Professional Documents
Culture Documents
Thuyết trình
Thuyết trình
cứu nước
I. Khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, chuyển cách mạng miền
Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công
Miền Bắc :
Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương được ký kết đã kết thúc cuộc chiến tranh
xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đối với ba nước Việt Nam, Lào,
Campuchia. Chúng ta đã thực hiện nghiêm chỉnh những điều khoản quy định về đình
chiến, tập kết chuyển quân và chuyển giao khu vực. Nhưng phía Pháp chỉ thực hiện khi
có những đấu tranh mạnh mẽ và kiên quyết của nhân dân ta.
Ngày 10-10-1954, quân Pháp rút khỏi Hà Nội. Cùng ngày, quân ta tiến vào tiếp
quản. Thủ đô giải phóng rợp cờ, hoa, biểu ngữ, vang dậy tiếng hoan hô của đồng
bào mừng đón đoàn quân chiến thắng trở về.
Ngày 1-1-1955, tại quảng trường Ba Đình lịch sử đã diễn ra cuộc mít tinh trọng
thể của hàng chục vạn nhân dân Hà Nội chào mừng Trung ương Đảng, Chính phủ
và Chủ tịch Hồ Chí Minh về Thủ đô.
Ngày 16-5-1955, toán lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hải Phòng, và đến ngày 22-5-
1955 thì rút khỏi đảo Cát Bà.
→ Miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng.
Miền Nam :
Mỹ thay Pháp, đưa tay sai Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền ở miền Nam, âm
mưu chia cắt Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân
sự của Mĩ ở Đông Dương và Đông Nam Á.
Ngày 25-6-1954, Mỹ đã ép được Pháp đưa Ngô Đình Diệm (người của Mỹ) thay
Bửu Lộc (người của Pháp) lên làm Thủ tướng Chính phủ bù nhìn miền Nam Việt
Nam.
Tháng 9-1954, Mỹ lôi kéo được một số đồng minh như Pháp, Anh... và một số
nước Đông Nam Á lập ra khối "Liên minh quân sự Đông - Nam Á" (SEATO) và
ngang nhiên đặt miền Nam Việt Nam dưới sự bảo trợ của khối này.
Giữa tháng 5/1956, Pháp rút khỏi miền Nam khi chưa thực hiện hiệp thương tổng
tuyển cử thống nhất Việt Nam theo điều khoản của Hiệp định Giơ-ne-vơ, …
Tháng 5-1957, Ngô Đình Diệm tuyên bố tại Washington "Biên giới Hoa Kỳ kéo
dài đến vĩ tuyến 17 "
→ Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền, miền Bắc được thống nhất thực hiện
nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân
chủ, đấu tranh thống nhất đất nước.
→ Hoàn cảnh lúc này đặt trách nhiệm lịch sử lên vai Đảng Lao động Việt Nam - đội
quân tiên phong của nhân dân Việt Nam là tìm ra đáp số cho bài toán về “con đường
giải phóng miền Nam và con đường quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong
thời kỳ Mỹ thay chân Pháp thống trị miền Nam”.
2. Chủ trương, sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn 1954-1960
Miền Bắc :
Ngay sau khi tiếp quản miền Bắc, Đảng và nhà nước ta đã có chủ trương khôi
phục kinh tế miền Bắc nhằm:" hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân,
giảm bớt những khó khăn của đời sống nhân dân, phát tiển kinh tế một cách có kế hoạch
và làm từng bước, mở rộng việc giao lưu kinh tế giữa thành thị và nông thôn"
• Hội nghị Bộ Chính trị 9-1954: Đảng đưa ra kế hoạch Hàn gắn viết thương chiến tranh,
phát triển kinh tế, ổn định xã hội.
