Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 122

Tổng

ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI


PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT CỦA TÔ HOÀI
“Dao có mài mới sắc”, với sự cần mẫn, bền bỉ, dẻo dai, không ngừng
học hỏi, tích lũy, tự vượt mình để sáng tạo đó chính là điều làm nên
bản lĩnh và tài năng nghệ thuật của Tô Hoài. Với những thành tựu to
lớn đã đạt được sau hơn nửa thế kỉ sáng tạo nghệ thuật, Tô Hoài xứng
đáng là một cây đại thụ của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, là tấm
gương lao động nghệ thuật cho văn nghệ sĩ noi theo. Người đọc trước
đây, hiện nay và mai sau có lẽ không thể quên được những đóng góp
độc đáo, đặc sắc của Tô Hoài đối với nền văn chương dân tộc.
1. Trước Cách mạng tháng Tám
Tô Hoài đến với nghề văn ở tuổi mười bảy, mười tám. Những sáng tác
đầu tay của ông được đăng trên Hà Nội tân văn và Tiểu thuyết thứ bảy.
Tuy xuất hiện ở giai đoạn cuối của thời kì 1930 - 1945 nhưng Tô Hoài
đã sớm khẳng định được vị trí của mình trong đội ngũ nhà văn thời kì
này bằng một loạt tác phẩm độc đáo, đặc sắc như: “Dế mèn phiêu lưu
kí” (1941), “Quê người” (1941), “O chuột” (1942), “Trăng thề” (1943)
“Nhà nghèo” (1944 ). Từ các tác phẩm này, người đọc dễ nhận thấy
sức sung mãn dồi dào trong lao động nghệ thuật của ông. Sau này, Tô
Hoài đã bộc bạch chân thành qua Tự truyện về việc ông đến với nghề
văn, ông viết : “Tôi vào nghề văn có trong ngoài ba năm trước Cách
mạng tháng Tám, 1945 mà tôi viết như chạy thi được năm truyện dài,
truyện vừa, ba tập truyện ngắn, còn truyện thiếu nhi như Dế mèn thì
mấy chục truyện, cái in, cái chưa in, vương vãi lung tung tôi không nhớ
hết. Cũng chẳng có gì lạ. Viết để kiếm miếng sống lúc ấy tất phải cuốc
khỏe như vậy đấy”.
Tác phẩm của Tô Hoài trước cách mạng có thể phân thành hai loại
chính là: truyện về loài vật và truyện về nông thôn trong cảnh đói
nghèo.
Qua những truyện về loài vật tiêu biểu như: “O chuột”, “Gã chuột bạch”,
“Tuổi trẻ”, “Đôi ghi đá”, “Một cuộc bể dâu”, “Mụ ngan”, “Đực”,... Thế giới
loài vật trong tác phẩm của Tô Hoài thật độc đáo. Thế giới ấy gợi lên ở
người đọc sự liên tưởng về nhiều vấn đề trong đời sống xã hội. Có lẽ,

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 1



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

từ trước cho đến nay, trong văn học Việt Nam chưa có nhà văn nào
viết về loài vật nhiều và đặc sắc như Tô Hoài. người đọc nhận thấy, nhà
văn thường viết về cái tốt đẹp, khẳng định cái thiện trong cuộc sống,
bày tỏ mong muốn một cuộc sống hạnh phúc, bình yên trong xã hội,
một cuộc sống tốt đẹp mang tính không tưởng.
Bên cạnh truyện viết về loài vật, mảng truyện viết về cảnh sống đói
nghèo cũng được nhà văn đã miêu tả chân thật và sinh động. Cuộc sống
cùng quẫn bế tắc của những kiếp người nghèo khổ, lang thang, phiêu
bạt nơi đất khách quê người xuất hiện dần qua từng trang sách với tất
cả niềm cảm thông chân thành của nhà văn. Đó là thân phận của bà lão
Vối trong truyện “Mẹ già” buộc lòng nhẫn nhục sống nương nhờ vào
con. Chỉ vì một con lợn sổng chuồng mà bà bị chính con gái mình chửi
rủa chì chiết đủ điều. Với cách nghĩ của con gái bà thì bà chẳng khác gì
người đi ở mướn, chị ta đã quát: “Thế tôi nuôi bà để làm gì mà bà lại
không trông được con lợn?”, thậm chí, không cho bà ngủ ở nhà trên
mà đuổi bà xuống bếp nằm ngủ ở đống rơm. Sáng ngày hôm sau cả nhà
ăn uống nhưng hình như họ đã quên là có bà hiện diện trong cuộc sống
của gia đình mình. Đó là số phận của chị Hối trong truyện “Ông cúm
bà co”, bị ốm nhưng không có thuốc men chữa chạy, rồi bệnh nặng dần
vì kém hiểu biết, mê tín, kết cục phải “ra đồng” bỏ lại mấy đứa con thơ
dại. Cay đắng hơn là số phận của bé Gái trong cảnh “Nhà nghèo”. Nó
sinh ra trong gia đình nghèo khổ, túng thiếu và nhiều lần chứng kiến
cảnh cha mẹ cãi nhau. Nó bị rắn cắn chết trong khi cùng với cha mẹ cố
tìm miếng ăn cho gia đình, “người nó có bao nhiêu xương sườn, giơ
hết ra cả”. Cảnh đó thật xót xa, thê thảm. Tất cả cảnh đời của họ đều
gợi cho người đọc bao điều suy ngẫm và nỗi trăn trở về hiện thực cuộc
sống nhiều bất hạnh đó.
Tóm lại, trước Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài đã có khi bế tắc trước
cuộc đời nhưng cuối cùng nhà văn vẫn đứng vững ở vị trí của một nhà
văn hiện thực. Tâm hồn của Tô Hoài bao giờ cũng có được vẻ đẹp trong
sáng, đáng trân trọng trong cảnh đời đen tối thời kì này. Ở đề tài nào
và đối tượng khám phá nào, thế giới nghệ thuật của Tô Hoài trước cách
mạng đều thấm đượm tính nhân văn và mang dấu ấn khá sâu đậm về
một quãng đời của ông. Ông quan niệm :“ Những sáng tác của tôi đều
miêu tả tâm trạng tôi, gia đình tôi, làng tôi, mọi cái của mình quanh

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 2



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

mình. Những nghèo đói, cùng túng, đau đớn. Phần nào nhẹ nhàng hay
xót xa, hay nghịch ngợm và đá chút khinh bạc là phần nào con người
và tư tưởng tiểu tư sản của tôi”(Một quãng đường).
2. Sau Cách mạng tháng Tám
Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài có sự chuyển biến mạnh mẽ về tư
tưởng và sáng tác. Tâm trạng trăn trở, phân vân định hướng không
dừng lại quá lâu ở Tô Hoài. Ông đã nhanh chóng chiếm lĩnh hiện thực
cuộc sống và sáng tạo thành công nhiều tác phẩm có giá trị ở các thể
loại loại khác nhau.
Bước chuyển trong sáng tác của Tô Hoài được thể hiện rõ ở cả chủ đề
và đề tài. Tô Hoài không bó hẹp nội dung và đối tượng phản ảnh trong
phạm vi của một vùng dân nghèo ngoại thành Hà Nội nơi ông từng gắn
bó, mà ông còn hướng đến một không gian rộng lớn, đến với cuộc sống
của nhiều lớp người, nhiều vùng đất khác nhau, nổi bật nhất là miền
núi Tây Bắc. Tây Bắc không còn là miền đất xa lạ, nó đã trở thành quê
hương thứ hai của Tô Hoài. Ông viết về Tây Bắc không chỉ bằng tài
năng nghệ thuật, vốn sống phong phú, mà còn bằng cả tình yêu đằm
thắm thiết tha như chính quê hương mình. Bởi lẽ, với Tô Hoài: “Đất
nước và người miền Tây đã để thương, để nhớ cho tôi nhiều quá”, hình
ảnh Tây Bắc “lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong
tâm trí tôi”, nó có sức ám ảnh mạnh mẽ khơi dậy nguồn cảm hứng sáng
tạo và thúc đẩy nhà văn viết thành công nhiều tác phẩm về miền đất
này. Trên cơ sở đó, có thể xem ông là nhà văn của miền núi Tây Bắc, là
một trong những người đặt nền móng cho nền văn học viết về đề tài
Tây Bắc.
Tác phẩm đầu tiên của Tô Hoài viết về miền núi là tập truyện “Núi Cứu
quốc” sáng tác năm 1948. Ở tác phẩm này ông đã thể hiện được cảnh
sống vất vả, thiếu thốn, nhưng giàu nghĩa tình đối với cách mạng, cũng
như ý chí quyết tâm chiến đấu của đồng bào miền núi. Tuy nhiên, tác
phẩm này còn nặng về thể hiện, miêu tả các tài liệu, bề mặt của vấn đề
mà ít đi vào khám phá chiều sâu, bản chất của nó để rồi “chết chìm
trong tài liệu” như nhà văn đã tâm sự trong “Một số kinh nghiệm viết
văn của tôi”. Vì thế, tác phẩm trên còn thiếu sự sinh động, thiếu sức
hấp dẫn đối với người đọc.

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 3



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

Phải đến “Truyện Tây Bắc”, Tô Hoài mới có được sự thành công đặc
sắc ở mảng đề tài về miền núi Tây Bắc. Bằng tài năng nghệ thuật và
vốn sống phong phú về Tây Bắc, ông đã thể hiện được một cách chân
thật, sinh động những nỗi đau thương, khổ nhục của họ dưới ách áp
bức nặng nề của kẻ thù thực dân phong kiến. Tập “Truyện Tây Bắc”
gồm ba truyện: “Mường Giơn”, “Cứu đất cứu mường”, “Vợ chồng A
Phủ”. Hình ảnh người lao động miền núi Tây Bắc nghèo khổ, mà nhất
là người phụ nữ trong tập truyện này được Tô Hoài miêu tả với tất cả
niềm cảm thông sâu sắc. Cảnh đời của Mị, một cô dâu gạt nợ chết dần,
chết mòn trong địa ngục trần gian của nhà thống lí Pá Tra, hay thân
phận của cô Ảng, từ cô gái có vẻ đẹp nổi tiếng ở Mường Cơi bị xem như
món đồ chơi qua tay nhiều quan châu, quan lại, chúa đất cho đến khi
tàn tạ trở thành bà lão Ảng ăn mày... đã để lại cho người đọc biết bao
điều suy nghĩ về cuộc sống đắng cay, tủi nhục của người phụ nữ Tây
Bắc dưới sự đè nén áp bức nặng nề của thực dân và phong kiến ở miền
núi. Mặt khác, qua tập truyện trên, Tô Hoài đã khẳng định, ngợi ca
những phẩm chất tốt đẹp của người miền núi Tây Bắc, cũng như lí giải
thành công về con đường tất yếu họ phải tìm đến để thoát khỏi cuộc
sống bị đọa đày áp bức đó là con đường cách mạng.
Có thể nói, “Truyện Tây Bắc” đánh dấu một bước ngoặt quan trọng
trên con đường sáng tạo nghệ thuật, và bộc lộ sự nhận thức đúng đắn
của Tô Hoài về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cách mạng.
Tài năng nghệ thuật của Tô Hoài khi viết về miền núi càng về sau càng
được phát huy và khẳng định qua nhiều tác phẩm khác từ sau 1955
như : “Miền Tây”, “Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ”, “Họ Giàng ở Phìn Sa”,
“Nhớ Mai Châu”,... Nhà văn tiếp tục ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của các
dân tộc ở miền núi Tây Bắc trong đời sống kháng chiến và xây dựng
chủ nghĩa xã hội thông qua những hình ảnh thực như : Hoàng Văn Thụ
(dân tộc Tày), Kim Đồng (dân tộc Nùng), Giàng A Thào, Vừ A Dính (dân
tộc Hmông)... Tất cả họ đều thủy chung, gắn bó son sắt với cách mạng
và cuộc đời mới. Nhiều người đã ngã xuống vì cuộc sống bình yên,
hạnh phúc cho quê hương đất nước. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng
Sống trong cuộc đời mới, nhà văn Tô Hoài cũng “ôn chuyện cũ”, ngòi
bút của ông hướng về xã hội trước Cách mạng tháng Tám từ cách nhìn,
sự suy ngẫm sâu sắc hơn theo thời gian và những trải nghiệm trong

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 4



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

cuộc sống. Ở tiểu thuyết “Mười năm”, với tầm nhận thức mới và từ chỗ
đứng của cuộc sống hiện tại nhiều đổi thay mang ý nghĩa lớn trong đời
sống dân tộc, Tô Hoài đã phản ảnh chân thật và sinh động hơn cảnh
sống bi thảm, đói nghèo, cùng quẫn ở một vùng quê ven đô, nơi mà
nhà văn đã chứng kiến và trải qua cùng với bao số phận khác. Đồng
thời, qua “Mười năm”, nhà văn cũng thể hiện được quá trình giác ngộ
cách mạng của quần chúng cũng như sức mạnh của họ trong các phong
trào đấu tranh chống lại sự áp bức bóc lột của chế độ thực dân phong
kiến. Đi đầu trong phong trào đấu tranh là lớp thanh niên như Lạp,
Trung, Lê, Ba,... Họ tiếp thu ánh sáng lí tưởng mới, và hăng hái nhiệt
tình tham gia các hoạt động để đem lại sự đổi thay cho cuộc sống.
Sau tiểu thuyết Mười năm, Tô Hoài còn viết nhiều tác phẩm khác về
ngoại thành Hà Nội như: “Quê người”, “Quê nhà” và gần đây là “Chuyện
cũ Hà Nội” (hai tập). Điều đó cho thấy vốn sống, nguồn tư liệu, cũng
như nguồn cảm hứng sáng tác của Tô Hoài về Hà Nội vô cùng phong
phú đa dạng. Từ các tác phẩm viết về Hà Nội của ông, người đọc có
điều kiện hiểu hơn về phong tục, nếp sinh hoạt, tên gọi phố phường,
con người Hà Nội trải dài suốt cả thế kỉ XX trong cuộc sống đời thường
và cả trong chiến tranh.
Không chỉ thành công ở thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, Tô Hoài
còn đạt được thành tựu đặc sắc ở thể kí. Nhiều tác phẩm kí của ông
xuất hiện sau những chuyến đi lên Tây Bắc như “Nhật kí vùng cao”,
“Lên Sùng Đô”, hay đi thăm nước bạn như “Tôi thăm Campuchia”,
“Thành phố Lênin”, “Hoa hồng vàng song cửa”,... Đặc biệt, Tô Hoài có
các tập hồi kí gắn liền với bao nỗi vui buồn và mơ ước của tuổi thơ,
bao kỉ niệm về những bạn văn, đời văn của ông như “Tự truyện”, “Cát
bụi chân ai”, “Chiều chiều”. Từ các tập hồi kí này, người đọc có điều
kiện để hiểu thêm về phong cách nghệ thuật, thân phận, nhân cách nhà
văn trong hành trình văn chương của ông và một số nhà văn khác.
Cách viết hồi kí của Tô Hoài rất linh hoạt biến hóa, các sự kiện được
khai thác theo mạch liên tưởng và đan xen lẫn nhau nên luôn tạo được
sức hấp dẫn đối với người đọc không thua kém gì so với thể loại khác.
Bên cạnh những mảng sáng tác trên, Tô Hoài còn tiếp tục viết khá
nhiều tác phẩm cho thiếu nhi. Ở mảng sáng tác này, ngay cả khi tuổi
tác không còn trẻ Tô Hoài vẫn có được cách cảm nhận và thể hiện đời

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 5



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

sống qua trang văn phù hợp với tâm hồn, nhận thức của tuổi thơ, để
cùng các em đến với một thế giới biết bao điều kì thú. Trên cơ sở đó
góp phần bồi đắp vẻ đẹp và sự trong sáng, cao cả cho tâm hồn trẻ thơ.
Tóm lại: Những sáng tác của Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám đã
khẳng định được vị trí và tài năng nghệ thuật của ông trước hiện thực
của cuộc đời mới. Ông xứng đáng là một tấm gương trong sáng trong
lao động nghệ thuật để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
* Nhận định văn học của Tô Hoài
1. “Người viết có con mắt nhìn sáng rõ mục đích viết để bắt được ý
chính của tác phẩm luôn luôn theo một mục đích đó.”
2. “Nếu ngôn ngữ ví là cái áo của tư duy thì nhân vật là hình thù con
người mặc cái áo ấy.”
3. "Câu chuyện thành công thì nhân vật phải đặt ở hàng đầu vì nhân
vật hay thì câu chuyện mới hay.”
4. “Nhân vật là nơi tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một
sáng tác. Nhân vật thường quyết định sự thành bại của tác phẩm.”
5. “Sáng tác chính là tái hiện sự sống nhưng không phải là làm sống lại
một cách tự nhiên mà trong nhiệm vụ sáng tác còn mang phần trang
điểm cho sự sống.”
6. “Tôi thường dè chừng một thói quen dễ mắc: sáng tạo trên cở sở
tiếng nói của quần chúng nhưng tuyệt nhiên không phải là bắt chước,
là nhại quần chúng. Học tinh hoa tiếng nói, đưa tinh hoa tiếng nói quần
chúng thành phong cách văn mình.”
7. “Mỗi nhà văn bước vào nghề một cách thì mỗi nhà văn có một lối đi
của mình. Cùng một ý tưởng nhưng mỗi người một lối viết, lối cảm
nghĩ, một tâm hồn, đó là quang cảnh trăm hoa trong văn học.”
8. “Người viết văn cũng như ông thầy lang, như nhà bào chế, càng sẵn
đầu vị thuốc tốt trong ô càng dễ pha chế được như ý.”
9. “Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống những trang bản thảo, phải
là hạt ngọc mới nhất của mình tìm được, do phong cách văn chương
của mình mà có. Trang sách mà không có ngọc, trang bản thảo mà

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 6



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

không có chữ thần, không có tinh hoa, thì cái hồn tác phẩm, từ tư
tưởng đến nhân vật, tất cả bao nhiêu ước vọng và khát khao mà ta gửi
gắm vào sáng tác biết lấy gì cho sống được.”
10. “Muốn viết được, thứ nhất phải do mình có trải, có biết thật sự và
sâu sắc, do đấy cảm hứng và lòng hăm hở mới chắc chắn được. Cuộc
sống tư tưởng và thực tế của mình nhiều hay ít sẽ là cơ sở cho cảm
hứng và sáng tạo.”
11. “Kinh nghiệm viết văn, cả về tư tưởng và cách viết, là kinh nghiệm
lao động, do hàng ngày lao động sáng tác mà nảy nở. Nó vô cùng tận.
Không thể nói lúc nào hoàn hảo, mỗi bước phấn đấu lại được kinh
nghiệm mới. Cứ thế thay đổi và đổi mới mãi, đem lại tiến bộ cho người
viết.”

Chuyện kể rằng trên đỉnh núi Olympia thuở ấy, khi trái đất còn trong
cảnh hỗn mang tăm tối. Anh em Prometheus được thần Zeus giao cho cai
quản trái đất, sáng tạo con người. Hai anh em họ đã lấy đất sét trộn với
nước nặn thành hình muôn loài. Trong khi người em đã nặn ra biết bao
loài sinh vật thì người anh vẫn chưa hài lòng với tác phẩm đầu tiên của
mình, ông muốn tạo ra một sinh vật phi thường có khả năng nắm giữ trái
đất này và đó chính là “Con Người”. Có lẽ cũng từ khi ấy, con người đã
trở thành tâm điểm của mọi sự biến thiên trên vũ trụ này. Trong văn học
cũng vậy, hai tiếng thiêng liêng “Con Người” vừa là khởi nguyên, vừa là
cái đích mà nghệ thuật muốn hướng tới. Văn chương Tô Hoài cũng không
nằm ngoài quy luật bất biến ấy, đặc biệt với truyện ngắn “Vợ chồng A
Phủ”, cây đại thụ của nền văn học Việt Nam đã xây dựng thành công hình
tượng nhân vật Mị - một cô gái người Mèo xinh đẹp, mang trong mình
sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ và bất diệt.
1. Giới thiệu tác giả, tác Hiện thực là cánh đồng màu mỡ để người
phẩm nghệ sĩ có thể thỏa sức thâm canh, ươm
mầm những áng văn làm rung động trái
1.1 Tác giả
tim người thưởng thức. Và cũng trên
- Vị trí: Là cây đại thụ của mảnh đất ấy, Tô Hoài đã in hằn những vết
nền văn xuôi Việt Nam chân để xây dựng một thế giới văn
hiện đại. chương đồ sộ với hàng trăm đầu sách,

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 7



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

+ Sáu mươi năm hoạt động hàng nghìn bài báo, thể loại phong phú,
nghệ thuật ông có hàng đa dạng. Ông có cho mình đôi mắt sắc
trăm đầu sách, hàng nghìn sảo, tinh đời và hóm hỉnh. Đó là “cửa sổ
bài báo với nhiều thể loại tâm hồn” để “người thư kí trung thành”
khác nhau. của thời đại ấy vừa “thu” cuộc sống bề
bộn, tươi nguyên vào tâm trí; vừa “phát”
+ Số lượng tác phẩm đạt kỉ
ra cuộc sống được tinh lọc, thăng hoa
lục trong văn học hiện đại
trên trang viết. Sẽ chẳng ai ngờ ngòi bút
Việt Nam.
tưởng chừng sinh ra chỉ cắm vào cùng
- Phong cách sáng tác: kiệt đất ven đô lại một ngày nhập cuộc và
+ Sáng tác thiên về diễn tả bén duyên với núi rừng Tây Bắc. Tô Hoài
những sự thật của đời giờ đây chẳng khác nào người lữ khách
sống bình dị. mang theo hơi thở đất trời, gieo xuống
miền Tây những hạt giống văn chương,
+ Lối trần thuật hóm hỉnh, để rồi theo năm tháng, văn hương của
sinh đồng của người từng ông đã làm mê đắm biết bao lòng người.
trải, vốn từ vựng phong Bởi vậy truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”
phú được sử dụng đắc địa. sáng tác năm 1952 (là truyện ngắn đặc
1.2 Tác phẩm sắc nhất trong tập tập “Truyện Tây Bắc”
sáng tác năm 1953) được thoát thai như
- “Vợ chồng A Phủ” sáng một lẽ hiển nhiên – thứ văn chương được
tác năm 1952, là truyện chưng cất từ chính trải nghiệm của Tô
ngắn đặc sắc nhất trong Hoài khi “cùng ăn, cùng ở, cùng làm”
tập “Truyện Tây Bắc” trong suốt 8 tháng với đồng bào dân tộc
(1953). Tây Bắc. Tác phẩm là câu chuyện về
- Là kết quả chuyến đi thực những người dân lao động vùng cao Tây
tế kéo dài 8 tháng cùng bộ Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa
đội lên giải phóng Tây Bắc. đất áp bức, đày đoạ, giam hãm trong cuộc
sống tăm tối đã vùng lên phản kháng, đi
- Là câu chuyện về những tìm cuộc sống tự do.
người dân lao động vùng
cao Tây Bắc không cam
chịu bọn thực dân, chúa
đất áp bức, đày đoạ, giam
hãm trong cuộc sống tăm
tối đã vùng lên phản

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 8



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

kháng, đi tìm cuộc sống tự


do.
2. Tóm tắt truyện Truyện kể về cuộc đời của Mị và A Phủ.
Mị vốn là một cô gái trẻ đẹp, tài năng
nhưng gia đình nghèo khó. Vì món nợ
truyền kiếp của cha, Mị bị bắt về làm con
dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra.
Quanh năm, Mị phải làm hết mọi việc
trong nhà. Càng ngày cô càng trở nên lầm
lũi, ít nói. Mùa xuân về trên Hồng Ngài,
Mị cũng muốn đi chơi, nhưng A Sử trở về
liền trói cô trên cột. Còn A Phủ là một
chàng trai mồ, khỏe mạnh, giỏi lao động.
Vì đánh A Sử - con trai thống lí Pá Tra nên
bị bắt làm thân nô lệ cho nhà thống lí.
Một lần A Phủ để hổ ăn mất một con bò,
bị thống lí phạt trói, bị bỏ đói suốt mấy
ngày đêm. Một đêm, khi trở dậy thổi lửa
để sưởi, Mị bắt gặp dòng nước mắt chảy
trên gò má của A Phủ. Mị nghĩ đến thân
phận mình, liền cởi trói cho A Phủ. Mị
chạy theo A Phủ. Hai người trốn Phiềng
Sa, trở thành vợ chồng. A Phủ gặp được
A Châu, cùng anh tham gia cách mạng. Họ
cùng nhau chiến đấu để bảo vệ bản làng.
PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT MỊ
1. Cách giới thiệu nhân Ngay câu văn đầu, Mị được giới thiệu
vật bằng giọng kể trầm buồn phảng phất ý vị
cổ tích “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống
- Giọng kể trầm buồn
lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con
phảng phất ý vị cổ tích: “Ai
gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá, cạnh
ở xa về , có việc vào nhà
tàu ngựa”. Cách kể chuyện đã dần hé mở
thống lí Pá Tra thường
cho người đọc những dự báo bất hạnh
trông thấy có một cô con
trong cuộc đời nhân vật. Mị xuất hiện
trong nhà thống lí Pá Tra với một chuỗi

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 9



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

gái ngồi quay sợi gai bên công việc: quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải,
tảng đá, cạnh tàu ngựa”. chẻ củi, cõng nước… chứ không phải
trong một hoàn cảnh nào khác. Tô Hoài
- Xuất hiện cùng chuỗi
đã xây dựng một tương phản: hình ảnh
công việc nặng nhọc: quay
Mị lầm lũi cô đơn với hàng núi công việc
sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải,
nặng nhọc đối lập với cảnh giàu có, nhà
chẻ củi, cõng nước,…
nhiều nương nhiều bạc, nhiều thuốc
- Hình ảnh tương phản: phiện nhất làng của thống lí Pá Tra “thế
hình ảnh Mị lầm lũi cô đơn thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái
với hàng núi công việc khổ mà biết khổ biết buồn”. Cảnh đối lập
nặng nhọc đối lập với cảnh hé lộ thân phận thấp hèn của một nô lệ
giàu có, nhà nhiều nương mang danh con dâu thống lý. Không chỉ
nhiều bạc, nhiều thuốc vậy, tác giả còn đồng nhất hình ảnh Mị
phiện nhất làng của thống ngồi quay sợi với tảng đá, tàu ngựa. Mị
lí Pá Tra. còn trẻ nhưng hiện lên tựa một vật thể vô
- Đồng nhất Mị ngồi quay tri vô giác, câm lặng, âm thầm như một
sợi với tảng đá, tàu ngựa. tảng đá và u tối, cực nhọc như kiếp trâu
ngựa. Dường như cuộc đời của Mị giờ
ð Hé mở cánh của về cuộc đây không được tính bằng vòng quay của
đời mị nhiều sóng gió. thời gian mà được tính bằng vòng quay
của công việc. Chính cách giới thiệu ấn
tượng và cuốn hút ngay từ dòng văn đầu
tiên, Tô Hoài đã hé mở cánh cửa về cuộc
đời Mị, khiến người đọc trở nên tò mò và
bắt đầu cuộc hành trình khai khoáng
những giá trị hiện thực cũng như nhân
đạo đang ẩn chứa trong từng trang bản
thảo của tác giả.
2. Mị trước khi về làm
dâu nhà thống lí Pá Tra Mị là một người con gái xinh đẹp, lắm kẻ
thương người nhớ. Nàng chẳng khác nào
2.1 Mị – người con gái bông hoa của núi rừng Tây Bắc đang nở
hội tụ nét đẹp của một cô rộ giữa tiết trời xuân, ngan ngát hương
gái truyền thống: nhan thơm khiến bao người mê đắm. Song
sắc, tài hoa “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”
- Tài thổi sáo, thổi đàn môi: (Truyện Kiều – Nguyễn Du), cô gái người
“Mị uốn chiếc lá trên môi, Mèo đang độ mười tám đôi mươi ấy còn

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 10



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

thổi lá cũng hay như thổi có cho mình tài thổi sáo, đàn môi: “Mị
sáo”. uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay
như thổi sáo”. Tiếng sáo của Mị ngân
- Trai làng mê tiếng sáo mà
vang khắp bản làng miền cao, trai làng vì
“ngày đêm thổi sáo đi theo
mê tiếng sáo ấy không quản ngại mà
mị và “đứng nhẵn cả chân
“ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”, “đứng
vách đầu buồng mị”.
nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Nhưng
ð Dự cảm về số phận có lẽ sự tài hoa và nét xinh đẹp hơn
nhiều trắc trở. người cũng đã ngầm dự báo một số phận
nhiều trắc trở về sau của Mị, như cách
Nguyễn Du đã miêu tả vẻ đẹp xuất thần
của Kiều để rồi ngòi bút lại rỉ máu mà
chua xót: “Lạ gì bỉ sắc tư phong/ Trời
xanh quen thói má hồng đánh ghen”

Mang trong mình một trái tim tươi đỏ
2.2 Mị có cá tính mạnh với những nhịp đập thổn thức của tình
mẽ, tự chủ dù có phải yêu, Mị đang yêu và khao khát được yêu,
chịu nhiều vất vả Mị muốn đi theo tiếng gọi của trái tim
- Mị sẵn sàng chịu vất vả để mình nên đã xin với bố rằng: “Con nay đã
đổi lại một cuộc sống tự biết cuốc nương làm ngô, con phải làm
do, hạnh phúc: “Con nay nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng
đã biết cuốc nương làm bán con cho nhà giàu”. Mị thà rằng chịu
ngô, con phải làm nương một cuộc sống vất vả, cực nhọc, lao động
ngô giả nợ thay cho bố.” chăm chỉ và tự mình quyết định số phận
của chính mình thay vì trở thành món
- Mị có ý thức tự chủ, hàng hóa để gả bán cho nhà giàu. Dường
không muốn trở thành như Mị chính là hình mẫu lí tưởng của
món hàng hoá gả bán cho biết bao cô gái nơi dốc núi ngàn sương,
nhà giàu: “Bố đừng bán họ gắn liền với tinh thần lao động, chủ
con cho nhà giàu”. động và say mê với công việc. Đó là
những cô gái nơi núi rừng chiến khu
“Việt Bắc” của Tố Hữu: “Nhớ cô em gái
hái măng một mình”, là hình ảnh bình dị
của những “Cô em xóm núi xay ngô tối”
vùng sơn cước xa xôi…

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 11



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

2.3 Nhưng dù muốn tự Rõ ràng tất cả những gì Mị đang sở hữu:


chủ, Mị cũng rất vị tha, sắc đẹp, tài năng, phẩm chất,… đáng lẽ
hiếu thảo để hi sinh cho nàng phải có một cuộc sống hạnh phúc,
cha song, người con gái tài sắc vẹn toàn ấy
đâu thoát khỏi trò đùa của con tạo: “Anh
- Bị bắt về làm “con dâu gạt
hoa phát tiết ra ngoài/ Nghìn thu bạc
nợ” nhà thống lí Pá Tra để
mệnh một đời tài hoa”. Vì không thể trả
trả món nợ truyền kiếp.
món nợ truyền kiếp nên Mị bị bắt về làm
- Chịu nhiều đau khổ, “con dâu gạt nợ” cho nhà thống lí Pá Tra.
nhiều lần nghĩ đến cái chết Mị chịu biết bao khổ đau sầu tủi, nhiều
nhưng vì thương cha Mị lại lần nghĩ đến cái chết để giải thoát cho
không đành lòng chết. mình, vậy mà vì thương cha, nghĩ đến
- Nghĩ đến cha già yếu, Mị cảnh cha già yếu vẫn bị đày đọa không
gạt nước mắt quay về nhà yên, nàng lại không đành lòng chết, chỉ
thống lí tiếp tục cuộc sống “bưng mặt khóc” rồi “ném nắm lá ngón
nô lệ. xuống đất”, chấp nhận gạt nước mắt
quay về nhà thống lí tiếp tục làm nô lệ,
ð Với những gì Mị đang sở sống cuộc đời mà sự sống còn đáng sợ
hữu: sắc đẹp, tài năng, hơn cái chết. Ta từng bắt gặp bà Ảng
phẩm chất,… đáng lẽ nàng trong “Cứu đất cứu mường”; Mát, Yên
phải được hưởng một trong “Mường Giơn”, cũng như Mị là
cuộc sống hạnh phúc. những đại diện, tượng trưng cho thân
phận của biết bao người phụ nữ nghèo và
khổ đến tận cùng cơ cực lúc bấy giờ.
Nghèo, đói, áp bức đến rã rời, họ còn phải
chịu trăm ngàn cay đắng, tủi nhục mà
không được phép chết, bởi chết đồng
nghĩa với bất hiếu, trút hết gánh nặng lên
đôi vai gầy guộc của mẹ của cha.
3. Mị khi về làm dâu nhà Sứ mệnh của nhà văn giờ đây chẳng khác
thống lí Pá Tra nào một nhà địa chất tâm hồn, khai
khoáng từng mảng nỗi đau nhân loại, anh
- Bề ngoài là con dâu ta phải đồng cảm, phải yêu thương và
nhưng thực chất Mị chỉ là nâng niu những tâm hồn sứt mẻ. Đến với
con nợ, không chút địa vị những trang viết thấm đượm giá trị nhân
trong nhà thống lí Pá Tra. đạo cũng như hiện thực của Tô Hoài

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 12



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

- Chịu cảnh cùng lúc hai trong “Vợ chồng A Phủ” người đọc bắt
tròng dây trói buộc khiến gặp sự thống khổ của Mị khi về làm “con
Mị hiểu rằng chỉ có thể dâu gạt nợ” cho nhà thống lí Pá Tra khiến
chấp nhận hoàn cảnh sống ta không khỏi xót xa. Dưới sức mạnh tàn
này cho đến hết đời. bạo của cường quyền và sự bủa vây độc
ác thần quyền đã biến Mị thành vợ A Sử -
- Mị đơn độc, câm lặng
làm dâu nhà Pá Tra một cách bất ngờ,
giữa không gian rộng lớn,
không kịp phản kháng. Người ngoài nhìn
tráng lệ nhà thống lí: “một
vào tưởng như Mị là con dâu nhưng thực
cô gái ngồi quay sợi gai
chất Mị chỉ là con nợ. Đau xót hơn cả nếu
bên tảng đá trước cửa,
đơn thuần chỉ là con nợ thì một ngày kia
cạnh tàu ngựa”
Mị có thể tự giải thoát cho chính mình
- Mị gắn liền với chuỗi sau khi trả xong nợ, nhưng Mị lại chịu
công việc nặng nhọc: “Lúc cảnh một cổ hai tròng, thân vừa làm con
nào cũng vậy, dù quay sợ, nợ, vừa làm dâu không chút địa vị trong
thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ nhà thống lí. Giờ đây Mị hiểu rằng cô sẽ
củi hay đi cõng nước dưới phải sống trong thân phận “con dâu gạt
khe suối lên, cô ấy cũng cúi nợ nhà thống lí” – thân phận của một nô
mặt, mặt buồn rười rượi”. lệ khốn khổ suốt những năm tháng còn
- Sống trong đau khổ, lại của cuộc đời: “Lúc nào cũng vậy, dù
nhiều lần Mị tìm đến lá quay sợ, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay
ngón để kết liễu đời mình. đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy
ð Tìm đến cái chết chính cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Đặc
là đỉnh điểm của niềm khát biệt, Tô Hoài đã khéo léo sử dụng bút lực
khao sống mãnh liệt để tạo ra phép tương phản đối lập giữa
không gian rực rỡ, náo nhiệt trong căn
- Nhưng cái đau lòng hơn nhà của gia đình quyền thế: “Người ta
cả của Mị đó chính là giây thường nói: nhà Pá Tra làm thống lí, ăn
phút nhận ra lối thoát ấy của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về
tuột khỏi tầm tay vì “Mị bán, giàu lắm, nhà nhiều nương, nhiều
chết thì bố Mị còn khổ hơn bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng…” với
bao nhiêu lần bây giờ không gian u tối, trầm buồn, lặng lẽ và cô
nữa”, “thế là Mị lại không độc của Mị: “một cô gái ngồi quay sợi
đành lòng chết”. gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu
- Sau khi bố Mị mất, cô ngựa”. Cuộc sống làm con dâu gạt nợ khó
cũng không còn nghĩ đến khăn và khổ nhục không tưởng với người

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 13



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

là ngón để tự tử nữa. Mị con gái ấy. “Có đến hàng tháng trời đêm
mất dần ý thức phản nào Mị cũng khóc”, những giọt nước mắt
kháng: “Ở trong cái khổ, chan hòa với niềm đau trong trái tim của
Mị quen khổ rồi”, “Mị một cô gái vẫn còn quá trẻ. Mị khổ tâm,
tưởng mình cũng là trâu, uất ức khi nhận thức được nỗi đau hiện
mình cũng là ngựa… Con tại do đâu mà ra. Đó là việc Mị phải chấp
ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi nhận lấy một người đàn ông mà mình
làm mà thôi.” không yêu, bắt đầu một chặng đường vùi
chôn tuổi xuân trong nấm mồ mang tên
- Mị trở thành cỗ máy lao
“hôn nhân”. Người con gái ấy bị chính
động, làm những công việc
người chồng của mình đánh đập, hành hạ
lặp đi lặp lại: “lúc nào cũng
không kém gì thú vật. Ta cảm tưởng như
nhớ lại những việc giống
cả thể xác và tinh thần của Mị đều chằng
nhau, mỗi năm một mùa,
chịt những vết thương, cũ có, mới có, cứ
mỗi tháng lại làm đi làm
thế xếp lớp, xếp chồng đè nặng lên tâm
lại: Tết xong lên núi hái
hồn và cơ thể Mị. Để rồi nàng đã tự mình
thuốc phiện; giữa năm thì
tìm đến nắm lá ngón - thứ độc dược của
giặt đay; đến mùa đi
rừng xanh như một sự giải thoát. Phản
nương bẻ bắp. Và dù đi hái
kháng bằng việc tìm đến cái chết liệu có
củi, bung ngô, lúc nào cũng
phải là khát khao sống tự do của Mị? Tuy
gài một bó đay trong tay
nhiên trên thực tế đó chỉ là hành động, là
để tước sợi. Bao giờ cũng
ý thức phản kháng yếu ớt và đơn độc.
thế, suốt năm, suốt đời
Nhưng cái đau lòng hơn cả của Mị đó
như thế.”
chính là giây phút nhận ra lối thoát ấy
- Mị dần mất ý thức về giá tuột khỏi tầm tay vì “Mị chết thì bố Mị
trị của bản thân, cô nghĩ còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa”,
mình không bằng thân “thế là Mị lại không đành lòng chết”. Và
trâu ngựa: “Con ngựa, con rồi Mị lại đành chấp nhận kiếp sống trâu
trâu làm có lúc, đêm còn ngựa, bị trói buộc bởi thần quyền: “ta là
được đứng gãi chân, nhai thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nó
cỏ, đàn bà con gái nhà này rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở
vùi vào công việc cả đêm đây”. Nhiều năm trôi qua, cha già - người
cả ngày.” thân duy nhất cũng qua đời nhưng cái
- Mị câm lặng, bị đồng nhất thôi thúc giải thoát trong Mị nay đã tắt.
cũng những vật vô tri, vô Mị không còn nghĩ đến đấu tranh bởi lẽ
giác: “Mỗi ngày mị càng sống hay chết đối với cô lúc này không

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 14



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

không nói, lùi lũi như con quan trọng nữa và đương nhiên “lá
rùa nuôi trong xó cửa”. ngón” cũng chẳng còn lảng vảng trong
tâm trí đã ngủ quên. Cuộc sống bây giờ là
- Căn buồng Mị ở chật hẹp,
sự kéo dài của những ngày chưa chết hay
tối tăm, lạnh lẽo chẳng
việc sống chỉ như là một tồn tại mờ mờ
khác nào một ngục thất
nhân ảnh? Từ khoảnh khắc tự tử không
giam cầm người tù chung
thành cho đến về sau Mị mất dần ý thức
thân chỉ có một “chiếc cửa
phản kháng: “Ở lâu trong cái khổ, Mị
sổ lỗ vuông bằng bàn tay.
quen khổ rồi”, “Mị tưởng mình cũng là
Lúc nào trông ra cũng chỉ
trâu, mình cũng là ngựa… Con ngựa chỉ
thấy mờ mờ trăng trắng,
biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi.” Mị chẳng
không biết là sương hay là
khác nào cỗ máy lao động, làm những
nắng”.
công việc nặng nhọc được lặp đi lặp lại từ
- Mị trở nên vô cảm với nỗi năm này qua năm khác: “lúc nào cũng
khổ của người khác: Trong nhớ lại những việc giống nhau, mỗi năm
những đêm đông lạnh lẽo một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết
ở Hồng Ngài, A Phủ bị trói xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm
tời mấy đêm bên đống lửa, thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và
vậy mà hằng đêm Mị vẫn dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài
dậy thản nhiên thổi lửa hơ một bó đay trong tay để tước sợi. Bao giờ
tay. Và Mị thâm chí còn cũng thế, suốt năm, suốt đời như thế.”
nghĩ “A Phủ có là cái xác Năm tháng sống trong nhà thống lí đã
chết đứng đấy cũng thế khiến cô gái có ý thức tự chủ mạnh mẽ
thôi”. ngày nào dường như đã không còn sức
- Mĩ trở nên vô cảm với nỗi phản kháng. Chuỗi ngày mòn mỏi trong
đau khổ của chính mình: đau khổ khiến Mị buông xuôi cuộc đời,
đầu hàng số phận, thậm chí cô còn nghĩ
+ Mặc dù người cha đã bản thân chẳng bằng thân trâu ngựa:
mất, nhưng Mị cũng chẳng “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn
thiết tha giải thoát bản được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con
thân nữa. gái nhà này vùi vào công việc cả đêm cả
+ “ở trong cái khổ, Mị quen ngày.” Động từ “vùi” miêu tả rõ nét lượng
khổ rồi.” hay “Mị nghĩ rằng công việc mà Mị phải làm trong ngày, cứ
mình cứ ngồi trong lỗ luân phiên ngày này qua ngày khác,
vuông ấy mà trông ra, đến chẳng một giây phút thảnh thơi, ta tưởng
bao giờ chết thì thôi.” như thanh xuân của Mị giờ đây không

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 15



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

+ Khi bị A Sử đánh, trói,


được tính bằng vòng quay của thời gian
hay đạp ngã ra cửa bếp lúc mà được tính bằng vòng quay của công
sưởi lửa, Mị vẫn dửng việc. Đau đớn hơn cả, hình ảnh của một
dưng, đêm sau vẫn ra sưởi con người bằng xương bằng thịt lại được
như đêm trước, không miêu tả, đồng nhất vào những sự vật vô
một chút sợ hãi, hay buồn tri vô giác như tàu ngựa hay “ Mỗi ngày
bực. Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa
nuôi trong xó cửa”,… Không còn mòn
ð Cuộc sống của Mị trên
mỏi hay khát khao, Mị thu mình lại trong
trang văn của Tô Hoài
căn buồng lạnh lẽo, tăm tối và chật hẹp
đang lụi tàn theo thời gian.
chẳng đón nổi một tia nắng bình minh:
“chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc
nào trông ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng
trắng, không biết là sương hay là nắng”.
Tô Hoài đã khéo léo sử dụng tính từ
“trăng trắng” – gợi tả mảng màu vô định,
lập loè và mờ ảo, làm hiện lên trước mắt
ta không chỉ đơn thuần là căn buồng mà
nó còn là ngục thất giam cầm một tù
nhân đã mất ý niệm về thời gian sống,
mất cảm giác về cuộc đời và thân phận
mình. Không gian chật hẹp, tù túng ấy
trái ngược hoàn toàn với với sự rộng lớn
và tự do trước đây của Mị: một cuộc sống
dẫu nhiều thiếu thốn về vật chất nhưng
lại đầy đủ về tinh thần. Chính vì tinh thần
đang bị bóp nghẹt, Mị dần trở thành
người đàn bà lạnh lùng, vô cảm. Trước
hết, Mị vô cảm với nỗi đau khổ của người

khác. Trong những đêm đông lạnh lẽo ở
Hồng Ngài, A Phủ bị trói tời mấy đêm bên
đống lửa, vậy mà hằng đêm Mị vẫn thản

nhiên thổi lửa hơ tay. Và Mị thâm chí còn
nghĩ “A Phủ có là cái xác chết đứng đấy
cũng thế thôi”, rõ ràng cô ý thức được sự
vô cảm của mình nhưng tiếc rằng, trái

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 16



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

tim nhân hậu của cô dường như đã nguội


lạnh mất rồi! Và điều đáng sợ hơn cả, Mị

giờ đây còn vô cảm với nỗi đau khổ của
chính mình. Nếu như trước đây, khi mới
sống trong nhà thống lí Pá Tra, Mị giãy
giụa, phản kháng, thậm chí còn muốn tìm
đến cái chết để giải thoát thì bây giờ, sau
những tháng ngày đày đọa, ngay cả khi
cha đã chết, không còn ràng buộc, Mị
cũng chẳng còn tưởng đến sự chết nữa.
Tô Hoài đã viết những câu văn tưởng
như lạnh lùng mà biết bao đau đớn: “ở
trong cái khổ, Mị quen khổ rồi.” hay “Mị
nghĩ rằng mình cứ ngồi trong lỗ vuông ấy
mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.”
Bên cạnh đó, khi bị A Sử đánh, trói, hay
đạp ngã ra cửa bếp lúc sưởi lửa, Mị vẫn
dửng dưng, đêm sau vẫn ra sưởi như
đêm trước, không một chút sợ hãi, hay
buồn bực. Nhà thơ Xuân Diệu cũng từng
viết trong tác phẩm “Tỏa nhị Kiều” về

cuộc sống của hai cô gái Quỳnh và Giao.
Một cuộc sống mà tất cả đều bằng lặng,
nhạt nhòa, không sắc thái, không biến

động “cứ buồn buồn ngồi đó, trên trường
kỷ, chờ đợi một cái gì đó xảy đến…” và
ông nhận ra rằng, cái đáng sợ nhất cho
mỗi đời người không phải là cái nghèo,
cái đói hay cái khổ mà chính là sự vô vị
của cuộc sống. Sống mà không có lấy một
cái gì để chờ đợi và hy vọng, để yêu
thương và giận hờn. Cuộc sống của Mị
trên trang văn của Tô Hoài cũng chẳng
khác nào cái “ao đời phẳng lặng” của
Quỳnh và Giao.

