Professional Documents
Culture Documents
Bánh Răng Hành Tinh
Bánh Răng Hành Tinh
Bánh Răng Hành Tinh
KHOA CƠ KHÍ
BỘ MÔN KỸ THUẬT MÁY
----------------
TP.HCM – 2015
Vì kiến thức và thời gian có hạn, kinh nghiệm thực tế không nhiều nên việc
thiệt kế môn học này không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự
đóng góp ý kiến của thầy cô và bạn bè.Chúng em xin chân thành cảm ơn!!!
Hiện nay các phương tiện giao thông vận tải là một phần không thể thiếu trong
cuộc sống con người. Cũng như các sản phẩm của nền công nghiệp hiện nay, ô tô
được tích hợp các hệ thống tự động lên các dòng xe đã và đang sản xuất với chiều
hướng ngày càng tăng. Hộp số tự động sử dụng trong hệ thống truyền lực của xe là
một trong số những hệ thống được quan tâm hiện nay khi mua xe ô tô vì những
tiện ích mà nó mang lại khi sử dụng .
Trên xe sử dụng hộp số thường, thì lái xe phải thường xuyên nhận biết tải và tốc độ
động cơ để chuyển số một cách phù hợp. Khi sử dụng hộp số tự động, những sự
nhận biết như vậy của lái xe là không cần thiết. Việc chuyển đến vị trí số thích hợp
nhất được thực hiện một cách tự động theo tải động cơ và tốc độ xe. Với các xe có
hộp số tự động thì người lái xe không cần phải suy tính khi nào cần lên số hoặc
xuống số. Các bánh răng tự động chuyển số tuỳ thuộc vào tốc độ xe và mức đạp
bàn đạp ga.
Một hộp số mà trong đó việc chuyển số bánh răng được điều khiển bằng một ECU
(Bộ điều khiển điện tử) được gọi là ECT-Hộp số điều khiển điện tử, và một hộp số
không sử dụng ECU được gọi là hộp số tự động thuần thuỷ lực. Hiện nay hầu hết
các xe đều sử dụng ECT. Đối với một số kiểu xe thì phương thức chuyển số có thể
được chọn tuỳ theo ý muốn của lái xe và điều kiện đường xá. Cách này giúp cho
việc tiết kiệm nhiên liệu, tính năng và vận hành xe được tốt hơn.
2. Lịch sử phát triển:
Ngay từ những năm 1900, ý tưởng về một loại hộp số tự động chuyển số đã được
các kỹ sư hàng hải Đức nghiên cứu chế tạo. Đến năm 1938, hộp số tự động đầu
tiên ra đời khi hãng GM giới thiệu chiếc Oldsmobile được trang bị hộp số tự động.
Việc điều khiển ô tô được đơn giản hóa bởi không còn bàn đạp ly hợp. Tuy nhiên
do chế tạo phức tạp và khó bảo dưỡng sửa chữa nên nó ít được sử dụng.
Đến những năm 70 Hộp số tự động thực sự hồi sinh khi hàng loạt hãng ô tô
cho ra các loại xe mới với hộp số tự động đi kèm. Từ đó đến nay hộp số tự động đã
phát triển không ngừng và dần thay thế cho hộp số thường. Khi mới ra đời, hộp số
tự động là loại có cấp và được điều khiển hoàn toàn bằng thủy lực. Để chính xác
Dòng công suất truyền động từ động cơ qua biến mô đến hộp số và di chuyển
đến hệ thống truyền động sau đó, nhờ cấu tạo đặc biệt của mình biến mô vừa là
một khớp nối thủy lực vừa là một cơ cấu an toàn cho hệ thống truyền lực cũng
vừa là một bộ phận khuếch đại mô men từ động cơ đến hệ thống truyền lực phía
sau tùy vào điều kiện sử dụng. Hộp số không thực hiện truyền công suất đơn
thuần bằng sự ăn khớp giữa các bánh răng mà còn thực hiện truyền công suất
qua các ly hợp ma sát, để thay đổi tỷ số truyền và đảo chiều quay thì trong hộp
số sử dụng các phanh và cơ cấu hành tinh đặc biệt với sự điều khiển đặc biệt
bằng thủy lực hay điện tử.