• Hội nghị Trung ương lần 7 (3-1955), lần 8 (8-1955): xác định "Điều cốt lõi là phải ra
sức củng cố miền Bắc, mà cụ thể là hoàn thành cải cách ruộng đất, chia lại ruộng đất cho
nông dân, xoá bỏ chế độ sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, đưa miền Bắc tiến dần lên
CNXH"
• Hội nghị Trung ương lần 13 (12-1957): Đánh giá quá trình khôi phục kinh tế, soạn thảo
đường lối cách mạng trong giai đoạn mới
• Hội nghị Trung ương lần 14 (11-1958): đề ra kế hoạch ba năm phát triển kinh tế, văn
hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh (1958-
1960).
• Hội nghị Trung ương lần 16 (4-1959): Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua
Nghị quyết về vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp, xác định hình thức và bước đi của hợp tác
xã là: hợp tác hóa đi trước cơ giới hóa, do vậy hợp tác hóa phải đi đôi với thủy lợi hóa và
tổ chức lại lao động, để phát huy tính ưu việt và sức mạnh của tập thể. Hội nghị chỉ rõ ba
nguyên tắc cần được quán triệt trong suốt quá trình xây dựng hợp tác xã là: tự nguyện,
cùng có lợi và quản lý dân chủ.
Miền Nam :
• Tháng 7-1954, Hội nghị TƯ 6 khoá I: tại Việt Bắc chỉ ra rằng:’’ Sau thắng lợi ở Điện
Biên Phủ, thế ta ngày càng mạnh, thế địch ngày càng yếu, nhưng thế mạnh và thế yếu ấy
là tương đối. Đế quốc Mỹ âm mưu kéo dài chiến tranh Đông Dương, phá hoại hiệp định
Giơnevơ, tìm cách hất cẳng Pháp để độc chiếm Việt Nam, Campuchia và Lào, biến ba
nước ấy thành thuộc địa của Mỹ”. Do đó, báo cáo cũng nhận định: “Tranh lấy hòa bình
không phải là chuyện dễ, nó là cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khổ và phức tạp”.
• Tháng 9-1954, Hội nghị Bộ Chính trị: nêu rõ: Đế quốc Mỹ và tay sai mưu tính phá hoại
hiệp định Giơnevơ, nhằm chia cắt lâu dài VN. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam
phải chuyển từ đấu tranh vũ tranh sang đấu tranh chính trị. Chỉ thị cũng vạch ra các
nhiệm vụ cụ thể trước mắt cho cách mạng miền Nam và dự báo khả năng không thuận lợi
cho cách mạng miền Nam, chiến tranh có thể trở lại, việc chia cắt có thể trường kỳ...•
Tháng 10-1954, Xứ ủy Nam bộ thành lập, do đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư
• Tháng 8-1956, Lê Duẩn soạn xong bản dự thảo Đường lối cách mạng miền Nam
• Tháng 1-1959, Hội nghị TƯ lần thứ 15: ) đã thông qua Nghị quyết về đường lối cách
mạng miền Nam. Nghị quyết gồm tư tưởng chỉ đạo cực kì quan trọng để chuyển cách
mạng miền Nam sang bước chuyển biến mới có tính nhảy vọt được đề ra trong Nghị
quyết mang tính lịch sử này là: “Nhân dân miền Nam phải dùng con đường bạo lực cách
mạng để tự giải phóng mình, ngoài ra, không còn con đường nào khác”
.→ Nghị quyết 15 của Đảng đã đáp ứng yêu cầu bức thiết của cách mạng miền Nam, mở
đường cho cách mạng tiến lên. Với sự hậu thuẫn của miền Băc, cùng phong trào đấu
tranh chính trị phát triển mạnh mẽ, năm 1960 phong trào Đồng Khởi bùng nổ và giành
thắng lợi to lớn
• Ngày 20-12-1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời
→ Phong trào “Đồng Khởi” đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền
Nam, từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công, từ hình thức đấu tranh chính trị
là chính có lực lượng vũ trang hỗ trợ, chuyển sang kết hợp đấu tranh chính trị và đấu
tranh quân sự, từ đấu tranh quân sự từng bước lên ngang hàng đấu tranh chính trị.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam có một ý nghĩa rất
trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Đường lối cách mạng do Đại hội vạch ra là
ngọn đèn pha sáng ngời chiếu rọi con đường của nhân dân ta tiến tới chủ nghĩa xã hội,
tiến tới thống nhất nước nhà, tiến tới một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh. Thành công của Đại hội lần thứ III của Đảng là cơ sở cho “Toàn
Đảng và toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ thành một khối khổng lồ. Chúng ta sáng tạo.