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 17



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

4. Sức sống tiềm tàng của Nâng đỡ con người và khuyến khích con
Mị trong đêm tình mùa người trong cuộc chiến đấu để sinh tồn
xuân là thiên chức của nhà văn. Anh ta không
được chiều theo yếu đuối và sa đọa của

con người, không thể có một thứ nghệ
thuật đòi chết hay nghệ thuật bi quan.
Anh ta phải là người thổi sinh khí vào đời
sống bằng cách kêu gọi đào luyện một ý
chí sống cao thượng quả cảm. Hiểu được
điều ấy, Tô Hoài đã không ngần ngại trao
cho Mị một ngọn gió lành để thổi bừng
mầm lửa sức sống tiềm tàng khi mùa
xuân đến. Cõi lòng băng giá của cô gái
người Mèo ấy cứ tan băng, cứ ấm dần
theo từng tác động của nắng xuân, của
màu sắc biến ảo ở hoa thuốc phiện trên
nương, của ánh trăng đêm hò hẹn ngoài
nương, của ánh trăng đêm hò hẹn ngoài
rừng, của tiếng khèn, tiếng sáo, tiếng hát
gọi bạn tình của trai gái ngoài kia…

Năm ấy mùa xuân ở Hồng Ngài “gió và rét
4.1 Bức tranh thiên dữ dội”, “trên đầu núi, các nương ngô,
nhiên và cuộc sống con nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên
người trong đêm tình đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh
mùa xuân nghịch, đã đốt những lều canh nương để
- Hình ảnh: sưởi lửa.” Niềm vui đón xuân như được
nhân lên cùng niềm vui thu hoạch mùa
+ “Trên đầu núi, các
màng. Vạn vật đổi thay, đất trời như có
nương ngô, nương lúa gặt
men say, sự sống đang âm thầm cựa
xong, ngô lúa đã xếp yên
mình xôn xao trong cây cỏ. Đú ng lú c gió
đầy các nhà kho”.
và ré t ra- t dữ dộ i the- nhưng, ba- t cha- p cá i
+ “Trẻ con đi hái bí đỏ, kha± c nghiệ t củ a thời tie- t, không khı́ đó n
tinh nghịch đã đốt những Te- t vui xuân củ a Hóng Ngà i vaµ n ra- t ná o
lều canh nương để sưởi nức tưng bừng: Đó là hình ảnh “Trai gái,
lửa.” trẻ con ra sân chơi ấy tụ tập đánh pao,
đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy”;

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 18



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

+ “Trai gái, trẻ con ra sân là màu vàng ửng của cỏ gianh, hay sặc sợ
chơi ấy tụ tập đánh pao, của “những chiếc váy hoa” được phơi
đánh quay, thổi sáo, thổi trên mỏm đá trong các làng Mèo đỏ; là
khèn và nhảy”. âm thanh của “đám trẻ đợi Tết, chơi quay
cười ầm trên sân trước nhà” và đặc biết
- Màu sắc:
là những thanh của tiếng sáo đã đánh
+ “gió thổi vào cỏ gianh thức cả một miền kí ức chưa xa mà
vàng ửng”. dường như đã khuất mờ… Cái thiên
+ “trong các làng Mèo Đỏ, nhiên mơn mởn ấy vào xuân đã đánh
những chiếc váy hoa đã thức cái khát vọng vốn luôn ẩn sâu bên
đem phơi ra trên mỏm đá trong con người, đem lại sự hồi sinh mà
xoè như con bướm sặc sỡ”. tưởng như đã chết của Mị. Trong các
truyện ngắn kháng chiến, nhất là tập
- Âm thanh: truyện viết về miền núi Tây Bắc, Tô Hoài
+ “Đám trẻ đợi Tết, chơi miêu tả thiên nhiên rất say mê, những
quay cười ầm trên sân bức tranh đẹp và thơ mộng nhằm thể
trước nhà”. hiện tâm trạng nhân vật. Đọc thiên nhiên
Hồng Ngài vào xuân, tôi nhớ đến cảnh
+ Những thanh âm của đất trời Mường Giơn trong ngày giải
tiếng sáo đã đánh thức cả phóng mà Tô Hoài đã kí họa: “từ mặt đất,
một miền kí ức chưa xa mà mây mù cất cao như cái mành sương dần
dường như đã khuất mờ. dần cuộn lên, đầu tiên trông thấy đồng
ð Những âm thanh, màu lúa chín, rồi nước suối Nậm Giơn óng ánh
sắc, hình ảnh đã tạo nên sáng, rồi nóc nhà trong làng nhấp nhô”.
bức tranh mùa xuân đẹp Tất cả con người trong cảnh thiên nhiên
thơ mộng, nồng nàn, tràn ấy bỗng nhiên cũng vui sướng tột độ. Có
đầy sức sống. Nó như dự thể nói, chính khung cảnh thiên nhiên
báo một cuộc nổi dậy trong truyện ngắn của Tô Hoài đã khiến
trong tâm hồn Mị. cho nhân vật của ông hiện lên đầy đủ hơn
về tính cách và tâm hồn. Đặt trong cuộc
sống đời thường, trong môi trường sinh
hoạt và giữa khung cảnh thiên nhiên, con
người luôn được soi chiếu từ nhiều góc
nhìn khác nhau. Điều đó đã chứng tỏ tài
năng và bản lĩnh nghệ thuật của Tô Hoài.

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 19



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

4.2 Diễn biến tâm trạng Qua một khoảng thời gian dài sống tê liệt
và hành động của Mị vô cảm, thiên nhiên Hồng Ngài năm ấy
trong đêm tình mùa vào xuân đã đánh thức tâm hồn Mị. Và
xuân trong cái nhiên nhiên rạo rực cả đất trời
ấy, nổi bật nhất là chi tiết tiếng sáo:
Lưu ý: ở đây chúng ta
“tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi”, “tiếng
có thể phân tích theo
sáo văng vẳng gọi bạn ở đầu làng”, “tiếng
hai cách
sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lửng bay ngoài
Cách 1: theo 4 chặng đường”, “tiếng sáo đưa Mị đi theo những
của tiếng sáo cuộc chơi, những đám chơi”,… Tiếng sáo
dẫn Mị về quá khứ đẹp đẽ, rồi đưa Mị
Tiếng sáo lấp ló ngoài
quay về thực tại đầy đớn đau, nhưng sau
đầu núi ð tiếng sáo
văng vẳng gọi bạn đầu cùng lại giúp Mị có những hành động
phản kháng đòi quyền được sống như
làng ð tiếng sáo lơ lửng
một con người. Đối với những người
ngoài đường ð tiếng
sáo trong tiềm thức ð khác, tiếng sáo mùa xuân có thể là điều
tiếng sáo biến mất bình thường, nhưng với Mị - con người
đang sống trong hoàn cảnh nô lệ thì âm
Cách 2: theo logic phản thanh ấy có ý nghĩa đặc biệt. Tôi nhớ
kháng của nhân vật những vần thơ của Maia khi tác giả nói về
Mầm mống của sự phản ánh nắng hiếm hoi trong nhà ngục:
kháng bắt đầu trỗi dậy “một ánh nắng
ð nhớ về quá khứ tươi
đẹp ð thức tỉnh về thực Vàng hoe cửa buồng giam
tạ: thấy được sự bất Tôi đánh đổi cả cuộc đời không tiếc”
công ð dẫn đến hành
động phản kháng ð Cái ánh nắng vàng hoe ấy có thể vô nghĩa
hành động phản kháng với người khác nhưng với tác giả, trong
bị vùi dập hoàn cảnh tù ngục, lại thấy vô cùng đặc
biệt. Khám phá sự bí ẩn, và thấy được
trong con người nhỏ bé của mình một
sức mạnh siêu phàm. Sự bí ẩn và sức
mạnh ấy vốn nằm sâu bên trong mỗi
người. Và phải chăng trong chút nắng
vàng, trong âm thanh tiếng sáo vốn quen

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 20



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

thuộc ấy luôn tiềm ẩn một ánh mắt nhìn


đăm đắm và chờ mong?
4.2.1 Mầm mống của sự
phản kháng bắt đầu trỗi Có lẽ sau bao nhiêu năm, hình ảnh “trong
dậy trong Mị các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã
đem ra phơi trên mỏm đá xoè như những
- Nhu cầu làm đẹp đã trở
cánh bướm sặc sỡ” lại mới lọt vào mắt
lại trong Mị khi nhìn thấy
Mị. Ấn tượng mạnh về chiếc váy hoa sặc
hình ảnh: “trong các làng
sỡ cho thấy nhu cầu làm đẹp đã chết từ
Mèo đỏ, những chiếc váy
lâu đang trở về trong cô gái héo mòn này.
hoa đã đem ra phơi trên
Và trong sâu thẳm lòng Mị vẫn có một
mỏm đá xoè như những
tiếng hát, mà không có thứ đòn roi cường
cánh bướm sặc sỡ”.
quyền hay bóng ma thần quyền nào có
- Mị bước qua ranh giới thể hủy diệt được. Tiếng hát trong hồn
của sự câm lặng để tìm sự người vốn là một sự kết tinh kì diệu của
giao cảm cũng như giao sức sống con người. Bị vùi sâu chôn chặt
lưu khi nhẩm thầm theo tận đáy tâm khảm bấy lâu nay, tiếng hát
bài hát của người đang ấy đang cựa mình thức dậy: “Mị nghe
thổi. tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi. Mị
ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang
thổi.

Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu.”

Nếu như trước đây, tất cả những tác
động của cuộc sống không khiến Mị bận
tâm thì giờ đây, từ một người đàn bà âm
thầm câm lặng như con rùa lùi lũi nuôi
trong xó cửa thì nay đã ngồi “nhẩm thầm
bài hát”. Và đó chính là minh chứng cho
nhu cầu được sống, được giao cảm cũng
như giao lưu đang trở về trong Mị.

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 21



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

4.2.2 Nhớ về quá khứ Trong không khí của đêm tình mùa xuân,
tươi đẹp trong cái nồng nàn của bữa rượu ngày
tết, “Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ
- Trong không khí nồng
rượu uống ực từng bát”. Cách uống rượu
nàn ngày tết “Mị cũng
của Mị khiến ta ngạc nhiên nhưng không
uống rượu, Mị lén lấy hũ
cảm thấy vô lí. Bởi sau bao tháng ngày
rượu uống ực từng bát”:
đau đớn, tủi nhục, giờ là lúc Mị được sống
Mị uống như thể để quên
lại với chính con người mình. Mị uống
đi cái phần đời cay đắng,
như để quên đi cái phần đời cay đắng vừa
để sống lại cái phần đời
qua, để sống lại mạnh mẽ cái phần đời
tươi trẻ đã có.
tươi trẻ đã có. Hình ảnh Mị chuếnh
- “Tai Mị văng vẳng tiếng choáng men say khiến ta nhớ đến thằng
sáo gọi bạn đầu làng”: Từ Chí Phèo từng đắm mình trong hơi rượu,
“văng vẳng” không chỉ gợi càng uống lại càng thấy xót xa, thấy rằng
âm thanh từ xa vọng lại mà cái bi kịch đời mình quá đỗi lớn lao, hay
nó còn là âm thanh của hình ảnh của người đàn bà chịu cảnh
miền kí ức tươi đẹp: “Mị “chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”
lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi cũng ngất ngây lòng mình với rượu dưới
người nhảy đồng, người ánh trăng mà òa lên đau đớn khi:
hát, nhưng lòng Mị thì
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
đang sống về ngày trước”,
“Ngày trước Mị thổi sáo Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
giỏi”, “Mị uốn chiếc lá trên
(Hồ Xuân Hương)
môi, thổi lá cũng hay như
thổi sáo. Có biết bao nhiêu Chi tiết đắt giá chính là “bụi quý” trong
người mê, ngày đêm đã lao động nghệ thuật của người nghệ sĩ
thổi sáo đi theo Mị”. ð Chi chứ không phải là thứ cát bụi tầm
tiết tiếng sáo trong đêm thường. Anh ta phải cực nhọc dồn hết
tình mùa xuân chính là tình yêu, tâm tài cũng như trải nghiệm
một điểm sáng nghệ thuật của mình để sáng tạo ra những chi tiết
vừa hiện thực, vừa lãng nghệ thuật đắt giá. Có thể nói, Tô Hoài rất
mạn, đậm chất dân tộc và tài hoa, khéo khi chọn chi tiết tiếng sáo
giàu chất thơ. trong đêm tình mùa xuân để khơi gợi sức
sống trong Mị: “Tai Mị văng vẳng tiếng
ð Mị nghĩ về quá khứ
sáo gọi bạn đầu làng”. Tiếng sáo đã gọi
chính là cách để thoát khỏi
dâỵ một tâm hồn chai sạn; tiếng sáo ấy
thức tại, là minh chứng rõ

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 22



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

nét cho thấy nàng không đã đánh thức sức sống tiềm tàng, mạnh
còn cam chịu cuộc sống mẽ; tiếng sáo ấy đã tô đậm khát khao tự
ngột ngạt, câm lặng này do, cởi trói cuộc đời;… Dường như chi
nữa mà đang tìm cách tiết tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân
vượt thoát khỏi chốn địa đã trở thành một điểm sáng nghệ thuật
ngục trần gian đã giam giữ vừa hiện thực, vừa lãng mạn, đậm chất
nàng bấy lâu nay. dân tộc và giàu chất thơ. Từ “văng vẳng”
không chỉ gợi tiếng sáo từ khoảng cách

xa, đó còn là âm thanh của hoài niệm xa
xôi đang dần được đánh thức sau giấc
ngủ im lìm: “Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn
mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng
lòng Mị thì đang sống về ngày trước”,
“Ngày trước Mị thổi sáo giỏi”, “Mị uốn
chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như
thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê,
ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Mị nghĩ
về quá khứ chính là cách để thoát khỏi
thức tại, là minh chứng rõ nét cho thấy
nàng không còn cam chịu cuộc sống ngột
ngạt, câm lặng này nữa mà đang tìm cách
vượt thoát khỏi chốn địa ngục trần gian
đã giam giữ nàng bấy lâu nay.
4.2.3 Thức tỉnh về thực Chẳng lẽ tự nhiên mà Tô Hoài được
tại phũ phàng xướng danh “Cây đại thụ của nền văn học
Việt Nam”. Bằng sự già dặn của một cây
- Mặc dù được men rượu bút từng trải, ông không để tâm lí nhân
thôi thúc nhưng Mị không vật phát triển theo một đường thẳng mà
bước ra ngoài đường để
tinh tế gửi gắm nhân vật Mị vào một thế
hòa mình vào đám đông đa chiều, nhiều thử thách. Mặc dù được
đang vui vẻ ngoài kia mà men rượu thôi thúc nhưng Mị không
nàng “từ từ bước vào bước ra ngoài đường để hòa mình vào
buồng” ð Đây chính là đám đông đang vui vẻ ngoài kia mà nàng
bước chân của tiềm thức, “từ từ bước vào buồng”. Đây chính là
của lối mòn thân phận. bước chân của tiềm thức, của lối mòn
thân phận. Trong căn buông ấy chỉ có

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 23



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

- Trong căn buồng Mị ở chỉ duy nhất “một cửa sổ lỗ vuông mờ mờ


có duy nhất “một cửa sổ lỗ trăng trắng”, nó chẳng khác nào ngục
vuông mờ mờ trăng trắng” thất không ngày ân xá khi chịu kiếp con
ð nó chẳng khác nào ngục dâu gạt nợ, một cổ hai tròng. Nếu làm con
thất không ngày ân xá khi nợ, Mị chỉ cần chăm chỉ làm việc rồi một
chịu kiếp con dâu gạt nợ, ngày nào đó hoàn toàn có thể trả hết nợ,
một cổ hai tròng. nhưng đằng này, Mị vừa chịu kiếp con nợ
vừa đảm nhận kiếp con dâu nhà thống lí
- Những ảo giác của quá
khiến nàng chẳng thể nào trốn thoát khỏi
khứ đã giúp Mị xóa mờ
nơi đây. Nhưng ảo giác của quá khứ
những bất hạnh của hiện
mãnh liệt đã giúp Mị xóa mờ những bất
tại khiến Mị “phơi phới trở
hạnh của hiện tại khiến Mị “phơi phới trở
lại, trong lòng đột nhiên
lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như
vui sướng như những đêm
những đêm Tết ngày trước”. Mị ngồi đó,
Tết ngày trước”
bất chợt nhận ra “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn
- Mị bỗng nhận thức lại trẻ. Mị muốn đi chơi”. Những câu văn
được giá trị của chính bản ngắn, nhịp điệu dồn dập tạo nên sự thôi
thân: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn thúc mạnh mẽ làm bùng cháy khát vọng
còn trẻ. Mị muốn đi chơi” sống từ sâu trong tâm khảm Mị. Lúc này,
ð Những câu văn ngắn, Mị ý thức rõ về quyền sống, quyền được
nhịp điệu dồn dập tạo nên đi chơi ngày Tết như bao người phụ nữ
sự thôi thúc mạnh mẽ làm có chồng khác. Khi ý thức trỗi dậy thì
bùng cháy khát vọng sống cũng là lúc Mị cảm thấy rõ hơn bao giờ
từ sâu trong tâm khảm Mị. hết cái phi lí của cuộc sống thực tại: “Bao
- Ý thức trỗi dậy, Mị càng nhiều người có chồng cũng đi chơi ngày
thấy rõ cái phi lí của cuộc Tết. Huống chi A Sử với Mị không có lòng
sống hiện tại: “Bao nhiêu với nhau mà vẫn phải ở với nhau!” . Nếu
người có chồng cũng đi trước đây, người con gái ấy “quen khổ”
chơi ngày Tết. Huống chi A tới mức chai sạn, không còn tưởng đến
Sử với Mị không có lòng việc ăn lá ngón tự tử nữa thì giờ đây “nếu
với nhau mà vẫn phải ở có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ
với nhau!” ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại
nữa”. Đã hơn một lần Mị muốn chết, chết
- Mị đột nhiên muốn chết: để không phải chịu kiếp sống khổ đau, để
“nếu có nắm lá ngón trong chấm dứt thân phận con dâu gạt nợ đầy
tay lúc này, Mị sẽ ăn cho cay đắng, tủi nhục. Những giọt nước mắt

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 24



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

chết ngay chứ không buồn của Mị cũng đã bắt đầu rơi, nó chứng tỏ
nhớ lại nữa” ð Ý thức sự sống bắt đầu được hồi sinh sau tháng
được tình trạng sống vô ngày tê liệt cảm xúc và cô gái Mèo ấy
nghĩa. đang ý thức rất rõ hoàn cảnh đau xót của
mình. Trong “Chọn” nhà thơ Văn Cao đã
- Nước mặt của Mị đã bắt
từng đúc kết:
đầu rơi: “Nhớ lại, chỉ thấy
nước mắt ứa ra” ð sự tê “Giữa sự sống và sự chết
liệt cảm xúc đã được hoá
Tôi chọn sự sống
giải.
Để bảo vệ sự sống

Tôi chọn sự chết”

Và với Mị, nghĩ đến cái chết ở đây là cách

thể hiện của một con người ý thức được
tình trạng sống vô nghĩa. Muốn chết để
bảo toàn cho phần nhân tính đang cơ hồ

trỗi dậy, muốn chết để khỏa lấp đi những
nỗi đau trong cuộc sống thực tại mà
người con gái ấy đang phải gánh chịu.

4.2.4 Hành động phản Chi tiết tiếng sáo là tác nhân quan trọng
kháng táo bạo nhất đến sự chuyển biến tâm trạng và
hành động của Mị. Cô dõi theo từng
- “Mị đến góc nhà, lấy ống “bước đi” của sáo: Từ “đầu núi” đến “đầu
mỡ, xắn thêm một miếng làng” rồi “lửng lơ bay ngoài đường”. Từ
bỏ vào đĩa đèn cho sáng” chỗ là một âm thanh bên ngoài, tiếng sáo
ð Đây không đơn thuần trở thành “nốt nhạc” trong tâm hồn Mị,
chỉ là hành động thắp sáng nó như một “chất xúc tác” để thôi thúc
căn buồng, mà nó còn biểu quá trình hồi sinh của Mị diễn ra nhanh
tượng cho việc thắp sáng hơn: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn
cho cuộc đời chính mình. thêm một miếng bỏ vào đĩa đèn cho
- “Mị quấn tóc, Mị với tay sáng”. Đây không đơn thuần chỉ là hành
lấy cái váy hoa vắt ở phía động thắp sáng căn buồng, mà nó còn
trong vách”, Mị “rút thêm biểu tượng cho việc thắp sáng cho cuộc
cái áo” ð Mị đã tìm lại đời chính mình. Thứ ánh sáng ấy xua tan
được chính mình của ngày đi bao đêm tối triền miên, chiếu rọi vào
sâu trong tâm khảm như đã chết của Mị,

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 25



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

trước: một cô gái trẻ đẹp, để khao khát hạnh phúc, khao khát tự do
tràn đầy sức sống. tìm đường giải thoát cho Mị khỏi sự trói
buộc của cuộc sống thực tại. Thứ ánh
ð Những hành động đấu
sáng ấy làm ta nhớ đến ngọn đèn trong
tranh lặng lẽ, tự phát
truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn
nhưng thật quyết liệt của
Thạch Lam. Ngọn đèn con dưới ngòi bút
Mị với số nhận.
của Thạch Lam cũng hiện lên với sức
sống yếu ớt, leo lét, chẳng thể đủ sức xoá
tan bóng tối nơi phố huyện tồi tàn.
Nhưng lạ thay ánh đèn ấy tuy nhỏ bé
nhưng lại chưa bao giờ tắt, chưa bao giờ
thôi làm một “quầng sáng thân mật” của
chị em Liên. Bởi lẽ ánh đèn ấy cũng biểu
tượng cho tình người, cho khát vọng
sống của những trái tim khốn khó. Sau
khi thắp ngọn đèn trong căn buồng, Mị
“quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa”,
“rút thêm cái áo”,… dường như giờ đây
Mị đã tìm lại được chính mình của ngày
trước: một cô gái trẻ đẹp, tràn đầy sức
sống.
4.2.5 Sức sống hồi sinh Khi những hoạt động sống đang trào sôi
bị vùi dập thì cũng là lúc nó bị vùi dập dã man bởi A
Sử: “Mày muốn đi chơi à?” Câu hỏi lạnh
- “Mày muốn đi chơi à?” ð
lùng ấy như gáo nước lạnh dập tắt ngọn
Câu hỏi lạnh lùng như gáo lửa sức sống tiềm tàng đang hồi sinh của
nước lạnh dập tắt ngọn lửa Mị. Hắn bắt gặp và trói đứng Mị vào cột
sức sống tiềm tàng của Mị. nhà bằng cả “một thùng sợi đay”, quấn
- “A Sử cũng không hỏi tóc Mị lên cột khiến cô “không cúi, không
thêm gì nữa. A Sử bước lại, nghiêng được đầu”. Xong hắn tắt đèn,
nắm Mị, lấy thắt lưng trói khép cửa buồng, để Mị một mình đứng
hai tay Mị. Nó xách cả một trong căn buồng đầy bóng tối. Và cứ thế,
thùng sợ dây ra trói đứng Mị một lần nữa rơi vào tuyệt vọng, cánh
Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã cửa cuộc đời lại một lần nữa khép lại với
xuống. A Sử quấn luôn tóc nàng… Song, sự hành hạ ấy lại là phép
lên cột, làm cho Mị không thử để cho độc giả thấy rõ sức sống tiềm

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 26



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

cúi, không nghiêng được tàng của Mị được đẩy lên đỉnh điểm:
đầu nữa.” ð Khi những “Trong bóng tối, Mị đứng lặng im, như
hoạt động sống đang trào không biết mình đang bị trói. Hơi rượu
sôi cũng chính là lúc nó bị còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa
vùi dập dã man những Mị đi theo những cuộc chơi, những đám
hành động tàn bạo của A chơi.” Mặc dù bị A Sử trói đứng nhưng Mị
Sử. dường như quên mình đang bị trói, quên
đi những đau đớn về thể xác, trong Mị
- “A Sử tắt đèn, đi ra, khép
vẫn nồng nàn tiếng sáo gọi bạn tình đưa
cửa buồng lại” ð Một lần
Mị đi theo những cuộc chơi. Tâm hồn Mị
nữa cánh cửa cuộc đời
đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây
khép lại với Mị.
trói của đời thực chưa thể làm kinh động
- “Trong bóng tối, Mị đứng ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du, nó
im lặng, như không biết có thể trói buộc thể xác của Mị nhưng cô
mình đang bị trói. Hơi vẫn tìm cách vượt ngục bằng tinh thần.
rượu còn nồng nàn. Mị vẫn Phải chăng là vì Mị đang sống toàn tâm,
còn nghe tiếng sáo đưa Mị toàn ý với những ý nghĩ tươi đẹp, mộng
đi theo những cuộc chơi, tưởng cùng khát vọng tự do, hạnh phúc?
những đám chơi” ð Mị Người con gái ấy vẫn chưa muốn quay lại
dường như quên đi việc thực tại, cô vẫn thả hồn, du dương theo
mình bị trói bởi A Sử. tiếng sáo và lời ca của những cuộc chơi
Những nỗi đau về thể xác trong đêm tình mùa xuân. Và chỉ đến khi
bị xoá nhoà bởi thực tại ảo, “vùng bước đi” sợi dây trói thắt vào
bởi tiếng sáo du dương khiến “tay chân đau không cựa được” Mị
đưa Mị theo những cuộc mới tỉnh lại và trở về với thực tại tàn
chơi, những đám chơi. Sợi khốc, phũ phàng. Bằng một câu văn ngắn
dây trói của A Sử có thể gọn với bốn chữ “Mị vùng bước đi” Tô
trói buộc thể xác của Mị Hoài đã khiến Mị rơi vào hố sâu của tuyệt
nhưng nó chưa đủ chặt để vọng, nó như một cái bản lề khép hoàn
có thể trói buộc tinh thần toàn cánh cửa đến vùng đất hứa đối với
của một kẻ khát khao tự do Mị – vùng đất rộng lớn, tự do cũng như
như nàng. tràn ngập hạnh phúc. Lúc này đây, tiếng
- Chỉ đến khi “Mị vùng sáo tượng trưng cho tình yêu và hạnh
bước đi” sợ dây trói thắt phúc đột ngột tan biến: “Mị không nghe
vào khiến “tay chân đau thấy tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng
không cựa được” Mị mới chân ngựa đạp vào vách.” Tiếng chân

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 27



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

quay về thực tại ð Câu văn ngựa đạp vào vách ấy đã đưa Mị từ thiên
ngắn gọn chỉ với bốn chữ đường trở về với địa ngục trần gian, để
“Mị vùng bước đi” khiến Mị nhận ra hiện thực phũ phàng rằng:
mị rơi vào hố sâu của tuyệt Chao ôi! Loài súc vật còn đang được tự
vọng, nó như một cái bản do trong lãnh địa của riêng nó, cớ sao Mị
nề khép hoàn toàn cánh là con người mà lại bị trói buộc như xác
cửa đến vùng đất hứa. chết ở đây? “Mị thổn thức nghĩ mình
không bằng con ngựa”. “Tiếng chó sủa xa
- Tiếng sáo đột nhiên biến
xa. Chừng đã khuya. Lúc này là lúc trai
mất: “Mị không nghe thấy
đang đến bên vách làm hiệu rủ người yêu
tiếng sáo nữa. Chỉ còn
dỡ vách rừng chơi. Mị nín khóc, Mị lại bồi
nghe tiếng chân ngựa đáp
hồi”. Cả đêm đó hồn Mị lửng lơ giữa nhớ
vào vách” ð Mị đau đớn
và quên, giữa hiện tại và quá khứ, giữa
nhận ra “mình không bằng
thực tại và ảo ảnh,... Đau đớn, xót xa như
con ngựa”.
dội lên lồng ngực, thắt lại trên da thịt Mị,
- Mị chợt nhớ về câu cứa vào trái tim Mị thêm những vết dọc
chuyện người đàn bà trói ngang, cạnh những vết thương vẫn hoài
đứng đến chết khiến Mị rỉ máu, âm ỉ, chua cay... Mị chợt nhớ về
“sợ quá. Mị cựa quậy, xem câu chuyện người đàn bà trói đứng đến
mình còn sống hay chết. chết khiến Mị “sợ quá. Mị cựa quậy, xem
Cổ tay, đầu, bắp chân bị mình còn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp
dây trói siết lại, đau dứt chân bị dây trói siết lại, đau dứt từng
từng mảng thịt” mảng thịt”.
Lia ngòi bút, trang hoa vào cùng kiệt nội
cảm nhân vật, Tô Hoài đã khắc hoạ
những biến đổi tâm trạng của Mị trong
đêm tình mùa xuân một cách tinh tế và
đầy sống động. Ở đây ta có thể nhìn thấy
Mị trong tác phẩm của Tô Hoài có những
điểm tương đồng với Chí phèo trong
trang văn của Nam Cao. Cô không mất đi
bản chất tốt đẹp của mình dù sống trong
hoàn cảnh đọa đày cả về thể xác lẫn tâm
hồn. Khát vọng sống, niềm khát khao
hạnh phúc vẫn luôn tiềm ẩn trong sâu
thẳm nhân vật. Nó như ngọn lửa vẫn

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 28



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

đang âm ỉ dưới lớp tro tàn nguội lạnh và


chỉ cần ngoại cảnh tác động là có thể

bùng cháy mãnh liệt. Những tác nhân
bên ngoài là quan trọng nhưng chính sức
mạnh bên trong - sức sống không thể nào
dập tắt mới là điểm mấu chốt quyết định
sức sống của Mị cũng như của mỗi người
nói chung.

5. Diễn biến tâm trạng “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của
của Mị trong đêm đông tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ
cởi trói cứu A Phủ cháy bỏng vì một xã hội công bằng, bình
đẳng, bác ái luôn luôn thôi thúc các nhà
văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng
suy nghĩ, hiến dâng máu nóng của mình
cho nhân loại” (Lev Tolstoy). Thật vậy, từ
Đông Tây kim cổ, tất thảy những tác
phẩm văn chương chân chính đều hướng
cái hồn cốt trong lõi nghiên mực vào
muôn sự ở đời. Lắm khi chỉ là chuyện con
ong cái kiến, chuyện cái lá lìa cành, cánh
chim rời tổ,… nhưng sức sống của những
mẩu chuyện tưởng như vặt vãnh ấy lại
chưa bao giờ ngưng đập. Nếu có ai đó
dùng tấm gương của đời soi chiếu vào

dòng chảy của văn chương, hẳn ánh mắt
họ sẽ long lanh ứa lệ và trái tim thì rưng
rức một nỗi niềm khôn tả dẫu rằng

chuyện mà nhà văn nọ kể nay đã chỉ còn
là dĩ vãng. Bữa ấy trời đẹp, ta đọc lại lưu
bút “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô
Hoài và cũng cảm thấy nghẹn ngào hệt
như thế. Ấy là khi ta bắt gặp được cái tư
tưởng nhân đạo trong ngòi bút của “một
cây đa cây đề trong làng chữ”, đặc biệt là
khi ông viết về hình ảnh cô Mị giải cứu A

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 29



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

Phủ trong đêm đông giá lạnh nơi rẻo cao


Hồng Ngài xa xôi.

Cuộc gặp gỡ giữa Mị và A Phủ diễn ra hết
5.1 Điều kiện thức dậy
sức tự nhiên. Ngòi bút dẫn dắt đầy thuyết
khao khát sống lần thứ
phục của Tô Hoài đã xây dựng tình huống
hai chính là cuộc gặp gỡ
ấy: Cả Mị và A Phủ đều là nạn nhân của
giữa Mị và A Phủ
gia đình thống lí Pá Tra, cùng bị bố con
- Đặc điểm chung cả Mị và thống lí Pá Tra trói đứng, song quan
A Phủ: trọng hơn cả là ở cả hai người đều tiềm
+ Đều là nạn nhân của gia tàng sức sống mãnh liệt và khát khao
đình thống lí Pá Tra. được sống, khát khao hạnh phúc. A Phủ
là một chàng trai của núi rừng Tây bắc
+ Đều bị bố con nhà thống hội tụ đầy đủ phẩm chất lý tưởng trong
lí trói đứng. các câu chuyện dân gian quen thuộc:
+ Đều tiềm tàng sức sống chàng trai mồ côi, không có bất kì sự rằng
mãnh liệt. buộc nào, nghèo khó nhưng giàu nghĩa
khí, tràn trề sức khỏe và sự can trường
- Để có thể chống lại cường bản lĩnh. Chàng trai ấy sống giữa những
quyền nếu chỉ có một mình trói buộc tàn tệ của cường quyền và thần
và đó chính là điều kiện để quyền tâm hồn vẫn lộng gió của khát
Tô Hoài tạo ra cuộc gặp gỡ vọng tự do nơi những cánh rừng đại
của Mị và A Phủ. ngàn mênh mông bất tận. Mị cần có hơi
men và tiếng sáo để làm bừng thức khát
khao cháy bỏng về hạnh phúc thì A Phủ
căng trần mình ra, lầm lì như tảng đá
hứng trọn trận mưa roi bão đòn suốt
đêm mà chẳng một lời van xin. Đó chính
là thái độ câm lặng của sự phản kháng
chứ không phải của sự vô cảm như Mị.
Tuy nhiên, A Phủ dũng cảm nhưng cô
độc. Người ta không thể chống lại cường
quyền nếu chỉ có một mình. Và người sẽ
đến bên, cứu thoát, đồng hành cùng A

Phủ chính là Mị. Mị giải thoát A Phủ cũng
chính là giải thoát cho bản thân mình.
Nhưng để đến được với hành động quyết

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 30



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

liệt ấy, Mị cũng phải trải qua những diễn


biến nội tâm giằng xé.