Về cơ bản hộp số tự động có chức năng như hộp số thường, tuy nhiên hộp số tự
động cho phép đơn giản hóa việc điều khiến hộp số, quá trình chuyển số êm dịu,
không cần ngắt đường truyền công suất từ động cơ xuống khi sang số. Hộp số tự
động tự chọn tỉ số truyền phù hợp với điều kiện chuyển động của ô tô, do đó tạo
điều kiện sử dụng gần như tối ưu công suất động cơ.
Vì vậy, hộp số tự động có những chức năng cơ bản sau:
- Tạo ra các cấp tỉ số truyền phù hợp nhằm thay đổi moment xoắn từ động cơ đến
các bánh xe chủ động phù hợp với moment cản luôn thay đổi và nhằm tận dụng tối
đa công suất động cơ.
- Giúp cho xe thay đổi chiều chuyển động.
- Đảm bảo cho xe dừng tại chỗ mà không cần tắt máy hoặc tách ly hợp.
Ngoài ra ECT còn có khả năng tự chẩn đoán.
Tóm lại ta có thể tóm tắt một cách đầy đủ về các loại hộp số như sau:
Hộp số tự động
Các hộp số tự động có thể được chia thành 2 loại chính, đó là các hộp số
được sử dụng trong các xe FF (động cơ ở phía trước, dẫn động bánh trước) và các
xe FR (động cơ ở phía trước, dẫn động bánh sau).
Các hộp số của xe FF có một bộ dẫn động cuối cùng được lắp bên trong, còn
các hộp số của xe FR thì có bộ dẫn động cuối cùng (vi sai) lắp bên ngoài. Loại hộp
số tự động dùng trong xe FR được gọi là hộp truyền động.
Trong hộp số tự động đặt ngang, hộp truyền động và bộ dẫn động cuối cùng
được bố trí trong cùng một vỏ hộp. Bộ dẫn động cuối cùng gồm một cặp bánh răng
giảm tốc (bánh răng dẫn và bánh răng bị dẫn), và các bánh răng vi sai.
1. Cấu tạo
Bánh bơm
Bánh bơm được bố trí nằm trong vỏ bộ biến mô và nối với trục khuỷu qua
đĩa dẫn động. Nhiều cánh hình cong được lắp bên trong bánh bơm. Một vòng dẫn
hướng được lắp trên mép trong của các cánh để đường dẫn dòng dầu được êm.
Rất nhiều cánh được lắp lên bánh tuabin giống như trường hợp bánh bơm.
Hướng cong của các cánh này ngược chiều với hướng cong của cánh bánh bơm.
Stato
Khớp một chiều cho phép Stato quay theo chiều quay của trục khuỷu động
cơ. Tuy nhiên nếu Stato định bắt đầu quay theo chiều ngược lại thì khớp một chiều
sẽ khoá stato để ngăn không cho nó quay.
III. Bộ truyền bánh răng hành tinh (Bộ truyền hành tinh)
Trong các xe lắp hộp số tự động, bộ truyền bánh răng hành tinh điều khiển
việc giảm tốc, đảo chiều, nối trực tiếp và tăng tốc.
Bộ truyền bánh răng hành tinh gồm các bánh răng hành tinh, các ly hợp và
phanh. Bộ truyền bánh răng hành tinh trước và bộ truyền bánh răng hành tinh sau
được nối với các ly hợp và phanh, là các bộ phận nối và ngắt công suất. Hình vẽ
dưới đây là bộ truyền bánh răng hành tinh 3 tốc độ (loại hộp số A130).
Các bánh răng trong bộ truyền bánh răng hành tinh có 3 loại: bánh răng bao,
bánh răng hành tinh và bánh răng mặt trời và cần dẫn. Cần dẫn nối với trục trung
Thông thường nhiều bánh răng hành tinh được phối hợp với nhau trong bộ
truyền bánh răng hành tinh.
Phanh B2 hoạt động thông qua khớp một chiều số 1 để ngăn không cho các
bánh răng mặt trời trước và sau quay ngược chiều kim đồng hồ. Các đĩa ma sát
được gài bằng then hoa vào vòng lăn ngoài của khớp một chiều số 1 và các đĩa
thép được cố định vào vỏ hộp số. Vòng lăn trong của khớp một chiều số 1 (các
bánh răng mặt trời trước và sau) được thiết kế sao cho khi quay ngược chiều kim
đồng hồ thì nó sẽ bị khoá, nhưng khi quay theo chiều kim đồng hồ thì nó có thể
xoay tự do.
