ xa vắng và chợt tỉnh. Âm thanh ấy như làm
nổi bật sự tĩnh lặng vô cùng của không gian: chỉ một tiếng cá đớp động dưới chân bèo
mà thanh động cả thế giới thu nhỏ trong chiếc ao thu. Thủ pháp nghệ thuật dùng động để nói tĩnh đã phát
huy nghệ thuật của nó trong việc thể hiện mối u hoài tĩnh lặng trong tâm hồn thi nhân
-> Đằng sau câu chữ hiện lên hình ảnh một nhà nho thanh sạch trốn đời đi ở ẩn, ôm cần, buông câu nhưng
tâm hồn nhà thơ như đắm chìm trong giấc mộng mùa thu bỗng chợt tỉnh trở về với thực tại khi có tiếng cá
đớp động dưới chân bèo
-“Thơ là người thư kí chân thành của trái tim” (Đuy bralay). Đọc một câu thơ hay nghĩa là ta bắt gặp
một tâm hồn con người. Đọc hai câu thơ kết, ta ko chỉ cảm nhận được vẻ đẹp ngôn từ của nghệ thuật mà còn
cảm nhận được nỗi niềm tâm sự của nhà thơ trong đó. Ở đây, người câu cá chính là nhà thơ, một ông quan
triều Nguyễn yêu nước thương dân nhưng bất lực trước thời cuộc đã cáo bệnh từ quan về ở ẩn . Đặt trong
mối liên hệ với hoàn cảnh ra đời của bài thơ, ta càng thấy rõ hơn nỗi niềm tâm sự và vẻ đẹp nhân cách của
nhà thơ

+ Đó là nỗi trăn trở về trước hoàn cảnh nước mất nhà tan

+ Đó là nỗi buồn trước sự bất lực của chính mình: nhà thơ có tấm lòng yêu nước thương dân nhưng ko làm
được gì ngoài việc trở về với thiên nhiên để câu thanh, câu vắng

->Bởi vậy mà bài thơ thấm đẫm tâm sự rối bời trước thời thế của nhà thơ, ông ôm cần buông câu để tiêu sầu
mà mối sầu càng đọng lại trong tư thế bất động, nghe âm thanh của tiếng cá mà thảng thốt thấy thời thế thay
đổi , non sông rơi vào tay giặc mà chẳng thể làm gì để đền ơn vua, báo nợ nước. Bởi vậy mà Nguyễn
Khuyến luôn mang nặng mặc cảm về sự bất lực trước thời cuộc. Trong bài thơ Di chúc ông đã có những câu
thơ đau đến từng chữ
“ Ơn vua chưa chút báo đền
Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn trời”
2.3 Nghệ thuật thể hiện
“ Mỗi tp nghệ thuật phải là một phát minh về hình thức và là một khám phá về nội dung” ( Lê ô nop ).
Bên cạnh những khám phá phát hiện tinh tế về mùa thu của làng cảnh Việt Nam , bài thơ còn thể hiện
sự sáng tạo tài hoa trong hình thức nghệ thuật

- Bức tranh thu được gợi tả qua bút pháp cổ điển quen thuộc: bút pháp chấm phá, tả cảnh ngụ tình, lấy động
tả tĩnh, nghệ thuật đối, nghệ thuật sử dụng từ láy tài tình của thi nhân
- Tác giả có những sáng tạo trong những hình ảnh ước lệ đem đến cho thơ nét vẽ hiện thực hơn bằng những
hình ảnh từ ngữ đậm đà chất dân tộc: “thu thủy, thu thiên, thu diệp”
- Ngôn ngữ trong sáng, giản dị, tinh tế, giàu sức gợi hình biểu cảm; cách sử dụng vần "eo" thần tình vừa có
khả năng diễn tả những biểu hiện tinh tế của sự vật vừa gợi tâm tình uẩn khúc sâu kín của thi nhân
* Đánh giá chung
Bằng những nét vẽ hiện thực, hình ảnh ngôn ngữ đậm chất dân tộc và việc vận dụng sáng tạo bút pháp
quen thuộc của thi ca cổ điển, Nguyễn Khuyến đã vẽ nên một bức tranh thu đơn sơ, giản dị , thanh nhã tiêu
biểu cho vẻ đẹp của mùa thu thôn quê đất nước “ Thu điếu là bài thơ điển hình hơn cả cho mùa thu
làng cảnh Việt Nam” ( Xuân Diệu). Cảnh thu rất đẹp nhưng phảng phất buồn vừa thể hiện tình yêu thiên
nhiên, đất nước vừa cho thấy tâm sự thời thế của thi nhân: yêu nước thương dân mà bất lực trước thời cuộc
Đọc thơ Nguyễn Khuyến, ta thấy gắn bó hơn với mùa thu quê hương xứ sở cũng như thêm trân trọng
phẩm chất thanh cao của vị Tam Nguyên Yên Đổ

III.KB
VD 1: “Làm thơ không phải dễ …người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy trong
lòng” ( Sóng Hồng). Mỗi nhà thơ mang đến một cách riêng, một giọng thơ riêng. Thơ đối với HXH
như một phương tiện nghệ thuật để nhà thơ thể hiện những cảm nhận tinh tế về thiên nhiên, đất nước, con
người và gửi gắm nỗi niềm tâm sự đem đến cho độc giả yêu thơ những vần thơ xúc động lòng người. Người
làm thơ đòi hỏi có tâm hồn đa cảm, có tình yêu thiết tha với con người, cuộc sống, có vốn sống phong phú
và năng lực biểu đạt. Bài thơ “ CCMT” của Nguyễn Khuyến có đủ những điều đó và đã được rất nhiều
thế hệ độc giả yêu mến, đón nhận. Đó là những tác phẩm sẽ “Vượt qua sự băng hoại của thời gian, chỉ
mình nó không thừa nhận cái chết”. (Sêđrin).

VD2: Sêđrin từng nói “Văn học vượt qua sự băng hoại của thời gian, chỉ mình nó không thừa nhận cái
chết”. Bài thơ CCMT nói riêng, thơ Nguyễn Khuyến nói chung chính là một minh chứng tiêu biểu cho
quan điểm đó. Trải qua bao thế kỉ, những bài thơ của thi nhân vẫn trường tồn cùng năm tháng và sống mãi
trong lòng bạn đọc bao thế hệ. Đọc thơ ông, ta thấy gắn bó với quê hương xứ sở cũng như thêm trân trọng
phẩm chất thanh cao vị Tam Nguyên Yên Đổ.

You might also like