Sau đêm tình mùa xuân, thái độ của Mị
5.2 Diễn biến tâm trạng
dường như lại quay về quỹ đạo cũ. Tuy
Mị trong đêm mùa đông
nhiên có lẽ chính bản thân cô cũng không
5.2.1 Mị thờ ơ, vô cảm, nhận ra, sức sống tiềm tàng vẫn âm ỉ đâu
lạnh lùng đó trong mình. “Những đêm đông trên
- Với người khác: A Phủ bị núi cao dài và buồn”, Mị thấy A Phủ bị
trói tời mấy đêm bên đống trói đứng, Mị vẫn thản nhiên “thổi lửa hơ
lửa, vậy mà hằng đêm Mị tay” mà không mảy may đau khổ hay tiếc
vẫn dậy thản nhiên thổi thương: “Nếu A Phủ là cái xác chết ở
lửa hơ tay. Và Mị thâm chí đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy,
còn nghĩ “A Phủ có là cái vẫn sưởi lửa hơ tay. Mị vẫn chỉ biết đến
xác chết đứng đấy cũng ngọn lửa”. Từ một cô gái vốn yêu đời, yêu
thế thôi”. người tha thiết, sau một quãng đời nặng
nhọc sống trong nhà thống lý, Mị đã trở
- Với chính mình: “A Sử thành một cô gái vô cảm đến nhẫn tâm.
đánh Mị ngã ngay xuống Sự vô cảm ấy vừa đáng trách, vừa đáng
cửa bếp. Nhưng đêm sau thương bởi suy cho cùng, những biểu
Mị vẫn ra sưởi lửa như hiện tâm lý ấy không phải bản chất con
đêm trước”. người Mị mà là sự trả giá cho cái danh
xưng “con dâu nhà thống lý”. Vô cảm với
người khác đã đành, nay Mị còn vô cảm
với chính bản thân mình. Đêm nào Mị
cũng trở dậy sưởi lửa, hơ tay, hơ lưng. A
Sử đi chơi về, thấy Mị vẫn thao thức bên
ánh lửa, nó đánh Mị ngã ngay xuống cửa
bếp, nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi lửa
như hôm trước. Bản thân Mị đã không
còn thương xót cho chính mình, Mị
không cảm thấy đau đớn khi bị đánh đập
dã man bởi gã đàn ông mình gọi bằng
chồng. Dường như Mị đã quá quen với
những trận đòn roi vô cớ rơi xuống thân

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 31



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

mình, đồng thời Mị chấp nhận nó như


một lẽ thường tình.
5.2.2 Mị xót thương cho
mình và cho A Phủ từ đó Ngọn lửa là ánh sáng duy nhất mà Mị có
dẫn đến hành động cởi được bấy giờ: “nếu không có bếp lửa
trói cứu A Phủ sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo”, nó đã
thắp sáng không gian, đem lại hơi ấm
* Chi tiết ngọn lửa
giúp Mị sinh tồn. Không chỉ vậy, ngọn lửa
- Ngọn lửa giúp Mị vượt ấy còn là tác nhân để làm phục sinh sự
qua cái lạnh trong những sống tiềm tàng bên trong Mị. Lúc đầu,
đêm đông ở Hồng Ngài: ngọn lửa bùng lên khiến Mị bắt gặp cái
“nếu không có bếp lửa nhìn “trừng trừng” của A Phủ, nhưng Mị
sưởi kia thì Mị cũng đến vẫn “thản nhiên thổi lửa, hơ tay”. Lúc ấy
chết héo”. “ngọn lửa sưởi bùng lên”, nhưng ngọn
- Ngọn lửa là tác nhân làm lửa lòng nơi Mị thì vẫn nguội lạnh. Lần
phục sinh sự sống tiềm thứ hai, chính ngọn lửa soi sáng cho Mị
tàng trong Mị: thấy được “dòng nước mắt lấp lánh bò
xuống hai hõm má A Phủ”.
+ Lần thứ nhất ngọn lửa
bùng lên khiến Mị bắt gặp Ta còn nhớ về giọt nước mắt trong
cái nhìn “trừng trừng” của truyện Nam Cao giai đoạn trước Cách
A Phủ, nhưng Mị vẫn “thản mạng: đó là những giọt nước mắt gắn
nhiên thổi lửa, hơ tay”. liền với số phận đầy bi kịch bị thử thách
khốc liệt bởi cái đói, cái nghèo nhưng vẫn
+ Lần thứ hai ngọn lửa cố giữ lấy nhân phẩm, nhân cách trong
bùng lên giúp mị thấy sạch, cao đẹp. Nhìn đời bằng đôi mắt
được “dòng nước mắt lấp nhân đạo, Nam Cao quan niệm giọt nước
lánh bò xuống hai hõm má mắt là biểu hiện của tính người, là tiêu
A Phủ”. chuẩn để xác định giá trị con người, phân
* Chi tiết giọt nước mắt biệt con người và con vật. Nước mắt
của A Phủ được nhà văn sử dụng như một phương
tiện để nhân vật bộc lộ mình, nỗ lực vươn
- Giọt nước mắt A Phủ lên. Quan trọng hơn, nước mắt được nhà
trước hết thể hiện: văn xem là một tín hiệu nghệ thuật để
+ Nỗi đau về thể xác bởi sự “biến hình vũ trụ”, từ bề ngoài tưởng
thít chặt của những sợi chừng như xấu xa để đi vào khám phá
dây mây. bản chất lương thiện. Giọt nước mắt của

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 32



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

+ Nỗi đau số phận vì một A Phủ khi bị trói trong đêm đông ở nhà
chặng đời cơ cực trước đó. thống lí Pá Tra cũng là giọt nước mắt của
một số phận bi kịch. Tuy nhiên nó không
+ A Phủ khóc, nhưng đó
mang ý nghĩa như những trang sách đẫm
không hẳn là sự khóc của
nước mắt hoàn lương của Nam Cao, giọt
cam chịu.
nước mắt A Phủ có những ý nghĩa đặc
+ Giọt nước mắt ấy là của biệt riêng. Vương Trí Nhàn từng khẳng
con người nghĩa khí và định: “Khi vào truyện, một cái xà tích của
quật cường, lấp lánh lên một cô gái, một chút ánh trăng thượng
những hy vọng được sống tuần đều phải có ý nghĩa. Cái này nương
khát khao được sống. tựa cái kia, chi tiết này soi rọi chi tiết
- Giọt nước mắt “lấp lánh khác”. Những chi tiết, hình tượng khi
bò xuống hõm má đã xám được tác giả đưa vào trang viết của mình
đen lại” của A Phủ đã đánh đều có mang theo những dụng ý nhất
thức tâm hồn Mị: định của nhà văn. Giọt nước mắt A Phủ
trước hết thể hiện một nỗi đau đến tột
+ Nó đã làm tràn cốc nước cùng đau đớn không chỉ bởi sự thít chặt
tích sầu tụ cực trong Mị, của những sợi dây mây mà có lẽ còn là sự
đồng thời đưa cô từ cõi đáng thương A Phủ đang nghĩ tới số phận
quên trở về cõi nhớ: người của mình. Phải chăng khi dòng nước mắt
con gái ấy nhớ đến mình ấy lăn xuống cũng là khi trong óc người
cũng đã từng bị trói đứng đàn ông ấy đã tua lại một thước phim chỉ
nhiều lần khóc nước mắt độc hai màu đen trắng, một thước phim
“chảy xuống miệng, xuống ghi dấu lại quá khứ tối tăm của một đứa
cổ không biết lau đi được”. trẻ mồ côi cha mẹ, rồi bị bán đi như con
+ Nước mắt có lẽ đã gọi trâu, con ngựa cho đến việc đánh con
nước mắt, đã kết nối hai quan, bị bắt làm nô lệ và giờ đang chịu
tâm hồn đồng điệu giữa đựng nỗi đau đớn sau cùng để kết thúc
họ. Sự đồng cảm giữa họ là một quãng đời lắm tai ương? Một người
chính sự tương thân giữa đàn ông mạnh mẽ, kiên trường, dám
những con người có cùng đánh cả con quan nay lại phải khóc. Đó
số phận. không phải dòng nước mắt của người
thường, hơn thế nữa, đó là dòng nước
mắt của một đấng nam nhi vững như đá,
bạo như hùm nay phải chịu cảnh trói
đứng giữa cái lạnh của đêm đông, chấp

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 33



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

nhận cái chết đang đến gần, thật gần mà


không tài nào lay chuyển được. A Phủ

khóc, nhưng đó không hẳn là sự khóc của
cam chịu. Giọt nước mắt ấy là của con
người nghĩa khí và quật cường, lấp lánh
lên những hy vọng được sống khát khao
được sống. Và quan trọng hơn, giọt nước
mắt “lấp lánh bò xuống hõm má đã xám
đen lại” của A Phủ đã đánh thức tâm hồn
Mị. Nó đã làm tràn cốc nước tích sầu tụ
cực trong Mị, đồng thời đưa cô từ cõi
quên trở về cõi nhớ: người con gái ấy
nhớ đến mình cũng đã từng bị trói đứng
nhiều lần khóc nước mắt “chảy xuống
miệng, xuống cổ không biết lau đi được”.
Có lẽ tâm hồn của Mị sẽ mãi là tảng băng
lạnh lùng vô cảm nếu như không bắt gặp
giọt nước mắt của A Phủ. Hãy làm một
phép thử: thay chi tiết giọt nước mắt
bằng một lời cầu xin, một nụ cười chua
chát… liệu Mị có rung động tận sâu xa cõi

nhớ của mình không? Nước mắt có lẽ đã
gọi nước mắt, đã kết nối hai tâm hồn
đồng điệu giữa họ. Sự đồng cảm giữa họ

là chính sự tương thân giữa những con
người có cùng số phận.
* Mị nhận ra nguyên Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở
nhân của tất cả những về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho
khổ đau mà bản thân và thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà
A Phủ phải gánh chịu chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi
chính là do sự tàn ác của thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây
cha con nhà thống lí Pá
thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ
Tra “người kia việc gì phải chết thế. A Phủ…
- Mị đau khổ cay đắng cho Mị phảng phất nghĩ như vậy.” Tình
thân phận của mình: “Ta là thương trở về. Tình thương ấy dẫn dắt
nhận thức của Mị về thực tại tàn khốc, về

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 34



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

thân đàn bà chúng nó đã thân phận bé nhỏ, đáng thương của con
bắt ta về trình ma nhà nó người. Câu chuyện về người đàn bà bị
rồi thì chỉ còn biết chờ trói đến chết lại lần về trong tâm trí Mị.
ngày rũ xương ở đây thôi”. Lòng căm phẫn bấy lâu bùng cháy:
“Chúng nó thật độc ác”. Mị nhận ra thực
- Mị nghĩ đến sự vô lí trong
tại phi lí bất công về người đàn ông mang
cái chết của A Phủ: “người
trong mình một tương lai tươi sáng như
kia việc gì phải chết thế. A
thế mà lại phải chết. Sau bao nhiêu năm
Phủ… Mị phảng phất nghĩ
tháng sống trong sự thờ ơ vô cảm, đây là
như vậy”.
ý nghĩ đầu tiên Mị dành cho người khác,
- Câu chuyện về người đàn bất bình cho người khác: “có chừng này
bà bị trói đến chết lại lần chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết
về trong tâm trí Mị. Lòng đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người
căm phẫn bấy lâu bùng kia việc gì mà phải chết như thế.” Những
cháy khiến Mị phải thốt từ “chết” xuất hiện liên tiếp trong tâm trí
lên rằng: “Chúng nó thật Mị chính là biểu hiện rõ nhất của niềm
độc ác”. ham sống một lần nữa trở lại với Mị, trở
- Sau bao nhiêu năm tháng lại với sự kinh hoàng về cái chết, với nỗi
sống trong sự thờ ơ vô phẫn uất về cái chết của những con
cảm, đây là ý nghĩ đầu tiên người hiền lành lương thiện, những con
Mị dành cho người khác, người cùng cảnh ngộ.
bất bình cho người khác: Và cuối cùng tình người cùng những
“có chừng này chỉ đêm nay nhận thức về sự tàn ác của bọn giai cấp
thôi là người kia chết, chết thống trị đã trở thành động lực để Mị
đau, chết đói, chết rét, phải dũng cảm: “Mị rút con dao găm cắt lúa ,
chết. Người kia việc gì mà cắt nút dây mây” giải cứu cho A Phủ. Mị
phải chết như thế.” ð có nghĩ đến cảnh mình sẽ bị trói đứng
Những từ “chết” xuất hiện thay vào đó nhưng lại không hề run sợ:
liên tiếp trong tâm trí Mị “lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi
chính là biểu hiện rõ nhất trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy,
của niềm ham sống một Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế,
lần nữa trở lại với Mị, trở trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng
lại với sự kinh hoàng về cái không thấy sợ…” Hành động của Mị
chết, với nỗi phẫn uất về chính là chiến thắng của tình thương của
cái chết của những con lẽ phải. Những suy nghĩ, hành động và
người hiền lành lương nhận thức của Mị nối tiếp nhau để từ đó

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 35



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

thiện, những con người cho chúng ta cảm nhận được về những
cùng cảnh ngộ. giá trị tốt đẹp trong cuộc đời, cho thấy
bản lĩnh và niềm yêu thương tha thiết. Có
* Cởi trói cứu A Phủ
lẽ vì vậy văn chương đã, đang và sẽ luôn
- Nhận thức được sự tàn ác “thức tỉnh tình yêu đối với con người và
của bọn giai cấp thống trị khát vọng tích cực đấu tranh cho lý
đã trở thành động lực để tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài
“Mị rút con dao găm cắt người.” (Solokhov)
lúa , cắt nút dây mây” giải
A Phủ được giải thoát nhưng bóng đen
cứu cho A Phủ.
vẫn vây lấy Mị trong những sự đe dọa
- Mị có nghĩ đến cảnh mình dành cho khát vọng sống mãnh liệt đang
sẽ bị trói đứng thay vào đó nhen nhóm trong Mị. Sự “hốt hoảng” của
nhưng lại không hề run sợ: Mị là vì Mị thương mình, thương cho
“lúc ấy bố con Pá Tra sẽ tương lai lại bị đày ải trong căn nhà, lại
bảo là Mị đã cởi trói cho tiếp tục chôn thân cho đến chết trong sự
nó, Mị liền phải trói thay tàn độc của nhà thống lý Pá Tra. Mị bây
vào đấy, Mị phải chết trên giờ không còn trơ lì trong nỗi đau nữa và
cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong nỗi hốt hoảng ấy là nỗi sợ của người có
tình cảnh này, làm sao Mị niềm khát khao sống mãnh liệt mà chẳng
cũng không thấy sợ…” ai có thể dập tắt nổi. Mị cất tiếng nói với
ð Hành động của Mị chính A Phủ “Đi ngay”, lần đầu tiên từ khi về
là chiến thắng của tình làm dâu gạt nợ Mị mới cất tiếng nói. Từ
thương của lẽ phải. Những một người đàn bà câm lặng, quên đi ngôn
suy nghĩ, hành động và ngữ giao tiếp của con người, chỉ như một
nhận thức của Mị nối tiếp công cụ lao động biết nói mà không thể
nhau để từ đó cho chúng ta nói, Mị đã cất tiếng nói tròn từ, rõ nghĩa
cảm nhận được về những sau bao năm câm nín. Rồi bỗng nhiên “Mị
giá trị tốt đẹp trong cuộc đứng lặng trong bóng tối.”, phút lặng yên
đời, cho thấy bản lĩnh và của Mị là phút lặng yên của một con
niềm yêu thương tha thiết. người trước bão tố cuộc đời, phút lặng
yên của một con người đang chuyển
5.3 Giải thoát cho chính mình để trở thành một con người tự do.
mình Đó là cái khoảng trống không lời nhưng
thực chất lại nói được nhiều nhất. Trong
cái dáng đứng lặng im ấy, ta có thể cảm
nhận được những đấu tranh tâm lí của

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 36



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

nhân vật, có thể cảm nhận được sự đấu


tranh giữa một bên là tiếng gọi của cuộc

sống tự do, một bên lại là nỗi sợ thần
quyền, cường quyền vây bủa. Mị chẳng
kịp nghĩ gì, chỉ kịp dừng lại, rồi chạy tiếp.
Những câu văn ngắn cùng những động từ
miêu tả hành động gấp gáp, mạnh mẽ :
“Rồi Mị vụt chạy ra”, “Mị vẫn băng đi”,
“Mị đuổi kịp A Phủ”, “Mị nói, Mị thở”,…
khiến đoạn văn không còn là những dòng
độc thoại nội tâm. Hành động của Mị
dường như còn nhanh hơn lí trí, nó chịu
sự chi phối của khát vọng mãnh liệt được
sống vừa đột ngột thức dậy. Nếu tiếng
nói đầu tiên giải thoát cho người thì tiếng
nói thứ hai Mị giải thoát cho chính mình:
“A Phủ cho tôi đi…” người đàn bà hơn
một lần muốn chết ấy nay khẩn thiết
mong được sống, được theo A Phủ bởi
nỗi kinh hoàng trước cái chết: “Ở đây thì
chết mất”. Nếu bóng tối của đêm tình
mùa xuân đã chôn vùi những nỗi khổ đau
của Mị vào sự câm lặng thì bóng tối ấy lại
trở về trong đêm đông để mở ra con
đường giúp mình trở về cuộc sống của
một con người tự do. Mị chạy theo A Phủ
chính là hành động chạy theo tiếng gọi
mãnh liệt của khát vọng sống. Bởi Mị biết
nếu Mị ở lại, Mị sẽ bị trói thay vào chỗ của
A Phủ. Bởi Mị biết, nếu Mị không tự giải
thoát, Mị sẽ chết ở đây một cách vô nghĩa.
Như vậy khát vọng sống đã giúp Mị chiến
thắng nỗi sợ hãi của cái chết và tạo cho
mình một con đường thoát khỏi sự ràng
buộc, giành lại một cuộc sống xứng đáng
hơn. Khát vọng sống của Mị trong đêm

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 37



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

mùa đông đã hồi sinh vẹn toàn cô Mị năm


xưa trong dáng hình cô Mị hôm nay. Chị
Dậu của Ngô Tất Tố và Mị của Tô Hoài
đều chạy ra ngoài đêm tối với cùng một
mục đích là để thoát khỏi kiếp sống khốn
cùng, nhục nhã. Nhưng nếu như chị Dậu
một mình chạy ra ngoài trời khuya và
không biết sẽ đi về đâu, tương lai mịt mờ
như bóng đêm, thoát khỏi chốn tăm tối
này rồi nhưng rất có thể chị lại rơi vào
một chốn đau khổ khác, thì Mị, dù cũng
chưa biết mình sẽ đi đâu nhưng cùng A
Phủ, Mị biết rằng phải rời khỏi chốn này
trước hết, thoát khỏi chốn này là thoát
khỏi địa ngục trần gian, ra khỏi chốn này
là sẽ tìm được cho mình đường sống. Đó
là sự khác biệt trong cách xử lí của hai
nhà văn: một nhà văn chưa nhìn thấy ánh
sáng cách mạng, một nhà văn đã được
chứng kiến sức mạnh đổi thay số phận
con người của cách mạng. Từ đó ta càng
hiểu thêm sự tác động lớn lao của hoàn
cảnh, của hiện thực đối với người cầm
bút, và càng thấm thía hơn: văn chính là
đời.
NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ TÂM LÍ NHÂN VẬT
Nhà văn là người sáng tạo ra văn bản, thực hiện quá trình kí mã ý đồ
nghệ thuật. Nhưng không phải ai sáng tạo ra văn bản cũng có thể trở
thành một nhà văn chân chính. Anh ta phải có tài năng, có tấm lòng
cũng như có khả năng nhìn nhận nội tâm của con người dưới nhiều
góc độ khác nhau, để khám phá ra những nét mới lạ. Hiểu được điều
ấy, Tô Hoài thực sự đã nhập thân vào nhân vật, sống cùng nhân vật,
đồng cảm với từng niềm vui, nỗi buồn của nhân vật. Cách miêu tả tâm
lí nhân vật của Tô Hoài vô cùng chân thực, tinh tế gắn bó chặt chẽ với
tình huống truyện. Mị thực sự sống trong những trạng thái tâm lí phức

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 38



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

tạp, với những vận động biện chứng để hoàn chỉnh diện mạo tâm trạng
của nhân vật. Bên cạnh đó, Tô Hoài còn khéo léo sử dụng thủ pháp
tương phản để cùng một lúc đồng hiện hai cuộc sống trong cùng một
con người: Cuộc sống bên ngoài của Mị dường như vô cảm và vô thức;
cuộc sống bên trong được thể hiện bằng những dòng độc thoại nội
tâm, những ý thức, hành động thể hiện khát vọng sống mãnh liệt đang
dần hồi sinh. Không chỉ vậy, Tô Hoài đã đặt điểm nhìn vô cùng linh
hoạt, di chuyển từ khách quan sang chủ quan, đọng lại chủ yếu ở dòng
độc thoại làm nổi bật tâm trạng nhân vật. Đọc văn Tô Hoài, ta tưởng
như được hòa mình vào một thế giới ngôn từ giàu chất thơ, lời văn
giàu sức biểu cảm. Những lời hát du dương đậm chất vùng cao kết hợp
cùng những câu văn ngắn, nhịp điệu dồn dập tựa một khúc ca về khát
vọng sống và hạnh phúc đang ngân vang trong nhân vật Mị. Cuối cùng,
Tô Hoài sử dụng hàng loạt chi tiết đắt giá được xây dựng công phu:
tiếng sáo, nắm lá ngón, ngọn đèn, dòng nước mắt của A Phủ… Tất thảy
điều ấy đã giúp Tô Hoài thoát thai một thiên truyện chiến thắng cả sự
bào mòn của thời gian!

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 39



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA – NGUYỄN MINH CHÂU


PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT NGUYỄN MINH CHÂU SAU NĂM 1975
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn tiêu biểu của nền văn học cách
mạng. Những sáng tác như “Cửa sông”, “Dấu chân người lính”, “Những
vùng trời khác nhau”,… thực sự đã phản ánh được những hy sinh mất
mát, tinh thần dũng cảm và không khí hào hùng của đất nước ta trong
những năm kháng chiến chống Mỹ. Đồng thời, Nguyễn Minh Châu còn
là cây bút có vị trí đặc biệt quan trọng trọng phong trào Đổi mới văn
học sau chiến tranh. Bằng cảm quan của một nghệ sĩ, ông luôn suy nghĩ
một cách sâu xa về những vấn đề được đặt ra trong cuộc sống: Đằng
sau những chiến công, đằng sau số phận cộng đồng là số phận của mỗi
cá nhân và tương lai của cả một nền văn học. Đó là nguyên nhân dẫn
đến những trăn trở đổi mới tư duy nghệ thuật với sự ra đời của hàng
loạt tác phẩm mang chất văn học mới, có giá trị như “Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành”, “Bến quê”, “Cỏ lau”,…
Với lòng khao khát vươn tới cái Đẹp – một cái đẹp chỉ có thể ra đời
trên cơ sở gắn bó với cái Chân, cái Thiện, sáng tác của Nguyễn Minh
Châu đã chạm đến được tần sâu nhân bản với những vấn đề mang tầm
triết lí. Sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu không còn đào xới ở những
từng lộ thiên của những tình cảm lớn, những nhân cách cao đẹp mà đã
chuyển sang phát hiện và khai thác vỉa ngầm của sự đời, của tâm thức
và tình cảm trong con người.
Trước tình trạng đạo đức, phong hoá xã hội ngày một xuống cấp
nghiêm trọng sau khi đất nước thống nhất, Nguyễn Minh Châu đã xác
định cho mình một vị trí chiến đấu vô cùng kiên định. Đó là vị trí của
người trợ thủ đắc lực cho cái thiện trong cuộc đấu tranh giằng co,
nhiều khi không cân sức với cái ác. Tự đáy sâu tấm lòng đôn hậu của
nhà văn luôn luôn rực cháy một niềm tin thiết tha vào con người và
sức mạnh bất diệt của những giá trị nhân bản. Ông từng xác quyết:
“Mỗi con người đều chứa đựng trong lòng những nét đẹp đẽ, kì diệu
đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ nhận thức, khám phá tất cả
những cái đó”. Bởi vậy, đối với Nguyễn Minh Châu, sáng tác nghệ thuật
là hành trình tìm hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người.
Ngay cả khi mô tả cái ác hay trực tiếp chống lại cái ác xã hội thì tác

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 40



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

phẩm của ông vẫn cứ là sự khơi nguồn, thức tỉnh lương tri. Ta hiểu vì
sao sáng tác của Nguyễn Minh Châu vừa thấm nhuần tinh thần tự nhận
thức và ý nghĩa khai sáng, lại vừa có khuynh hướng lí tưởng hoá, lãng
mạn hoá vẻ đẹp tình người và những câu chuyện tình đời.
Vai trò tiên phong của Nguyễn Minh Châu được thể hiện ở trên ba
phương diện: Phát hiện vấn đề, đổi thay lí thuyết và thực tiễn sáng tác.
1. Phát hiện ra vấn đề
Đọc cuốn phê bình và tiểu luận “Trang giấy trước đèn” của nhà văn
Nguyễn Minh Châu, ông đã chỉ ra ít nhất ba vấn đề chính xác và quan
trọng: Một là hoài nghi về tính chân thực của văn học Việt Nam, do nhu
cầu tuyên truyền mà tự tô hồng, che giấu bớt sự thật mất mát, đau đớn
(1978). Hai là ông phát hiện ra sai lầm trong phương pháp sáng tác,
đó là coi trọng cái thực tại cần phải có hơn cái thực tại vốn có. Đây là
nhận xét mà sau đó nhà phê bình văn học Hoàng Ngọc Hiến đã khái
quát lên thành chủ nghĩa hiện thực phải đạo gây tranh luận một thời.
Và ba là ông là người đầu tiên và duy nhất đề xuất “Hãy đọc lời ai điếu
cho một giai đoạn văn nghệ minh họa” (Báo Văn nghệ, số 49/50 ngày
5/12/1987), trong đó mô tả toàn bộ cái không gian chật chội, trói
buộc, gieo rắc sự sợ hãi, chán nản, nếu nhà văn có ý tưởng, phát hiện
mới mẻ của riêng mình thì buộc phải ngụy trang, che chắn một cách
thảm hại nếu muốn viết. Người nghệ sĩ muốn trở thành nghệ sĩ lại phải
giết dần cái phần nghệ sĩ trong bản thân mình… Ông đã lên án sâu sắc,
triệt để chủ nghĩa giáo điều trong văn nghệ. Cho đến lúc đó chưa có ai
lên tiếng phê phán lí thuyết giáo điều và sự trói buộc sâu sắc hơn, toàn
diện và mạnh mẽ hơn. Nhiều nghệ sĩ lớn cũng cảm thấy, nhưng không
ai nói. Điều này cho thấy Nguyễn Minh Châu rất dũng cảm.
2. Đổi thay lí thuyết
Chính vào lúc các tác phẩm “Đứng trước biển” (1982), “Cù lao Tràm”
(1985) được ông Hà Xuân Trường cổ vũ như là thành tựu của chủ
nghĩa hiện thực Xã Hội Chủ Nghĩa, thì trong sáng tác thời kì này của
Nguyễn Minh Châu như “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”
(1983), “Bến quê” (1985), “Cỏ lau” (1989), “Mảnh đất tình yêu”
(1987), ông không còn sáng tác theo phương pháp sáng tác hiện thực
Xã Hội Chủ Nghĩa nữa. Tác phẩm của ông không viết ra theo yêu cầu,

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 41



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

đòi hỏi của nhiệm vụ tuyên truyền chính trị. Các nhân vật của ông
không phải là các nhân vật điển hình khái quát, như hình tượng người
cộng sản, anh bộ đội cụ Hồ, người nông dân Xã Hội Chủ Nghĩa… mà có
vẻ như những con người cá biệt, thậm chí là dị biệt. Điều này đã được
một nhà phê bình đương thời chỉ ra như một khuyết điểm, nhưng theo
chúng tôi, đó là một ưu điểm quan trọng. Ông cũng không sáng tác các
nhân vật anh hùng của thời đại, trái lại xây dựng các nhân vật “phản
anh hùng”, nghĩa là những người bình thường. Phải vứt bỏ điển hình
hóa thì mới có thể có các hình tượng như Tiểu đoàn trưởng Toàn trong
“Mùa trái cóc ở miền Nam”, chẳng tiêu biểu gì cho bộ đội giải phóng
ngay sau ngày 30/4/1975 vừa giải phóng miền Nam. Anh ta là một kẻ
ích kỉ, tàn nhẫn, xấu xa. Anh bộ đội và người họa sĩ trong “Bức tranh”
chẳng điển hình gì cho loại người vừa chiến thắng mà họ có thể đại
diện. Phải vứt bỏ điển hình vì các nhân vật lúc này đang chuyển hóa,
đang diễn biến, không thể ổn định như trước nữa. Nhân vật của ông
cũng không nhằm vẽ ra những tấm gương anh hùng, trái lại nhân vật
có vẻ như là những phản anh hùng, những con người thừa, những dị
biệt bình thường. Nhân vật Phác là anh hùng thật sắp được phong Anh
hùng thì trong sinh hoạt sau giải phóng chẳng có vẻ gì là anh hùng cả.
Anh ta thích đi thăm thú nơi này nơi khác, sau khi đã chiến thắng. Tác
phẩm của ông không nhằm đem lại một niềm lạc quan cách mạng nào
cả. Sáng tác của ông hoàn toàn đi ngược lại với hệ thống lí luận cũ vẫn
đang thịnh hành, khiến cho giới phê bình lúc ấy không thể hiểu nổi.
Ông Hà Xuân Trường lúc ấy, đã nói dè dặt: sáng tác của Nguyễn Minh
Châu chỉ có một nửa hiện thực Xã Hội Chủ Nghĩa. Tác phẩm của anh ấy
nhiều ưu tư quá, thiếu tinh thần lạc quan cách mạng. Nhận xét của Hà
Xuân Trường đã cho thấy Nguyễn Minh Châu đã trượt khỏi chủ nghĩa
hiện thực Xã Hội Chủ Nghĩa, mà đi theo một khuynh hướng sáng tác
khác, rõ ràng lí thuyết cũ không thể đánh giá được sáng tác của Nguyễn
Minh Châu. Và chỉ những ai vượt qua lí thuyết thịnh hành ấy thì mới
có thể hiểu được ông.
3. Trăn trở tìm tòi những hướng sáng tác mới.
Nhận thấy văn học thiếu chân thực, ông đi tìm cái chân thực. Cái chân
thực là cái vốn có trong đời sống mà ai cũng có thể nhận thấy mà người
ta có ý làm ngơ, nhắm mắt không nói đến. Nguyễn Minh Châu không

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 42



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

chấp nhận lối sáng tác cài hoa kết lá vờn mây cho những gì có sẵn, ông
viết những gì không có sẵn trong các quy phạm, nhưng lại có trong
thực tế. Khắc phục lối miêu tả hiện thực theo nguyên tắc cần phải có,
nhà văn hướng đến miêu tả hiện thực như nó vốn có, ngược lại với cái
cần phải có. Trong cả ba tập truyện ngắn cuối đời, Nguyễn Minh Châu
không phản ánh hiện thực đấu tranh địch ta, không tuyên truyền chính
trị, mà hướng về cái hiện thực vốn có, hướng về cách ta hiểu về hiện
thực, hướng về tự phản tỉnh thái độ đối với hiện thực. “Bức tranh”,
“Bến quê”, “Dấu vết nghề nghiệp”, “Một lần đối chứng”, “Cơn Giông”,
“Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, “Sắm vai”,… thuộc về loại
này. Ở đây có hiện thực của những chủ thể đầy ngộ nhận, nhầm lẫn,
nói lên khả năng nhận thức của chủ thể rất giới hạn chứ không hề thần
thánh. Không có con người toàn bích, sáng suốt đại diện cho trí tuệ
thời đại. Một người thủ thành, giữ gôn, tuy bắt được những quả
penalty, song cũng để lọt lưới những quả bóng rất ấu trĩ. Các cán bộ
trong “Chiếc thuyền ngoài xa” tỏ ra hời hợt và rất non nớt trước hiện
thực phức tạp. Nhân vật Nhĩ trong “Bến quê” là cán bộ cấp cao, từng
qua nhiều nước, nhưng vẫn chưa đến được bến quê của mình. Nhân
vật trong “Sắm vai” chỉ biết đóng vai mà đánh mất bản thân mình. Cái
xa thực tế như thế thật đáng buồn. Đó là cả một mảng hiện thực to lớn
chưa hề được nói đến.
*Nhận định văn học của Nguyễn Minh Châu
1. “Nhà văn là người cố gắng đi tìm những hạt ngọt ẩn giấu trong bề
sâu tâm hồn của con người.”
2. “Trên trái đất này thời nào và ở đâu cũng đầy rẫy oan khiên, oan
khuất, cái ác bao giờ cũng mạnh mẽ và lẫm liệt, đầy mưu ma chước
quỷ, còn cái thiện thì ngu ngơ và ngây thơ, lại thường cả tin. Nhà văn
tồn tại trên đời này trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ
nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận
đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm
hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng
tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại trên đời để bênh vực
cho những con người không còn có ai để bênh vực. Cho nên sợ nhất ở

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 43



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

một nhà văn là cái chất máu và cái thái độ lãnh đạm, dửng dưng trước
mọi việc”.
3. “Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang
nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con
người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say
mê, vừa là một nỗi đau đớn khắc khoải, một mối quan hoài thường
trực về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình. Cầm
giữ cái tình yêu lớn ấy trong mình, nhà văn mới có khả năng cảm thông
sâu sắc với những nỗi đau khổ, bất hạnh của người đời, giúp họ vượt
qua những khủng hoảng tinh thần và đứng vững được trước cuộc
sống.”
4. “Cách tốt nhất để tiêu hoá những khó khăn trong cuộc đời riêng là
phải đưa được nó vào trang viết.”
5. “Mỗi khi cầm bút, nhà văn vừa muốn phô diễn tư tưởng, chõ miệng
ra giữa hai hàng chữ để cảnh tỉnh với đời một cái gì đó tiên cảm thấy
trong đời sống, nhưng lại muốn giấu đi, gói trong bao lần lá, rào nó sau
bao tầng chữ, văn chương gì mà viết một câu trung thì phải viết một
câu nịnh? Hèn! Hèn chứ! Nhà văn nước mình tận trong tâm can ai mà
chẳng thấy mình hèn? Cái sợ nó làm mình hèn.”
6. “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn
cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”
7. “Nhà văn rất cần thiết có mặt ở trên đời để làm công việc cảnh tỉnh
nhân loại và báo hiệu trước những tai họa.”
8. “Không có một thứ nghề nào mà kết quả công việc lại có thể cắt nghĩa
rõ rệt chân giá trị của người làm ra nó như nghề viết văn.”
9. “Văn học là như vậy: làm hiện hình lên những huyền diệu bí mật của
cõi lòng người, chỗ nào có con người thì có văn học.”
10. “Trước những bất công, trước cái ác, anh không có quyền dửng
dưng, thây kệ khi con người bị đày đọa, và công việc đó phải là phản
ứng tự nhiên của nhà văn.”

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 44



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

11. “Nhà văn không phải là diễn viên trên sàn diễn. Nhà văn không
phải là loài có cánh. Nhà văn phải đứng bằng hai chân giữa mặt đất đầy
hiểm họa, giữa thập loại chúng sinh.”
12. “Văn học bao giờ cũng phải trả lời những câu hỏi của ngày hôm
nay, bao giờ cũng phải đối thoại với những người đương thời về những
câu hỏi cấp bách của đời sống.”
13. “Nhà văn cố nắm bắt không những cái thực tại mà cả cái hư ảo của
đời sống. Không những nắm bắt hiện thực mà còn muốn nắm bắt cái
bóng của hiện thực mà cái đó mới là cái hiện thực đích thực.”