IV. Ly hợp
1. Cấu tạo
Khớp một chiều số 1 (F1) tác động qua phanh B2 để ngăn không cho bánh răng
mặt trời trước và sau quay ngược chiều kim đồng hồ.
Khớp một chiều số 2 (F2) ngăn không cho cần dẫn sau quay ngược kim
đồng hồ. Vòng lăn ngoài của khớp một chiều sô 2 được cố định vào vỏ hộp số. Nó
được lắp ráp sao cho nó sẽ khoá khi vòng lăn trong (cần dẫn sau) xoay ngược chiều
kim đồng hồ và quay tự do khi vòng lăn trong xoay theo chiều kim đồng hồ.
1. Khái quát
Bộ truyền hành tinh số truyền tăng là một bộ truyền hành tinh độc lập với tỷ
số truyền tốc độ nhỏ hơn 1.0 (khoảng 0,7 - 0,8). Nó được phối hợp với một bộ
truyền bánh răng hành tinh bình thường 3 tốc độ và tương đương với tốc độ số 4.
Bộ truyền hành tinh số truyền tăng bao gồm một bộ bánh răng hành tinh, phanh
(B0), li hợp (C0), và khớp một chiều (F0). Công suất được dẫn vào cần dẫn bộ
truyền tăng dẫn ra bánh răng bao bộ truyền tăng.
* Chú ý: Hình vẽ dưới đây là một bộ truyền bánh răng hành tinh 3 tốc độ kèm một
bộ truyền hành tinh số truyền tăng (seri A140).
Hình vẽ dưới đây thể hiện mạch thuỷ lực của hộp số kiểu A140E. Áp suất
thuỷ lực vận hành qua nhiều đường dẫn áp suất thuỷ lực khác nhau.
Các bộ phận chính của bộ điều khiển thuỷ lực gồm: Bơm dầu, Thân van,
Van điều áp sơ cấp, Van điều khiển, Van chuyển số, Van điện từ, Van bướm ga.
Bơm dầu được dẫn động từ bộ biến mô (động cơ) để cung cấp áp suất thuỷ
lực cần thiết cho sự vận hành của hộp số tự động. Trong hộp số tự động thường
dùng bơm dầu bánh răng ăn khớp trong đặt sau bộ biến mô như hình vẽ dưới đây:
b. Thân van
Thân van bao gồm: thân van trên và thân van dưới.
Thân van giống như một mê cung gồm rất nhiều đường dẫn để dầu hộp số
chảy qua. Rất nhiều van được lắp vào các đường dẫn đó, trong các van có áp suất
thuỷ lực điều khiển và chuyển mạch chất lỏng từ đường dẫn này sang đường dẫn
khác. Thông thường, thân van có chứa các van:
Số lượng van phụ thuộc vào kiểu xe. Một số kiểu xe có các loại van khác với
các van nêu trên.
Hộp số không thực hiện truyền công suất đơn thuần bằng sự ăn khớp giữa
các bánh răng mà còn thực hiện truyền công suất qua các ly hợp ma sát, để thay đổi
tỷ số truyền và đảo chiều quay thì trong hộp số sử dụng các phanh và cơ cấu hành
tinh đặc biệt với sự điều khiển tự động bằng thủy lực hay điện tử..
Trên thị trường hiện nay có nhiều loại hộp số tự động, phát triển theo xu
hướng nâng cao sự chính xác và hợp lý hơn trong quá trình chuyển số, kèm theo là
giá thành và công nghệ sản xuất, tuy nhiên chức năng cơ bản và nguyên lý hoạt
Hộp Số Vô Cấp
Không giống như những hộp số tự động truyền thống, hộp số vô cấp CTV
không có các cặp bánh răng để tạo tỷ số truyền. Điều này có nghĩa là nó không có
sự ăn khớp giữa các bánh răng. Loại CVT thông thường nhất hoạt động trên một
hệ thống puli (ròng rọc) và dây đai truyền cho phép một sự thay đổi vô cấp và liên
tục giữa giới hạn thấp nhất và cao nhất mà không có sự tách biệt riêng rẽ các vị trí
số.
hộp số vô cấp CTV không có các cặp bánh răng để tạo tỷ số truyền
Hệ puli với đường kính thay đổi là đặc trưng của CVT. Mỗi puli được tạo
thành từ hai khối hình nón có góc nghiêng 20 độ và đặt đối diện với nhau. Một dây
đai chạy trong rãnh giữa hai khối hình nón này. Dây đai hình chữ V có ưu điểm
hơn nếu chúng được làm từ cao su vì có ma sát cao, hạn chế trượt.