Chúng ta xây dựng. Chúng ta tiến lên”
II. Xây dựng CNXH ở Miền Bắc, phát triển thế tiến công của CM miền Nam (1961-
1965)
Thắng lợi của phong trào “Đồng Khởi” đã làm thất bại cuộc chiến “chiến tranh một phía”
của Eisenhower, đẩy chính quyền Ngô Đình Diệm vào thời kỳ khủng hoảng triền miên.
Trước nguy cơ sụp đổ của chính quyền tay sai, Mỹ phải đối phó bằng chiến lược chiến
tranh đặc biệt, ra sức củng cố và phát triển QĐ Sài Gòn, tăng cường viện trợ, cố ván và
lực lượng yểm trợ của Mỹ; mở các cuộc hành quân càn quét, gom dân, lập ấp chiến lược
theo kế hoạch Stanley-Taylor.
→ Chính quyền Kennedy công bố học thuyết chiến tranh mới: Chiến lược “Chiến tranh
đặc biệt” và chọn miền Nam Việt Nam làm nơi thí điểm. Nội dung chủ yếu của “Chiến
tranh đặc biệt” là:
“củng cố ngụy quyền, tăng cường khả năng chiến đấu của ngụy quân bằng chỉ huy, trang
bị vũ khí, yểm trợ kỹ thuật Mỹ, tăng cường phá hoại miền Bắc, chống miền Nam thâm
nhập, bình định dồn dân vào “ấp chiến lược” để thực hiện “tát nước bắt cá”, cô lập, đi
đến tiêu diệt cách mạng miền Nam”
Ngụy quyền, ngụy quân và “ấp chiến lược” được coi là xương sống của “Chiến tranh
đặc biệt”.
2. Tầm nhìn chiến lược và sự lãnh đạo của Đảng giai đoạn 1961-1965
Lãnh đạo thực hiện cách mạng XHCN ở miền Bắc: Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
(1961-1965)
• Mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể: Hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN; xây dựng cơ sở vật
chất của CNXH; bảo đảm an ninh quốc phòng, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống
nhất nước nhà.
Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III đã xác định những nhiệm vụ cơ bản của Kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất như sau
- Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý đồng thời ra sức phát triển nông
nghiệp toàn diện, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp nhẹ.
- Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, mở rộng quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc doanh.
- Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân, đẩy mạnh đào tạo cán bộ và công nhân
lành nghề, nâng cao năng lực quản lý kinh tế của cán bộ, xúc tiến công tác khoa
học kỹ thuật.
- Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, mở mang
phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị.
- Ra sức củng cố quốc phòng, trật tự an ninh xã hội.
• Nhiều phong trào thi đua được triển khai, đặc biệt, phong trào” Ba nhất”, phong trào
“Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt” và hoạt
động chi viện cho cách mạng miền Nam
Lãnh đạo của Đảng đối với “chiến tranh đặc biệt”
Trên đà thắng lợi, cách mạng miền Nam tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh vũ trang và đấu
tranh chính trị, đưa dần đấu tranh vũ trang lên ngang hàng với đấu tranh chính trị,
giành và giữ thế chủ động, xây dựng lực lượng mọi mặt, củng cố mở rộng căn cứ địa,
phá “chương trình bình định” của Mỹ-Diệm, đẩy cách mạng lên một bước mới.