Quá trình lao động nghệ thuật chưa bao giờ là dễ dàng, đòi hỏi người
nghệ sĩ phải dấn thân và nhập cuộc cùng những phận đời cơ cực. Anh ta
“cần biết hoà vào nhơ bẩn để tẩy rửa nó”, như nhà triết học hiện sinh
Chan Paul Sartre đã từng tâm sự: “Tôi căm thù những bàn tay sạch bởi
chúng vô can, lãnh cảm trước cuộc đời. Và tôi yêu những bàn tay bẩn,
những bàn tay bắt vào công cuộc dọn dẹp cuộc đời.” Văn nhà văn, nhà
thơ chân chính luôn cần lao tích cực trước đời, luôn là kẻ tiên phong trên
trường chữ nghĩa – giáo dục – tư tưởng con người. Như một Dostoievski
khắc khoải, trăn trở trong luồng gió cải cách tinh thần của một Liên Xô
khổng lồ, lạc hậu đang trở mình hốt hoảng, xung đột và sợ hãi; như một
Jack London lần theo những dấu chân dẫm lên bùn tuyết gian truân của
những tay đào vàng đi kiếm tìm tài nguyên cho nước Mỹ trong những
ngày khai quốc; như một Geoghiu Virgille gào thét thảm thiết khúc bi sầu
đẫm máu của súng liên thanh, xe tăng, trọng pháo và hàng rào kẽm gai
của Đại chiến thế giới thứ hai,… Hiểu được chân lí nghệ thuật ấy, tôi nhớ
đến Nguyễn Minh Châu – một nhà văn “dũng cảm mà điềm đạm nhất” đã
can đảm bước ra khỏi xu thế chung của giới văn nghệ sĩ lúc bấy giờ, trở
thành “Vị khai quốc công thần” của triều đại văn học thời kì đổi mới để
đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự nhân sinh,
và miêu tả con người trên hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc
cũng như hoàn thiện nhân cách. “Chiếc thuyền ngoài xa” đã thoát thai
như một lẽ tự nhiên để xác quyết cho mục đích sáng tác của “người mở
đường tinh anh” ấy: “Nhà văn không phải là diễn viên trên sàn diễn. Nhà
văn không phải là loài có cánh. Nhà văn phải đứng bằng hai chân giữa

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 45



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

mặt đất đầy hiểm hoạ, giữa thập loại chúng sinh.” Tác phẩm là bức thông
điệp của ông về cuộc đời và nghệ thuật mà không phải ai cũng dễ dàng
thấu thị trong dòng chảy miên viễn của thời gian.
1. Giời thiệu tác giả, tác Xuất phát từ quan niệm mới mẻ “cuộc
phẩm đời không có những thánh nhân”,
Nguyễn Minh Châu không còn bay bổng
1.1 Tác giả
trên đôi cánh lãng mạn, hùng tráng chất
- Ví trí: sử thi như trước nữa mà trầm tĩnh, lặng
+ “Là nhà văn mở đường lẽ đề cập đến những góc cạnh xù xì, phức
tinh anh và tài năng nhất tạp của cuộc sống, những giao tranh dữ
của văn học ta hiện nay” dội trong chính mỗi con người. Khi lấy
(Nguyên Ngọc) nhân bản làm nền tảng, Nguyễn Minh
Châu đã góp phần khơi nguồn cho dòng
+ Được đánh giá là “Vị khai sông văn học trở về với đời sống bình
quốc công thần” của triều thường, mạch ngầm vĩnh cửu của nó.
đại văn học thời kì đổi mới. Thay cho những câu chuyện về chiến
- Phong cách sáng tác: tranh súng đạn và anh hùng ngày hôm
qua thì Nguyễn Minh Châu hôm nay thả
+ Trước năm 1975: Các tác bút trong những câu chuyện thấm đẫm
phẩm mang đậm chất sử tình đời. Trong truyện ngắn của Nguyễn
thi và cảm hứng lãng mạn. Minh Châu, càng về sau, con người càng
+ Sau năm 1975: Các tác không chỉ là đối tượng, là chất liệu của
phẩm in đậm phong cách nhận thức nghệ thuật mà còn là điểm
tự sự - triết lí, đi sâu khám xuất phát, là chuẩn mực để nhà văn soi
phá sự thật đời sống ở ngắm, định giá thế giới. Với “Chiếc
bình diện đạo đức thế sự thuyền ngoài xa” sáng tác năm 1983 in
nhân sinh, và miêu tả con trong tập “Bến quê” – một truyện ngắn
người trên hành trình xuất sắc của Nguyễn Minh Châu trong
nhọc nhằn kiếm tìm hạnh thời kì văn học đổi mới đã khéo léo gửi
phúc và hoàn thiện nhân gắm thông điệp về nghệ thuật và thông
cách. điệp về cuộc đời thông qua cái nhìn của
nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng.
1.2 Tác phẩm

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 46



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

- “Chiếc thuyền ngoài xa”


sáng tác năm 1983 in
trong tập “Bến quê”.
- Truyện kể lại chuyến đi
thực tế của nghệ sĩ nhiếp
ảnh Phùng và những
chiêm nghiệm sâu sắc của
ông về nghệ thuật cũng
như cuộc đời.
2. Tóm tắt truyện Theo lời của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp
ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền
Trung (cũng là nơi anh từng chiến đấu)
để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm
tới. Sau nhiều ngày “phục kích”, anh đã
phát hiện và chụp được cảnh một chiếc
thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển
sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền
vào bờ, anh đã kinh ngạc hết mức khi
chứng kiến cảnh từ trong thuyền bước ra
một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ
dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã
đánh trả lại cha mình. Những ngày sau,
cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này
anh phải can thiện nhưng bị lão chồng
đánh trả. Theo lời mời của chánh án Đẩu
(đồng đội cũ của anh), người đàn bà hàng
chài đã đến toà án huyện. Tại đây, người
đàn bà đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và
Phùng, nhất quyết không bỏ lão chồng vũ
phu. Sau đó chị kể câu chuyện về cuộc
đời mình và đó cũng là lí do cho sự từ
chối trên. Phùng và Đẩu từ người chủ
động bỗng chốc thành bị động, từ những
người có học thức lại trở nên ngây thơ
trước bài học cuộc đời. Sau khi rời vùng

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 47



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

biển với khá nhiều ảnh, Phùng đã chọn


được một tấm ảnh về “thuyền và biển”
cho tờ lịch năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần
đứng trước tấm ảnh, anh bao giờ cũng
thấy hình ảnh người đàn bà lam lũ, nghèo
khổ bước ra từ bức tranh.
3. Tình huống truyện
3.1 Khái niệm
Tình huống là một sự kiện
đặc biệt trong đó chứa
đựng một tình thế bất
thường của quan hệ đời
sống:
- Nhà văn đã làm sống dậy
trong sự kiện ấy một tình
thế bất thường của quan
hệ đời sống.
- Tại sự kiện ấy bản chất
của nhân vật hiện hình sắc
nét.
- Tại sự kiện ấy ý tưởng
của tác giả cũng bộc lộ trọn
vẹn.
3.2 Phân loại theo tính
chất
- Tình huống hành động: là
loại sự kiện đặc biệt mà
trong đó nhân vật bị đẩy
tới một tình thế chỉ có thể
giải quyết bằng hành động.
- Tình huống tâm trạng: là
sự kiện đặc biệt của đời

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 48



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

sống mà ở đó nhân vật rơi


vào một tình thế làm nảy
sinh một biến động nào đó
trong thế giới tình cảm.
- Tình huống nhận thức: là
sự kiện đặc biệt của đời
sống mà tại đó nhân vật
được đẩy tới một tình thế
bất thường: đối mặt với
một bài học nhận thức, bật
lên một vấn đề (về nhân
sinh, về nghệ thuật) cần
phải vỡ lẽ, giác ngộ.
4. Tình huống truyện Từ cổ chí kim, đi tìm và khám phá tận
trong tác phẩm “Chiếc cùng chiều sâu của cái đẹp vẫn luôn là
thuyền ngoài xa” được cụộc hành trình đầy lao lực, thiên chức
tạo dựng bởi những của nhà văn là khơi nguồn cho cái đẹp
phát hiện đầy nghịch lí tràn vào trang viết. Hiểu được điều ấy,
Nguyễn Minh Châu mở đầu thiên truyện
4.1 Nghịch lí giữa hai
bằng bức tranh thiên nhiên đẹp toàn bích
phát hiện trên bãi biển:
được nhân vật Phùng phát hiện và ghi lại
a. Phát hiện cái đẹp toàn vào một buổi sáng mờ sương ở vùng phá
bích của ngoại cạnh nước miền Trung.
* Người nghệ sĩ đã phát Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, được cấp
hiện ra một vẻ đẹp trên trên giao cho nhiệm vụ chụp một tấm
mặt biển mờ sương ảnh chủ đề thuyền và biển để hoàn thành
- Theo Phùng đó là cảnh bộ lịch phong cảnh. Dù đã “phục kích”
“đắt” trời cho mà có lẽ cả mấy buổi sáng nhưng Phùng vẫn chưa
một đời cầm máy ảnh anh chụp được bức ảnh nào ưng ý. Chi tiết
chưa bao giờ thấy, nó như này đã cho độc giả thấy phẩm chất đáng
“một bức tranh mực tàu quý của một người nghệ sĩ chân chính, có
của một danh hoạ thời cổ”: trách nhiệm với sứ mệnh sáng tạo nghệ
thuật cũng như có ý thức nghiêm túc
+ “Mũi thuyền in một nét trong lao động nghệ thuât. Cuối cùng
mơ hồ lòe nhòe vào bầu trong sự săn đuổi không mệt mỏi ấy,

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 49



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

sương mù màu trắng như người nghệ sĩ đã bất chợt phát hiện một
sữa có pha đôi chút màu cảnh “đắt” trời cho mà có lẽ cả đời cầm
hồng hồng do ánh mặt trời máy ảnh anh chưa bao giờ thấy. Đó là
chiếu vào.” một tác phẩm nghệ thuật tuyệt đẹp hài
hòa về cả hình ảnh lẫn màu sắc như “một
+ “toàn bộ khung cảnh từ
bức tranh mực tàu của một danh hoạ
đường nét đến ánh sáng
thời trung cổ”: “Mũi thuyền in một nét
đều hài hoà và đẹp, một vẻ
mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù màu
đẹp thực đơn giản và toàn
trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng
bích”
hồng do ánh mặt trời chiếu vào”, “toàn
ðVẻ đẹp nguyên sơ, thuần bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh
khiết, thánh thiện, tưởng sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực
như chỉ có trong quá vãng đơn giản và toàn bích”.
nay hiện hữu ngay trước
Đứng trước vẻ đẹp nguyên sơ, thuần
mắt.
khiết, thánh thiện ấy tưởng chỉ có trong
* Tâm trạng, cảm xúc của quá vãng nay lại hiện hữu ngay trước
Phùng mắt đã đem đến những xúc cảm mãnh
- cảm thấy “bối rối”, “trong liệt cho người nghệ sĩ. Phùng cảm thấy
trái tim như có cái gì bóp bối rối, “trong trái tim như có cái gì bóp
thắt vào” thắt vào” bởi chăng đó chính là sự giao
cảm kì diệu của cái đẹp? Chẳng phải kẻ
- “phát hiện ra bản thân cái nào khát khao cũng được hoá công ân
đẹp chính là đạo đức” thưởng. Trong phút giây may mắn và
- “khám phá thấy cái chân thăng hoa của cảm xúc, Phùng chợt nhận
lí của sự toàn thiện, khám ra: “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”,
phá cái khoảnh khắc trong anh như vừa “khám phá thấy cái chân lí
ngần của tâm hồn…” của sự toàn thiện, khám phá thấy cái
khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.” –
ð Hạ nh phú c cha- t nga- t, đó là khoảnh khắc anh đã bắt gặp cái tận
cảm nhận được cá i Thiện, Thiện, tận Mỹ, thấy tâm hồn mình như
cái Mĩ của cuộc đời, cảm được gột rửa, trở nên thật trong trẻo,
thấy tâm hồn mình như tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà, lãng mạn
được thanh lọc, trở nên của cuộc đời. Phải chăng vì thế mà văn
trong trẻo, tinh khiết. hào Dostoevsky đã dõng dạc tuyên bố

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 50



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

niềm xác tín của đời mình: “Cái đẹp cứu


rỗi thế giới”?
b. Phát hiện sự thật trần
trụi, nghiệt ngã của cuộc Cuộc đời gửi đến trang văn không chỉ là
đời những áng mây hồng ngây ngất mà nó
còn vỗ vào đó muôn ngàn lớp sóng dữ
* Phùng đã chứng kiến
dội khiến người nghệ sĩ phải trăn trở
cảnh tượng: một người
khôn nguôi. Khi xúc cảm của Phùng đang
đàn ông đánh vợ dã man
thăng hoa cùng cái đẹp thì “Chiếc thuyền
và đáng sợ hơn khi đứa
ngoài xa” bỗng tiến lại gần, anh đã chứng
con trai đánh lại bố để
kiến một cảnh tượng đau lòng, một sự
bênh vực mẹ.
thật trần trụi đến nghiệt ngã của cuộc
- Nghe thấy tiếng người đời: một người đàn ông đánh vợ dã man
đàn ông nói chõ lên thuyền và đáng sợ hơn khi đứa con trai đánh lại
như quát: “Cứ ngồi yên người bố để bênh vực mẹ mình.
đấy. Động đậy tao giết cả
Phùng nghe thấy tiếng người đàn ông nói
mày đi bây giờ.”
chõ lên thuyền như quát: “Cứ ngồi yên
- Từ chiếc thuyền bước ra đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”.
một người đàn bà: trạc Chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mộng ấy
ngoài 40 tuổi, cao lớn, thô bước ra là một người đàn bà trạc ngoài
kệch, rỗ mặt, khuôn mặt bốn mươi tuổi, tấm lưng áo đang mặc đã
mệt mỏi, tái ngắt và dường bạc phếch và rách rưới. Mụ cao lớn, thô
như đang buồn ngủ. kệch, khuôn mặt bị rỗ, tái ngắt, mệt mỏi
- Lão đàn ông: tấm lưng và dường như đang buồn ngủ sau một
rộng và cong như lưng một đêm thức trắng kéo lưới. Cùng với đó là
chiếc thuyền, mái tóc tổ người đàn ông có tấm lưng rộng và cong
quạ, chân đi chữ bát, hàng như chiếc thuyền. Lão để mái tóc tổ quạ,
lông mày cháy nắng, con chân đi chữ bát, hàng lông mày cháy
mắt đầy vẻ dữ dằn. nắng cùng con mắt đầy vẻ dữ dằn. Trận
đòn roi bắt đầu diễn ra, người đàn ông
- Trận đòn roi bắt đầu diễn lập tức “trở nên hùng hổ, mặt đỏ gắt”,
ra “Lão rút trong người ra hắn “rút trong người ra một chiếc thắt
một chiếc thắt lưng lính lưng của lính nguỵ ngày xưa”, rồi chẳng
của lính nguỵ ngày xưa”, nói, chẳng rằng “lão trút cơn giận như
“chẳng nói, chẳng rằng lão lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng
trút cơn giận như lửa cháy quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão
bằng cách dùng chiếc thắt

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 51



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

lưng quật tới tấp vào lưng vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm
người đàn bà, lão vừa răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất lão
đánh vừa thở hồng hộc, lại nguyền rủa bằng cái gọng rên rỉ đau
hai hàm răng nghiến ken đớn: mày chết đi cho ông nhờ. Chúng
két, cứ mỗi nhát quất mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Tưởng
xuống lão lại nguyền rủa như người vợ sẽ phản kháng lại hoặc ít
bằng cái giọng rên rỉ đau nhất sẽ bỏ chạy, nhưng không, người đàn
đớn: Mày chết đi cho ông bà ấy vẫn nhẫn nhục trước trận đòn roi
nhờ. Chúng mày chết hết khủng khiếp của gã chồng: “không hề kêu
đi cho ông nhờ!” một tiếng, không chống trả, cũng không
tìm cách chạy trốn”. Phùng như chết
- Người đàn bà nhẫn nhục
lặng, không tin vào những gì đang diễn ra
trước trận đòn roi khủng
trước mắt mình: “kinh ngạc đến mức,
khiếp của chồng: “không
trong mấy phút đầu, tôi cứ há mồm ra mà
hề kêu một tiếng, không
nhìn”. Bản chất của một người lính khiến
chống trả, cũng không tìm
phùng không thể làm ngơ trước cảnh bạo
cách chạy trốn.”
hành kinh hãi ấy, anh đã vứt chiếc máy
- Tha¼ ng bé Phá c: “như mộ t ảnh của mình xuống đất và chạy nhào tới
viên đạ n trên đường lao để ngăn cản. Nhưng rồi bỗng nhiên có
tới đı́ch” nhả y xo½ và o gã một đứa trẻ đang giận dữ, căng thẳng lao
đà n ông, giằng lấy chiếc qua trước mặt Phùng để tới chỗ đôi vợ
thắt lưng, đánh lại cha vì chồng kia: “như một viên đạn trên đường
thương mẹ: “dướn thẳng lao tới đích”, nó nhảy xổ vào gã đàn ông,
người vung chiếc khoá sắt giằng lấy chiếc thắt lưng và đánh lại lão
quật vào giữa khuôn ngực đàn ông vì quá thương mẹ: “dướn thẳng
trần vãm vỡ cháy nắng…” người vung chiếc khoá sắt quật vào giữa
- Lão đàn ông không giằng khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng…”.
lại được chiếc thắt lưng Định rằng lại chiếc thắt lưng từ đứa con
“liền dang thẳng cánh cho nhưng không thành, người chồng “liền
thằng bé hai cái tát khiến dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát
thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống
xuống cát.” cát” mà chẳng hề thương xót. Người đàn
bà hàng chài dù bị gã chồng hành hạ hay
- Người đàn bà chứng kiến nhục mạ thế nào đi chăng nữa cũng
cảnh con mình đánh lại bố không cảm thấy đau, vậy mà ngay lúc này
đây, chị cảm thấy đau đớn, xấu hổ và

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 52



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

khiến bà vô cùng đau đớn, nhục nhã quá! Chị đau đâu phải vì đòn
xấu hổ và nhục nhã. roi, chị đau vì để thằng bé chứng kiến
hành động tàn ác của bố nó, và đau hơn
* Thái độ và hành động
cả là vì thằng bé ấy lại dám đánh lại bố.
của nhiếp ảnh Phùng
Nó như hàng vạn vết dao cứa vào trái tim
- Phùng không tin vào đang hoài rỉ màu của chị. Ba hôm sau,
những gì đang diễn ra Phùng chứng kiến cảnh bạo lực tái diễn,
trước mắt mình: “kinh nhưng hôm nay có lẽ khiến ăn kinh
ngạc đến mức, trong mấy hoàng hơn hẳn khi nhìn thấy người chị
phút đầu, tôi cứ đứng há gái tước đoạt con dao găm mà đứa em
mồm ra mà nhìn.” trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ mẹ
- Bản chất của người lính của mình. Và lần này Phùng cũng không
khiến Phùng không thể thể nén chịu được nữa mà liền xông ra
làm ngơ trước cảnh bạo can ngăn nhưng bị lão đàn ông đánh trả
hành, anh đã “vứt chiếc khén anh phải vào nằm tại trạm y tế của
máy ảnh xuống đất, chạy toà án huyện.
nhào tới.” Dường như lúc này đây, Phùng cay đắng
- Ba hôm sau, cảnh bạo lực nhận ra rằng: đằng sau vẻ đẹp toàn bích,
lại tái diễn, Phùng “không hoàn thiện kia lại là những góc khuất đầy
thể nén chịu hơn được ngang trái, đau khổ của kiếp người. Hoá
nữa”, anh xông ra can ngăn ra hiện thực cuộc sống nơi phá nước thơ
nhưng bị lão đàn ông đánh mộng này không có “màu hồng” như
trả khiến anh phải vào người người nghệ sĩ đã tưởng, chỉ thiếu
nằm tại trạm y tế của toà chút nữa thôi anh sẽ chẳng bao giờ biết
án huyện. được. Tôi bỗng nhớ đến ý thơ của
Nguyễn Trọng Tạo cách đây mươi năm:
ð Cuộc đời không đơn
giản, xuôi chiều, không “Tôi sống thời không thể đứng quay lưng
phả i bao giờ cũ ng đẹ p, Bao biến động dễ đâu nhìn thấy được
cũ ng là nghệ thuậ t, mà
Bờ thẳng hơn những cánh đồng hợp tác
chứa đựng nhiều nghịch lí,
mâu thuẫn giữa cái đẹp - Đê sông Hồng sau mùa lũ thêm cao”
xấu, thiện - ác. Đòi hỏi
Một chút về “Tản mạn thời tôi sống” mà
người nghệ sı̃ phả i tı̀m
đã trình bày ra bao vấn đề của xã hội bấy
hie½ u cuộ c đời trước mo- i
giờ, vấn đề trong cả cách cảm, cách nghĩ
quan hệ đa chie´ u.
của con người. Thì ra “bao biến động đâu

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 53



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

dễ nhìn thấy được” ấy cũng giống như cái


sự thật quái đản ẩn giấu bên trong “Chiếc

thuyền ngoài xa”, con người chưa thể
nắm bắt, chưa thể thấu thị. Khám phá của
nhân vật Phùng về chiếc thuyền ngoài xa
cho đến khi lại gần chính là bài học sâu
sắc về khoảng cách giữa nghệ thuật và
cuộc đời. Nghệ thuật chính là cuộc sống,
người nghệ sĩ phải có góc nhìn và cự li
khám phá cuộc sống gần gũi hơn, có như
vậy anh mới phản ánh đúng, mới thấu
hiểu được muôn sự đa đoan của cõi đời
khốn khổ, đau đớn nhưng đẹp đẽ vô
cùng.
4.2 Nghịch lí phát hiện ở Karl Mark đã từng viết: “Chỉ có con vật
toà án huyện mới quay đi trước nỗi đau của đồng loại
để liếm láp bộ lông của mình”. Cả Phùng
a. Phùng và Đầu tin vào và Đẩu đều xuất thân là những người
những gì bản thân lính, hai anh không cho phép bản thân
chứng kiến làm ngơ trước cảnh bạo lực gia đình kia.
- Đẩu: Như vị quan tòa Đẩu như một vị quan toà mang công lí tới
mang công lí tới cho người cho người phụ nữ khốn khổ: “Thế nào,
phụ nữ khốn khổ: “Thế chị đã nghĩ kĩ chưa?”, giọng của anh bỗng
nào, chị đã nghĩ kĩ chưa?”, trở nên giận dữ khi người đàn bà hàng
giọng của anh bỗng trở chài ấp úng trước câu hỏi của anh: “Ba
nên giận dữ khi người đàn ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận
bà hàng chài ấp úng trước nặng… Chị không sống nổi với cái lão đàn
câu hỏi của anh: “Ba ngày ông vũ phu đấy đâu! Chị nghĩ thế nào?”.
một trận nhẹ, năm ngày Rõ ràng rất cả những gì mà Đẩu và Phùng
một trận nặng… Chị không chứng kiến là một bức tranh đen tối, họ
sống nổi với cái lão đàn hy vọng góp phần giải thoát cho người
ông vũ phu ấy đâu! Chị đàn bà hàng chài và tin rằng thiện chí của
nghĩ thế nào?” mình chắc chắn sẽ được người đàn bà
- Phùng: Tin rằng thiện chí khốn khổ ấy chấp nhận, thậm chí là hàm
của mình cũng như Đẩu ơn. Bởi lẽ, trong hoàn cảnh “ba ngày một

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 54



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

chắc chắn được người đàn trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” li hôn
bà hàm ơn. Bởi lẽ, trong là giải pháp đúng đắn và nhân đạo nhất
hoàn cảnh ấy, li hôn là giải lúc này.
pháp đúng đắn và nhân
Nhưng Phùng và Đẩu đã kinh ngạc trước
đạo nhất đối dành cho
nghịch lí trớ trêu: người đàn bà khốn khổ
người đàn bà khốn khổ
sống trong tăm tối và bạo lực lại tuyệt đối
kia.
không muốn được giải thoát, thậm chí
b. Tâm sự và thái độ của còn khẩn thiết van xin: “Con lạy quý tòa…
người đàn bà hàng chài Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù
con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”.
* Thái độ của người đàn
Ban đầu chị còn rụt rè, e sợ, lúng túng
bà.
nhưng ngay sau đó đã chủ động kể câu
- Ban đầu rụt rè, e sợ, lúng chuyện cuộc đời, nói lí lẽ cuộc đời. Người
túng. đàn bà vốn thất học, quê mùa nay lại có
- Sau chủ động kể câu tư cách giảng giải cho hai vị trí thức về
chuyện cuộc đời, nói lí lẽ những nghịch lí mà con người phải chấp
cuộc đời. Người đàn bà nhận khi nó bị cầm tù trong hoàn cảnh
thất học lại có tư cách đói nghèo cùng cực: “Chị cảm ơn các
giảng giải cho hai vị trí chú!... Đây là chị nói thành thực, chị cảm
thức về những nghịch lí ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các
mà con người phải chấp chú đâu phải người làm ăn… cho nên các
nhận khi nó bị cầm tù chú đâu có hiểu được cái việc của các
trong hoàn cảnh đói nghèo người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”. Không
cùng cực: “Chị cảm ơn các còn cái vẻ ngoài khúm núm, sợ sệt, người
chú!... Đây là chị nói thành đàn bà như trút hết ruột gan để tâm sự
thực, chị cảm ơn các chú. với Phùng và Đẩu về lí do tại sao chị
Lòng các chú tốt, nhưng không bỏ lão chồng vũ phu kia. Lúc còn
các chú đâu có phải là nhỏ chị đã là một đứa con gái xấu, lại vì
người làm ăn… cho nên một trận đậu mùa mà bị rỗ mặt nên lại
các chú đâu có hiểu được càng xấu xí, không ai lấy. Và người chồng
cái việc của các người làm đã đến như một phép màu, cứu rỗi chị
ăn lam lũ, khó nhọc…” giữa lúc “cùng đường tuyệt lộ”, cho chị
một mái ấm gia đình, một chỗ dựa vững
* Quyết định của chị: trớ chắc giữa cuộc đời nhiều ba động. Rồi
trêu thay, người đàn bà bỗng nhiên vì chiến tranh, người chồng
khốn khổ sống trong tăm trốn đi lính nguỵ mà dẫn đến nghèo khổ,

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 55



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

tối và bạo lực ấy lại tuyệt túng quẫn. Từ một anh con trai “cục tính
đối không muốn được giải nhưng hiền lành” không bao giờ đánh
thoát, thậm chí còn khẩn đập vợ mà trở thành một gã vũ phu, hung
thiết van xin: “Con lạy quý tợn. Chị không trách chồng mình, ngược
tòa… Quý tòa bắt tội con lại, chị còn thấu hiểu và cảm thông cho gã
cũng được, phạt tù con ta. Chị hiểu rằng cuộc sống khắc nghiệt
cũng được, đừng bắt con này đã làm người chồng áp lực, mệt mỏi
bỏ nó...” nhiều lắm và chị cũng hiểu rằng lão đánh
vợ không phải vì thù ghét hay cay nghiệt,
* Câu chuyện của chị:
lão đánh vợ chỉ như người khác uống
- Chồng chị vốn là người rượu cho nguôi quên nỗi khổ của đời
chị chịu ơn, cục tính nhưng mình. Người đàn bà khốn khổ ấy mặc
hiền lành: cảm và nhận ra rằng lỗi là do chị đẻ
+ “Từ tuổi nhỏ tôi đã là nhiều, thuyền chật và đói khổ: “Giá tôi đẻ
một đứa con gái xấu, lại rỗ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc
mặt sau một bận lên đậu thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về
mùa… Cũng vì xấu, trong đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ
phố không ai lấy, tôi có bắc, ông trời làm động biển suốt hàng
mang với một anh con trai tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn
nhà hàng chài…” xương rồng luộc chấm muối…”, “nhưng
cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ
+ “Lão chồng tôi khi ấy là nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Trong
một anh con trai cục tính tiểu thuyết “Sống mòn” của Nam Cao, cái
nhưng hiền lành lắm, đói, cái nghèo đã khiến Oanh - một phụ
không bao giờ đánh đập nữ có học đàng hoàng, trở thành một con
tôi.” người quá quắt, nhỏ nhen và bủn xỉn,
- Lỗi là do chị đẻ nhiều, một con người sẵn sàng ăn vội vàng mỗi
thuyền chật và đói khổ: bữa ba lượt xới rồi ngồi đếm từng bát
cơm mỗi người ăn, để họ thấy ngượng
+ “Giá tôi đẻ ít đi, hoặc mà không ăn được. Oanh nghèo tới mức,
chúng tôi sắm được một khi vị hôn thê của y đang trong cơn hấp
chiếc thuyền rộng hơn, từ hối, nguy kịch, chính bản thân y đã sợ
ngày cách mạng về đã đỡ rằng mình sẽ là người phải đứng ra lo
đói khổ chứ trước kia vào thuốc thang, ma chay cho người chồng
các vụ bắc, ông trời làm sắp cưới. Cũng là đứng trước cái nghèo,
động biển suốt hàng cái đói, người chồng tuy có thô bạo, có
tháng, cả nhà vợ chồng con

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 56



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

cái toàn ăn xương rồng cay nghiệt nhưng gã ta vẫn giữ cho mình
luộc chấm muối…” phần “Người” cao quý, luôn có trách
nhiệm đối với gia đình của mình. Rõ ràng
+ “nhưng cái lỗi chính là
qua lời kể của người đàn bà hàng chài, gã
đám đàn bà ở thuyền đẻ
chồng vũ phu hiện lên toàn diện và chân
nhiều quá, mà thuyền lại
thực hơn: một kẻ vừa đáng thương lại
chật.”
vừa đáng trách, vừa đáng trừng phạt lại
- Cuộc sống của những vừa đáng cảm thông, vừa có tội lại vừa có
người phụ nữ mưu sinh công với gia đình này. Sống giữa mênh
trên biển nói chung và chị mông biển cả, người đàn bà hàng chài
nói riêng không thể thiếu biết rằng trên con thuyền không thể
bóng dáng của người đàn thiếu bóng dáng của người đàn ông: “Là
ông: bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa
+ “Là bởi vì các chú không bao giờ các chú biết như nào là nỗi vất vả
phải là đàn bà, chưa bao của người đàn bà trên một chiếc thuyền
giờ các chú biết như nào là không có đàn ông”, “đám đàn bà hàng
nỗi vất vả của người đàn chài ở thuyền chúng tôi cần phải có một
bà trên một chiếc thuyền người đàn ông để chèo chống mỗi khi
không có đàn ông.” phong ba, để cùng làm ăn, nuôi nấng
đặng một sắp con nhà nào cũng trên chục
+ “đám đàn bà hàng chài ở đứa”. Sự bấp bênh của biển cả đã khiến
thuyền chúng tôi cần phải sự tồn tại đối với người đàn bà hàng chài
có một người đàn ông để lúc này còn quan trọng hơn cả hạnh
chèo chống khi phong ba, phúc. Và có lẽ, lí do cao cả nhất mà chị
để cùng làm ăn, nuôi nấng không muốn li hôn chồng bởi vì chị có
đặng một sắp con nhà nào thiên chức phải sống cho con chứ không
cũng trên chục đứa.” sống cho mình: “Đàn bà ở thuyền chúng
- Chị có thiên chức phải tôi phải sống cho con chứ không thể sống
sống cho con chứ không cho mình như ở trên đất liền được!”.
sống cho mình: Người đàn bà khốn khổ ấy có thể chấp
nhận chịu những trận đòn roi kinh hoàng
+ “Ông trời sinh ra người chỉ vì nghĩ đến đàn con nheo nhóc, bởi lẽ:
đàn bà là để đẻ con, rồi “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ
nuôi con cho đến khi khôn con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn”.
lớn…” Khi được Phùng hỏi: “Cả đời chị có một
lúc nào thật vui không?”, chị không chần

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 57



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

+ “Đàn bà ở thuyền chúng chừ như lúc mới đến toà án huyện nữa
tôi phải sống cho con chứ mà liền đáp: “Có chứ, chú! Vui nhất là lúc
không thể sống cho mình nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…”.
như ở trên đất liền được!”. Người phụ nữ Việt Nam muôn đời là vậy,
có bao giờ nghĩ cho mình đâu? Xuyên
+ Khi được Phùng hỏi: “Cả
suốt toàn bộ thiên truyện, lần đầu tiên
đời chị có một lúc nào thật
người đàn bà chúng ta thấy khuôn mặt
vui không?”, chị không
xấu xí của chị ửng sáng lên như một nụ
chần chừ như lúc ban đầu
cười là khi nghĩ đến cảnh gia đình sống
đến toà án huyện mà liền
hoà thuận, vui vẻ: “Vả lại ở trên chiếc
đáp: “Có chứ, chú! Vui nhất
thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái
là lúc nhìn đàn con tôi
chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ”. Người
chúng nó được ăn no…”.
đàn bà ý thức được rằng, giờ đây chỉ cần
+ Lần đầu tiên khuôn mặt buông tay người chồng thôi là những
chị ửng sáng lên như một đứa con thơ dại của mình sẽ chia đàn xẻ
nụ cười là khi nghĩ đến nghé, không chết đói thì cũng sống vật
cảnh gia đình sống hoà vờ, lang thang đầu đường xó chợ. Là một
thuận, vui vẻ: “Vả lại, ở người mẹ, chị đương nhiên không để cho
trên chiếc thuyền cũng có điều ấy xảy ra, chị chỉ muốn dang rộng
lúc vợ chồng con cái chúng cánh tay để bao bọc các con của mình
tôi sống hoà thuận, vui vẻ.” khỏi những điều xấu xa, dơ bẩn của thế
+ Chị khóc khi nghe Phùng giới bên ngoài. Khi bị chồng đánh đập,
nhắc đến Phác – đứa con chị không kháng cự mà chỉ xin gã ta: “Nếu
mà chị yêu và thương sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được
nhất. Chị đã phải gửi nhờ với lão… đưa tôi lên bờ mà đánh.” Chị đã
bố chị nuôi thằng bé vì sợ khóc ngay khi nghe Phùng nhắc đến Phác
nó có thể làm điều gì đó dại – đứa con mà chị yêu và thương nhất. Chị
dốt đối với người chồng. đã phải gửi nhờ bố mình nuôi thằng bé vì
sợ nó có thể làm điều gì đó dại dột đối với
ð Phùng và Đẩu từ người người chồng.
chủ động thành bị động, từ
những người có học thức Đúng như nhà văn Nguyễn Ngọc Tư từng
là trở nên ngây thơ trước thủ thỉ: “Đàn bà, hễ mũi xấu thì mắt đẹp,
bài học cuộc đời. Lòng tốt mắt mũi xấu thì miệng đẹp, mặt xấu thì
của hai người chỉ dừng lại dáng đẹp, người xấu tâm hồn đẹp. Bằng
ở những “lí thuyết đẹp đẽ” cách này hay cách khác, họ cứ phải đẹp.
Ôi những người đàn bà, hễ mặt mũi xấu

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 58



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

nhưng phi thực tế. Không thì tay chân đẹp, cổ xấu thì lưng đẹp,
phải hình thức bao giờ người xấu thì tâm hồn đẹp. Bằng cách
cũng đồng nhất với bản này hay cách khác, họ cứ phải đẹp...”
chất bên trong, cái bộc lộ Người đàn bà hàng chài bất hạnh cũng
ra chưa chắc đúng với cái đẹp - cái đẹp phát lộ từ góc lòng sâu kín
ẩn giấu. Bởi lẽ cuộc đời đa mà ở nơi đó, chị chỉ dành chỗ cho chồng
sự, con người đa đoan nên con của mình. Cái đẹp ấy chất phác, thầm
mỗi người cần có cách lặng, nó chìm chìm trong vết sạn chai nơi
nhìn đa diện nhiều chiều bàn tay, hằn lại trên từng kẽ tóc cháy
để phát hiện bản chất thật nắng, ủ ấp trong hơi gió mùi sương đọng
sau vẻ bên ngoài của hiện lại trên da thịt. Chao ôi những người đàn
tượng. bà đẹp, đâu cần gõ mõ khua chiêng?
Phùng và Đẩu từ người chủ động thành
bị động, từ những người có học thức là

trở nên ngây thơ trước bài học cuộc đời.
Lòng tốt của hai người chỉ dừng lại ở
những “lí thuyết đẹp đẽ” nhưng phi thực
tế. Không phải hình thức bao giờ cũng
đồng nhất với bản chất bên trong, cái bộc
lộ ra chưa chắc đúng với cái ẩn giấu.
Vâng, văn chương muôn hình vạn trạng,
“Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn
Minh Châu chính là thước phim tái hiện
cuộc sống: nơi lí lẽ phải thua cuộc đời,
nơi nhập nhằng giữa đúng và sai, giữ giữ
lại và buông bỏ. Bởi lẽ cuộc đời đa sự, con
người đa đoan nên mỗi người cần có
cách nhìn đa diện nhiều chiều để phát
hiện bản chất thật sau vẻ bên ngoài của
hiện tượng.

Trưởng phòng yêu cầu một bức tranh
4.3 Nghịch lý giữa yêu tĩnh vật chụp cảnh biển có sương mù.
cầu của trưởng phòng và Cảnh chiếc thuyền ngoài xa chính là một
bức ảnh chụp của Phùng bức ảnh đáp ứng yêu cầu như thế, thậm
* Sự đối nghịch chí có phần đẹp đẽ. Xét trong kết cấu

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 59



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

- Trưởng phòng: yêu cầu chung của tác phẩm, chiếc thuyền chính
một bức ảnh tĩnh vật là biểu tượng của nghệ thuật. Yêu cầu của
(cảnh) ð Nghệ thuật vị trưởng phòng chỉ mang tôn chỉ nghệ
nghệ thuật. thuật vị nghệ thuật đơn thuần.
- Nhiếp ảnh Phùng: anh Nhưng tấm ảnh chụp của Phùng không
mang về bức ảnh đời sống như thế. Sau gần một tuần phục kích,
Phùng đã chụp được bức ảnh đen trắng
+ Tấm ảnh đen trắng chụp
chiếc thuyền ngoài xa. Nhưng có một
chiếc thuyền ngoài xa
điều kì lạ là mỗi lần nhìn bức ảnh, Phùng
+ Màu hồng của ánh sương luôn thấy màu hồng của ánh sương mai
mai (chất thơ của nghệ và hình ảnh người đàn bà bước ra từ tấm
thuật ) ảnh. Màu hồng của ánh sương chính là
+ Người đàn bà bước ra từ chất thơ của nghệ thuật, còn hình ảnh
chiếc thuyền (số phận của người đàn bà kia là khái quát cho số phận
con người) lam lũ của con người. Phùng vẫn nộp sản
phẩm theo yêu cầu, thậm chí tấm ảnh còn
ð Nghệ thuật vị nhân sinh thành công ngoài sự mong đợi của
* Nhận thức về nghệ Phùng. Nhưng từ trong sâu thẳm một trái
thuật và cuộc đời tim nghệ sĩ chân chính, Phùng đã nhận ra
rằng, nghệ thuật phải là thứ nghệ thuật
Nghệ thuật và cuộc đời vị nhân sinh, phải phục vụ cho cuộc sống
luôn có mối quan hệ mật của người.
thiết với nhau. Nếu không
hút nguồn nhựa sống dạt
dào ngầm chảy trong lòng
cuộc sống thì văn chương
chỉ là một cây non èo uột,
héo úa. Là người nghệ sĩ,
ngòi bút của anh phải
chấm vào nghiên mực
cuộc đời thì đứa con tinh
thần của anh mới tươi
màu, nèo chặt trong bến
tâm hồn người thưởng
thức.