Hai khối hình nón này có thể thay đổi khoảng cách giữa chúng. Khi hai khối
hình nón tách ra xa nhau, dây đai ngập sâu vào trong rãnh và bán kính của dây đai
quấn quanh puli sẽ giảm đi. Khi hai khối hình nón này ở gần nhau thì bán kính của
dây đai tăng lên. CVT có thể sử dụng áp suất thủy lực hoặc lò xo để tạo ra lực cần
thiết thay đổi khoảng cách giữa hai khối hình nón.
Hệ puli và dây đai có đường kính thay đổi này thường đi với nhau thành một
cặp. Một trong số đó là puli chủ động được nối với trục quay của động cơ. Puli chủ
động cũng được gọi là puli đầu vào bởi vì nó nhận năng lượng trực tiếp từ động cơ
đưa vào hộp số. Puli thứ hai gọi là puli bị động nối với puli chủ động hay còn gọi
là puli đầu ra và nó truyền momen đến trục truyền động dẫn đến bánh xe.
Khi một puli tăng bán kính của nó và cái khác giảm bán kính để giữ cho dây
đai luôn bám chặt vào giữa hai khối hình nón, chúng sẽ tạo ra vô số các tỷ số
truyền từ mức thấp nhất cho đến cao nhất. Ví dụ khi bán kính quay nhỏ trên puli
chủ động và lớn trên puli bị động thì tốc độ quay của puli bị động sẽ giảm kết quả
là có được “số thấp”. Khi bán kính quay của puli chủ động lớn và của puli bị động
nhỏ thì tốc độ của puli bị động tăng lên và kết quả là được “số cao”. Về mặt
nguyên lý, hộp số CVT hoạt động với vô số cấp độ có thể chạy ở bất cứ thời điểm
nào, đối với bất cứ loại động cơ và tốc độ xe nào của xe.
Dây đai bằng thép chịu lực cao hoặc bằng cao su .
Một pu-li 1 sơ cấp chủ động có thể thay đổi cấp độ .
Một pu-li 2 bị động thứ cấp .
Một cặp bánh răng hành tinh
Một bơm dầu
Các cặp ly hợp và phanh
Các pu-li có thể thay đổi đường kính làm việc được . Mỗi pu-li được chế tạo
bởi hai bề mặt côn quay vào nhau. Một dây đai chạy trong rãnh của hai mặt côn
này. Dây đai chữ "V" thường được làm bằng cao su. Dây đai được gọi là chữ "V"
do mặt cắt của nó có hình chữ V.
Khi hai mặt côn của pu-li cách xa nhau (khi đường kính làm việc giảm xuống), dây
đai sẽ chạy ở vị trí thấp (đáy) của rãnh, và bán kính của vòng đai xung quanh pu-li
trở nên nhỏ hơn. Khi hai mặt côn sát lại gần nhau (khi đường kính làm việc tăng
lên), dây đai chạy ở vị trí cao của rãnh, bán kính của vòng đai quanh pu-li trở nên
lớn hơn. CVT có thể dùng áp suất thủy lực, lực ly tâm hoặc lực của lò xo để tạo
Khoảng cách từ tâm của puli đến điểm tiếp xúc của dây đai trong rãnh được gọi là
bán kính dốc (pitch radius). Khi hai mặt puli cách xa nhau, dây đai chạy xuống
thấp và bán kính dốc giảm. Khi hai nửa puli lại gần nhau, dây đai chạy lên cao hơn
và bán kính dốc tăng. Tỷ số giữa bán kính dốc của puli chủ động và bán kính dốc
của puli bị động tạo nên số.
Khi một puly tăng bán kính của nó, thì puli còn lại sẽ giảm bán kính để giữ cho đai
bám chặt. Khi hai puli thay đổi bán kính tương xứng với nhau, nó tạo ra vô số tỷ số
truyền - tất cả các mức giữa hai điểm thấp và cao. Ví dụ, khi bán kính dốc ở puli
chủ động nhỏ và bán kính dốc ở puli bị động lớn, khi đó tốc độ quay của puli bị
động giảm, tạo ra "số mạnh". Khi bán kính dốc ở puli chủ động lớn và bán kính
dốc ở puli bị động nhỏ, lúc này tốc độ quay của puli bị động tăng lên tạo ra "số
nhanh". Như vậy, về mặt lý thuyết, một CVT có vô số "số" mà nó có thể tạo ra bất
cứ khi nào, ở bất cứ tốc độ nào của động cơ.