• Hội nghị Bộ Chính trị (1961, 1962): đã phân tích và nhận định một cách khoa học, so
sánh lực lượng giữa ta và địch ở miền Nam sau cao trào “ Đồng Khởi”. Hội nghị chỉ ra
rằng “chiến tranh đặc biệt” là một chiến lược thâm độc, nguy hiểm, gây nhiều khó khăn
cho cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Tuy nhiên, chiến lược này ra đời trong thế yếu của
Mỹ, nó không những không phát huy tác dụng mà từng bước bị bẻ gãy trước cao trào nổi
dậy tiến công của lực lượng cách mạng. Bộ chính trị cũng chủ trương chuyển từ “ khởi
nghĩa sang chiến tranh cách mạng”. Đây là chủ trương cực kì quan trọng, đánh dấu thời
kì đổi mới của cách mạng. Hội nghị cũng đề ra chủ trương chỉ đạo chính xác là tiếp tục
giữ vững tư tưởng tiến công chiến lược, thực hiện kế hoạch: “2 chân, 3 mũi, 3 vùng” 2
hai chân – hai loại hình đấu tranh kết hợp đấu tranh chính trị kết hợp vũ trang, 3 mũi giáp
công phối hợp: quân sự, chính trị, binh vận, 3 vùng chiến lược là: vùng núi, nông thôn,
đồng bằng
• Ngày 16/2/1961, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra đời
• Tháng 10/1961, Trung ương Cục thành lập do Nguyễn Văn Linh làm Bí thư
• Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 9 (1963): xác định những vấn đề
quan trọng về đường lối cách mạng miền Nam và đường lối đoàn kết quốc tế của Đảng.
Nghị quyết Trung ương lần thứ 9 đã xác định “đấu tranh vũ trang đóng vai trò quyết định
trực tiếp” thắng lợi trên chiến trường,nâng đấu tranh vũ trang song song với đấu tranh
chính trị, đấu tranh vũ trang phải đáp ứng yêu cầu mới, đóng vai trò quyết định trực tiếp.
→. Được sự chi viện ngày càng lớn của miền Bắc, Quân Giải phóng Miền Nam VN phát
triển lớn mạnh, từ tác chiến du kích tiến lên tác chiến tập trung, mở các chiến dịch tiến
công lớn nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân ngụy. Chiến dịch Bình Giã (Bà
Rịa, Long Khánh) là chiến dịch đầu tiên phối hợp chủ lực miền Nam, chủ lực quân khu
và LLVT địa phương tiến công địch, loại khỏi vòng chiến đấu trên 1.700 địch. Thực hiện
chủ trương của Đảng và lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc Gỉải phóng, trong hai năm 1964-
1965, sự nỗ lực vượt bậc đẩy mạnh chiến tranh cách mạng của nhân dân miền Nam đã
đem lại cho ta những thắng lợi liên tiếp có ý nghĩa quyết định Chiến thắng Bình Giã (12-
1964) mở đầu cho một loạt chiến thắng khác như An Lão (Bình Định 12-1964); Ba Gia
(Quảng Ngãi 6-1965); Đồng Xoài (Biên Hòa 6-1965)…
Kết quả: Đến giữa năm 1965, Ngụy quân tan rã, ngụy quyền khủng hoảng do các cuộc
đảo chính liên tục ngay trong nội bộ địch sau thời kì anh em Diệm-Nhu bị lật đổ, ấp chiến
lược bị phá tan (hơn 85%).
→ Chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ đã được triển khai đến mức cao nhất đã hoàn
toàn bị phá sản
Ý nghĩa
Sự thất bại của "phong trào đặc biệt" đã chứng tỏ đường lối lãnh đạo của Đảng là đúng
đắn và sự trưởng thành nhanh chóng của quân giải phóng miền Nam Việt, để lại nhiều bài
học quý, mang tầm chiến lược, nổi bật