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 60



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT NGƯỜI ĐÀN BÀ HÀNG CHÀI


1. Lai lịch và ngoại hình Khi đặt bút sáng tác “Mảnh trăng cuối
rừng”, Nguyễn Minh Châu đã nhất mực
1.1 Lai lịch
chau chuốt, gọt dũa ngòi bút thật ấm, thật
- Tên gọi: Nguyễn Minh êm, thật mềm mại để phác hoạ bức chân
Châu không hề đặt cho chị dung cô Nguyệt với vẻ đẹp “mười phân
một cái tên cụ thể mà chỉ vẹn mười”, chị là kiểu nhân vật với vẻ
gọi một cách phiếm chỉ: đẹp hoàn mỹ - hoàn mỹ từ cái tên, lý
“mụ rỗ mặt”, “người đàn tưởng cho tới chân tơ, sợi tóc, đôi gót
bà hàng chài”, “chị ta”,… chân: “đôi gót chân trắng hồng”, “vẻ đẹp
ð Là một dụng ý nghệ giản dị và mát mẻ như sương núi tỏa ra
thuật: Tái hiện nhân vật từ nét mặt lời nói và tấm thân mảnh dẻ”,
vừa cụ thể lại vừa có sức “Từng sợi tóc của Nguyệt đều sáng lên.
khái quát. Nhà văn nói hộ Mái tóc thơm ngát, dày và trẻ trung làm
tâm sự của bao người phụ sao!”,… Thế nhưng khi viết về người đàn
nữ vô danh đang lênh bà hàng chài, ngòi bút của Nguyễn Minh
đênh trên biển cả phải Châu dường như trở nên sắc lạnh hơn
chịu nhiều đau khổ và bất bao giờ hết. Ông không hề đặt cho chị
hạnh cần được cảm thông. một cái tên cụ thể mà chỉ gọi một cách
phiếm chỉ: khi là “người đàn bà hàng
- Con nhà khá giả, ở đất chài” – cái tên gắn liền với công việc bấp
liền, nhưng vì xấu xí không bênh trên biển của ả, khi thi gọi một cách
ai lấy lại có mang với một mỉa mai về tuổi tác và ngoại hình: “mụ rỗ
anh con trai hàng chài giữa mặt”, “chị ta”,… Cách gọi ấy chính là dụng
phá nên phải sống lênh ý nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu khi
đênh trên biển. ông tái hiện nhân vật vừa cụ thể lại vừa
1.2 Ngoại hình có sức khái quát. Nhà văn như nói hộ tâm
sự của biết bao người phụ nữ lênh đênh
- Xấu xí và thô kệch: trên biển cả phải chịu nhiều đau khổ, bất
“Người đàn bà trạc ngoài hạnh cần được cảm thông. Mặc dù là con
bốn mươi, một thân hình nhà khá giả nhưng trớ trêu thay, cuộc đời
quen thuộc của người đàn lại khéo “cài cắm” những vết nhơ vào
bà vùng biển, cao lớn với “bản lí lịch” của chị. Ngay từ nhỏ, chị đã
những đường nét thô nhận mình “là một đứa con gái xấu”, vì
kệch”. một trận đầu mùa mà mặt bị rỗ nên
chẳng ai chịu lấy. Thế rồi, chị có mang với

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 61



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

- In hằn dáng vẻ lam lũ: một anh con trai hàng chài giữa phá.
“Khuôn mặt mệt mỏi sau Tưởng rằng hạnh phúc từ đây đã bắt đầu
một đêm thức trắng kéo mỉm cười với chị bởi việc có bầu, trở
lưới, tái ngắt và dường thành vợ của một người đàn ông chăm
như đang rất buồn ngủ.” ð chỉ rồi thành mẹ của những đứa trẻ thơ
mất hết sức sống, niềm ngây sẽ giúp người đàn bà xấu xí ấy thoát
vui. khỏi mối lo ở giá. Quả là “Ngày vui ngắn
chẳng tày gang”, hoá ra ông trời chỉ
- Mặc cảm, tự ti: Khi đến
chuyển hoá từ nỗi bất hạnh này sang nỗi
toà án huyện, người đàn
bất hạnh khác mà thôi chứ nào xoá đi cho
bà hàng chài lúng túng, sợ
chị? Và bắt đầu từ đây, chị phải trải qua
sệt và ngồi nép vào góc
những năm tháng vất vả, đói nghèo bám
tường. Đẩu mời ngồi lần
víu, quanh năm suốt tháng sống lênh
thứ hai thì chị ta mới rón
đênh giữa biển. Cũng bởi lẽ vậy, người
rén ngồi ghé vào mép
đàn bà ấy hiện lên thật xấu xí và thô kệch:
chiếc ghế và cố thu người
“Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một
lại ð như muốn giảm
thân hình quen thuộc của người đàn bà
thiểu vướng víu cho mọi
vùng biển, cao lớn với những nét thô
người hoặc đó có thể là tư
kệch”. Nhìn dáng vẻ bên ngoài thôi cũng
thế tự vệ bản năng của chị.
đã toát lên sự lam lũ, mất hết sức sống và
ð Chỉ bằng vài nét chấm niềm vui: “Khuôn mặt mệt mỏi sau một
phá về tuổi tác, dáng vẻ và đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và
gương mặt, nhà văn đã vẽ dường như đang rất buồn ngủ”. Ngay cả
ra trước mắt người đọc đến quần áo cũng miếng lành, miếng vá:
cuộc đời bất hạnh và số “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa
phận tội nghiệp của người thân dưới ướt sũng”. Dường như cuộc
đàn bà hàng chài. Nét vẽ ấy sống nghèo khổ này đã khiến người đàn
chân thực tới nỗi khiến ta bà vốn khốn khổ nay lại càng khốn khổ
cảm thấy dường như chị gấp bội. Chị trở nên mặc cảm và tự ti. Khi
không chỉ nằm trong trang đến toà án huyện, người đàn bà ấy lúng
giấy, không chỉ là nhân vật túng, sợ sệt và ngồi nép vào góc tường.
văn học mà ở đâu đó trên Chánh án Đẩu mời ngồi lần thứ hai thị chị
cuộc đời này, người đàn bà ta mới rón rén ngồi ghé vào mép chiếc
đáng thương như thế vẫn ghế và cố thu người lại như thể muốn
đang tồn tại, đang ngày giảm thiểu vướng víu cho mọi người
ngày gồng gánh tất thảy hoặc đó có thể là tư thế tự vệ bản năng

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 62



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

mọi cay đắng, vất vả, nhọc của một người đàn bà lúc nào cũng có
nhằn ở cõi đời. nguy cơ bị bạo hành bởi gã chồng vũ phu.
Chỉ bằng vài nét chấm phá về tuổi tác,

dáng vẻ và gương mặt, Nguyễn Minh
Châu đã vẽ ra trước mắt người đọc cuộc
đời bất hạnh và số phận tội nghiệp của
người đàn bà hàng chài. Nét vẽ ấy chân
thực tới nỗi khiến ta cảm thấy dường
như chị không chỉ nằm trong trang giấy,
không chỉ là nhân vật văn học mà ở đâu
đó trên cuộc đời này, người đàn bà đáng
thương như thế vẫn đang tồn tại, vẫn
đang ngày ngày gồng gánh những cay
đắng, tủi hơn, vất vả và nhọc nhằn ở cõi
đời.
Hình ảnh một người phụ nữ xấu xí, thô
kệch, đi chệch ra khỏi mọi tiêu chuẩn về
2. Số phận bất hạnh cái đẹp từ cổ - kim, Đông – Tây mà nhìn
* Nghèo đói: Gia đình trên vào đó, bốn chữ “thắt đáy lưng ong” có lẽ
dưới chục đứa con, thuyền đủ khiến chị thẹn thùng. Dáng vẻ của chị
lại chật chội, có tháng cả hiện lên trên trang viết như kéo theo một
nhà vợ chồng con cái toàn chuỗi đời dọc ngang bi kịch.
ăn cây xương rồng luộc Trước hết đó là cái đói, cái nghèo cứ ngày
chấm muối để sống qua này qua ngày khác bám víu vào chị.
ngày. Nghèo đói chính là mũi dao nhọn đâm
ð Nghèo đói chính là thẳng xuống cuộc đời người đàn bà hàng
nguồn cơn cho tất cả chài, kiến tạo trận chiến mang tên “mưu
những bất hạnh ở đời mà cầu hạnh phúc”, và đương nhiên, nó đã
người nghèo không biết thắng thế. Bởi thắng nên mỗi lúc nó càng
phải làm sao cho đời mình ngông nghênh, mặc sức gây ra đủ thứ bi
đỡ bất hạnh. kịch lớn nhỏ rồi thay phiên trút thẳng
xuống mảnh đời chẳng vuông tròn của
* Nạn nhân của bạo lực mụ. Ôi! cái cảnh gia đình trên dưới chục
gia đình: Những trận đòn đứa con nheo nhóc; người cha ưa bạo
thù của người chồng vũ lực, ngày đêm chửi rủa; người mẹ câm
phu như thành lệ, thành

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 63



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

thói quen: “ba ngày một lặng, chịu đựng đòn roi nó mới ngột ngạt
trận nhẹ, năm ngày một đến nhường nào. Chiếc thuyền thì bé mà
trận nặng.” áp lực vô hình lại to khủng khiếp như
muốn bóp nghẹt tất thảy những người
- Bạo hành về thể xác: “Lão
trong gia đình người đàn bà khốn khổ
rút trong người ra một
kia. Rồi những ngày biển động, cả nhà
chiếc thắt lưng lính của
hơn chục miệng ăn phải nếm trải cái vị
lính nguỵ ngày xưa”,
chát đắng đến ghê ngươi của xương rồng
“chẳng nói, chẳng rằng lão
luộc chấm muối. Nó khó nuốt chẳng khác
trút cơn giận như lửa cháy
nào nồi cháo cám của bà cụ Tứ vào buổi
bằng cách dùng chiếc thắt
đói, mà chính nhà văn đã từng chia sẻ
lưng quật tới tấp vào lưng
rằng đó là thứ thức ăn không sao nuốt
người đàn bà, lão vừa
nổi, cứ thế mà nôn ra. Cảnh sống cơ cực,
đánh vừa thở hồng hộc,
đói no tuỳ bữa ấy không chỉ là hoàn cảnh
hai hàm răng nghiến ken
của riêng vợ chồng người đàn bà hàng
két, cứ mỗi nhát quất
chài mà nó như hằng số chung của hàng
xuống lão lại nguyền rủa
ngàn, hàng vạn người dân sống bám biển
bằng cái giọng rên rỉ đau
khác ngoài kia:
đớn: Mày chết đi cho ông
nhờ. Chúng mày chết hết “Chồng chài khổ lắm em ơi
đi cho ông nhờ!”
Lấy anh dấm bống nghỉ ngơi thanh nhàn
- Bạo hành về tinh thần:
Lấy anh thì được nghỉ ngơi
Người đàn bà hàng chài
luôn nơm nớp lo sợ con cái Những ngày động biển treo nồi treo
bị tổn thương. Bởi vậy khi gang.”
bị người chồng bạo hành: Hoá ra cuộc sống của những ngư dân
+ Chị đã xin lão ta đưa lên trên biển không màu hồng, lãng mạn như
bờ mà đánh: “Sau này con nhiều người thường nghĩ. Nó tăm tối, mịt
cái lớn lên, tôi mới xin mù chẳng biết ngày mai sẽ ra sao khi
được với lão… đưa tôi lên trong họ vẫn đau đáu nỗi lo cơm áo, gạo
bờ mà đánh…”. tiền. Giờ ta mới thấy, nghèo đói chính là
nguồn cơn cho tất cả những bất hạnh ở
+ Chị vừa đi vừa ngoái
đời mà người nghèo không biết phải làm
nhìn lại chỗ thuyền đậu
sao cho mình đỡ bất hạnh. Và có lẽ ấn
như sợ những đứa con
tượng lớn nhất của nỗi bất hạnh của
trông thấy: “Người đàn bà
người đàn bà hàng chài là những trận

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 64



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

đứng lại, ngước mắt nhìn đòn thù của người chồng vũ phu như
ra ngoài phá nước chỗ thành lệ, thành thói quen: “ba ngày một
thuyền đậu một thoáng”. trận nhẹ, năm ngày một trận nặng.” Hễ
thấy khổ, lão chồng sẽ lôi chị ra đánh
+ Khi đứa con nhìn thấy
chẳng khác nào cách người ta hành hạ kẻ
cảnh bạo lực ấy, chị cảm
thù hay đánh một con thú vật không chịu
thấy đau đớn, xấu hổ và
nghe lời: “Lão rút trong người ra một
nhục nhã. Chứng kiến
chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa”,
cảnh thằng Phác đánh bố,
“chẳng nói, chẳng rằng lão trút cơn giận
người đàn bà khốn khổ ấy
như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt
vừa khóc, vừa phải chắp
lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà,
tay vái lấy, vái để đứa con
lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm
để nó đừng phạm phải một
răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất
tội ác tày trời, trái với luân
xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng
thường đạo lí: “- Phác, con
rên rỉ đau đớn: Mày chết đi cho ông nhờ.
ơi! Miệng méo máo gọi,
Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!” Thế
người đàn bà ngồi xệp
đấy, khi một người đàn ông bất lực trước
xuống trước mặt thằng bé,
thời cuộc, gã ta bỗng trở nên cộc cằn, hoá
ôm chầm lấy nó rồi lại
thú, điên cuồng chửi rủa như thế người
buông ra, chắp tay vái lấy
ta ép mình phải mang hai chữ “người
vái để, rồi lại ôm chầm
chồng”, “người cha”. Y không chỉ in hẳn
lấy.”
lên vợ mình những cơn đau đớn về thể
ð Mặc dù sống trong hoàn xác mà còn khiến tinh thần người vợ lúc
cảnh đói nghèo, bị bạo lực nào cũng nơm nớp lo sợ con cái bị tổn
tàn nhẫn nhưng người đàn thương. Bởi vậy mỗi khi bị gã chồng bạo
bà hàng chài “không hề hành chị đã xin hắn đưa mình lên bờ mà
kêu một tiếng, không đánh: “Sau này con cái lớn lên, tôi mới
trống trả cũng không tìm xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà
cách chạy trốn”. Chị dường đánh…”, chị vừa đi vừa vừa ngoái nhìn lại
như đã chấp nhận sống phía thuyền đậu như sợ những đứa con
chung với bi kịch mà trông thấy: “Người đàn bà đứng lại,
chẳng cách nào có thể gạt ngước mắt nhìn ra ngoài phá nước chỗ
bỏ đi được. Tái hiện bi kịch thuyền đậu một thoáng”. Và rồi khi đứa
của người đàn bà khốn con nhìn thấy hành động tàn bạo mà
khổ ấy, Nguyễn Minh Châu người chồng đang thực hiện, chị cảm
đã cho độc giả thấy biết thấy đau đớn, xấu hổ và nhục nhã. Chứng

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 65



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

bao âu lo, suy nghĩ của kiến cảnh thằng Phác đánh bố, người đàn
mình trước những biến bà hàng chài vừa khóc, vừa chắp tay vái
chuyển của thời cuộc: cuộc lấy, vái để đứa con để nó đừng phạm phải
chiến chống lại đói nghèo một tội ác tày trời, trái với luân thường
tăm tối có lẽ còn nhiều vất đạo lí: “Phác, con ơi! Miệng mếu máo gọi,
vả, gian nan. Dân tộc ta người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt
phải làm gì đây trước công thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông
cuộc chiến đấu cho quyền ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại buông
sống cho từng con người? ra”. Mặc dù sống trong hoàn cảnh đói
nghèo, bị bạo lực tàn nhẫn nhưng chị

“không hề kêu một tiếng, không chống
trả cũng không tìm cách chạy trốn”. Tái
hiện số phận bi kịch của người đàn bà
khốn khổ ấy, Nguyễn Minh Châu đã thể
hiện biết bao âu lo, suy nghĩ của mình
trước những biến chuyển của thời cuộc:
cuộc chiến chống lại đói nghèo tăm tối có
lẽ còn nhiều vất vả, gian nan. Dân tộc ta
phải làm gì đây trước công cuộc chiến
đấu cho quyền sống cho từng con người?

Mở rộng:
3. Phẩm chất - tính cách
Mặc dù số phận, cuộc sống của người
3.1 Là một người vợ: chị phụ nữ là một đề tài vô cùng quen
hiểu và thương chồng thuộc trong văn học Việt Nam, thậm
3.1.1 Thấu hiểu là cội chí đã từng đem lại thành tựu lớn cho
nguồn của yêu thương nhiều tác phẩm văn học thời trung đại,
cũng như văn học hiện đại trước năm
Chị hiểu lí do vì sao người 1975, nhưng chưa bao giờ, nó được
con trai “cục tính nhưng quan tâm thể hiện một cách phong
hiền lành” lại trở thành phú như trong văn chương đương đại.
một kẻ vũ phu, thô bạo. Không chỉ là sự đồng cảm, xót thương
- Nhà đông con, không gian của các nhà văn với những kiếp người
ở tù túng, chật hẹp: bé nhỏ, tội nghiệp trong xã hội, văn
chương đương đại đã phản ánh cuộc
sống của người phụ nữ trong tính toàn

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 66



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

+ “nhà nào cũng trên chục vẹn, chân thực, đa dạng sắc thái thẩm
đứa.” mỹ bao gồm cả cái đẹp và cái xấu, hạnh
+ “giá tôi đẻ ít đi hoặc phúc và khổ đau; và tâm hồn họ cũng
chúng tôi sắm được một phức tạp với cả mặt cao thượng và
chiếc thuyền rộng hơn.” thấp hèn, cả sự tự tin, chủ động, mạnh
mẽ lẫn yếu đuối, trì trệ, lệ thuộc, và đặc
+ “nhưng cái lỗi chính là biệt là tinh thần phản tư - tự đối diện
đám đàn bà ở thuyền đẻ và đấu tranh với chính mình. Có những
nhiều quá, mà thuyền lại người phụ nữ là nạn nhân của hoàn
chật.” cảnh, của chiến tranh với một số phận
- Công cuộc mưu sinh vất bi kịch như Thuỳ Châu trong “Vũ điệu
vả, nhọc nhằn trên biển địa ngục” của Võ Thị Hảo, các nhân vật
cùng cái đói, cái nghèo cứ nữ trong Nhiệt đới gió mùa của Lê
bám lấy không buông: Minh Khuê. Trước sự khắc nghiệt của
hoàn cảnh, với những phẩm chất
+ “từ ngày cách mạng về truyền thống như nhẫn nại, hy sinh,
đã đỡ đói khổ chứ trước chung thuỷ, có những nhân vật đã trở
kia vào các vụ bắc, ông trời thành trung tâm của thế giới, trở
làm động biển suốt hàng thành biểu tượng cho cái Đẹp, cái
tháng, cả nhà vợ chồng con Thiện cuối cùng còn sót lại của thế
cái toàn ăn xương rồng gian, là điểm tựa để con người còn giữ
luộc chấm muối…” được niềm tin, sự lạc quan trước sự
+ “cũng nghèo khổ, túng tha hoá khôn lường của tính cách như
quẫn đi vì trốn đi lính.” ở “Trăng nơi đáy giếng” của Trần Thuỳ
Mai.
ð Chị hiểu rằng cuộc sống
khắc nghiệt này đã làm Nếu bạn đọc từng yêu những nhân vật nữ
chồng chị áp lực, mệt mỏi trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu thì
nhiều lắm và chị cũng hiểu sẽ thấy không ở đâu thiên tính nữ lại
rằng lão đánh vợ không được thăng hoa tuyệt vời như ở người
phải vì thù ghét hay cay đàn bà khốn khổ này. Thiền sư Thích
nghiệt, lão đánh vợ chỉ Nhất Hạnh đã từng chiêm nghiệm: “Thấu
như người khác uống hiểu nỗi đau của người khác là món quà
rượu cho nguôi quên nỗi to lớn nhất mà bạn có thể trao đi cho họ.
khổ của đời mình. Điều lớn Thấu hiểu là tên gọi khác của yêu
lao nhất chị làm được cho thương. Nếu bạn không thể thấu hiểu thì
chồng chính là hiểu con bạn chẳng thể yêu thương.” Chính vì thế

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 67



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

người anh ta để cảm chị vô cùng hiểu chồng để có thể yêu


thông, để xót thương, để thương gã ta bằng tất cả tấm lòng.
mà không uất hận.
Dù bị chồng đánh đập, hành hạ dã man
nhưng với người đàn bà hàng chài, gã
không phải người đàn ông xấu tính hay

tệ bạc. Đối với chị, người chồng ấy còn
như một ân nhân vì chính anh năm xưa
đã dang tay cứu vớt cuộc đời chị, cho chị
một mái ấm, một gia đình trọn vẹn mà
không hề chê bai chị xấu xí như bao
nhiêu người khác đã từng miệt thị. Nhờ
anh ta mà chị được làm mẹ - một thiên
chức thiêng liêng nhất của người phụ nữ.
Bởi cái ơn to lớn ấy, chị không nỡ trách
giận chồng nửa lời, mà trái lại trong lời
nói còn mang ý hàm ơn sâu sắc. Tình
nghĩa vợ chồng song hành cùng cái ơn
nghĩa sâu nặng ấy khiến chị chấp nhận
mọi sự xấu xa từ gã chồng mà không hề
phản kháng. Khi trước, trong sáng tác
của nhà văn Nam Cao, câu chuyện của Từ
cũng đáng thương và hao hao giống
mảnh đời cơ cực của người đàn bà hàng
chài: “Giữa lúc ấy thì Hộ mở rộng đôi

cánh tay, đón lấy Từ. Hộ nuôi Từ, nuôi mẹ
già, con dại cho Từ. Hộ nhận làm bố cho
đứa con thơ. Vì muốn yên ủi Từ và cứu

lấy danh dự của Từ, Hộ đã chính thức
nhận Từ làm vợ. Rồi Hộ đứng ra làm ma
cho bà mẹ Từ, khi bà cụ mất. Biết bao
nhiêu là ân nghĩa! Từ có yêu Hộ đến đâu,
có chịu khó đến đâu, có làm nô lệ cho Hộ
suốt đời Từ nữa, thì cũng chưa đủ để đền
ơn. Bởi thế, nên luôn mấy năm trời, Hộ
thấy Từ là một người vợ rất ngoan, rất
phục tùng, rất tận tâm.” Ai nhìn vào cũng

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 68



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

đều cảm thấy lão chồng chị thật tệ, rằng


lão ta tàn ác như một con thú dữ và

người đàn bà kia có đôi lúc như con mồi
nhỏ bị cắn xé quá chừng. Chị nên bỏ
quách lão đi, phải, bỏ cho lão sống đơn
độc một mình để hắn biết thế nào là khổ.
Nhưng với chị, đó là điều không thể. Chị
yêu cũng như mang ơn hắn ta ngay cả khi
chị bị hắn đánh đập tưởng như có thể
chết bất cứ khi nào bởi lẽ cái ơn của lão
với chị còn lớn hơn cả nỗi đau mà hắn
mang lại. Và chị cũng hiểu được lí do vì
sao người con trai “cục tính nhưng hiền
lành” lại trở thành một kẻ vũ phu, thô
bạo. Trước hết là do nhà đông con “nhà
nào cũng trên dưới chục đứa”, không
gian ở tù túng, chật hẹp. Người vợ đáng
thương ấy đã vơ tất thảy mọi cùng cực về
phía mình: “giá mà tôi đẻ ít đi hoặc chúng
tôi sắm được một chiếc thuyền rộng
hơn” hay “nhưng cái lỗi chính là đám đàn

bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại
chật”, chị nghĩ rằng chính mình là nguồn
cơn cho những trận đánh đập tàn bạo từ

chồng, nếu như không có chị gã đàn ông
ấy đã không méo mó, tệ bạc như thế. Chị
là nỗi khổ của chồng, là nỗi vất vả mà lão
phải chịu đựng. Không chỉ vậy, chị còn
hiểu rằng công cuộc mưu sinh vất vả
nhọc nhằn trên biển cùng cái đói, cái
nghèo cứ bám víu không buông chính là
một phần nguyên do khiến người chồng
ngày càng “thú tính”: “từ ngày cách mạng
về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ
bắc, ông trời làm động biển suốt hàng
tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 69



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

xương rồng luộc chấm muối…” hay “cũng


nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn đi lính.”

Chị hiểu rằng cuộc sống khắc nghiệt này
đã làm chồng chị áp lực, mệt mỏi nhiều
lắm và chị cũng hiểu rằng lão đánh vợ
không phải vì thù ghét hay cay nghiệt, lão
đánh vợ chỉ như người khác uống rượu
cho nguôi quên nỗi khổ của đời mình.
Điều lớn lao nhất chị làm được cho chồng
chính là hiểu con người anh ta để cảm
thông, để xót thương, để mà không uất
hận.

Không chỉ vậy, người phụ nữ khốn khổ
ấy còn nhân hậu và giàu đức hy sinh. Ai
3.1.2 Nhân hậu và giàu nhìn vào cũng đều cảm thấy lão chồng
đức hy sinh chị thật tệ, rằng lão ta tàn ác như một con
thú dữ và người đàn bà kia có đôi lúc như
Chị cam chịu trước những con mồi nhỏ bị cắn xé quá chừng. Chị nên
trận đòn roi của người bỏ quách lão đi, phải, bỏ cho lão sống đơn
chồng không phải là vì nhu độc một mình để hắn biết thế nào là khổ.
nhược mà nó như là cách Nhưng với chị, đó là điều không thể. Chị
để giúp người đàn ông cam chịu trước những trận đòn roi của
khốn khổ ấy được giải toả, người chồng không phải là vì nhu nhược
dịu bớt những áp lực cuộc mà nó như là cách để giúp người đàn ông
sống. Bởi vậy chị “cam khốn khổ ấy được giải toả, dịu bớt những
chịu đầy nhẫn nhục, không áp lực cuộc sống. Bởi vậy chị “cam chịu
hề kêu một tiếng, không đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng,
chống trả, cũng không tìm không chống trả, cũng không tìm cách
cách chạy trốn.” chạy trốn.” Đó chính là cách xử sự của
ð Người đàn bà hàng chài người phụ nữ vị tha, nhân hậu, giàu đức
hiểu rõ bổn phận, nghĩa vụ hy sinh tới kì lạ. Suy cho cùng, chị hiểu rõ
của mình dù đó có là bổn bổn phận và nghĩa vụ của mình dù đó có
phận, nghĩa vụ phi lí, phi là bộn phận, nghĩa vụ phi lí, phi nhân tính
nhân tính đi chăng nữa. đi chăng nữa.

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 70



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

Người vợ đáng thương ấy đã vơ tất thảy


mọi cùng cực về phía mình, chị nghĩ rằng

chính mình là nguồn cơn cho những trận
đánh đập tàn bạo từ chồng, nếu như
không có chị gã đàn ông ấy đã không méo
mó, tệ bạc như thế. Chị là nỗi khổ của
chồng, là nỗi vất vả mà lão phải chịu
đựng. Cứ thế, trong suốt buổi trò chuyện
với Phùng và Đẩu, thứ duy nhất chị nhìn
vào chính là những điểm tốt của chồng,
chị nhắc lại những lúc cả nhà vui vẻ, đầm
ấm và các con được ăn no. Nhìn chị ta chỉ
thấy dáng vẻ tiều tụy, héo mòn dần đi vì
khốn khổ. Yêu con, thương chồng là thế,
tự thân chị như hóa thân thành một
người đàn bà đi nhặt nhạnh hạnh phúc
từ lâu đã vỡ vụn, mà từng hạt rơi xuống
đều để lại vết cắt thật sâu trong lòng. Với
cái hy vọng mong manh về mai sau
“gương vỡ lại lành”, chị cứ mải miết gom
nhặt kí ức để ghép thành bức tranh trọn

vẹn, đong đủ sắc màu. Đời người đàn bà,
biết tới bao giờ mới có ngày thảnh thơi?
3.2 Là một người mẹ: chị Từng quan niệm: “Văn học và đời sống là
yêu thương và hy sinh hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là
tất cả vì con con người”, Nguyễn Minh Châu sau năm
1975 luôn hướng ngòi bút của mình vào
3.2.1 Tình yêu con là sức
việc khám phá và kiếm tìm “những hạt
mạnh phi thường để chị
chịu đựng những đày ải ngọc ẩn giấu bên trong tâm hồn con
người”. Phải chăng vì thế người đàn bà
của số phận và sống cho
hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc
con
thuyền ngoài xa” chính là hình tượng
- Chị có thiên chức là sống nhân vật mà Nguyễn Minh Châu luôn
cho con chứ không phải nhọc nhằn muốn khắc hoạ: vừa tầm
sống cho mình: thường lại vừa phi thường, vừa thấp hèn
lại vừa cao cả. Chị hiện lên với tất cả

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 71



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

+ “Ông trời sinh ra người chuẩn mực của một người phụ nữ Việt
đàn bà là để đẻ con, rồi Nam nói chung và một người phụ nữ
nuôi con cho đến khi khôn vùng biển nói riêng: Không những hiểu
lớn…” chồng mà chị còn yêu thương và hy sinh
tất cả vì con, chính tình mẫu tử thiêng
+ “Đàn bà trên thuyền
liêng ấy là sức mạnh phi thường để chị
chúng tôi phải sống cho
chịu đựng những đày ải của số phận.
con chứ không thể sống
cho mình như ở trên đất “Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn”, với
liền được!” bản năng của một người mẹ, chị ý thức
- Chị không muốn những sâu sắc về thiên chức của mình: “ông trời
đứa trẻ thơ ngây phải sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi
chứng kiến cảnh bạo lực nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên
tàn khốc: phải gánh lấy cái khổ”. Với chị, “gánh lấy
cái khổ” vì đàn con ngây dại là lẽ đương
+ Chị xin chồng đưa chị lên nhiên, việc chịu vất vả “thức trắng đêm
bờ mà đánh như một thỏa kéo lưới” hay chấp nhận sống cùng người
thuận: “Sau này con cái lớn chồng vũ phu, đánh đạp chị như cơm
lên, tôi mới xin được với bữa: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày
lão… đưa tôi lên bờ mà một trận nặng” cũng là điều tất yếu phải
đánh…” chấp nhận. Người đàn bà ý thức được sự
+ Chứng kiến phản ứng dữ nguy hiểm của cuộc sống lênh đênh trên
dội của Phác, chị lo sợ một biển, những đứa trẻ luôn cần sự che chở,
ngày nào đó nó có thể làm bảo vệ của người mẹ, đó cũng là nguyên
ra những điều dại dột với nhân khiến chị cho rằng: “Đàn bà trên
người chồng nên chị đành thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ
gửi nó – đứa con mà chị không thể sống cho mình như trên đất
yêu thương nhất lên rừng liền được.” Nhìn người đàn bà ấy lam lũ
sống với ông ngoại. ấy ta thấy một người phụ nữ quê mùa,
thất học. Dẫu là đúng thế thật, nhưng chị
ð Tình yêu con sâu sắc lại thấu hiểu lẽ đời sâu sắc. Chị có thể làm
cho chị nghị lực và sự kiên tất cả vì con, chịu đói cũng được, chịu đau
cường để chịu đựng cũng được nhưng tuyệt đối chị không
những trận đòn của chồng, muốn những thứ dơ bẩn làm vẩn đục tâm
để giữ lại người đàn ông hồn đàn con ngây dại của mình khi chứng
chèo chống cho con kiến cảnh bạo lực tàn khốc. Chị xin chồng
thuyền lênh đênh giữa đưa mình lên bờ mà đánh như một thoả

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 72



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

biển, giữ lại bố cho những thuận: “Sau này con cái lớn lên, tôi mới
đứa con. xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà
đánh…”. Khi chứng kiến phản ứng dữ dội

của Phác, chị “sợ thằng bé có thể làm điều
gì dại dột với bố nó” nên chị phải cắn
răng chịu đựng gửi thằng con chị yêu
thương nhất lên rừng sống với ông ngoại.
Tình yêu con sâu sắc cho chị nghị lực và
sự kiên cường đề chịu đựng những trận
đòn roi thành nếp, thành lệ, thành thói
quen của người chồng; để giữ lại người
đàn ông chèo chống cho con thuyền lênh
đênh giữa biển và đặc biệt là để giữ lại bố
cho những đứa con.
Nam Cao đã từng nói đại ý rằng: Nước
3.2.2 Tình yêu con là mắt là giọt châu của loài người, là tấm
nguyên nhân cho nỗi đau kính biến hình vũ trụ để cho nhân vật giải
đớn tột cùng ở tinh thần toả nỗi đau, sự bi phẫn đến cùng cực. Và
người mẹ xuyên suốt toàn bộ thiên truyện “Chiếc
thuyền ngoài xa”, người đàn bà hàng chài
Xuyên suốt thiên truyện, chỉ nhỏ lệ vì những đứa con của mình.
người đàn bà hàng chài ấy Tình yêu con đã đem đến cho chị sức
chỉ nhỏ lệ vì những đứa mạnh phi thường để chống lại sự nghiệt
con của mình. ngã của số phận song nó còn là nguyên
- Khi bị chồng đánh đập nhân cho nỗi đau đớn tột cùng ở tinh
tàn nhẫn, chị đã lặng lẽ thần người đàn bà hàng chài.
chịu đựng như một người Khi bị gã chồng đánh đập tàn nhẫn, chị đã
câm, vậy mà khi thằng lặng lẽ chịu đựng như một người câm,
Phác lao đến đánh bố để vậy mà khi thằng Phác lao đến đánh bố
cứu mẹ, nỗi đau khổ như để cứu mẹ, nỗi đau khổ bị dồn nén giờ
bị dồn nén giờ bung ra: chị bung ra: chị mếu máo gọi tên con, “ngồi
mếu máo gọi con, ngồi xệp xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm
xuống trước mặt thằng bé, lấy nó rồi lại buông ra, chấp tay vái lấy
ôm chầm lấy rồi lại buông vái để rồi lại ôm chầm lấy…” Chị đau đớn
vì chẳng thể giữ cho tuổi thơ của các con

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 73



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

ra, chắp tay vái lấy vái để, mình được trong sáng, và lại càng đau
rồi lại ôm chầm lấy… đớn gấp bội khi bất lực chứng kiến phần
“Con” của đứa con mình yêu quý nhất
- Chị đau đớn là bởi chẳng
đang dần lấn át phần “Người”. Trong
thể giữ cho tuổi thơ của
đám con dại mà chị đèo bòng, chị thương
các con mình được trong
thằng Phác nhất bởi nó là đứa giống bố
sáng, và lại càng đau đớn
nhất. Vì thương nó, chị thắt ruột thắt gan
gấp bội khi bất lực chứng
gửi con lên núi ở cùng ông ngoại, tránh
kiến phần “Con” của đứa
nó ra khỏi những tháng ngày tăm tối nơi
con mình yêu quý nhất
miền biển. Nhưng cái sự éo le đâu dừng
đang dần lấn át phần
ở đó, những lần chị bị đánh đập thì thằng
“Người”.
bé lại lao vụt tới như một mũi tên nhắm
thẳng vào bố nó, chính nó cũng bừng
bừng lửa giận đánh trả lại bố không
thương tiếc. Bản thân chị làm mẹ khi
chứng kiến cảnh ấy dẫu có là sắt đá cũng
cảm thấy đau lòng. Chị đã làm tất cả để
có thể bảo vệ tuổi thơ con nhưng đó là
điều không thể. Tình thương con đã
khiến người đàn bà hàng chài vừa đau
đớn, vừa nhục nhã và vô cùng xấu hổ. Tất
cả xuất phát từ việc chị chẳng thể che
chắn nổi cho tuổi thơ của các con được
trong sáng, để chúng phải lớn lên trong
sự vụn vỡ niềm tin khi chứng kiến cảnh
bạo lực gia đình tăm tối.
Trong “Vũ Trụ thơ, Đặng Tiến từng
chiêm nghiệm: “Nghệ thuật tạo ra vẻ đẹp

cho những dòng nước mắt và biến nỗi
3.2.3 Chị chắt chiu niềm thống khổ của nhân loại thành tiếng hát
vui bé nhỏ hiếm hoi vô biên” Ấy chính là sứ mệnh chân chính
của nghệ thuật. Trong lao khổ, trong đau
- Lần đầu tiên trên khuôn
đớn cùng quẫn, người nghệ sĩ vẫn phải
mặt xấu xí, khắc khổ của
khai khoáng những vẻ đẹp bị khuất lấp
chị ánh lên nụ cười là khi
đồng thời trao cho những kẻ yếu thế đôi
nhắc đến cảnh gia đình
cánh thiên di để vượt thoát khỏi vũng lầy

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 74



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

hoà thuận, vui vẻ: “Lần đầu khổ cực. Đọc những trang văn viết về
tiên trên khuôn mặt xấu xí người đàn bà hàng chài, ta thấy Nguyễn
của mụ chợt ửng sáng lên Minh Châu vẫn trao cho người đàn bà
một nụ cười – vả lại ở trên khốn khổ ấy một sức mạnh phi thường
chiếc thuyền cũng có lúc để chống cự lại thế giới độc những nỗi
vợ chồng con cái chúng tôi đau về thể xác và tinh thần. Đó chính là
sống hòa thuận, vui vẻ…” những niềm vui được chắt chiu từ dăm
Đó là ánh sáng kì diệu ba điều nhỏ bé, vụn vặt.
được toả ra từ tình mẫu tử
Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí, khắc
thiêng liêng.
khổ của người đàn bà hàng chài ánh lên
- Chị có thể chịu đau đớn nụ cười là khi nhắc đến cảnh gia đình hoà
từ đòn roi nhưng lại chẳng thuận, vui vẻ: “Lần đầu tiên trên khuôn
thể chịu được cảnh đàn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một
con đói nheo nhóc. Bởi vậy nụ cười – vả lại ở trên thuyền cũng có lúc
khi được Phùng hỏi: “Cả vợ chồng con cái chúng tôi hoà thuận, vui
đời chị có một lúc nào thật vẻ…” – đó là ánh sáng kì diệu được toả ra
vui không?”, chị không từ tình mẫu tử thiêng liêng. Chị có thể
chần chừ như lúc mới đến chịu đau đớn từ đòn roi nhưng lại chẳng
toà án huyện mà liền đáp: thể chịu được cảnh đàn con đói nheo
“Có chứ chú! Vui nhất là nhóc. Bởi vậy khi được Phùng hỏi: “Cả
lúc ngồi nhìn đàn con tôi đời chị có một lúc nào thật vui không?”,
chúng nó được ăn no”. chị không chần chừ như lúc mới đến toà
án huyện nữa mà liền đáp: “Có chứ chú!
ð Trong khổ đau triền
Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng
miên không dứt, người
nó được ăn no”. Ta lại nhớ tới mẹ Lê
đàn bà ấy vẫn chắt chiu
trong trang sách của nhà văn trữ tình
những giây phút hiếm hoi,
Thạch Lam, một người mẹ nghèo đã chịu
biến nó thành động lực
bao nhiêu sỉ vả, lăng mạ, đau đớn vì
sống và duy trì gia đình
mong cho đám con thơ nheo nhóc tới
của mình.
mười một đứa được no bụng. Cuối cùng,
bác Lê chết vì bị chó cắn trong lúc đi vay
gạo, bỏ lại đám con thơ không nơi nương
tựa. Những người mẹ ấy thật đáng
thương biết nhường nào! Họ sẵn sàng xả
thân mình vì con, coi con cái như sinh
mệnh của chính mình. Nhắc tới các con,

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 75



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

ta luôn bắt gặp ánh mắt lấp lánh, sắc mặt


như ngời sáng lên của những người mẹ,

cảm tưởng như rằng những đứa trẻ ấy
vẫn còn rất thơ dại, thơ dại để các mẹ che
chở, để mẹ ủ ấp trong lòng. Để có sự tồn
tại của các con trên đời, người mẹ đã
phải hy sinh vóc dáng, đánh đổi tuổi
thanh xuân cùng cả nét đẹp xanh tươi
rực rỡ. Ngay cả những khát vọng của
mình, mẹ cũng chỉ thu cho bé lại, vừa
bằng sự lớn lên bình yên của con, bằng
những bữa con được ăn no, những ngày
đông được mặc ấm. Trong khổ đau triền
miên không dứt, người đàn bà hàng chài
vẫn chắt chiu những giây phút hiếm hoi,
biến nó thành động lực sống và duy trì
gia đình của mình. Ấy chính là sự cao cả,
vĩ đại của người mẹ, bởi vậy đại văn hào
Nga Macxim Gorki đã từng có bốn câu
thơ tuyệt hay:
“Trời không ánh sáng hoa nào nở
Dạ vắng yêu thương dạ những sầu
Đời không mẹ hiền, không phụ nữ
Anh hùng, thi sĩ hỏi còn đâu.”
Giáo sư Phong Lê đã từng xác quyết:
“Trong truyện của anh, mọi cái đã vỡ ra

tạo nên những khoảng trống, phải nghi
3.3 Là người phụ nữ: chị ngờ, phải nghĩ.” Ngòi bút của Nguyễn
giàu trải nghiệm và sắc Minh Châu đã cơ hồ tỏ hết vẻ đẹp thiên
sảo lẽ đời phú của nó khi chuyển tải được cái muôn
vàn phức tạp của thanh âm cuộc sống
3.3.1 Giàu trải nghiệm
vào từng trang viết. Bởi vậy người đàn bà
hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 76



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

Chị giúp Phùng và Đẩu thuyền ngoài xa” hiện lên là người phụ
hiểu ra những nghiệt ngã nữ giàu trải nghiệm và sắc sảo lẽ đời.
của cuộc đời:
Trước hết, chị là người phụ nữ giàu trải
- Chị đã chỉ rõ sự thiếu nghiệm, từ những gì chị kể lại đã giúp
thực tế của Phùng và Đẩu: Phùng và Đẩu hiểu ra những nghiệt ngã
“Chị cảm ơn các chú!... Đây của cuộc đời. Mặc dù cả hai là những
là chị nói thành thực, chị người lính từng vào sinh ra tử trên chiến
cảm ơn các chú. Lòng các trường hay những bậc trí sĩ thời bình
chú tốt, nhưng các chú đâu nhưng lăng kính của họ còn quá nón trẻ,
có phải là người làm ăn… chẳng thể thể thu phóng toàn bộ sự biến
đâu có hiểu được cái việc thiên diễn ra ở đời. Chị đã chỉ rõ sự thiếu
của người làm ăn lam lũ, thực tế của Phùng và Đẩu: “Chị cảm ơn
khó nhọc…” các chú!... Đây là chị nói thành thực, chị
cảm ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng
- Chị cho Phùng và Đẩu
các chú đâu có phải là người làm ăn… đâu
thấy được sự khó khăn
có hiểu được cái việc của người làm ăn
gấp bội của những người
lam lũ, khó nhọc…” Người đàn bà hàng
đàn bà có cuộc sống bấp
chài từ thế bị động chuyển sang chủ
bênh trên biển: “Các chú
động, từ khúm núm sợ sệt bỗng ngẩng
không phải là đàn bà, chưa
lên nhìn thẳng vào Phùng và Đẩu khiến
bao giờ các chú biết như
họ không khỏi ngạc nhiên. Đồng thời, chị
thế nào là nỗi vất vả của
còn cho cả hai người thấy được sự khó
người đàn bà trên một
khăn gấp bội của những người đàn bà
chiếc thuyền không có đàn
trong cuộc mưu sinh bấp bênh và luôn
ông…”
tiêmf ẩn những đe doạ bất ngờ trên biển:
- Chị giúp Phùng và Đẩu “Các chú không phải là đàn bà, chưa bao
hiểu được rằng sự sống giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả
giờ đây còn quan trọng của người đàn bà trên một chiếc thuyền
hơn cả những mưu cầu không có đàn ông…”. Bên cạnh đó, người
tưởng chừng rất giản đơn: đàn bà hàng chài đã giúp Phùng và Đẩu
“Mong các chú cách mạng hiểu được rằng sự sống giờ đây còn quan
thông cảm cho, đám đàn trọng hơn cả những mưu cầu tưởng
bà hàng chài chúng tôi cần chừng rất giản đơn: “Mong các chú cách
có những người đàn ông mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng
để chèo chống khi phong chài chúng tôi cần có những người đàn
ba, để cùng làm ăn nuôi ông để chèo chống khi phong ba, để cùng

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 77



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

nấng đặng một sắp con làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà
nhà nào cũng trên dưới nào cũng trên dưới chục đứa.” Không chỉ
chục đứa.” vậy, chị còn chỉ ra tình trạng luẩn quẩn,
bế tắc trong cuộc sống của ngư dân dẫu
- Chị chỉ ra tình trạng luẩn
có nhiều chính sách nhân đạo, tốt đẹp
quẩn, bế tắc trong cuộc
của Nhà nước thì nó vẫn bất cập với thực
sống của ngư dân dẫu có
tế cuộc sống: “Làm nhà trên đất ở một
nhiều chính sách nhân đạo
chỗ đâu có thể làm được cái thuyền lưới
tốt đẹp của Nhà nước:
vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã
“Làm nhà trên đất ở một
cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không
chỗ đâu có thể làm được
bỏ nghề được!”
cái thuyền lưới vó? Từ
ngày cách mạng về, cách Đứng trước lời kết tội đanh thép của Đẩu
mạng đã cấp đất cho ở toà án huyện: “Ba ngày một trận nhẹ,
nhưng chẳng ai ở, vì không năm ngày một trận nặng. Cả nước này
bỏ nghề được!” không có một người chồng nào như hắn.
Tôi chưa hỏi tội của hắn mà chỉ muốn
3.3.2 Sắc sảo lẽ đời
bảo ngay với chị: Chị không sống nổi với
Đứng trước lời kết tội cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu! Chị nghĩ
đanh thép của Đẩu: “Ba thế nào?” người đàn bà hàng chài vẫn
ngày một trận nhẹ, năm nhất quyết không chịu bỏ người chồng
ngày một trận nặng. Cả vũ phu, bởi chị là người vô cùng sắc sảo
nước này không có một lẽ đời.
người chồng nào như hắn.
Cuộc sống bấp bênh, vô định trên biển
Tôi chưa hỏi tội của hắn
luôn chực chờ những mối nguy hiểm. Đối
mà chỉ muốn bảo ngay với
diện với hoàn cảnh khó khăn như thế, chị
chị: Chị không sống nổi với
hiểu rằng con người phải nương tựa vào
cái lão đàn ông vũ phu ấy
nhau mới có thể sinh tồn. Chính vì lẽ vậy,
đâu! Chị nghĩ thế nào?”
chị hiểu được tầm quan trọng của người
người đàn bà hàng chài
chồng trong công cuộc mưu sinh đầy vất
nhất quyết vẫn không chịu
vả này: “chưa bao giờ các chú biết như
bỏ người chồng vũ phu,
thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà
bởi chị là người vô cùng
trên một chiếc thuyền không có đàn
sắc sảo lẽ đời:
ông”, rồi chị lí giải: “đám đàn bà hàng
- Trong hoàn cảnh khó chài ở thuyền chúng tôi cần phải có
khăn, con người phải người đàn ông nuôi đặng một sắp con

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 78



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

nương tựa vào nhau để nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Rõ
sinh tồn. Chính vì lẽ vậy, ràng Phùng và Đẩu không phải người
chị hiểu được tầm quan đàn bà nên họ chẳng thể ngẫm ngợi tới
trọng của người chồng cảnh mười mấy đôi mắt con thơ trông
trong công cuộc mưu sinh ngóng một bữa no, chúng nó cần cả bố và
đầy vất vả: mẹ, cần có một tuổi thơ trọn vẹn như bao
đứa trẻ khác,… Đời người đàn bà có hy
+ “chưa bao giờ các chú
sinh, có đánh đổi như thế nào thì những
biết như thế nào là nỗi vất
người đàn ông chỉ thấy chứ đâu có thấu
vả của người đàn bà trên
hiểu? Cũng bởi không hiểu nên họ coi
một chiếc thuyền không có
mọi sự đều nhẹ bẫng, chị chỉ cần bỏ
đàn ông…”
chồng rồi cuộc đời sẽ khác. Nhưng họ
+ “đám đàn bà hàng chài ở đâu có biết ở người đàn bà khốn khổ ấy
thuyền chúng tôi cần phải luôn ý thức sâu sắc về thân phận và trách
có người đàn ông nuôi nhiệm của mình: “Ông trời sinh ra người
nấng đặng một sắp con đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi cho đến khi
nhà nào cũng trên dưới khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ.
chục đứa.” Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống
- Chị ý thức sâu sắc về thân cho con chứ không thể sống cho mình
phận và trách nhiệm: như ở trên đất được!” Chị hiểu rằng bất
kì cuộc hôn nhân đổ vỡ nào thì người
+ Chị hiểu thiên chức làm chịu tổn thương nhiều nhất là các con.
mẹ của mình:“Ông trời Bởi vậy trách nhiệm của chị chính là hàn
sinh ra người đàn bà là để gắn những vết rạn nứt của cuộc hôn
đẻ con, rồi nuôi cho đến nhân đang cơ hồ sụp đổ để đàn con thơ
khi khốn lớn cho nên phải dại kia được ăn no mặc ấm và đặc biệt
gánh lấy cái khổ. Đàn bà được sống trong một gia đình có trọn vẹn
trên thuyền chúng tôi phải cả cha và mẹ.
sống cho con chứ không
thể sống cho mình như ở Người đàn bà hàng chài tuy quê mùa,
trên đất được!” thất học nhưng lại chẳng hè vô minh. Chị
thấu hiểu vô vàn chân lí tồn tại ngay
+ Chị hiểu rằng bất kì cuộc trong nghịch lí khiến Phùng và Đẩu bỗng
hôn nhân đổ vỡ nào thì trở thành những người ngây thơ, nông
người chịu tổn thương nổi trước lẽ đời. Những lời kết tội đánh
nhiều nhất là các con. Bởi thép, những lời khuyên thiện chí, những
vậy trách nhiệm của chị giải pháp tưởng như là đúng đắn duy

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 79



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

chính là hàn gắn những vết nhất không cần bàn cãi của hai người đều
rạn nứt của cuộc hôn nhân lần lượt vấp phải những lí lẽ bình dị
này để đàn con thơ dại kia nhưng nghiệp ngã và chẳng thể thay đổi
được ăn no mặc ấm và đặc của hiện thực cuộc sống. Qua đó, chánh
biệt được sống trong một án Đẩu vỡ lẽ ra nhiều điều trong cách
gia đình có cả cha và mẹ. nhìn nhận cuộc sống còn nhiếp ảnh
Phùng lại hiểu thêm về mối quan hệ giữa
ð Người đàn bà hàng chài
nghệ thuật và cuộc đời. Cuộc đời còn
tuy quê mùa, thất học
nhiều góc khuất mà nghệ thuật chưa
nhưng lại chẳng hề vô
vươn tới, ẩn chứa nhiều ngang trái oái
minh. Chị thấu hiểu vô vàn
oăm mà khi đến gần mới có thể nhận
chân lí tồn tại ngay trong
được, chỉ có lòng tốt và kiến thức sách vở
nghịch lí khiến Phùng và
thì không thể giải quyết được vấn đề
Đẩu bỗng trở thành những
thực tế, mà phải có một cái nhìn sâu sắc
người ngây thơ, nông nổi
đa diện và nhiều chiều về một vấn đề
trước lẽ đời. Những lời kết
trong cuộc sống. Lại nhớ đến những vần
tội đanh thép, những lời
thơ mà Phan Hoàng viết trong “Hộp đen
khuyên thiện chí, những
báo bão”:
giải pháp tưởng như là
đúng đắn duy nhất không “những giấc mơ chênh vênh
cần bàn cãi của hai người
như con người vốn chênh vênh
đều lần lượt vấp phải
những lí lẽ bình dị nhưng giữa tương lai và quá khứ
nghiệt ngã và chẳng thể hòa bình và chiến tranh
thay đổi của hiện thực
cuộc sống. văn minh và hủy diệt.”
Cái chênh vênh giữa các đối cực đó là câu
chuyện thực của văn học sau 1975, của
thời đại ngày hôm nay. Con người bước
ra khỏi chiến tranh, hòa bình lập lại
nhưng liệu cuộc sống đã hạnh phúc hoàn
toàn? Nguyễn Minh Châu nói với chúng
ta câu chuyện về gia đình hàng chài đau
khổ, bất hạnh hậu chiến từ đó “khơi mở”
những nhận thức đúng đắn về sự vật
hiện tượng.