* Các số cụ thể:
- Số P: mômen từ bộ biến mô truyền đến trục sơ cấp hộp số rồi đến bánh
răng mặt trời đến bánh răng hành tinh cùng chuyển động với nhau.
- Số R: Mômen từ bộ biến mô truyền đến trục đến bánh răng mặt trời đến
bánh răng hành tinh rồi đến bánh răng ăn khớp bánh răng bao rồi đến puly 1
rồi đến dây đai rồi tuyền đến pully 2 rồi đến bộ bánh răng cuối cùng rồi đến
vi sai ra bánh xe.
- Số N: Mô men được truyền đến bộ biến mô đến trục rồi đến bánh răng mặt
trời đến bánh răng hành tinh .
- Số D: Mô men được truyền đến bộ biến mô đến trục rồi đến bánh răng mặt
trời rồi đến bánh răng hành tinh đến ly hợp rồi đến pully 1 rồi đến dây đai
đến pully 2 đến ly hợp đến bộ truyền động cuối cùng rồi ra bộ vi sai đến
bánh xe.
- Khi 2 pully mở rộng ra hay co lại đều được điều khiển bởi các pítông điều
khiển áp suất dầu làm 2 nửa puly mở ra hoặc co lại làm căng dây đai hoặc
trùng dây đai lại.
Các đĩa và con lăn có vai trò như dây đai và puli trong hộp số vô cấp kiểu
puli dây đai.vì thế mà hoạt động của nó cũng tưong tự như loại puli.
- Một cái đĩa nối với động cơ. Chi tiết này tương đương với bánh đai chủ
động.
- Một cái đĩa khác nối với trục dẫn động. Chi tiết này tương đương với bánh
đai bị động.
- Các con lăn, hoặc các bánh xe, nằm giữa các đĩa họat động như dây đai,
truyền lực từ đĩa này sang đĩa kia.
- Các bánh xe có thể xoay theo hai trục. Chúng quay quanh trục ngang và
lên hoặc xuống quanh trục dọc, cho phép các bánh xe tiếp xúc vào các chỗ
khác nhau trên đĩa. Khi các bánh xe này tiếp xúc gần tâm của đĩa chủ động,
thì chúng sẽ phải tiếp xúc tại gần mép của đĩa bị động, kết quả là tốc độ
giảm nhưng momen xoắn tăng (số thấp). Khi các bánh xe tiếp xúc với đĩa
chủ động gần mép đĩa, chúng sẽ tiếp xúc với đĩa bị động tại tâm, kết quả là
tốc độ tăng nhưng momen xoắn giảm (số cao). Góc nghiêng thay đổi đơn
giản của các bánh xe tạo nên những thay đổi lớn đến tỷ số truyền, mang lại
sự êm ái, tỷ số truyền gần như được thay đổi tức thời.
2.3.Hydrostatic CVT:
Các Van Số
- Trường hợp 1: (p 1 ⊳ p 2 ):lúc đó piston sẽ di chuyển sang trái và áp suất
chuẩn p 0 sẽ vào côn thứ 2 thực hiện đi số.
- Trường hợp 1: (p 1 ⊲ p 2 ):lúc đó piston sẽ di chuyển sang phải và áp suất
chuẩn p 0 sẽ vào côn thứ 3 thực hiện đi số.
- Các trạng thái đi số cụ thể:
Sơ Đồ Đi Số 1
Momen được truyền theo chiều mũi tên trên hình vẽ: Trục chính → bánh
răng quay không →bánh răng quay không → trục trung gian →côn thứ 1→
bánh răng thứ 1→ trục chính → truyền lực cuối cùng.
Mô men được truyền qua bộ biến mô đến trục chính sau đó đến bánh răng
quay long không đến trục trung gian qua côn thứ nhất và côn giữ thứ nhất đến
trục trung gian qua bộ truyền lực cuối cùng đến bộ vi sai ra bánh xe.
Sơ Đồ Đi Số R
+ Số 2:
Mômen từ động cơ truyền qua trục chính đến cặp bánh răng quay không
sau đó truyền đến bánh răng thứ 2 của trục trung gian thông qua côn thứ 2 sau
đó truyền đến bánh răng truyền lực cuối cùng rồi mô men truyền ra bánh xe
thông qua bộ vi sai
Momen được truyền theo chiều mũi tên trên hình vẽ:
Trục chính → bánh răng lồng không → bánh răng quay không →côn thứ 2→
bánh răng thứ2 trục trung gian → truyền lực cuối cùng.
Sơ Đồ Xe Đi Số D
- Bộ truyền bánh răng hành tinh: Để chuyển số khi giảm tốc, đảo chiều, tăng
tốc, và vị trí số trung gian.
- Bộ điều khiển thuỷ lực: Để điều khiển áp suất thuỷ lực sao cho bộ biến mô
và bộ truyền bánh răng hành tinh hoạt động êm.
- ECU động cơ và ECT: Để điều khiển các van điện từ và bộ điều khiển thuỷ
lực nhằm tạo ra điều kiện chạy xe tối ưu.
Hộp số này sử dụng áp suất thuỷ lực để tự động chuyển số theo các tín hiệu
điều khiển của ECU.
ECU điều khiển các van điện từ theo tình trạng của động cơ và của xe do
các bộ cảm biến xác định, do đó điều khiển áp suất thuỷ lực.
Tín hiệu điện từ các cảm biến ( cảm biến chân ga , cảm biến dầu hộp số ,
cảm biến tốc độ động cơ , cảm biến tốc độ xe, cảm biến đếm vòng quay ,
cảm biến tốc độ tuabin .. vv )và tín hiệu điện từ bộ điều khiển thủy lực
→ ECT độngcơ và ECT → tín hiệu điện đến các van điện từ → bộ biến
mô và bánh răng hành tinh.
Điều khiển chuyển số cơ học bằng cách phát hiện tốc độ xe bằng thuỷ lực thông
qua van điều tốc và phát hiện độ mở bàn đạp ga từ bướm ga thông qua độ dịch
chuyển của cáp bướm ga.
Hộp số tự động
Hộp số vô cấp Hộp số tự động có cấp
Hộp Số Vô Hộp Số Vô Hộp Số Có Cấp loại Hộp Số Có Cấp loại điện tử
cấp điều cấp điều thường
khiển bằng khiển bằng
dây đai con lăn
Hộp số tự Hộp số tự Hộp số tự Hộp số tự
động loại động loại động chuyểnđộng
chuyển số thường số bằng cônchuyển số
bằng Côn chuyển số điều khiển bằng Côn
điều khiển bằng Côn Thủy lực vàvà Phanh
Thủy lực và Phanh. Điện điều khiển
Điều Tử(ECT,EC Thủy lực và
khiển thủy U) Điện
lực Tử(ECT,EC
U).
Đặc Điểm: Đặc Điểm: Đặc Điểm: Đặc Đặc Điểm: Đặc Điểm:
Loại hộp số Loại hộp số Sử dụng Điểm: Sử dụng biến Sử dụng
CVT vận CVT vận biến mô và Sử dụng mô và côn để biến mô và
hành trên một hành trên côn để vào biến mô vào số một côn, phanh
hệ thống pu- một hệ thống số một cách và côn, cách tự động. để chuyển
li, dây đai đĩa con lăn tự động. phanh để Chuyển số số một cách
thông minh, thông minh, Điều khiển chuyển số bằng côn tự
hệ thống này hệ thống này chuyển số một cách điều khiển động.Điều
cho phép một cho phép bằng thủy tự Thủy lực và khiển
khả năng biến một khả lực thuần động.Điều Điện chuyển số
thiên vô hạn năng biến túy khiển Tử(ECT,EC bằng Thủy
giữa số thấp thiên vô hạn chuyển số U). lực và Điện
nhất và số cao giữa số thấp bằng Thủy Tử(ECT,EC
nhất mà nhất và số lực thuần U).
không có sự cao nhất mà túy
ngắt quãng không có sự
giữa các số. ngắt quãng
giữa các số.
Hình vẽ bên dưới là bộ bánh răng hành tinh 3 tốc độ thuộc loại hộp số A130.
Về cơ bản đây là bộ bánh răng được áp dụng để giải thích các hoạt động của
bộ truyền bánh răng hành tinh.