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 80



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

Thần thoại Hy Lạp kể lại câu chuyện về vị thần Promethues đã giúp đỡ


rất nhiều cho con người bằng cách ngụy trang giấu đồ ăn (phần ngon
nhất) được hiến tế cho Zeus dưới xương và ruột, là người đã ăn cắp ngọn
lửa từ thần Apollo để soi sáng xuống trần gian, sưởi ấm cõi u mê, tăm tối
của chúng ta. Vì hành động ấy, Promethues đã bị Zeus xiềng vào vách núi
cho chim ưng mổ ngực, ăn gan của ông ngày này qua ngày khác, nhưng
lá gan cứ ban ngày bị ăn thì ban đêm lại tái sinh. Chính vì sự kiêu hãnh,
không khuất phục trước Zeus mà Karl Marx đã viết bốn câu thơ nói lên
chí nguyện đời mình:
“Hãy nên biết đừng hòng ta nhận đổi
Kiếp nô tì để bớt nỗi đau thương
Thà cột vào vách đá cùm gông
Còn hơn sống làm tôi trung cho Zeus”
Và chính Karl Marx cũng từng viết rằng: “Chỉ có con vật mới quay đi
trước nỗi đau của đồng loại để liếm láp bộ lông của mình” Văn chương
muôn đời nay cũng vậy, nếu người nghệ sĩ không hướng ngòi bút về con
người thì anh ta chỉ đơn thuần là chiếc máy đánh chữ sinh học và chẳng
xứng đáng với hai chữ: “nhà văn”. Hiểu được chân lí nghệ thuật ấy, với
“Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu đã nói về hiện thực cuộc
sống và những nỗi đau khổ mà con người phải chịu đựng bằng tất cả sự
yêu thương, đồng cảm của người trong cuộc: “Nhà văn ấy đã hòa nhập
vào đồng loại, lấy những đầy vơi của lòng mình mà lắng nghe, cảm thấy
đầy vơi của đồng loại, neo giữ lòng tin yêu và cứu đỡ con người”. Cuộc
đời của nhà văn là một cuộc đời không bao giờ được phép ngừng lăn lộn
trong hiện thực cuộc sống để trang văn thực sự là trang đời bao chứa tất
cả thế thái nhân tình. Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã “khai sáng”
cho những nhận thức thông thường của con người về cuộc đời, đã giúp
ta biết trân trọng hơn sự sống ngày hôm bởi sau tất cả thì cái chân lí mà
các nhà văn luôn muốn hướng tới trong những tác phẩm của mình có lẽ
là:
“Hãy biết thương những gì đã cùng ta sống
Những gì trong năm tháng trôi qua...”

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 81



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄN TUÂN


PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT CỦA NGUYỄN TUÂN
Nguyễn Tuân là một trong số nhà văn đứng ở vị trí hàng đầu của văn
xuôi Việt Nam hiện đại. Sau năm mươi năm cầm bút với bản lĩnh sáng
tạo của một nghệ sĩ trung thực ông đã để lại cho hậu thế một di sản
văn chương quý báu in rõ bản sắc riêng: vừa gai góc, vừa tài hoa, có
sức hút khó cưỡng nổi đối với bất cứ ai đi tìm cái đẹp, cái thật. Văn giới
coi ông như “một thứ định nghĩa về văn chương”, là một tác gia lớn
của văn học Việt Nam hiện đại. Để có được thành công như vậy,
Nguyễn Tuân đã đấu tranh không mệt mỏi, kiên trì với chính mình để
bảo vệ niềm xác tín: coi nghệ thuật là cái đẹp, coi sáng tạo nghệ thuật
là cứu cánh, là lẽ sống. Săn tìm cái đẹp luôn là cuộc hành trình thấm
đượm nhọc nhằn và vất vả nhưng người lữ khách Nguyễn Tuân chưa
bao giờ bỏ cuộc. Có người nghệ sĩ nào mà không đi tìm cái đẹp, nhưng
có phải ai cũng nhận được tôn vinh là “người nghệ sĩ suốt đời đi tìm
cái đẹp” như cụ Nguyễn đâu?
Sáng tạo văn chương là một nghề nhưng là “nghề của bề sâu”, nó cũng
tựa việc đào giếng vậy, chỉ có đào sâu mới tìm ra mạch nước. Lao động
nghệ thuật chưa bao giờ dễ dàng: Thầm lặng. Chán nản. Đơn độc. Vất vả.
Giằng xé. Tất thảy điều ấy đã góp phần xây dựng những tác phẩm “vượt
qua mọi sự băng hoại” cũng như “không thừa nhận cái chết”. Để làm được
như vậy, người nghệ sĩ không được coi chữ chỉ đơn thuần là một kí hiệu
giao tiếp mà nó phải tựa như một sinh thể cựa quậy, là một thứ mặc khải
giúp anh ta bộc lộ quan niệm nhân sinh của mình. Được xướng danh “Bậc
thầy nghệ thuật ngôn từ”, Nguyễn Tuân có những đóng góp to lớn cho
nền văn học dân tộc. Và thật sự thiếu sót khi không nhắc tới tùy bút
“Người lái đò Sông Đà” – diện mạo mới của con người tài hoa ấy sau Cách
Mạng tháng Tám với tôn chỉ cổ kim mà văn học hướng tới: “Mục đích đầu
tiên và sau cùng của Nghệ thuật và Văn học là mang đến cái hay, cái đẹp
cho đời.” (Trịnh Công Sơn) đã giúp ta thấm đượm bút pháp tài hoa, độc
đáo, uyên bác mà cụ Nguyễn dày công gây dựng.
1. Giới thiệu tác giả, tác Nếu như những nhà văn đương thời đi
phẩm sâu vào cái nhiễu nhương, xô bồ của thời
cuộc thì Nguyễn Tuân với hành trình đi

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 82



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

1.1 Tác giả tìm cái đẹp tiềm ẩn, khơi lên cái đẹp
trong mạch ngầm văn hóa đất nước. Ông
- Vị trí:
muốn vượt lên những điều tầm thường,
+ Là tác gia lớn của nền nhỏ bé của thực tại và thoát khỏi chiếc
văn học Việt Nam hiện đại. gông cùm chật hẹp để “thay đổi thực đơn
+ Là bậc thầy của thể tuỳ cho mắt”. Cũng bởi lẽ vậy tùy bút “Người
bút lái đò sông Đà” là thành quả nghệ thuật
đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân thoát thai từ
- Phong cách sáng tác: chuyến đi tới miền bạt ngàn Tây Bắc vào
+ Chất tài hoa, uyên bác, năm 1960. Và có thể thấy, qua Sông Đà,
phóng khoáng. từ Sông Đà, cụ Nguyễn đã say về cuộc
sống mới. Con người ngông cuồng ấy
+ Là người nghệ sĩ suốt đời không còn là một lữ khách ham vui mà tự
đi tìm cái Đẹp nhận mình là một người tìm vàng, tìm
+ Thường khám phá thế “thứ vàng mười đã qua thử lửa”.
giới ở phương diện văn
hoá thẩm mĩ và miêu tả
con người ở vẻ đẹp tài hoa
nghệ sĩ.
1.2 Tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác: Tuỳ
bút “Người lái đò sông Đà”
sáng tác năm 1960 in
trong tập “Sông Đà”.
- Nội dụng: Thiên tuỳ bút
là thành quả nghệ thuật
đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân
thu hoạch được trong
chuyến đi gian khổ và hào
hứng tới miền Tây Bắc
rộng lớn, xa xôi. Không chỉ
để thoả mãn khao khát xê
dịch mà chủ yếu để tìm
kiếm chất riêng của thiên
nhiên cùng “thứ vàng

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 83



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

mười đã qua thử lửa” ở


tâm hôn những con người
lao động và chiến đấu trên
miền núi sông hùng vĩ, thơ
mộng đó.
2. Lời đề từ Ngay từ lời đề từ của tác phẩm, Nguyễn
Tuân như đóng đinh vào lòng độc giả
- “Đẹp vậy thay tiếng hát
những ấn tượng khó phai về một con
trên dòng sông”
sông đẹp đẽ song chẳng kém phần ngỗ
+ Tiếng hát của người chèo nghịch, bướng bỉnh:
đò: Lạc quan yêu đời, yêu
“Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”
thiên nhiên, yêu cuộc sống.
Và:
+ Tiếng hát của tác giả và
du khách: niềm say mê, “Chúng thủy giai đông tẩu
ngưỡng mộ.
Đà giang độc bắc lưu”
- “Chúng thuỷ giai đông
(Mọi dòng sông đều chảy về hướng đông
tẩu/ Đà giang độc Bắc lưu”
(Mọi dòng sông đều chảy Chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc)
hướng Đông, chỉ có sông Mượn lời thơ của Wladyslaw Broniewski
Đà chảy theo hướng Bắc): và Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Tuân đã
+ Sự ngược ngạo của dòng đưa ra được cảm hứng xuyên suốt toàn
sông. bài kí cũng như phong cách nghệ thuật
của mình: một gã ngông cuồng say mê
+ Cá tính độc đáo của nhà
khám phá những vẻ đẹp độc đáo, phi
văn.
thường đồng thời khẳng được định ý
ð Lời đề từ đều cho thấy thức sâu sắc về Bản Ngã: “chỉ có bản
cảm hứng sáng tác và chính không có bản sao”. Ông hiểu thế
phong cách độc đáo của nào mới là nhà văn chân chính nên người
nhà văn. thư kí trung thành của thời đại ấy chẳng
còn tự phong bế chính mình nơi “ao đời
phẳng lặng” mà say khướt, chếnh choáng
thưởng thức hơi men của đất trời. Và
thật không ngoa khi cho rằng Nguyễn

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 84



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

Tuân là người nghệ sĩ “suốt đời đi tìm cái


đẹp” (Nguyễn Đình Thi)
PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG SÔNG ĐÀ
1. Đặc điểm địa lí Sông Đà bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam, đi
qua một vùng núi ác, đến gần nửa đường
- Bắt nguồn từ Vân Nam,
thì xin nhập quốc tịch Việt Nam. Sông có
Trung Quốc, đến nửa
tổng cộng 73 con thác dữ và dài hơn 983
đường xin nhập tịch Việt
km. Song với tư cách là một nhà văn luôn
Nam.
tỉ mẩn, công phu, ông không cho phép
- Sông Đà dài 983 km có mình chỉ nhìn con sông đơn thuần ở
tổng cộng 73 con thác dữ. phương diện địa lý, thuỷ văn học, sử học
- Ở Việt Nam, Sông Đà đi mà còn nghiêng về bình diện khai thác vẻ
qua các tỉnh Lai Châu, Điện đẹp của dòng sông khiến nó trở thành
Biên, Sơn La, Hoà Bình và một con thủy quái “Sông Đà” đúng nghĩa.
nhập vào sông Hồng ở Phú Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, con sông
Thọ. ấy trở nên có tính cách phong phú, phức
tạp, như một cố nhân “lắm bệnh nhiều
ð Qua cái nhìn của chứng, chốc chốc dịu dàng đấy, rồi chốc
Nguyễn Tuân, sông Đà trở lại bẳn tính gắt gỏng thác lũ ngay đấy”.
nên có tính cách phong
phú, phức tạp như một con Cái đẹp được coi là tôn giáo của Nguyễn
người. Tuân, bởi vậy ngay từ những dòng văn
đầu ông đã gợi lên sự hùng vĩ nơi con
2. Dòng sông hung bạo Sông Đà ngự trị với cảnh đá bờ sông
2.1 Cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Nghệ thuật ẩn dụ trong
dựng vách thành hình ảnh “vách thành” cho ta thấy
Nguyễn Tuân rất ưa kiến trúc cổ xưa.
- “vách thành”: nghệ thuật Dường như lúc này Đà giang hiện lên
ẩn dụ gợi sự cổ kính, thâm mang dáng vẻ đầy cổ kính, vững chãi,
nghiêm và ẩn chứa biết thâm nghiêm và ẩn chứa biết bao sức
bao nguy hiểm đang chực mạnh tiềm tàng, bí ẩn với vách đá như
chờ. thành cao, vực thẳm như hào sâu nhằm
- “chỉ lúc đúng ngọ mới có đe dọa những kẻ bày trò du hi ghé thăm
mặt trời”: gợi tả độ cao của nơi đây. Đứng giữa bờ đá, “chỉ lúc đúng
vách đá, chính sự bí hiểm ngọ mới có mặt trời”, tưởng chừng chỉ là
của Sông Đá khiến ta những bờ đá vô tri, vô giác mà lúc này

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 85



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

tưởng như mặt trời cũng chúng bỗng hóa thành những gã khổng lồ
phải dè chừng, chọn dịp trấn giữ dòng sông khiến mặt trời cũng
mà ngắm nhìn. phải dè chừng, chọn dịp mà ngắm nhìn.
Sẽ chẳng có một cây bút non tay nào có
- “có vách đá chẹt lòng
thể viết ra những trang văn so sánh hoàn
sông như một cái yết hầu”:
hảo, tinh tế, chính xác và táo bạo như cụ
nghệ thuật so sánh đã gợi
Nguyễn: “Có vách đá thành chẹt lòng
lên tốc độ, cường độ,
Sông Đà như một cái yết hầu”. Bởi lẽ với
trường độ của dòng nước
“tín đồ của chủ nghĩa duy mĩ”, tuyệt
khu vực này.
không có một thô vụng, tuyệt không có
- “Đứng bên này bờ nhẹ một sơ suất hay cẩu thả. Đó chính là cái
tay ném hòn đá qua bên đích cao nhất mà Nguyễn Tuân đã đạt
kia vách. Có quãng con nai được ngay từ những trang viết đầu đầu
con hổ đã có lần vọt từ bờ tay cho đến những trang viết cuối cùng.
này sang bờ kia”: những Dòng chảy con sông lúc này như bị thu
chi tiết so sánh, miêu tả hẹp khiến người đọc bị chèn ép tới nghẹt
tưởng chừng bâng quơ, thở dưới từng vỉa kiến thức uyên thâm
ngẫu nhiên nhưng lại có mà Nguyễn Tuân dành cho thiên tùy bút.
giá trị gợi tả gián tiếp độ Đến với những chi tiết so sánh tưởng
hẹp của lòng sông. chừng bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại có
- “Ngồi trong khoang đò giá trị gợi tả gián tiếp độ hẹp của lòng
qua quãng ấy, đang mùa sông: “Đứng bên này bờ nhẹ tay ném
hè mà cũng thấy lạnh, cảm hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con
thấy mình như đứng ở hè nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang
một cái ngõ mà ngóng bờ kia.” Tưởng chừng như thiên nhiên
vọng lên một khung cửa sổ hoang vu sẽ khiến người đọc khó lòng
nào trên cái tầng nhà thứ hòa mình vào bạt ngàn Tây Bắc, nhưng
mấy nào vừa tắt phụt đèn dưới bàn tay nghệ thuật của mình,
điện”: Nguyễn Tuân đã mượn những hình ảnh
hiện đại để miêu tả sự hoang sơ ấy giúp
+ Lấy cái hiện đại để miêu cho độc giả dễ dàng tiếp cận hơn: “Ngồi
tả cái hoang sơ giúp người trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa
đọc dễ dàng tiếp nhận. hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình
+ Taọ sự tương phản xúc như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng
giác “đang mùa hè mà vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái
cũng thấy lạnh” và gây ấn tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 86



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

tượng đăch biệt cho thị điện” Là một người rất ưa lối viết miêu tả
giác khi lấy hè phố tả mặt sự vật thông qua các giác quan, cụ
sông, lấy nhà cao gợi vách Nguyễn đã đưa đẩy con thuyền chữ
đá: đem đến cho ta những nghĩa, tạo ra ấn tượng tương phản xúc
hình dung về cái tối tăm, giác với chi tiết “ngồi trong khoang đò
lạnh lẽo, u ám đột ngột khi quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy
di chuyển dần từ ngoài lạnh”. Không chỉ vậy, cụ còn tác động vào
khúc sông vào đoạn có đá thị giác độc giả khi lấy hè phố tả mặt
dựng vách thành. sông, lấy nhà cao gợi vách đá qua đó đem
đến cho ta những hình dung về cái tối
+ Cấu trúc trùng điệp của
tăm, lạnh lẽo, u ám đột ngột khi di
kiểu ngôn từ không xác
chuyển dần từ ngoài khúc sông vào đoạn
định “một khung cửa sổ
có đá dựng vách thành. Qua đoạn văn
nào trên cái tầng nhà thứ
miêu tả cảnh đá bờ sông dựng vách
mấy nào vừa tắt phụt đèn
thành, bằng những liên tưởng, so sánh vô
điện”: làm tăng thêm cảm
cùng độc đáo, cho thấy rõ ngòi bút
giác về độ cao hun hút,
Nguyễn Tuân hệt như đang thấm đẫm
thăm thẳng của vách đá.
nước Sông Đà mà bốc hơi thành mùi chữ
ð Những liên tưởng, so nghĩa. Lúc này đây, ta có cảm giác dường
sánh vô cùng độc đáo, cho như Nguyễn Tuân chẳng khác nào một
thấy rõ ngòi bút Nguyễn tay chơi chữ đích thực:
Tuân hệt như đang thấm
đẫm nước Sông Đà mà bốc “Tô i nhặ t nhạ nh li ti bụ i chữ
hơi thành mùi chữ nghĩa. Đo- t lò tâ m linh chơi trò luyệ n chữ”
Lúc này đây, ta có cảm giác
ông luôn lục lọi đến tận kiệt cái kho ấn
dường như Nguyễn Tuân
chẳng khác nào một tay tượng đầy ăm ắp để tìm cho được một
chơi chữ đích thực: cách nói có thể làm kinh động hồn trí con
người, đồng thời cũng gợi ra thật nhiều
“Tô i nhặ t nhạ nh li ti bụ i tò mò về sự tồn tại của một con sông đầy
chữ/ Đo- t lò tâ m linh chơi bí hiểm, chứa đựng nhiều gian khó đang
trò luyệ n chữ” chực chờ phía trước khi ta đến với Đà
2.2 Cảnh mặt ghềnh Hát giang.
Loóng Tính chất hung bạo của dòng sông còn
- “nước xô đá, đá xô sóng, thể hiện qua cái dữ dội của ghềnh sông –
sóng xô gió”: mặt ghềnh Hát Lóong với sự hợp sức của

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 87



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

+ Nhịp 3/3/3 ngắt ngắn, gió, của sóng và của đá. Sự điều phối nhịp
nhanh, dồn dập kết hợp nhàng, chặt chẽ trong thiên tùy bút tựa
cùng dày đặc các thanh sắc như duềnh sóng uy nghi đang cuộn chảy,
gây ấn tượng mạnh. lăm le nuốt chửng con người. Mặt ghềnh
dài hàng cây số, với những cơn xoáy thật
+ Những hình ảnh điệp nối
kinh hãi: “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng
tiếp đã gợi về một chuyển
xô gió cuồn cuộn luồng gió ghùn ghè suốt
động vĩnh hằng, bất tận
năm suốt tháng như lúc nào cũng đòi nợ
của thiên nhiên khiến
xuýt”. Lúc này đây, dòng sông không còn
người đọc như cuốn theo
dáng vẻ hiền hòa, êm ả như trong thơ
dòng chảy hung bạo.
Quang Lâm:
+ Thủ pháp nghệ thuật
“Sông Đà dâng lên những quả đồi đất đỏ
tăng tiến như mô phỏng
những cơn sóng giữ cuộn trung du
chồm lên nhau theo chiều tôi ôm dòng sông nghe giai điệu bè trầm
ngang, vút lên cao theo ngàn xưa
chiều dọc rồi đổ ập xuống,
kể chuyện
trùng điệp như vũ bão.
gác lên sông những lườn cong nhớ
- Từ láy “gùn ghè” gợi sự
bực bội, hung dữ, lì lợm môi phù sa khép bóng hoàng hôn
của một gã giang hồ hung
mãi khuấy trong tôi nhịp những con
tợn.
thuyền”.
- Hình ảnh so sánh mang
mà nó đã thực sự thay hình đổi dạng, trở
đậm sắc thái nhân hoá
thành tay sai của loài thủy quái sông Đà.
“gùn ghè suốt năm như đòi
Nhịp ngắt ngắn, nhanh, dồn dập, sử dụng
nợ xuýt bất cứ người lái đò
dày đặc những thanh trắc liên hồi, những
Sông Đà nào tóm được qua
hình ảnh điệp nối tiếp đã tạo ra ấn tượng
đây”: Sông Đà như gieo rắc
về một chuyển động vĩnh hằng, bất tận
nỗi khiếp sợ đến những
của thiên nhiên khiến người đọc như
người lái đò non tay bởi sự
cuốn theo dòng chảy hung bạo ấy. Cùng
cuồng bạo của nó.
với đó là sự kết hợp hoàn hảo giữa từ láy
- “Quãng này mà khinh “ghùn ghè” và hình ảnh nhân hoá mặt
suất tay lái thì cũng dễ lật ghềnh Hát Loóng lúc nào cũng như “đòi
ngửa bụng thuyền ra”: mối nợ xuýt (đòi một cách vô lý) bất cứ người
lái đò nào” vừa gợi âm thanh dữ dội của

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 88



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

đe doạ của bất kì tay lái gió vừa gợi tâm địa hiểm độc của dòng
nào. sông. Đó là sự hung hãn, lì lợm và cuồng
bạo ngày đêm hăm doạ con người:
ð Sử dụng phép điệp từ,
“Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng
điệp cấu trúc kết hợp cùng
dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. Đoạn văn sử
cách đặt dấu câu linh hoạt
dụng nhuần nhuyễn phép điệp từ, điệp
khiến câu văn như bị chặt
cấu trúc kết hợp cùng cách đặt dấu câu
ra thành nhiều khúc tạo
linh hoạt khiến câu văn như bị chặt ra
nhịp điệu dồn dập, khẩn
thành nhiều khúc, tạo nhịp điệu dồn dập,
trương. Bút lực của cụ
khẩn trương. Bút lực của cụ Nguyễn làm
Nguyễn làm người đọc
người đọc không khỏi choáng ngợp, say
không khỏi choáng ngợp,
mê, thích thú, quả là “một định nghĩa về
quả là “một định nghĩa về
nghệ sĩ tài hoa” (Nguyễn Minh Châu)!
nghệ sĩ tài hoa” (Nguyễn
Minh Châu)! Đối với nghệ thuật, mang cái đẹp là một
trong những sứ mệnh thiêng liêng nhất
2.3 Hút nước Sông Đà
của văn chương. Sinh thời, Nguyễn Tuân
- “Trên sông có những cái đã luôn trăn trở về điều ấy trong suốt
hút nước giống như cái cuộc đời cầm bút của mình, bởi vậy, khi
giếng bê tông thả xuống đọc thiên tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà”
sông để chuẩn bị làm khiến ta không khỏi choáng ngợp trước
móng cầu”: Sự am hiểu vẻ đẹp hung bạo của Sông Đà ở những cái
trong lĩnh vực xây dựng hút nước quãng Tà Mường Vát phía dưới
mang đến những cảm Sơn La.
nhận chân thật cho người
Bằng sự am hiểu trong lĩnh vực xây dựng,
đọc
Nguyễn Tuân đã mang đến cho người
- Miêu tả âm thanh: đọc những cảm nhận chân thật nhất về
+ “Nước ở đây thở và kêu hút nước Sông Đà qua câu văn sử dụng
như cửa cống cái bị sặc”: biện pháp nghệ thuật so sánh đầy táo
do sự chênh lệch nước bạo: “Trên sông có những cái hút nước
giữa trong và ngoài cái như cái giếng bê tông thả xuống sông để
“giếng bê tông”. chuẩn bị làm móng cầu”. Những âm
thanh ghê sợ bắt đầu xuất hiện khi đi qua
+ “nước ặc ặc lên như vừa quãng này: “Nước ở đây thở và kêu như
rót dầu sôi vào”: từ láy cửa cống cái bị sặc” do sự chênh lệch giữa
bên trong và bên ngoài cái “giếng bê

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 89



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

tượng thanh “ặc ặc” gợi tông” tạo ra những tiếng kêu đầy ám ảnh.
cảm giác rợn người. Có lúc lại nghe “ặc ặc” như tiếng “rót dầu
sôi” gợi cảm giác rợn người. Những thứ
ð Những so sánh sống
âm thanh ghê người ấy làm ta nhớ đến
động khi miêu tả âm thanh
tác phẩm “Bến không chồng” nhà văn
đã lột tả được sự ghê rợn
Dương Hướng cũng từng miêu tả con
của hút nước Sông Đà. Nó
sông ỏ làng Đông như đang giận dữ, sôi
chẳng khác nào một con
lên sùng sục: “Cánh đồng làng Đông chìm
vật khổng lồ phát ra những
trong biển gió đen ngòm. Nước sông
thứ thanh âm man dại, bản
cuồn cuộn sôi lên sùng sục”.
năng khi sắp sửa bị hành
hình hoặc đang giãy chết. Những so sánh sống động kết hợp cùng
những từ láy tượng thanh dùng để miêu
- Miêu tả sức mạnh:
tả âm thanh đã lột tả được sư hung bạo
+ “Trên mặt cái hút xoáy của hút nước Sông Đà. Nó chẳng khác
tít đáy, cũng đang quay lừ nào một sinh thể biết thở và kêu như một
lừ những cánh quạ đàn”: gã khổng lồ phát ra những thứ âm thanh
cái máu tham chiến ngày man dại, bản năng khi sắp sửa bị hành
một tăng lên, thuỷ quái hình hoặc đang giãy chết.
Sông Đà như thể đang
Có người nghệ sĩ nào mà không đi tìm cái
luyện công để đợi một tay
đẹp, nhưng có phải ai cũng nhận được
lái đò đi ngang sẽ ngay lập
tôn vinh là “người nghệ sĩ suốt đời đi tìm
so kèo cao thấp.
cái đẹp” như Nguyễn Tuân đâu? Cụ
+ “Không thuyền nào dám Nguyễn vẫn luôn hơn người trong cái
men gần những cái hút “ngón chơi liên tưởng”, những câu văn
nước ấy, thuyền nào qua liên tưởng tài tình cheo leo rất mực,
cũng chèo nhanh đẻ lướt được ném ra như một thứ dị chiêu: “Trên
qua quãng sông, y như là ô mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay
tô sang số ấn ga cho nhanh lừ lừ những cánh quạ đàn”. Dường như
để vút qua một quãng lúc này cái máu tham chiến ngày một
đường mượn cạp ra ngoài tăng lên, thuỷ quái Sông Đà như thể đang
bờ vực”: Kể cả những “tay luyện công để đợi một tay lái đò đi ngang
lái ra hoa” cũng phải dè sẽ ngay lập tức so kè cao thấp. Những cái
chừng trước hút nước hút nước mang trong mình sức mạnh
Sông Đà, họ chỉ có thể khủng khiếp, đến cả những “tay lái ra
hoa” cũng phải dè chừng trước nó:

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 90



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

“chèo nhanh và tay lái cho “không thuyền nào dám men gần những
vũng mà phóng qua”. cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng
chèo nhanh để lướt qua quãng sông, y
+ “Nhiều bè gỗ rừng đi
như ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút
nghênh ngang vô ý là
qua một quãng đường mượn cạp ra
những cái giếng hút ấy nó
ngoài bờ vực”. Chứng kiến sự hung bạo
lôi tuột xuông”: “nghênh
của Sông Đà, Nguyễn Tuân đã khéo léo sử
ngang vô ý” chính là lời
dụng cụm từ “nghênh ngang vô ý” như
cảnh báo của Nguyễn
lời cảnh báo của ông đến những tay lái đò
Tuân, chỉ cần khinh suất sẽ
chẳng may ghé qua giang sơn của gã thuỷ
bị hút nước Sông Đà “lôi
quái này. Cũng vì khinh suất mà chẳng
tụt xuống”.
biết bao nhiều bè gỗ rừng đã bị hút nước
+ “Có những thuyền đã bị “lôi tụt xuống” hành hạ không thương
cái hút nó hút xuống, tiếc: bỗng bị “hút xuống” rồi “trồng cây
thuyền trồng ngay cây chuối ngược”, sau đó “vụt biến đi, bị dìm
chuối ngược rồi vụt biến và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi
đi, bị dìm và đi ngầm dưới phút” và cuối cùng “tan xác ở cửa sông”.
lòng sông đến mươi phút Ở đây, nhà văn đã quan sát vô cùng tỉ mỉ
sau mới thấy tan xác ở sự xuất hiện và biến tan của chiếc bè gỗ.
khuỷnh sông dưới”: những Đó là chiếc bè cực kỳ bền bỉ, được làm
chiếc thuyền bất hạnh bị bằng thứ gỗ tốt, lại được ngâm nước rất
hút nước Sông Đà hành hạ lâu, cấu tạo rất lớn và chuyên chở gỗ
không thương tiếc: bỗng nặng nên vô cùng chắc chắn. Tuy vậy,
bị “hút xuống” rồi “trồng những chiếc bè gỗ tưởng chừng như
cây chuối ngược”, sau đó vững vàng ấy lại bị hút mạnh vào miệng
“vụt biến đi”, “bị dìm con quái vật – những chiếc hút nước
xuống và đi ngầm dưới khổng lồ, rồi bị nuốt tươi trong cái bụng
lòng sông đến mươi phút” quằn quại sóng nước Sông Đà để sau
và cuối cùng “tan xác ở cùng chỉ còn lại những mảnh gỗ vỡ tan
khuỷnh sông.” tành… Sự hung bạo ấy làm ta nhớ đến
- Kích thích người đọc những dòng văn trong tác phẩm “Thời xa
bằng kiến thức điện ảnh: vắng” của nhà văn Lê Lựu: “Sự chuẩn bị
vừa hốt hoảng lo sợ, vừa háo hức mong
+ “Tôi sợ hãi mà nghĩ đến chờ, niềm vui và nỗi buồn xô bồ cẩu thả
một anh bạn quay phim đang bừa bộn ngồn ngang thì nước sông
táo tợn nào đó muốn ăn lên lem lém nuốt chửng cả cánh bãi

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 91



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

truyền cảm giác lạ cho xanh non mênh mong lúa lốc và rừng.”
khán giả, đã dũng cảm Nói đến Tây Bắc, có ai ngờ nơi núi cao,
dám ngôi vào một cái đèo hiểm này một thời, người kẻ chợ,
thuyền thúng tròn vành đường xuôi muốn lên đây chỉ có độc một
rồi cho cả thuyền cả mình thủy lộ hiểm ác để chinh phục. Ấy là dòng
cả máy quay xuống đáy cái Đà giang ngạo nghễ “độc Bắc lưu” còn
hút nước Sông Đà – từ đáy nguyên trong lời cổ ngữ của vùng đất
cái hút nhìn ngước lên này:
vách thành hút mặt sông
“Đường lên Mường Lễ bao xa
chênh nhau tới một cột
nước cao đến vài sải”: sự Trăm bảy mươi thác, trăm ba mười
tương phản giữa cảm giác ghềnh”.
của tác giả khi “sợ hãi” và Quyền phép của người nghệ sĩ đã được
sự “táo tợn”, “dũng cảm” Nguyễn tận dụng để tha hồ lật xoay mà
của anh quay phim đã gián ngắm nghía cho kĩ một dáng sông từ đủ
tiếp thể hiện sự trân trọng mọi phương vị, theo đủ mọi chiều, bằng
của nhà văn đối với tất nhiều thứ phương tiện. Ví như cũng để tả
thảy những người làm cái hút nước quái ác kia, Nguyễn Tuân đã
nghệ thuật. kích thích người đọc bằng vốn kiến thức
+ “Thế rồi thu vào ảnh. Cái điện ảnh phong phú của mình: “Tôi sợ
thuyền xoay tít, những hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim
thước phim màu cũng táo tợn nào đó muốn truyền cảm giác lạ
quay tít, cái máy lia ngược cho khán giả, đã dũng cảm dám ngôi vào
contre – plongée lên một một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho
cái mặt giếng mà thành cả thuyền cả mình cả máy quay xuống
giếng xây toàn bằng nước đáy cái hút nước Sông Đà – từ đáy cái hút
sông xanh ve một áng thuỷ nhìn ngước lên vách thành hút mặt sông
tinh khối đúc dày, khối pha chênh nhau tới một cột nước cao đến vài
lê xanh như sắp vỡ tan ụp sải”. Sự tương phản giữa cảm giác của tác
vào cả máy cả người quay giả khi “sợ hãi” và sự “táo tợn”, “dũng
phim, cả người đang xem”: cảm” của ảnh quay phim đã giám tiếp thể
bằng tay nghề điêu, anh hiện sự trân trọng của nhà văn đối với tất
quay phim đã làm tan chảy thảy những người làm nghệ thuật. Họ
trái tim người xem qua đều xứng đáng với danh xưng “những
những thước phim sống người nghệ sĩ chân chính” khi dám hy
động, truyền cảm từ hình sinh mình vì nghệ thuật, để “truyền cảm

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 92



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

khối của “một thành giếng giác lạ cho khán giả”. Chúng ta đều biết
xây toàn bằng nước” cho rằng, thuyền thúng vốn là một phương
đến màu sắc của dòng tiện đánh bắt cá của người dân vùng
sông “nước xanh ve”, biển, nó vừa mỏng manh, vừa khó điều
thậm chí cả cảm giác sợ hãi khiển, vậy mà anh quay phim dám “cho
chân thực của con người cả thuyền, cả mình cả máy quay xuống
khi phải đứng trong lòng đáy cái hút nước Sông Đà - từ đáy cái hút
một “khối pha lê xanh như nhìn ngước lên vách thành hút mặt sông
sắp vỡ tan” bất cứ lúc nào chênh nhau tới một cột nước cao đến vài
cũng có thể đổ ập vào sải”. Thủ pháp điện ảnh được Nguyễn
người. Tuân tận dụng một cách hiệu quả qua
một cú contre – plongée hất ngược từ
+ “Cái phim ảnh thu được
dưới lên một cách sống động: “Thế rồi
trong lòng giếng xoay tít thu vào ảnh. Cái thuyền xoay tít, những
đáy, truyền cảm lại cho
thước phim màu cũng quay tít, cái máy
người xem phim kí sự tháy lia ngược contre – plongée lên một cái
mình đang lấy gân ngồi giữ
mặt thành giếng xây toàn bằng nước
chặt ghế như ghì lấy mép sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối
một chiếc lá rừng bị vứt đúng dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ
vào một cái cốc pha lê tan ụp vào cả máy cả người quay phim,
nước khổng lồ vừa rút lên
cả người xem”. Bằng tay nghề điêu luyện,
cái gậy đánh phèn” anh quay phim đã làm tab chảy trái tim
ð Sự kết hợp nhuần người xem qua những thước phim sống
nhuyễn giữa từng vỉa kiến động, truyền cảm từ hình khối của “một
thức uyên thâm về lĩnh xây thành giếng xây toàn bằng nước” cho đến
dựng, điện ảnh,… cùng màu sắc của dòng sông “nước xanh ve”,
những liên tưởng, so sánh thậm chí cả cảm giác sợ hãi vô cùng chân
thú vị nối tiếp nhau, thực của con người khi phải đứng trong
Nguyễn Tuân đã dẫn dụ lòng một “khối pha lê xanh như sắp vỡ
người đọc vào trò chơi tan” bất cứ lúc nào cũng có thể đổ ập vào
cảm giác mạnh. Tràn ngập người. Đã hơn một lần Nguyễn Tuân mải
trong ta lúc này là những mê, đắm chìm trong những khối pha lê
hình ảnh dữ dội, chân thực lấp lánh, tinh khôi, trong trẻo: “Tôi soi
đến khó tin. Đồng thời, mặt tôi vào chất pha lê thuần tuý chiếc
trong con mắt tài hoa nghệ cốc trong trẻo phô rõ chất máu rượu
sĩ của mình, Nguyễn Tuân ngon không cấn. Màu sáng bóng pha lê