- Cần dẫn được nối với trục trung tâm của bánh răng hành tinh làm cho các bánh
răng hành tinh quay xung quanh bánh răng mặt trời như các hành tinh nên gọi là
bánh răng hành tinh.
- Thông thường nhiều bánh răng hành tinh được phối hợp với nhau trong bộ
truyền bánh răng hành tinh.
- Bằng cách thay đổi đầu vào, đầu ra, phần và các phần tử cố định có thể giảm tốc,
đảo chiều, nối trực tiếp và tăng tốc.
- Các cách hoạt động làm việc của hệ bánh răng hành tinh được diễn giải theo các
bước dưới đây.
3.1. Giảm tốc.
Sơ đồ:
- Khi cần dẫn được cố định ở vị trí và bánh răng mặt trời quay thì bánh răng bao
quay trên trục và hướng quay được đảo chiều.
- Độ dài của mũi tên chỉ tốc độ quay và chiều rộng mũi tên chỉ momen, mũi tên
càng dài thì tốc độ quay càng lớn, mũi tên càng rộng thì momen càng lớn và ngược
lại. (theo hình vẽ ở trên).
- Do bánh bao răng và bánh bao mặt trời quay cùng nhau với cùng một tốc độ nên
cần dẫn cũng quay với cùng tốc độ đó.
- Độ dài của mũi tên chỉ tốc độ quay và chiều rộng mũi tên chỉ momen, mũi tên
càng dài thì tốc độ quay càng lớn, mũi tên càng rộng thì momen càng lớn và ngược
lại. (theo hình vẽ ở trên).
3.4. Tăng Tốc.
Sơ đồ:
Hoạt động của bộ truyền bánh răng hành tinh khi chuyển số.
1. SỐ 1.
- Trục sơ cấp làm quay bánh răng bao của bộ truyền hành tinh trước theo
chiều kim đồng hồ nhờ C1.
- Bánh răng hành tinh của bộ truyền hành tinh trước quay và chuyển động
xung quanh làm cho bánh răng mặt trời quay ngược chiều kim đồng hồ.
- Trong bánh răng hành tinh sau, cần dẫn sau được F2 cố định nên bánh răng
mặt trời làm cho bánh răng bao của bộ truyền hành tinh sau quay theo chiều
kim đồng hồ thông qua bánh răng hành tinh của bộ truyền hành tinh sau.
- Cần dẫn trước và bánh răng bao của bộ truyền hành tinh sau làm cho trục
thứ cấp quay theo chiều kim đồng hồ sẽ tạo được tỉ số giảm tốc lớn.
Sơ đồ:
Số Đảo Chiều
2. Hoạt động.
2.1. Ở chế độ số truyền tăng ( O/D).
Ở chế độ số truyền tăng thì phanh O/D (B0) khóa bánh răng mặt
trời O/D, do đó các bánh răng hành tinh của bộ truyền hành tinh
của bộ truyền hành tinh O/D vừa chuyển độngt heo chiều kim đồng
hồ xung quanh bánh răng mặt trời O/D, vừa quay xung quyanh trục
của chúng. Vì vậy bánh răng bao của bộ truyền hành tinh O/D
quay theo chiều kim đồng hồ nhanh hơn cần dẫn của bộ truyền
bánh răng hành tinh O/D.
Độ dài của mũi tên chỉ tốc độ quay và chiều rộc của mũi tên chỉ
mô men.
Mũi tên càng dài thì độ quay càng lớn, và mũi tên càng rộc thì mô
men càng lớn.
Sơ đồ:
KẾT LUẬN
Sau thời gian thực hiện thiết kế môn học truyền động công suất, chúng em nhận
thấy mình phải nắm vững vốn kiến thức được trang bị trong nhà trường và cần phải
trang bị cho mình những hành trang tri thức bằng việc bằng việc đọc báo, các tài
liệu kỹ thuật có liên quan đến chuyên ngành. Đồng thời phải học hỏi thêm từ thầy
cô, cũng như các thế hệ đi trước thuộc lĩnh vực chuyên môn để hiểu biết hơn và
tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu cho bản thân mình, để bắt kịp với tôc độ
phát triển của khoa học không ngừng hiện nay.
Chúng em xin chân cảm ơn thầy NGUYỄN HỮU CHÍ – người đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho nhóm em hoàn thành tốt môn thiết kế
môn học truyền động công suất này.