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 93



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

còn thể hiện cái nhìn trân phản chiếu, trả lại cho tôi một bộ mặt vô
trọng dành cho những sự” (Bèo Thượng Hải bến Hồng Kông).
người nghệ sĩ ở các nền Thế mới thấy cụ Nguyễn quả xứng đáng
nghệ thuật khác nhau. với danh xưng “Người thợ kim hoàn của
chữ” khi tác phẩm của ông toàn là những
2.4 Thác đá Sông Đà
“lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”
* Khi còn ở xa giúp người đọc như được thả mình vào
- Tiếng thác đá gào lên thật một thế giới duy mĩ để tận hưởng từng
hoang dại, đáng sợ: “oán khoảnh khắc đẹp đẽ của thiên nhiên, đất
trách”, “van xin”, “khiêu trời. Bằng sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
khích”, “giọng gằn mà chế từng vỉa kiến thức uyên thâm về lĩnh vực
nhạo”,… ð những từ ngữ xây dựng, điện ảnh,… cùng những liên
gợi tả âm thanh theo tưởng, so sánh thú vị nối tiếp gối đầu lên
những cung bậc tăng dần nhau, Nguyễn Tuân thật sự đã dẫn dụ
về cả sắc thái cảm xúc và được người đọc vào một trò chơi cảm
âm lượng đã làm nổi bật giác mạnh. Tràn ngập trong ta lúc này là
tính cách hung bạo của những hình ảnh dữ dội, chân thực đến
Sông Đà. khó tin. Đồng thời, trong con mắt tài hoa
nghệ sĩ của mình, Nguyễn Tuân còn thể
- Nghệ thuật so sánh được hiện cái nhìn trân trọng dành cho những
sử dụng trong câu văn dài, người nghệ sĩ ở các nền nghệ thuật khác
cấu tứ phức tạp và đầy ắp nhau: bất cứ người lao động nào khi đạt
những hình ảnh dữ dội: đến trình độ điêu luyện trong công việc
“Thế rồi rống lên như đều có thể coi là người nghệ sĩ và xứng
tiếng một ngàn con trâu đáng được tôn vinh vì những cống hiến
mộng đang lồng lộn giữa của mình.
rừng vầu, rừng tre nứa nổ
lửa, đang phá tuông rừng Nếu chỉ nói về Sông Đà hung bạo với
lửa, rừng lửa cũng gầm những câu rất nhận xét chung chung về
thét với đàn trâu da cháy sự hung hiểm của nó, ắt khó thấy được
bùng bùng.” cái kì công của Nguyễn Tuân. Điều quan
trọng là phải thấy ở nhà văn tài hoa ấy đã
+ Hiện lên những âm hao tổn công phu để bắt cái sự hung dữ
thanh man dại, bản năng của Sông Đà nổi cuộn thành hình khối và
của một loài động vật hung gào thét trong muôn vạn âm thanh. Ví
dữ đang kiếm tìm lối thoát như khi ông tả nói về cái giây phút khi
thân. còn ở xa những thác đá: “Còn xa lắm mới

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 94



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

+ Lấy hình ảnh tả gợi tả âm đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng
thanh, lấy lửa tả nước, lấy nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng
rừng tả sông. nước thác nghe như là oán trách gì, rồi
lại như là van xin, rồi lại như là khiêu
ð Nghệ thuật so sánh,
khích, giọng gằn mà chế nhạo.” Tiếng
nhân hóa tài ba cùng
thác đá gào thét nghư thật đáng sợ: khi
những liên tưởng “rất đắt”,
thì “oán trách”, lúc thì “van xin”, rồi lại
Nguyễn Tuân đã cho thấy
“khiêu khích, giọng gằn mà đáng sợ”,…
một cảnh tượng thác nước
Nghệ thuật nhân hoá đã khiến thác nước
hùng vĩ, nguy hiểm tận độ
Sông Đà bỗng hoá thành một sinh thể
dẫu “còn xa lắm mới đến
sống, có tâm trạng và tính cách thất
cái thác dưới”.
thường, ngày đêm gầm gào, đe doạ con
*Khi thác hiện ra người ngay cả khi nó chưa xuất hiện.
- “Tới cái thác rồi!”: câu Nguyễn Tuân đã khéo léo sử dụng hệ
văn súc tích, ngắn gọn thống từ ngữ gọi tả âm thanh theo những
giống như tiếng reo ngỡ cung bậc tăng dần về cả sắc thái hạnh
ngàng, thích thú. phúc và âm lượng để làm nổi bật tính
cách hung bạo của Sông Đà. Ta tưởng
- “Ngoặt khúc sông lượn, như cụ Nguyễn lúc này đang trở thành
thấy sóng bọt đã trắng xoá một người nhạc trưởng, tái hiện cho
cả một chân trời đá”: Khi người đọc một cách sống động những
vừa gặp mặt thác đá đã thanh âm âm trên Sông Đà: bài ca của gió
khiến ta không khỏi thác đa cung bậc. Thế rồi âm thanh được
choáng ngợp trước sự phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng
hùng vĩ và nguy hiểm của thét lên khcs nhạc của một thiên nhiên
nó. Tính từ “trắng xoá” tạo đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn
ấn tượng về sóng, về gió, khích mạnh mẽ và man dại: “Thế rồi nó
về bọt nước trào sôi mãnh rống lên như tiếng một ngàn con trâu
liệt, chằng chịt, nối tiếp, mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng
chống chất lên nhau làm tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa,
cho cả “chân trời đá” cũng rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da
mịt mờ sắc trắng. cháy bùng bùng”. Nghệ thuật so sánh so
- Hình ảnh nhân hoá: “Đá ở sánh được sử dụng khéo léo trong câu
đây từ ngàn năm vẫn mai văn dài , cấu tứ phức tạp và đầy ắp những
phục hết trong lòng sông, hình ảnh dữ dội làm hiện lên trong tâm
hình như mỗi lần có trí người đọc những âm thanh man dại,

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 95



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

thuyền nào xuất hiện ở bản năng của một loài động vật hung dữ
quãng ầm ầm mà quạnh đang kiếm tìm lối thoát thân. Quả thực,
hiu này, mỗi lần có chiếc khó tìm một nhà văn nào táo bạo như
nào nhô vào đường ngoặt Nguyễn Tuân, bằng bút lực của mình, cụ
sông là một số hòn bèn Nguyễn đã tạo ra những liên tưởng bất
nhổm cả dậy để vồ lấy ngờ, thú vị: lấy hình ảnh gợi tả âm thanh,
thuyền”. lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông,… đã làm
hiện trước mắt người đọc là cả một rừng
+ Sông Đà hiện lên thật
vầu, tre, nứa đang bị đốt cháy và phát ra
nguy hiểm, xấu xa và xảo
tiếng nổ. Nhưng chưa hết, trong khu
quyệt khi ra lệnh cho
rừng vầu, rừng tre đang cháy ấy lại được
những đá tảng lởm chởm
thả vào đó hàng ngàn con trâu mộng to
“ngàn năm vẫn mai phục”
khỏe, nên khi da của chúng bị đốt cháy
đợi những con thuyền xấu
“xèo xèo” và nóng thì chúng sẽ lồng lộn
số đi qua đây.
mà phá tan rồi tìm đường thoát thân. Khi
+ “quãng ầm ầm mà quạnh chạy, nó va đập mạnh vào những cây tre,
hiu”: gợi tả một không gian cây nứa tạo nên những tiếng nổ lớn, liên
tứ phía chỉ toàn thanh âm hoàn như âm thanh vang la não bạt, kinh
của tiếng thác nước dội thiên động địa. Hình ảnh của Nguyễn
xuống giữa một vùng rừng Tuân đã tác động mạnh mẽ lên hệ thần
núi hoang vu hẻo lánh và kinh người đọc để mang đến cảm giác
lạnh lẽo. chân thực và sống động nhất. Bởi vậy, cụ
+ “mỗi lần có chiếc thuyền Nguyễn quả xứng đáng với nhận xét:
nào nhô vào đường ngoặt “Ngôn ngữ tiếng Việt khi ở trong tay
sông là một số hòn đá bèn Nguyễn Tuân trở thành yêu ngôn gây ra
nhồm cả dậy để vồ lấy cho người đọc một sự say mê gần như ma
thuyền”: những hòn đá quái” (Phan Ngọc).
nằm dưới lòng sông vô tri Phiêu dung trong những trang văn của
vô giác bỗng trở thành tay Nguyễn tuân độc giả như chìm đắm
sai trung thành của gã trong một không gian ngôn từ nghệ thuật
thuỷ quái Sông Đà. Chúng thật lung linh và huyền ảo, như có lần
ẩn náu dưới lòng nước sâu Guyxtavo Flobe từng thốt khi đọc những
khiến những người lái đò trang sách hay: “Ngồi im một chỗ, người
non tay buông lỏng cảnh ta lãng du trong xứ sở tưởng như thấy
trước mắt, và tư tưởng người ta xoắn tít
với hư cấu, nô giỡn trong những chi tiết

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 96



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

giác để rồi đột ngột “nhổm hoặc chạy theo hình thái của những việc
cả dậy vồ lấy thuyền”. tình cờ xảy ra, nó hoà hợp với các nhân
vật, dường như chính người ta đang hồi
- Hình ảnh nhân hoá: “Mặt
hộp dưới trang phục của họ”. Dưới ngoig
hòn đá nào trông cũng ngỗ
bút của cụ Nguyễn, Sông Đà hiện ra với
ngược, hòn nào cũng nhăn
đầy đủ “diện mạo và tâm địa của thứ kẻ
nhúm méo mó hơn cả mặt
thù số một” ẩn chứa biết bao hiểm hoạ
nước chỗ này”: những hòn
đối với con người khi “tới cái thác rồi!”.
đá bộc lộ bản chất ngang
Câu văn súc tích, ngắn gọn nhưng ẩn
bướng, khó chiều, hòn nào
chứa cả tiếng reo vang đầy ngỡ ngàng,
trông cũng “ngỗ ngược”,
thích thú. Ta tưởng như toàn thân thể
cũng: “nhăn nhúm méo
của Nguyễn Tuân đàn run lên vì chứng
mó” khiến ta liên tưởng tới
kiến cái đẹp hung bạo của Sông Đà ở
những gã giang hồ đang
quãng này. Khi vừ mới gặp mặt thác đá
đòi “nợ xuýt”.
đã khiến ta không khỏi choáng ngợp
- Hình ảnh so sánh “Mặt trước sự hùng vị và nguy hiểm: “Ngoặt
sông rung rít lên như khúc sông lượn, thấy bọt đã trắng xoá cả
tuyếc – bin thuỷ điện nơi một chân trời đá”. Tính từ “trắng xoá” tạo
đáy hầm”: Sóng nước Sông ấn tượng về sóng, về gió, về bọt nước
Đà đánh liên tục vào từng đang trào sôi mãnh liệt, chằng chịt, nối
thớ đá tạo thành những tiếp, chồng chất lên nhau làm cả :chân
cơn địa trấn trên mặt sông trời đá” cũng mịt mờ sắc trắng. Nguyễn
và cất lên những tiếng rít Tuân bước vào nghề văn dường như để
ghê người. minh hoạ cho hai câu thơ rất ngông của
- “Mặt sông trắng xoá càng Nguyễn Công Trứ: “Trời đất cho ta một
làm bật rõ lên những hòn cái tài/ Giắt lưng dành để thàng ngày
những tảng mới trông chơi”. Chính vì vậy, cụ Nguyễn vẫn không
tưởng như nó đứng nó ngừng trao cho Đà giang những quyền
ngồi nó nằm tuỳ theo sở năng vô tận. Cùng với nước, với sóng và
thích tự động của đá to đá gió kết hợp với nhau cùng lúc tấn công và
bé. Nhưng hình như Sông uy hiếp con người đã được nhà văn miêu
Đà đã giao việc mỗi hòn. tả qua một hình ảnh nhân hoá đặc sắc:
Mới thấy rằng đây là nó “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết
bày thạch trận trên sông”: trong lòng sông, hình như mỗi lần có
Nguyễn Tuân đã quan sát thuyền nào xuấn hiện ở quãng ầm ầm mà
tỉ mỉ từng hòn đó nhỏ, quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 97



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

từng tảng đá lớn, cứ tưởng vào đường ngoặt sông là hòn bèn nhổm
rằng chúng đứng, ngồi, cả dậy để vồ lấy thuyền”. Sông Đà hiện
nằm tuỳ ý nhưng thực chất lên thật nguy hiểm, xấu xa và xảo quyệt
chúng đều được Sông Đà khi ra lệnh cho những đá tảng lởm chởm
giao cho nhiệm vụ ngăn “ngàn năm vẫn mai phục” đợi những con
chặn những tay lái đò cơ thuyền xấu số đi qua “quãng ầm ầm mà
hồ xâm nhập nơi đây. Thế hiu quạnh” - không gian tứ phía lúc này
mới thấy Sông Đà xảo chỉ toàn thanh âm của tiếng thác nước
quyệt, hung bạo đến dội xuống giữa một vùng rừng núi hẻo
nhường nào, nó đã “bày lánh và lạnh lẽo. Và rồi “mỗi làn có chiếc
thạch trận trên sông” để thuyền nào nhô vào đường ngoặt sông là
bảo vệ lạnh địa của mình. một số hòn đá bèn nhổm cả dậy để vồ lấy
thuyền”, những hòn đá vô tri vô giác
ð Nguyễn Tuân khéo léo
bỗng trở thành tay sai của gã thuỷ quái
sử dụng hàng loạt thủ
Sông Đà, chúng đang ẩn náu dưới lòng
pháp nghệ thuật nhân hoá,
nước sâu khiến những người lái đò non
liên tưởng, so sánh cùng
tay buông lỏng cảnh giác để rồi đột ngột
những câu văn đầy tính
“nhổm cả dậy vồ lấy thuyền”. Thủ pháp
tạo hình qua đó bút lực của
nhân hoá được Nguyễn Tuân sử dụng
Nguyễn Tuân đã tái hiện
một cách đầy điêu luyện và thú vị khi
chân thực quãng thác đá
những hòn đá bộc lộ bản chất ngang
Sông Đà thật bí hiểm và
bướng, khó chiều, hòn nào cũng “ngỗ
hung dữ luôn cố thủ ở đây
ngược”, cũng “nhăn nhúm méo mó”
ngàn năm qua.
khiến ta liên tưởng tới những gã giang hồ
2.4.1 Ba trùng vi thạch đang đòi “nợ xuýt”: “Mặt hòn đá nào
trận trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng
* Trùng vi thạch trận thứ nhăn nhúm méo mó hơn cả mặt nước
nhất chỗ này”. Tiếp đến hình ảnh so sánh:
“mặt sông rung rít lên như tuyếc – bin
- “Đám tảng đám hòn chia thuỷ điện nơi đáy hầm” gợi cảm giác
làm ba hàng chặn ngang sóng nước Sông Đà đánh liên tục vào
trên sông đòi ăn chết cái từng thớ đá tạo thành những cơn địa
thuyền, một cái thuyền trấn trên mặt sông và cất lên những tiếng
đơn độc không còn biết lùi rít ghê người. Bằng sự quan sát tỉ mỉ từng
đi đâu để tránh một cuộc hòn đó nhỏ, từng tảng đá lớn, cứ tưởng
giáo lá cà có đà dàn trận rằng chúng đứng, ngồi, nằm tuỳ ý nhưng

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 98



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

địa sẵn”: Sông Đà gian xảo thực chất chúng đều được Sông Đà giao
đã dàn trận địa sẵn, nó sắp cho nhiệm vụ ngăn chặn những tay lái đò
xếp lũ đá tảng, đá hòn cơ hồ xâm nhập nơi đây. Thế mới thấy
thành ba tuyến gồm năm Sông Đà xảo quyệt, hung bạo đến
cửa trận, bốn cửa tử và nhường nào, nó đã “bày thạch trận trên
một cưa sinh lập lờ ở tả sông” để bảo vệ lạnh địa của mình: “Mặt
ngạn để “đòi ăn chết cái sông trắng xoá càng làm bật rõ lên những
thuyền” đơn độc lạc bước hòn những tảng mới trông tưởng như nó
đến nơi đây. đứng nó ngồi nó nằm tuỳ ý theo sở thích
tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như
- Tuyến thứ nhất: “Hàng
Sông Đà đã giao việc mỗi hòn. Mới thấy
tiền vệ, có hai hòn canh
rằng đây là nó bày thạch trận trên sông”.
một cửa đá trông như là sơ
Nguyễn Khải đã từng nhận xét về Nguyễn
hở, nhưng chính hai đứa
Tuân: “Viết như chơi như bời, mà văn
giữ vai trò dụ cái thuyền
chương vẫn như mây như sóng. Tất cả đã
đối phương đi sâu nữa”
thành một khơi gợi, lấp lánh, huyền ảo”.
- Tuyến thứ hai: “vào tận Người đọc thấy cảm thấy mỗi câu văn
tuyến giữa rồi. Nước sóng của ông như một công trình kiến trúc
luồng mới đánh khuýp ngôn từ độc đáo mà mỗi dòng, mỗi chữ
quật vu hồi lại” đều sáng lên thứ ánh sáng kì diệu làm mê
- Tuyến thứ ba: “Nếu lọt hoặc cả gỗ đá vô tri. Bởi vậy, không quá
vào đây rồi mà cái thuyền ngạc nhiên khi Nguyễn Tuân đã tái hiện
du kích ấy vẫn chọc thủng vô cùng chân thực quãng thác đá Sông Đà
được tuyến hai, thì nhiệm làm mê đắm lòng người qua việc sử dụng
vụ của những boong – ke khéo léo loạt thủ pháp nghệ thuât như
chìm và pháo đài đá nổi ở nhân hoá, liên tưởng, so sánh cùng
tuyến ba phải đánh tan cái những câu văn dài giàu tính tạo hình.
thuyền lọt lưới đá tuyến Tôi còn nhớ trong “Tờ hoa” Nguyễn Tuân
trên, phải tiêu diệt tất cả
say mê viết về những con ong “phải bay
thuyền trưởng thuỷ thủ 2.7000.000 chuyến để làm nên một giọt
ngay ở chân thác” mật”, về những con chai phải trải qua quá
- Khi thuyền vụt tới: trình “mang nặng đẻ đau” để tạo nên viên
ngọc ánh ngời. Bằng công phu để quan
+ “Phối hợp với đá, nước sát, tìm kiếm và nhìn nhận về các sự vật
thác reo hò làm thanh viện hiện tượng mà những trang viết của
cho đá, những hòn đá bệ Nguyễn Tuân cứ khiến người ta ngẩn

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 99



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

vệ oai phong lẫm liệt”: âm ngơ đứng nhìn, lặng lẽ mà cảm nhận vì
thanh dữ dội của nước văn ông không phải là thứ “dành cho
thác như tiếng reo hò, cổ người nông nổi thưởng thức”. Bởi lẽ vậy,
vũ, tiếp thêm sức mạnh khi đọc “Người lái đò Sông Đà” và đặc
cho những “hòn đá bệ vệ biệt qua trích đoạn miêu tả ba trùng vi
oai phong lẫm liệt”. thạch trận đã giúp ta thấy được cái tỉ
mẩn, công phu của người nghệ sĩ dốc
+ “Một hòn đá ấy trông
lòng ra sao trong lao động nghệ thuật.
nghiêng thì y như là đang
hất hàm hỏi cái thuyền Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, ngời đọc
phải xưng tên tuổi trước được chiêm ngưỡng một đội quân đá
khi giao chiến. Một hòn hùng hậu trấn giữ Đà giang: “Đám tảng
khác lùi lại một chút và đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang
thách thức cái thuyền có trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái
giỏi thì tiến gần vào”: Biện thuyền đơn độc không biết lùi đi dâu để
pháp nghệ thuật ẩn dụ tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận
khiến những hòn đá trông địa sẵn”. Sông Đà gian xảo đã dàn sẵn
thật ngỗ ngược và máu trận địa: nó sắp xếp lũ đá tảng, đá hòn
chiến làm sao! thành ba tuyến gồm năm cửa trận, bốn
cửa tử và một cửa sinh lập lờ ở phía tả
+ “Ông đò hai tay giữ chặt
ngạn để “đòi ăn chết cái thuyền” đơn độc
mái chèo khỏi bị hất lên
vô tình lạc bước đến nơi đây. Ở tuyến
khỏi sóng trận địa phóng
đầu tiên, những hòn đá có vai trò dẫn dụ
thẳng vào mình”: thái độ
những chiếc thuyền đi sâu vào lãnh địa:
bình tĩnh của người lái đò
“Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa
trước sự nguy hiểm của
đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai
trận địa đá.
đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương
+ “Sóng nước như thể đi sâu nữa”. Đến tuyến thứ hai, Sông Đà
quân liều mạng vào sát bắt đầu tấn công những con thuyền xấu
nách mà đá trái mà thúc số bằng những đòn đánh nham hiểm:
gối vào bụng và hông “vào tận tuyến giữa rồi. Nước sóng luồng
thuyền. Có lúc chúng đội mới đánh khuýp quật vu hồi lại”. Cuối
cả thuyền lên”: Những cơn cùng đến tuyến thứ ba, Sông Đà quả thực
sóng chẳng khác nào khiến không ít người lái đò phải dè
những kẻ bất cần đời mà chừng bởi sự nham hiểm và máu chiến
phi thẳng vào mà “đá trái” của nó. Ở tuyến ba, Sông Đà bố trí hàng
rồi “thúc gối vào bụng và loạt những boong – ke và pháo đài đá

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 100



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

hông thuyền”. Có những nhằm mục đích tiêu diệt bất cứ kẻ bạo
lúc chúng hung hãn đến gan nào bước chân đến lãnh địa của
mức như “đội cả thuyền chúng: “Nếu lọt vào đây rồi mà cái
lên”. thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng được
tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boong
+ “Nước bám lấy thuyền
– ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba
như đô vật túm thắt lưng
phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá
ông đò đòi lật ngửa mình
tuyến trên, phải tiêu diệt tất cả thuyền
ra giữa trận nước vang
trưởng thuỷ thủ ngay ở chân thác”. Khi
trời thanh la não bạt”: vẫn
thuyền của ông lái đò vừa vụt tới thì
là những âm náo nhiệt,
thạch trận cũng vừa dàn bày xong. Thác
vang trời như muốn làm
đá Sông Đà ở trùng vi thạch trận thứ nhất
nhụt chí của những kẻ yếu
thực sự trở thành một chiến trường với
bóng vía, những con sóng
những trận hỗn chiến ác liệt giữa con
dữ vẫn tiếp tục cản trở
người và thiên nhiên. Những âm thanh
người lái đò, nó bám lấy
dữ dội, cuồng loạn của nước thác như
thuyền chẳng khác nào
tiếng reo hò, cổ vũ, tiếp thêm sức mạnh
một đô vật túm lấy thắt
cho đội quân đá bệ vệ oai phong lẫm liệt:
lưng của ông đò cơ hồ lật
“Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm
ngửa mình ra.
thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ
+ “Sóng thác đã đánh đến oai phong lẫm liệt”. Sông Đà lúc này
miếng đòn hiểm độc nhất, dường như đang chiếm thế thượng
cả cái luồng nước vô sở bất phong, chính vì vậy những hòn đó cũng
chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ trở nên xấc xược, và máu chiến gấp bội
người lái đò”: những cơn lần, lúc thì “hất hàm”, khi thì “thách
sóng triền miên cuối cùng thức”: “Một hòn đá ấy trông nghiêng thì
cũng tung ra “miếng đòn y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền
hiểm nhất” như muốn phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến.
nuốt trọn người lái đò. Một hòn khác lùi lại một chút và thách
+ Những đòn đánh như thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”.
bùng nổ khiến “Mặt sông Chình vì sự máu chiến của những hòn đá
trong tích tắc loà sáng lên khiến “ông đò Ông đò hai tay giữ chặt mái
như một cửa bể đom đóm chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa
rừng ùa xuống mà châm phóng thẳng vào mình”. Những cơn sóng
lửa vào đầu sóng”. chẳng khác nào những kẻ bất cần đời mà
cứ phi thẳng vào mà đá trái, rồi “thúc gối

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 101



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

+ Sông Đà liên tiếp khẳng vào bụng và hông thuyền”. Có những lúc
định sự hung bạo của chúng hung hãn đến mức như “đội cả
mình khi liên tiếp tung ra thuyền lên”. Thác nước vẫn tiếp tục tạo
những “đòn đánh tỉa, đánh ra những âm thanh náo nhiệt, vang trời
đòn âm vào chỗ hiểm” nhằm làm nhụt chí của những kẻ yếu
khiến ông đò phải vất vả bóng vía: ““Nước bám lấy thuyền như đô
chống cự. vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa
mình ra giữa trận nước vang trời thanh
ð Lại một lần nữa, Nguyễn
la não bạt”, những con sóng vẫn tiếp tục
Tuân đã cho độc giả thấy
cản trở người lái đò, nó bám lấy thắt lưng
vốn kiến thức uyên thâm
của ông đò cơ hồ lật ngửa mình ra.
của mình khi sử dụng hàng
Những cơn sóng triền miên cuối cùng
loạt thuật về quân sự, thể
cũng tung ra “miếng đòn hiểm nhất” như
thao và võ thuật. Cùng với
muốn nuốt trọn người lái đò cùng con
đó là kho ngôn từ phong
thuyền nhỏ bé: “Sóng thác đã đánh đến
phú, sinh động với hàng
miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng
loạt động từ mang sắc thái
nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ
nhân hoá đặt trong câu
người lái đò”. Những đòn đánh như bùng
văn ngắn gọn, nhịp điệu
nổ khiến “Mặt sông trong tích tắc loà
nhanh, dồn dập khiến thác
sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng
đá Sông Đà thực sự trở
ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”.
thành một chiến trường
Sông Đà đã liên tiếp khẳng định sự hung
với những trận hỗn chiến
bạo của mình khi liên tiếp tung ra những
ác liệt giữa con người và
“đòn đánh tỉa, đánh đòn âm vào chỗ
thiên nhiên. Qua đó,
hiểm” khiến ông đò “mặt méo bệch” vất
Nguyễn Tuân đã ca ngợi
vả chống cự.
hình tường con người lao
động Tây Bắc với sự dũng Lại một lần nữa, Nguyễn Tuân đã cho độc
cảm, gan dạ và bình tĩnh giả thấy vốn kiến thức uyên thâm của
khi đối mặt với sự nguy mình khi sử dụng hàng loạt thuật về
hiểm của thiên nhiên. quân sự, thể thao và võ thuật. Cùng với
đó là kho ngôn từ phong phú, sinh động
* Trùng vi thạch trận thứ
với hàng loạt động từ mang sắc thái nhân
hai
hoá đặt trong câu văn ngắn gọn, nhịp
- Sông Đà gian xảo khiến điệu nhanh, dồn dập khiến thác đá Sông
người lái đò khi tới trùng Đà thực sự trở thành một chiến trường
với những trận hỗn chiến ác liệt giữa con

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 102



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

vi thạch trận thứ hai phải người và thiên nhiên. Qua đó, Nguyễn
“đổi luôn chiến thuật”. Tuân đã ca ngợi hình tường con người
lao động Tây Bắc với sự dũng cảm, gan
- Sự hiểm ác và sức mạnh
dạ và bình tĩnh khi đối mặt với sự nguy
của Sông Đà ghê gớm đến
hiểm của thiên nhiên.
mức Nguyễn Tuân phải
đẩy nó lên mức độ thần Đến trùng vi thạch trận thứ hai, Sông Đà
linh trong hình ảnh ẩn dụ gian xảo vô cùng khiến người lái đò phải
“thần sông thần đá”. ngay lập tức thay đổi chiến thuật để đối
phó với con thuỷ quái này. Sự hiểm ác và
- Ở trùng vi thứ hai, Sông
sức mạnh của Sông Đà ghê gớm đến mức
Đà đã “tăng thêm nhiều
Nguyễn Tuân phải đẩy nó lên mức độ
cửa tử để đánh lừa con
thần linh trong hình ảnh ẩn dụ “thần
thuyền vào, và cửa sinh lại
sông thần đá”. Nếu ở trùng vi thứ nhất, ải
bố trí lệch qua phía bờ hữu
nước hiểm trở này chỉ bày ra năm cửa
ngạn”.
trận với bốn cửa tử và một cửa sinh thì
- “Dòng thác hùm beo đang đến thạch trận thứ hai Sông Đà đã toan
hồng hộc tế mạnh trên tính “tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa
sông đá”: thác đá được con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch
động vật hoá để tăng thêm qua phía bờ hữu ngạn”. Và rồi có lẽ vì quá
sự hung hãn, hoang dại, tức giận bởi có chiếc thuyền đã lọt được
như thể từng hơi thở đang vào vòng vây thứ hai, thác đã bỗng được
muốn bủa vây, muốn ngấu động vật hoá: “dòng thác hùm beo đang
nghiến con thuyền cùng hồng hộc tế mạnh trên sông đá” làm tăng
người lái đò. thêm sự hung hãn, hoang dại như thể
- “Bốn năm bọn thuỷ quân từng hơi thở đang muốn bủa vây, muốn
cửa ải nước bên bờ trái ngấu nghiến con thuyền nhỏ bé cùng
liền xô ra định níu thuyền người lái đò. Ngay lúc này, ông lái đò
lôi vào tập đoàn cửa tử”: bằng sự điềm tĩnh và đôi tay linh hoạt đã
Sông Đà vẫn lì lợm, nó cảm hoá được con thuỷ quái Sông Đà,
quyết tử với ông lái đò. mặc cho nó vẫn lì lợm ra lệnh cho bọn
thuỷ quân kéo chiếc thuyền quay lại cửa
- “Chỉ còn văng vẳng reo tử: “Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước
tiếng hò của sóng thác bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi
luồng sinh. Chúng vẫn vào tập đoàn cửa tử”. Trùng vi thứ hai
không ngớt khiêu khích, dường như đã thất thủ trước sự “tay lái
mặc dầu cái thằng đá ra hoa”, mặc cho tướng đá không ngừng

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 103



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

tướng đã tìu nghỉu cái mặt tiếp tục khiêu khích nhưng hắn chẳng thể
xanh lè thất vọng thua cái nào giấu đi sự thất vọng “tìu nghỉu xanh
thuyền đã đánh trúng vào lè”.
cửa sinh nó trấn lấy”:
Napoleon đã từng nói: “Trên thế giới có
trùng vi thứ hai đã thất thủ
hai loại sức mạnh: thanh gươm và cây
hoàn toàn.
bút. Thanh gươm thì đoạt thành chiếm
ð Sử dụng hàng loạt động đất, cây bút thì chinh phục lòng người.
từ mạnh kết hợp cùng Rốt cuộc thì cây bút mạnh hơn thanh
những biện pháp nghệ gươm”. Và vây bút của Nguyễn Tuân
thuật so sánh, nhân hoá thực sự cũng đã chinh phục được lòng
độc đáo khiến sức mạnh người khi viết về trùng vi thạch trận thứ
của Sông Đà tăng lên gấp hai. Những động từ mạnh tuôn chảy
vạn lần. Mượn hình ảnh không ngớt cộng hưởng cùng hàng loạt
Sông Đà hung bạo, Nguyễn biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá
Tuân đã làm nổi bật hình độc đáo khiến sức mạnh của Sông Đà
tượng người dân lao động tăng lên gấp vạn lần. Song thiên nhiên dù
Tây Bắc. có hùng vĩ đến mấy cũng sẽ bị con người
chế ngự và chinh phục. Mượn sự hùng
*Trùng vi thạch trận thứ
bạo của Sông Đà, Nguyễn Tuân đã khéo
ba
léo làm nổi bật “thứ vàng mười đã qua
- “Ít cửa hơn, bên phải bên thử lửa” ở những người dân lao động nơi
trái đều là luồng chết cả. bạt ngàn Tây Bắc.
Cái luồng sống ở chặng
Sau sự thất thế ở trùng vi thứ hai, Sông
này lại ở ngay giữa bọn đá
Đà ở trùng vi cuối cùng dường như quyết
hậu vệ của con thác”: sự
tâm ngăn cản sức mạnh phi thường của
nguy hiểm của Sông Đà
người lái đò Sông Đà bằng cách bố trí
mỗi lúc một tăng lên.
chằng chịt những luồng chết: “Ít cửa hơn,
- “cửa ngoài, cửa trong, lại bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái
cửa trong cùng”: những luồng sống ở chặng này lại ở ngay giữa
hòn đá dựng lên nhiều bọn đá hậu vệ của con thác”. Tiếp đén lũ
tuyến phòng thủ. đá hậu vệ được bố trí thành những “cổng
ð Sử dụng hệ thống từ đá cánh mở cánh khép”, thành những
ngữ sống động, tổng hợp “cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng”
trên nhiều vốn tri thức, để tạo ra nhiều tuyến phòng thủ nhằm
vốn văn hóa về nhiều lĩnh cản bước người lái đò. Nhưng lại một lần

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 104



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

vực khác nhau trong đời nữa, con người nhỏ bé kia giành chiến
sống: hội họa, điển ảnh thắng trước sự hung bạo của Sông Đà.
đến quân sự; kết hợp với Ông lái đò cùng chiếc thuyền nhỏ bé biến
nghệ thuật viết tùy bút bậc thành chiếc mũi tên tre lao nhanh vun
thầy khiến con sông Đà vút xuyên qua hàng hàng, lớp lớp những
hung bạo, độc hiểm ở ba cánh cổng đá, vượt qua những luồng tử
trùng vi thạch trận cũng để rồi thở phào nhẹ nhõm: “Thế là hết
phải hiện hình rõ nét trên thác”.
trang giấy của Nguyễn
Như vậy, bằng việc sử dụng hệ thống từ
Tuân.
ngữ sống động, tổng hợp trên nhiều vốn
tri thức, vốn văn hóa về nhiều lĩnh vực
khác nhau trong đời sống, từ hội họa,

điển ảnh đến quân sự; kết hợp với nghệ
thuật viết tùy bút bậc thầy khiến con
sông Đà hung bạo, độc hiểm ở ba trùng vi
thạch trận cũng phải hiện hình rõ nét
trên trang giấy của Nguyễn Tuân. Dưới
ngòi bút tài hoa bậc thầy, sông Đà mang
dáng dấp của những gì mãnh liệt nhất,
hùng vĩ nhất, kiêu bạc nhất của đất trời
Tây Bắc. Không những thế, Đà giang còn
ánh lên trang viết của Nguyễn Tuân với
cái hồn cốt của một người nghệ sĩ vướng
nợ tang bồng, cả một đời cầm bút mê mải
đi tìm về cái đẹp, hôn phối cùng cái đẹp
và khai sinh ra cái đẹp. Cái đẹp mà
Nguyễn Tuân hướng đến trong thiên tuỳ
bút “Nguời lái đò Sông Đà” không chỉ là

vẻ đẹp của thiên nhiên bạt ngàn Tây Bắc
mà nó còn là vẻ đẹp trong đời sống lao
động, chiến đấu hàng ngày của những

con người trên quê hương, đất nước
mình.
Văn chương Nguyễn Tuân như một thứ
men rượu khiến người ta mê mải say

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 105



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

sưa, say đến độ ngất ngây, say lửng say


lơ mà không cách nào dứt ra được. Hôm

nay khi ta đọc lại sông Đà cũng là khi ta
gặp lại một Nguyễn Tuân kiêu bạc, hào
hoa đã in bóng khắc hình vào trong xanh
văn học. Sông Đà vẫn còn đó, năm năm
tháng tháng làm mình làm mẩy với con
người Tây Bắc, lại cùng con người sinh
sôi nảy nở, cùng trải qua thống khổ đạn
bom, cùng ngân vang khúc hát khải hoàn.
Bởi lẽ đó “Người lái đò sông Đà” sẽ mãi là
dấu ấn đặc sắc nhất trong sự nghiệp cầm
bút của ông. Đã qua nửa thế kỉ kể từ khi
Đà giang bắt mạch trong trang văn của
Nguyễn Tuân, hậu thế hôm nay đọc lại
tập tùy bút “Sông Đà” vẫn không khỏi
thán phục, quả thực: “Chỉ người ưa suy
xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì
văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để
người nông nổi thưởng thức.” (Vũ Ngọc
Phan).

Năm 1945 Nguyễn Tuân viết “Lột xác”
3. Sông Đà trữ tình
như là lời tuyên ngôn nghệ thuật của
3.1 Từ trên cao nhìn ông: “Mày huỷ diệt hết những con người
xuống cũ ở trong mày đi – những con người mà
mày mệnh danh là cố nhân... Đào thải
* Sông Đà đẹp như một
chưa đủ. Phải tàn sát. Giết, giết hết. Thò
người thiếu nữ kiều
đứa nào ở dĩ vãng hiện về đòi hỏi bất cứ
diễm
một tí gì của mày bây giờ, là mày phải
- “Con Sông Đà tuôn dài giết ngay. Mày phải tự hoại nội tâm mày
tuôn dài như một áng tóc đi đã”. Lời xác quyết ấy tuy có phần cực
trữ tình, đầu tóc, chân tóc đoan nhưng lại là lời tâm sự chân thành
ẩn hiện trong mây trời Tây rất mực. Lật mở từng trang viết của nhà
Bắc bung nở hoa ban gạo văn Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng
tháng hai và cuồn cuộn mù Tám, người đọc không thể quên chất
phong sương, phiêu lãng đã thấm trong

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 106



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

khói núi Mèo đốt nương mạch văn dồi dào sinh khí. Đặc biệt đến
xuân”: với “Người lái đò Sông Đà” qua trích
đoạn Sông Đà trữ tình, Nguyễn Tuân đã
+ Câu văn dài chỉ có một
đưa người đọc đến một con sông êm đềm
dấu ngắt duy nhất: đem
như một giấc mơ, dịu hiền như một miền
đến cảm giác liền mạch bất
cổ tích.
tận.
Vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà qua ống kính
+ Điệp ngữ “tuôn dài tuôn
của Nguyễn Tuân được hiện lên với
dài”: gợi độ dài của dòng
nhiều góc độ khác nhau. Góc độ thứ nhất
sông.
là từ trên cao nhìn xuống, Sông Đà hiện
+ Phép so sánh “như một lên như người thiếu nữ kiều diễm, dịu
áng tóc trữ tình”: gợi vẻ dàng với áng tóc trữ tình đằm thắm: “Con
đẹp dịu dàng, mềm mại, Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng
đằm thắm và duyên dáng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện
đầy nữ tính làm mê đắm trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban
lòng người. gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi
+ Cách kết hợp từ độc đáo: Mèo đốt nương xuân”. Câu văn dài chỉ có
chữ “áng” thường gắn với dấu ngắt duy nhất kết hợp cùng điệp ngữ
áng thơ, áng văn nay được “tuôn dài tuôn dài” gợi hình ảnh dòng
Nguyễn Tuân gắn với tóc sông kéo dài liền mạch đến bất tận với vẻ
thành “áng tóc trữ tình” đẹp dịu dàng, mềm mại, đắm thắm và
qua đó làm nổi bật vẻ đẹp duyên dáng đầy nữ tính. Những thanh
thơ mộng của Sông Đà. bằng liên tiếp ở đầu câu văn càng làm
tăng thêm sự yên ả, êm đềm và bình lặng
+ Hai chữ “ẩn hiện” làm cho dòng sông miên man khúc hạ nguồn,
tăng sự bí ẩn của Đà giang, nó trái ngược hoàn toàn với vẻ đẹp hùng
hiện hữu trước mắt ta là vĩ, dữ dội và hung bạo của con sông nơi
một người thiếu nữ vừa thượng nguồn. Phép so sánh “như một
dịu dàng đằm thắm, vừa e áng tóc trữ tình” đã đem đến cho Sông Đà
lệ, rụt rè khiến người lữ nét nữ tính làm mê đắm lòng người, lúc
khách phải tò mò, đắm say. này đây, Sông Đà hiện lên với dáng vẻ hệt
ð Đà giang là một con như một giai nhân tuyệt sắc, nàng tiên nữ
sông rất đỗi trữ tình, đằm ấy muôn phần kiêu sa khoác lên mình
thắm, nên thơ đã làm rung tấm áo choàng màu xanh bích ngọc cùng
động trái tim của biết bao mái tóc tuôn dài với đất trời trù phú. Đọc
câu văn mà Nguyễn Tuân so sánh Sông

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 107



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

người nghệ sĩ ghé qua nơi Đà tuôn dài giống một “áng tóc trữ tình”
đây. tôi nhớ đến một tác phẩm của chính nhà
văn viết năm 1943 mang tên “Tóc chị

Hoài”: “một mớ tóc trần quấn rất chắc ấy
đổ tung xuôi xuống như một trận mưa
rào đen nhánh. Rồi mớ tóc mây dài như
một sải rưỡi ôm lấy gáy, ấp lấy bả vai. Cái
người nào trong suốt một đời người mà
không được ngắm một mớ tóc cho tử tế,
thì cái thẩm mỹ quan của người ấy còn
lung lay lắm, chưa lấy gì làm định.” Và
phải chăng chính vì những giây phút
ngắm mái tóc óng ả, đẹp đẽ mà cái mỹ
quan của Nguyễn Tuân được bồi đắp, để
dòng chảy của sông đà cũng óng ngần và
tuôn chảy với một vẻ đẹp rất riêng như
thế! Chữ “áng” vốn thường được gắn liền
với áng thơ, áng văn nay được Nguyễn
Tuân gắn với tóc thành “áng tóc trữ tình”.
Chính cách kết hợp từ độc đáo này đã
làm nổi bất vẻ đẹp thơ mộng của con
Sông Đà, nó như một kiệt tác hội hoạ của

Tây Bắc, của tạo hoá, đẹp một cách lỗng
lẫy, đài các, kiêu sa. Hai chữ “ẩn hiện” đã
làm tăng sự bí ẩn của Đà giang, để hiện

hữu trước mắt ta là một người thiếu nữ
vừa dịu dàng đằm thắm, vừa e lệ, rụt rè
khiến người lữ khách ghé qua phải tò mò,
đám say.Trong câu văn miêu tả rất đỗi tài
hoa của mình, Nguyễn Tuân còn khéo léo
cài cắm lên “áng tóc” kia chút thơ mộng
huyền ảo của mây trơi, chút tươi tắn rực
rỡ bởi sự “bung nở” của “hoa ban hoa gạo
tháng hai” và chút ấm áp thân thương
của “khói núi Mèo đốt nương xuân” đang
“cuồn cuộn mù”. Dường như, sông Đà

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 108



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

luôn thoắt ẩn thoắt hiện trong nhiều


dáng vẻ khác nhau: có khi là nàng tiên nữ

xinh đẹp dịu dàng, khi lại là bà hoàng đất
Tây Bắc với sự cuồn cuộn chảy trôi qua
đời đời kiếp kiếp, có khi sông Đà như một
đóa hoa đang đợi ngày bừng nở,... Nhưng
dù mang dáng vẻ nào, Đà giang vẫn là
một con sông rất đỗi trữ tình, đằm thắm,
nên thơ đã làm rung động trái tim của
biết bao người nghệ sĩ ghé qua nơi đây.
* Màu nước Sông Đà đầy Như thời gian và không gian nghệ thuật,
biến ảo màu sắc là một tin hiệu phản ánh thế giới
- “Tôi đã nhìn say sưa làn tâm hồn của chủ thể sáng tạo. Bất kì nghệ
mây mùa xuân bay trên sĩ nào, khi tiếp nhận và đưa màu sắc vào
Sông Đà, tôi đã xuyên qua thế giới nghệ thuật của mình, đều theo
đám mây mùa thu mà nhìn một cách công phu và tinh tế nhất. Bởi lẽ
xuống dòng nước Sông vậy, khi đọc những trang văn viết về
Đà”: Sông Đà trữ tình, ta thấy Nguyễn Tuân đã
say sưa ngắm nhìn con sông ấy qua
+ Câu văn sử dụng nhiều những màu sắc đầy biến ảo theo từng
thanh bằng tạo nên sự êm bước đi của thời gian. Chính vẻ đẹp của
ái, nhẹ nhàng. mây trời đã tạo cho con sông Đà một vẻ
+ Từ láy “say sưa”: bộc lộ đẹp riêng không trộn lẫn: “Tôi đã nhìn
vẻ say mê, đắm đuối của say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông
nhà văn, nhìn mà không Đà, tôi đã xuyên qua dám mây mùa thu
chớp mắt, nhìn mà như bị mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà”. Câu
thôi miên. văn sử dụng nhiều thanh bằng tạo nên sự
êm ái, nhẹ nhàng kết hợp cùng từ láy “say
ð Nhà văn như bị hớp hồn sưa” đã bộc lộ vẻ say mê, đắm đuối của
bởi vẻ đẹp của Sông Đà nhà văn, nhìn mà không chớp mắt, nhìn
- Nước Sông Đà vào mùa mà như bị thôi miên, hớp hồn bởi vẻ đẹp
xuân: “Mùa xuân dòng trữ tình của Đà giang. Trước hết, đó là
xanh ngọc bích, chứ nước nước Sông Đà vào mùa xuân được
Sông Đà không xanh như Nguyễn Tuân miêu tả rất nghệ: “Mùa
xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước
Sông Đà không xanh như màu xanh canh

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 109



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

màu xanh canh hến của hến của Sông Gấm Sông Lô”. Xanh ngọc
Sông Gấm Sông Lô”. bích vốn là màu xanh trong, xanh sáng -
một màu sắc gợi cảm, không có sự pha
+ Xanh ngọc bích là màu
tạp. Đó là sắc màu của nước, của núi, của
xanh trong, xanh sáng -
da trời. Sắc xanh sông Đà của những ngày
một màu sắc gợi cảm,
Tây Bắc vào xuân khiến ta liên tưởng tới
không pha tạp. Đó là sắc
màu xanh mát mắt của khu vườn Vĩ Dạ
màu của núi, của nước, của
trong thơ Hàn:
da trời.
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
+ So sánh màu “xanh ngọc
bích” của Sông Đà với màu Việc so sánh màu “xanh ngọc bích” của
“xanh canh hến” của Sông Sông Đà với màu “xanh canh hến” của
Gấm Sông Lô chính là sự Sông Gấm Sông Lô chính là sự khẳng
khẳng định: màu xanh định: màu xanh của Sông Đà là một vẻ
ngọc bích của Sông Đà là đẹp riêng biệt, hiếm có và hiếm thấy.
vẻ đẹp riêng, hiếm có, Đồng thời, đó còn là biểu hiện của một
hiếm thấy. nhà văn thị tài cũng như một thiên vị kín
đáo của cụ Nguyễn dành cho niềm yêu
ð Vào những ngày xuân,
say đắm, niềm mê vô bờ với đối với dòng
màu nước sông Đà cứ dịu
Sông Đà. Vào những ngày xuân, màu
dàng, êm ả lại trong xanh
nước sông Đà dịu dàng, êm ả lại trong
như một viên ngọc nước
xanh như một viên ngọc nước khổng lồ
khổng lồ thăm thẳm. Đà
thăm thẳm. Đà giang cứ như thế đã hòa
giang đã hòa vào nhịp đập
mình vào nhịp đập chung của Tây Bắc,
chung của Tây Bắc, của
của quê hương để rồi sinh sôi nảy nở và
quê hương để sinh sôi nảy
tuôn dài mãi với đất trời. Nước Sông Đà
nở và tuôn dài mãi với đất
vào mùa thu: “lừ lừ chín đỏ như da mặt
trời.
một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái
- Nước Sông Đà vào mùa màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực
thu: “Mùa thu nước Sông bội gì mỗi độ thu về”. Từ láy “lừ lừ” gợi tả
Đà lừ lừ chín đỏ như da một dòng chảy nặng nề, điềm đạm và
mặt một người bầm đi vì chẫm rãi của con sông đầy nặng phù sa
rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ thượng nguồn. Phép so sánh “lừ lừ chín
giận dữ ở một người bất đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu
mãn bực bội gì mỗi độ thu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một
về.” người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 110



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

+ Từ láy “lừ lừ” gợi tả dòng tác giả tạo liên tưởng màu nước sông Đà
chảy nặng nề, điềm đạm, hệt như nước da trên gương mặt một
và chậm rãi của còn sông người say rượu mỗi bữa mà cơn say
đầy nặng phù sa thượng triền miên còn để lại màu da chín đỏ trên
nguồn. mặt người. Gã say ấy còn như đang bất
mãn, bực bội điều gì nhiều lắm nên nét
+ Phép so sánh “lừ lừ chín
mặt cứ cau có, gắt gỏng tới mức khó coi.
đỏ như da mặt một người
Dẫu vậy, sông Đà mùa này vẫn đẹp, đẹp
bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ
với màu nước và dáng vẻ riêng biệt,
cái màu đỏ giận dữ ở một
thuộc về riêng Đà giang, về riêng Tây Bắc
người bất mãn bực bội gì
như một dấu triện giữa đất trời hoan ca.
mỗi độ thu về”: không chỉ
Và dường như cái màu đỏ “lừ lừ” ấy chỉ
gợi màu sắc đặc trưng của
có Nguyễn Tuân mới thấy, mới cảm, mới
Sông Đà trong mùa thu mà
viết nên được. Nó chỉ có thể tạo nên từ
còn thể hiện sực mạnh
bàn tay của một người nghệ sĩ tài hoa
tiềm tàng ẩn chứa những
“suốt đời đi tìm cái đẹp” (Nguyễn Đình
đe doạ của một dòng sông
Thi). Con Sông Đà được bà con dân tộc
“năm năm báo oán, đời đời
Thái với bản chất thật thà gọi nó bằng cái
đánh ghen” với con người.
tên trìu mến: Nậm Tè (sông Thật), ngược
lại, bọn thực dân Pháp với mưu đồ đen
tối và tâm địa hắc ám, đã gọi sông Đà là
Rivière Noire (sông Đen). Vì lẽ vậy mà
Nguyễn Tuân đã để thể hiện sự bất bình
cũng như khẳng định chắc nịch: “Chưa hề
bao giờ tôi thấy dòng sông Đà là đen như
thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra
đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên
Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết lên bản
đồ lai chữ”. Thái độ của ông thể hiện rõ
trong cách nói đối lập “ta” với “Tây” và
giọng điệu chì chiết dằn dữ khi viết “cứ
thế mà phiết lên bản đồ lai chữ”. Ông
nhất quyết phải chứng minh được con
Sông Đà của ta nó khác, và cách chứng
thật công phu – công phu ở bước “thực
địa” và ở cả cách chọn từ, chọn chữ.

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 111



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

3.2 Sông Đà khi lâu ngày Phải biết khám phá cái đẹp bằng “con
gặp lại mắt xanh” và “tấm lòng vàng” đó chính là
thiên mệnh của người nghệ sĩ. Nguyễn
- “Con Sông Đà gợi cảm”:
Tuân trong quá trình lao động nghệ
lời khẳng định về một con
thuật đã thực hiện xuất sắc cũng như độc
sông có cảnh sắc làm mê
đáo thiên chức ấy. Bằng cảm quan thiên
đắm lòng người.
nhiên, đất nước thiết tha, mạnh mẽ hiếm
- “Đối với mỗi người, Sông có đã giúp cụ Nguyễn vẽ nên một “bản đồ
Đà lại gợi một cách. Đã có Việt Nam” bằng ngôn từ thật đặc sắc
lần tôi nhìn Sông Đà như được thể hiện qua trích đoạn Sông Đà trữ
một cố nhân”: tình khi lâu ngày gặp lại. Trong niềm yêu
+ Chính vẻ đẹp của dòng nhớ khiến nhà văn xác quyết về một con
sông trữ tình đã làm gợi sông có cảnh sắc làm mê đắm lòng người:
lên trong mỗi người lữ “Con Sông Đà gợi cảm”. Chính vẻ đẹp của
khách ghé qua đây những dòng sông trữ tình đã làm gợi lên trong
cảm nhận rất riêng. mỗi người lữ khách ghé qua nơi đây có
những cảm nhận rất riêng: “Đối với mỗi
+ Đối với Nguyễn Tuân, người, Sông Đà lại gợi một cách”. Nhưng
ông coi Sông Đà là một cố đặc biệt, Nguyễn Tuân lại coi Sông Đà là
nhân - một người bạn cũ. một cố nhân - một người bạn cũ có tâm
- “Chuyến ấy ở rừng đi tình, có xúc cảm mà đối với người chính
cũng đã hơi lâu, đã thèm là đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn
chỗ thoáng. Mải bám gót xiết: “Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một
anh liên lạc, quên đi mất cố nhân”. Hai chữ “cố nhân” đủ cho ta
mình sắp đổ ra Sông Đà”: thấy sự trân trọng mà nhà văn dành cho
tình huống đặc biệt cho con sông Tây Bắc. Cách dùng từ của
nỗi nhớ, niềm yêu, cho Nguyễn Tuân làm ta liên tưởng đến
những bồn chồn, khát những lần Nguyễn Bính họa lại hình ảnh
khao,… của một cố nhân với nhiều sắc thái xúc
cảm khác nhau, trong đó nổi bật là những
- “Xuống một cái dốc núi, vần thơ đầy chua xót:
trước mắt thấy loang
loáng như trẻ con nghịch “Cố nhân chẳng khóa buồng xuân lại
chiếu gương vào mắt mình Vung vãi ân tình khắp đó đây”
rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái
miếng sáng loé lên một (Giời mưa ở Huế)
màu nắng tháng ba Đường

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 112



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

thi “Yên hoa tam nguyệt hà Để thể hiện sự gợi cảm của một dòng
Dương Châu””: sông gần thương xa nhớ, nhà văn đã tạo
ra một tình huống đặc biệt cho nỗi nhớ,
+ Từ láy “loang loáng” gợi
niềm yêu, cho những bồn chồn, khát
ra hình ảnh nắng chiếu lấp
khao,… đó là tính huống: Chuyến ấy ở
lánh, long lanh.
rừng đi cũng đã hơi lâu, đã thèm chỗ
+ Chưa ra đến cửa rừng, thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi
mới chỉ thấy “từng miếng mất mình sắp đổ ra Sông Đà”. Lần này,
sáng” của dòng sông ẩn Nguyễn Tuân không dùng âm thanh để
hiện mà tác giả đã bồn gợi ra Sông Đà, mà nhà văn khéo léo sử
chồn, háo hức. dụng ánh sáng chói loá của mặt trời chiếu
+ Nắng đẹp khiến nhà văn xuống dòng sông: “Xuống một cái dốc núi,
say đắm liên tưởng đến trước mắt thấy loang loáng như trẻ con
câu thơ được coi là “thiên nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ
cổ lệ cú” của Lí Bạch: “Yên chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng loé lên một
hoa tam nguyệt hà Dương màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa
Châu”: tam nguyệt hà Dương Châu””. Từ láy
“loang loáng” gợi ra hình ảnh nắng chiếu
• Gợi tả được vẻ đẹp lãng lấp lánh, long lanh, thu hút sự chú ý của
mạn của hoa khói mùa Nguyễn Tuân dù chưa đến cửa rừng và
xuân, cổ kính, huyền ảo, mới chỉ thấy “từng miếng sáng” của dòng
trong sáng, lấp lánh, và sông ẩn hiện đã khiến nhà văn bồn chồn,
hồn nhiên thanh bình. háo hức, đã vội vàng, khao khát. Khi bắt
• Sông Đà không chỉ chảy gặp ánh nắng chiếu vào mắt, trong sự
trôi trong không gian mà hướng ngoại, nhà văn đã phát hiện ra
còn miên man trong nắng sông Đà đẹp đến mê hồn trong ánh
dòng chảy của thời gian sáng lóe lên một màu nắng tháng ba
miên viễn, xa xăm của Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há
thế giới Đường thi phồn Dương Châu”. Mượn một câu thơ trong
thịnh. bài thơ Đường nổi tiếng được coi là
ð Tài năng thi ca vô cùng “thiên cổ lệ cú” của Lí Bạch: “Tại lầu
uyên bác của Nguyễn Tuân. Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi
Quảng Lăng” - Nguyễn Tuân dường như
- “Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của
chuồn chuồn bươm bướm dòng sông Tây Bắc. Nó đã gợi tả được vể
trên Sông Đà”: Thị giác của đẹp lãng mạn của hoa khói mùa xuân, cổ

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 113



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

tác giả bắt gặp sức sống dạt kính, huyền huyền ảo, trong sáng, lấp
dào bên bờ sông. Câu văn lánh, và hồn nhiên thanh bình. Lúc này,
sử dụng biện pháp liệt kê: Sông Đà không chỉ chảy trôi trong không
bờ, bãi, chuồn chuồn, gian mà còn miên man trong dòng chảy
bươm bướm làm Sông Đà của thời gian miên viễn, xa xăm của thế
hiện lên với cảnh vật sinh giới Đường thi phồn thịnh. Lại một lần,
sống, phong phú đa dạng. người đọc thấy được vốn hiểu biết sâu
rộng của Nguyễn Tuân qua kiến thức về
- “Chao ôi, trông con sông,
thi ca nghệ thuật. Tiến vào dòng chảy của
vui như thấy nắng giòn tan
Sông Đà, thị giác của nhà văn bắt gặp bên
sau kì mưa dầm, vui như
dòng chảy ấy sức sống đang dào dạt với
nối lại chiêm bao đứt
“Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn
quãng”:
bươm bướm trên Sông Đà”. Câu văn sử
+ Nhà văn thốt lên “chao dụng biện pháp liệt kê: bờ, bãi, chuồn
ôi” như một tiếng lòng cảm chuồn, bươm bướm làm Sông Đà hiện lên
thán trước cảnh vật quyến với cảnh vật sinh sống, phong phú đa
rũ lung linh sau bao tháng dạng. Nhà văn bỗng chợt nhận ra: “Chao
ngày gặp lại. ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn
+ biện pháp nghệ thuật so tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm
sánh độc đáo: “”vui như bao đứt quãng”. Gặp lại Sông Đà khiến
thấy nắng giòn tan” đã Nguyễn Tuân phải thốt lên “chao ôi” như
khiến cảm xúc của ta như một tiếng lòng cảm thán trước cảnh vất
lâng lâng, sảng khoái trước quyến rũ lung linh sau bao tháng ngày
bút lực của Nguyễn Tuân. gặp lặp. Biện pháp nghệ thuật so sánh độc
đáo: “vui như thấy nằng giòn tan sau kì
+ “Nắng giòn tan: một sự mưa dầm” đã khiến cảm xúc của ta như
kết hợp táo bạo. lâng lâng, sảng khoái trước bút lực của
+ Lại tiếp một vế so sánh: Nguyễn Tuân. Nắng tuy hữu hình nhưng
“vui như nối lại chiêm bao lại là vô thẻ, chỉ có thể nhìn mà không thể
đứt quãng” - một việc gần nắm bắt. Nhưng “giòn tan” lại là tính từ
như không thể có trong đời dùng để chỉ đặc điểm của những vật thể
người. Vậy mà Nguyễn mỏng manh, dễ vỡ. “Nắng giòn tan” chính
Tuân lại được trải qua cái là một sự kết hợp táo bạo mà chẳng có
sự hi hữu ấy khiến niềm một cây bút non tay nào có thế liên tưởng
vui sướng như nhân lên mà viết ra được. Đó là một ẩn dụ đẹp đẽ
gấp bội. để gợi ra cái nắng thật trong, thật sáng,

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 114



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

- “Đi rừng dài ngày rồi lại thật ấm áp và thật quý giá. Còn gì hạnh
bắt ra Sông Đà, đúng thế, phúc bằng sau quãng đường dài sống
nó đằm đằm ấm ấm như cùng với cái u ám, trĩu nặng của những
gặp lại cố nhân, mặc dầu trận mưa dầm ngày đêm không dứt bỗng
người cố nhân ấy mình biết được đón cái “nắng giòn tan”. Lại tiếp một
là lắm bệnh lắm chứng, vế so sánh: “vui như nối lại chiêm bao đứt
chốc dịu dàng đấy, rồi chốc quãng” - một việc gần như không thể có
lại bẳn tính và gắt gỏng trong đời người. Nhưng thật may mắn,
thác lũ ngay đấy”: Sông Đà Nguyễn Tuân lại được trải qua cái sự hi
thực sự đã trở thành người hữu ấy khiến niềm vui sướng như nhân
bạn cũ, người tri âm với lên gấp bội. Là một nhà văn của những
biết bao kỉ niện gắn bó khát khao xê dịch đã nhiều lần ghé thăm
trong quá khứ, bao nhớ “cố nhân”, ấy vậy mà lần nào gặp lại Đà
thương trong hiện tại, bao giang cũng hưng phấn, tươi mới, kì diệu
hẹn hò thuỷ chung trong như vừa được tận hưởng, như lần gặp
tương lai, dẫu trái tính mà đầu tiên, lần cuối cùng và cũng là lần duy
vẫn có sức hấp dẫn làm hê nhất. Khép lại đoạn trích, Nguyễn Tuân
hoặc lòng người. tiếp tục sử dụng biện pháp nghệ thuật so
sánh: “Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông

Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp
lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy
mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc
dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt
gỏng thác lũ ngay đấy”. Sông Đà thực sự
đã trở thành người bạn cũ, người tri âm
với biết bao kỉ niện gắn bó trong quá khứ,
bao nhớ thương trong hiện tại, bao hẹn
hò thuỷ chung trong tương lai, dẫu trái
tính mà vẫn có sức hấp dẫn làm hê hoặc
lòng người. Bằng việc sử dụng biện pháp
so sánh độc đáo, nhân cách hoá, sông Đà
đã hiện lên với vẻ đẹp mang chiều sau
tính cách hệt như một con người: thân
thiện, dễ mến, phảng phất hơi ấm tình
người của dòng sông.

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 115



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

Nó trở thành người bạn hiền chung thuỷ,


điềm tĩnh chờ đợi người đi xa trở về để

rồi lại tay bắt mặt mừng, lại gắn kết và ăn
đời ở kiếp cùng với con người qua ngàn
cơn bão tố. Con sống ấy khi tuôn dài qua
bầu mực của ngòi bút Nguyễn Tuân đã
hiện lên như một sinh thể có sự sống, có
nhịp đập nơi bầu tim rộn rã, có xúc cảm
nhung nhớ, luyến lưu. Và có lẽ cũng chính
vì như thế, nên nó cứ nhớ thương hoài
người đã đi xa, cứ đợi chờ hoài mãi bóng
dáng người đã chân bước qua sông. Nay
ta soi mình vào dòng nước Đà giang, ta lại
bồi hồi nhớ thương nhà thơ của núi Tản
sông Đà cùng áng thơ đầy ân nghĩa:

“Dù như sông cạn đá mòn

Còn non còn nước hãy còn thề xưa

Non xanh đã biết hay chưa

Nước đi ra bể lại mưa về nguồn”
3.3 Sông Đà nhìn từ đôi
bờ sông Là “cả một định nghĩa về người nghệ sĩ”,
suốt cuộc đời Nguyễn Tuân luôn luôn
*Vẻ đẹp trữ tình của đôi khao khát theo đuổi và kiếm tìm cái đẹp.
bờ sông qua những hình Ông lúc nào cũng muốn lăn cả cái vỏ của
ảnh mình trên trái đất để thay đổi thực đơn
- “Thuyền tôi trôi trên Sông cho giác quan. Phải chẳng vì thế cái đẹp
Đà”: toàn thanh bằng, câu tựa như hơi thở, như nguồn sống trong
văn êm ru, nhẹ nhàng, tĩnh hành trình sáng tạo nghệ thuật của
lặng như chưa từng có dấu Nguyễn Tuân. Và có lẽ Sông Đà trữ tình
vết của con người. nhìn từ đôi bờ chính là một trong những
minh chứng rõ ràng nhất cho quan điểm
- “Cảnh ven sông lặng tờ. nghệ thuật của cụ Nguyễn. Mở đầu đoạn
Hình như từ đời Lí đời trích bằng một câu văn ngắn toàn thanh
Trần đời Lê, quãng sông bằng: “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà” tạo
cảm giác êm ru, nhẹ nhàng, tĩnh lặng như

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 116



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

này cũng lặng tờ đến thế chưa từng có dấu vết của con người xuất
mà thôi”: hiện. Nếu trong cảnh vượt thác, Nguyễn
Tuân tung ra một vốn từ ngữ phong phú,
+ Tính từ “lặng tờ” nhắc lại
chính xác, mới lạ để diễn tả cuộc chiến
hai lần như nhân đôi cái êm
giữa ông đò với thần sông, thần đá có đủ
đềm, tĩnh mịch, như khoá
quân đông, tướng dữ, bằng một giọng văn
chặt dòng chảy của thời
mạnh mẽ, nhịp văn gấp như thác gầm,
gian giúp người đọc xuôi
sóng réo, thì đến đoạn văn này giọng văn,
về quá khứ xa xưa.
nhịp điệu thay đổi hẳn: nhẹ nhàng, lâng
+ Hai chữ “hình như” mang lâng, mơ màng, vẻ đẹp thơ mộng, êm đềm
sắc thái nghi vấn gợi lên của Đà Giang ở quãng trung lưu được
bao nỗi niềm bâng khuâng diễn tả đầy chất thơ: “Cảnh ven sông lặng
thương nhớ. tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê,
+ “Hình như từ đời Lí đời quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà
Trần đời Lê, quãng sông thôi”. Tính từ “lặng tờ” nhắc lại hai lần
này cũng lặng tờ đến thế như nhân đôi cái êm đềm, tĩnh mịch, như
mà thôi”: cảm hứng lịch sử khoá chặt dòng chảy của thời gian giúp
được biểu hiện mãnh mẽ. người đọc xuôi về quá khứ xa xưa. Bên
cạnh đó, hai chữ “hình như” mang sắc
- “Bờ sông hoang dại như thái nghi vấn gợi lên bao nỗi niềm bâng
một bờ tiền sử. Bờ sông khuâng, thương nhớ. Sự hướng nội về
hồn nhiên như một nỗi dòng chảy lịch sử “Hình như từ đời Lí đời
niềm cổ tích xưa”: Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ
+ Hình ảnh so sánh độc đến thế mà thôi” càng làm nổi bật vẻ đẹp
đáo, Nguyễn Tuân không nguyên sơ, của đôi bờ đá. Hình như từ
hề làm rõ, làm hiện hữu buổi hồng hoang của nhân loại đến
hình ảnh bờ sông. những mốc lịch sử xa xưa đời Lí, Trần,
Lê,.. Sông Đà vẫn ngủ yên ả trong cái “lặng
+ Dùng không gian để gợi tờ” ấy, chưa từng ai khám phá nó, chưa
mở thời gian, mở rộng biên từng ai đánh thức nó. Tiếp đến, bờ sông
độ làm nổi bật vẻ đẹp hồn được Nguyễn Tuân miêu tả bằng những
nhiên, trong sáng, nguyên hình ảnh so sánh rất đẹp, rất độc đáo: “Bờ
thuỷ của buổi sơ khai. sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ
- Những hình ảnh thật sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích
mong manh, nhỏ bé, chỉ có xưa”. Nếu như biện pháp nghệ thuật so
thể nhận ra trong một sánh vốn dùng để so sánh cái chưa biết

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 117



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

không gian trong lành, với cái đã biệt, nhưng ở một người nghệ
nguyên sơ, thuần khiết: sĩ thích thị tài như Nguyễn Tuân, ông
“Thuyền tôi trôi qua một không hề làm rõ hay làm hiện hữu hình
nương ngô nhú lên mấy lá ảnh bờ sông, cũng không làm cụ thể hoá
ngô non đầu mùa. Mà tịnh những khái niệm trừu tượng mà thậm chí
không một bóng người. Cỏ càng đầy dòng sông trôi xa thêm vào
gianh đồi núi đang ra miền mộng ảo, phiêu du. Dạo trước, Vũ
những nõn búp.” Hoàng Chương cũng nhìn Đà giang mà
mộng mà say, một nỗi sầu tê tái:
- Trên bờ còn có muông
thú: “Một đàn hươu cúi đàu “Cánh rượu thu dần vạn dặm khơi
ngốn búp cỏ gianh đẫm
Nẻo say hư thực bóng muôn đời
sương đêm”, “Con hươu
thơ ngộ ngẩng đầu nhung Ai đem xáo trộn sầu kim cổ?
khỏi áng cỏ sương, chăm Trăng nước Đà giang mộng Liễu trai”
chăm nhìn tôi lừ lừ trôi
trên một mũi đò. Hươu Bờ sông còn nổi bật hơn với thảm thực
vểnh tai, nhìn tôi không vật vô cùng phong phú: “Thuyền tôi trôi
chớp mắt mà như hỏi tôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô
bằng cái tiếng nói riêng của non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng
con vật lành: “Hỡi ông người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những
khách Sông Đà, có phải ông nõn búp”, “cỏ gianh đẫm sương đêm”,..
cũng vừ nghe thấy một Những hình ảnh thật mong manh, nhỏ bé,
tiếng còi sương?”: Làm chỉ có thể nhận ra trong một không gian
tăng ảo giác, nhà văn như trong lành, nguyên sơ, thuần khiết. Các từ
bước lạc vào một cõi trong ngữ “non”, “nõn búp”, “đẫm sương đêm”,
trẻo, an lành của một miền “áng cỏ sương” gợi ra vẻ đẹp sự sống
cổ tích. đang trỗi mình trong từng lá ngô non,
từng ngọn cỏ. Cảnh vật sao mà tươi non,
- Dưới sông thì có cá: “Đàn màu mỡ đầy sức sống. Cây cối đang độ
cá dầm xanh quẫy vọt lên nõn nà, tươi mới, nhựa sống đang tràn
mặt song bung trắng như trề, dạt dào. Trên bờ còn có muông thú:
bạc rơi thoi”: động từ “Một đàn hươu cúi đàu ngốn búp cỏ gianh
“quẫy vọt” gợi hình ảnh đẫm sương đêm”, “Con hươu thơ ngộ
sống động. ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương,
chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một
mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 118



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

*Vẻ đẹp trữ tình của đôi chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng
bờ sông qua những âm nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông
thanh khách Sông Đà, có phải ông cũng vừ nghe
thấy một tiếng còi sương?”. Ở đây dường
- “Chao ôi, thèm cái được
như là con vật hỏi người hay chính là
giật mình vì tiếng cói xúp –
người đang say trong cảnh tự hỏi mình?
lê của một chuyến xe lửa
Thế giới Sông Đà thật sống động, những
đầu tiên đường sắt Phú
ảo giác bắt đầu xuất hiện, nhà văn như
Thọ - Yên Bái – Lai Châu”:
bước lạc vào một cõi trong trẻo, an lành
+ Cảnh quá tĩnh lặng khiến của một miền cổ tích. Dưới sông thì có:
Nguyễn Tuân như trôi ở “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt song
miền hoang dại không có bung trắng như bạc rơi thoi”. Động từ
thực. “quẫy vọt” gợi hình ảnh sống động, cá
+ Còi tàu mang biểu tượng như quăng mình lên không trung phô
của cuộc sống văn minh, trương “bụng trắng như bạc rơi thoi”.
hiện đại. Nguyễn Tuân Hình ảnh so sánh ấy làm ta nhớ đến câu
mong muốn mang ánh thành ngữ ngàn đời của người Việt: “rừng
sáng văn minh đến nơi sơn vàng biển bạc”. Phải chăng đó chính là
cùng thuỷ tận này. một cách mà Nguyễn Tuân ngợi ca vẻ đẹp
về sự giàu có của non sông gấm vóc Việt
- “Tiếng cá đập nước sông Nam? Thời gian mả i mie- t trôi, sông Đà
đuổi mất đàn hươu vụt vaµ n mã i vẻ đẹ p nguyên sơ, hoang dạ i bở
biến”: Âm thanh phá tan tie´ n sử, bờ sông hón nhiêu như noµ i nie´ m
khối yêu tĩnh, kéo con co½ tı́ch tuo½ i xưa. Rồi từ trong cái không
người từ giấc mộng xa xăm gian hoang dã ấy của đôi bờ sông Đà,
về hiện thực. Nguyễn Tuân khao khát sống, khao khát
*Vẻ đẹp trữ tình của đôi “thèm” một âm vang của thời đại: “Chao
bờ sông qua văn hoá và ôi, thèm cái được giật mình vì tiếng cói
thi ca xúp – lê của một chuyến xe lửa đầu tiên
đường sắt Phú Thọ - Yên Bái – Lai Châu”.
- “Thuyền tôi trôi trên “Dải Trước hết, niềm khát khao ấy chinh là
Sông Đà bọt nước lênh cách để âm thanh của cuộc sống hiện tại
bênh – Bao nhiêu cảnh bấy giúp nhà văn nhận ra mình vẫn đang ở
nhiêu tình” của “một người thế giới thực của thực tại, vẫn là con
tình nhân chưa quen biết” người trong nền văn minh hiện đại.
(Tản Đà)”: Từ vẻ đẹp của Nhưng cái sự “thèm giật mình” thì lại
sông Đà ở khúc hạ lưu êm

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 119



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

đềm, nhà văn đã khéo léo càng quý hơn bởi Nguyễn Tuân khao khát
liên tưởng đến ý thơ của mang ánh sáng văn minh đến nơi sơn
Tản Đà mang lại cho dòng cùng thuỷ tận này. Lúc bấy giờ, chưa có
sông vẻ đẹp từ chiều sâu một chuyến tàu nào đi Phú Thọ – Yên Bái
văn hóa, vẻ đẹp thi vị của
– Lai Châu, khoảng cách xa xôi ấy khiến
thơ ca trong cái nhìn tinh
câu văn như một tiếng reo náo nức của
tế, độc đáo và tài hoa. Sông tác giả trước công cuộc xây dựng Chủ
Đà đã trở thành cảm hứng Nghĩa Xã Hội ở miền Bắc (1958 – 1960),
muôn đời cho người nghệ với niềm tin vào một tương lai giàu đẹp,
sĩ. khai phóng. Hòa chung vào không khí ấy,
Tố Hữu đã cho ra đời những vần thơ thật
- “Dòng sông quãng này
đẹp:
lững lờ như nhớ thương
những hòn đá thác xa xôi “Yêu biết mấy những dòng sông bát ngát
để lại trên thượng nguồn
Giữa đôi bờ dào dạt lúa ngô non
Tây Bắc. Và con sông như
đang lắng nghe những Yêu biết mấy những con đường ca hát
giọng nói êm êm của người Qua công trường mới dựng mái nhà son.”
xuôi, và con sông đang trôi
những con đò mình nở Khi nhà văn đang đắm chìm giữa thực và
chạy buồm vải nó khác hẳn mơ đột nhiên xuất hiện “Tiếng cá đập
những con đò đuôi én thắt nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến”.
mình dây cổ điển trên dòng Vận dụng triệt để bút pháp lấy động tả
trên”: Những câu văn nhịp tĩnh của Đường thi khiến câu văn đẫm
điệu chậm, buồn như đúng chất thơ và tràn đầy ý nhạc. Tiếng cá đập
dòng chảy lững lờ của dòng nước đã phá tan khối yêu tĩnh, kéo con
sông, kết hợp cùng những người từ giấc mộng xa xăm về hiện thực.
hình ảnh so sánh độc đáo Từ vẻ đẹp của sông Đà ở khúc hạ lưu êm
và nghệ thuật nhân hoá đã đềm, nhà văn đã khéo léo liên tưởng đến
giúp Sông Đà hiện lên như ý thơ của Tản Đà: “Thuyền tôi trôi trên
một sinh thể sống có tâm “Dải Sông Đà bọt nước lênh bênh – Bao
trạng, cảm xúc. nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một
người tình nhân chưa quen biết” (Tản
Đà)” mang lại cho dòng sông vẻ đẹp từ
chiều sâu văn hóa, vẻ đẹp thi vị của thơ ca
trong cái nhìn tinh tế, độc đáo và tài hoa.

Nguyễn Tuân như gửi vào đây tình yêu

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 120



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

thiên nhiên, yêu con người thiết tha, dạt


dào. Và tinh tế hơn cả, Nguyễn Tuân như

nhập thân vào dòng sông để lắng nghe và
xúc động: “Dòng sông quãng này lững lờ
như nhớ thương những hòn đá thác xa
xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và
con sông như đang lắng nghe những
giọng nói êm êm của người xuôi, và con
sông đang trôi những con đò mình nở
chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò
đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng
trên”. Những câu văn nhịp điệu chậm,
buồn như đúng dòng chảy lững lờ của
dòng sông. Không còn thác đá gào thét,
không còn hút nước xoáy tít, cũng không
còn trùng vi thạch trận với bao cửa tử cửa
sinh. Con sông đang “nhớ thương”, “đang
lắng nghe” một thế giới khác của Sông Đà,
đó là thế giới “giọng nói êm êm của người
xuôi”, thế giới hạ lưu nơi những “con đò
mình nở chạy buồm vải”. Những hình ảnh
so sánh độc đáo và nghệ thuật nhân hoá
đã giúp Sông Đà hiện lên như một sinh
thể sống có tâm trạng, cảm xúc “của một
người tình nhân chưa quen biết” – một
người tình tưởng như quá quen thân
những hoá ra còn chưa hiểu hết, một
người tình đang nhớ thương “những hòn
đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn
Tây Bắc”.
Văn của Nguyễn Tuân đứng là những giọt,
mật của con ong yêu hoa, cần mần và sáng
tạo, đem thơm thảo cho đời. Câu văn xuôi
rất đẹp, lúc thì vang vọng âm ba của thác
ghềnh, lúc thì mênh mang dư vị của
hương nguồn hoa núi. Và đọc “Người lái

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 121



Tổng ôn 3 tác phẩm văn xuôi 12 Lê Công Đức

đò Sông Đà”, chiêm ngưỡng dòng sông


khi “âm ba thác ghềnh” khi lại “mênh
mang dư vị” của nỗi niềm cổ tích, của
những gì là trữ tình mộng mơ thấm thía
hơn cái hay, cái đẹp và cái tài của tùy bút
Nguyễn Tuân. Nhìn về những con sông,
ôm một tình yêu với quê hương xứ sở, có
lẽ Nguyễn Tuân cũng gặp gỡ Nguyễn
Khoa Điềm trong “Mặt trường khát vọng”
ở đôi ba câu thơ:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đến Đất Nước mình thì bắt đầu
lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền
vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông
xuôi...”
Ngòi bút và ngôn ngữ của Nguyễn Tuân tràn đầy âu yếm và nâng niu. Mỗi
câu chữ đều quyện chặt tình yêu với con sông thể hiện sinh động qua
biện pháp nhân hóa. Màu sắc và hình ảnh hiện lên đẹp như một bức
tranh. Qua đôi mắt người lái đò, hay là đôi mắt của tác giả sông Đà tạo
nên những dòng cảm xúc thật lạ kỳ, thần tiên và mộng mơ quá đỗi. Có lẽ
khi yêu mảnh đất này, cảm nhận nó ở mọi khía cạnh đều toát lên vẻ đẹp
không phải nơi nào cũng có được. Và sông Đà cũng vậy, một vẻ đẹp khiến
người đọc phải ngỡ ngàng, phải chìm đắm và ngất ngưởng say nước, say
màu cùng Nguyễn Tuân. Hậu thế hôm nay đọc sông Đà và thổn thức nhớ
người nghệ sĩ cả đời tìm về cái đẹp duy mĩ, lại bâng khuâng ngâm một
vài lời thơ của “người hai thế kỉ” – Tản Đà:
“Dù như sông cạn đá mòn
Còn non còn nước hãy còn thề xưa
Non xanh đã biết hay chưa
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn”.

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 122

You might also like