Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 9

Sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ

cứu nước

(Giai đoạn 1954-1965)

I. Khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, chuyển cách mạng miền
Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công

1. Hoàn cảnh lịch sử

 Miền Bắc :

Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương được ký kết đã kết thúc cuộc chiến tranh
xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đối với ba nước Việt Nam, Lào,
Campuchia. Chúng ta đã thực hiện nghiêm chỉnh những điều khoản quy định về đình
chiến, tập kết chuyển quân và chuyển giao khu vực. Nhưng phía Pháp chỉ thực hiện khi
có những đấu tranh mạnh mẽ và kiên quyết của nhân dân ta.

 Ngày 10-10-1954, quân Pháp rút khỏi Hà Nội. Cùng ngày, quân ta tiến vào tiếp
quản. Thủ đô giải phóng rợp cờ, hoa, biểu ngữ, vang dậy tiếng hoan hô của đồng
bào mừng đón đoàn quân chiến thắng trở về.
 Ngày 1-1-1955, tại quảng trường Ba Đình lịch sử đã diễn ra cuộc mít tinh trọng
thể của hàng chục vạn nhân dân Hà Nội chào mừng Trung ương Đảng, Chính phủ
và Chủ tịch Hồ Chí Minh về Thủ đô.
 Ngày 16-5-1955, toán lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hải Phòng, và đến ngày 22-5-
1955 thì rút khỏi đảo Cát Bà.
→ Miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng.
 Miền Nam :

Mỹ thay Pháp, đưa tay sai Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền ở miền Nam, âm
mưu chia cắt Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân
sự của Mĩ ở Đông Dương và Đông Nam Á.

 Ngày 25-6-1954, Mỹ đã ép được Pháp đưa Ngô Đình Diệm (người của Mỹ) thay
Bửu Lộc (người của Pháp) lên làm Thủ tướng Chính phủ bù nhìn miền Nam Việt
Nam.
 Tháng 9-1954, Mỹ lôi kéo được một số đồng minh như Pháp, Anh... và một số
nước Đông Nam Á lập ra khối "Liên minh quân sự Đông - Nam Á" (SEATO) và
ngang nhiên đặt miền Nam Việt Nam dưới sự bảo trợ của khối này.
 Giữa tháng 5/1956, Pháp rút khỏi miền Nam khi chưa thực hiện hiệp thương tổng
tuyển cử thống nhất Việt Nam theo điều khoản của Hiệp định Giơ-ne-vơ, …
 Tháng 5-1957, Ngô Đình Diệm tuyên bố tại Washington "Biên giới Hoa Kỳ kéo
dài đến vĩ tuyến 17 "
→ Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền, miền Bắc được thống nhất thực hiện
nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân
chủ, đấu tranh thống nhất đất nước.

→ Hoàn cảnh lúc này đặt trách nhiệm lịch sử lên vai Đảng Lao động Việt Nam - đội
quân tiên phong của nhân dân Việt Nam là tìm ra đáp số cho bài toán về “con đường
giải phóng miền Nam và con đường quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong
thời kỳ Mỹ thay chân Pháp thống trị miền Nam”.

2. Chủ trương, sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn 1954-1960

 Miền Bắc :

Ngay sau khi tiếp quản miền Bắc, Đảng và nhà nước ta đã có chủ trương khôi
phục kinh tế miền Bắc nhằm:" hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân,
giảm bớt những khó khăn của đời sống nhân dân, phát tiển kinh tế một cách có kế hoạch
và làm từng bước, mở rộng việc giao lưu kinh tế giữa thành thị và nông thôn"

• Hội nghị Bộ Chính trị 9-1954: Đảng đưa ra kế hoạch Hàn gắn viết thương chiến tranh,
phát triển kinh tế, ổn định xã hội.

• Hội nghị Trung ương lần 7 (3-1955), lần 8 (8-1955): xác định "Điều cốt lõi là phải ra
sức củng cố miền Bắc, mà cụ thể là hoàn thành cải cách ruộng đất, chia lại ruộng đất cho
nông dân, xoá bỏ chế độ sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, đưa miền Bắc tiến dần lên
CNXH"

• Hội nghị Trung ương lần 13 (12-1957): Đánh giá quá trình khôi phục kinh tế, soạn thảo
đường lối cách mạng trong giai đoạn mới
• Hội nghị Trung ương lần 14 (11-1958): đề ra kế hoạch ba năm phát triển kinh tế, văn
hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh (1958-
1960).

• Hội nghị Trung ương lần 16 (4-1959): Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua
Nghị quyết về vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp, xác định hình thức và bước đi của hợp tác
xã là: hợp tác hóa đi trước cơ giới hóa, do vậy hợp tác hóa phải đi đôi với thủy lợi hóa và
tổ chức lại lao động, để phát huy tính ưu việt và sức mạnh của tập thể. Hội nghị chỉ rõ ba
nguyên tắc cần được quán triệt trong suốt quá trình xây dựng hợp tác xã là: tự nguyện,
cùng có lợi và quản lý dân chủ.
 Miền Nam :
• Tháng 7-1954, Hội nghị TƯ 6 khoá I: tại Việt Bắc chỉ ra rằng:’’ Sau thắng lợi ở Điện
Biên Phủ, thế ta ngày càng mạnh, thế địch ngày càng yếu, nhưng thế mạnh và thế yếu ấy
là tương đối. Đế quốc Mỹ âm mưu kéo dài chiến tranh Đông Dương, phá hoại hiệp định
Giơnevơ, tìm cách hất cẳng Pháp để độc chiếm Việt Nam, Campuchia và Lào, biến ba
nước ấy thành thuộc địa của Mỹ”. Do đó, báo cáo cũng nhận định: “Tranh lấy hòa bình
không phải là chuyện dễ, nó là cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khổ và phức tạp”.

• Tháng 9-1954, Hội nghị Bộ Chính trị: nêu rõ: Đế quốc Mỹ và tay sai mưu tính phá hoại
hiệp định Giơnevơ, nhằm chia cắt lâu dài VN. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam
phải chuyển từ đấu tranh vũ tranh sang đấu tranh chính trị. Chỉ thị cũng vạch ra các
nhiệm vụ cụ thể trước mắt cho cách mạng miền Nam và dự báo khả năng không thuận lợi
cho cách mạng miền Nam, chiến tranh có thể trở lại, việc chia cắt có thể trường kỳ...•

Tháng 10-1954, Xứ ủy Nam bộ thành lập, do đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư

• Tháng 8-1956, Lê Duẩn soạn xong bản dự thảo Đường lối cách mạng miền Nam

• Tháng 1-1959, Hội nghị TƯ lần thứ 15: ) đã thông qua Nghị quyết về đường lối cách
mạng miền Nam. Nghị quyết gồm tư tưởng chỉ đạo cực kì quan trọng để chuyển cách
mạng miền Nam sang bước chuyển biến mới có tính nhảy vọt được đề ra trong Nghị
quyết mang tính lịch sử này là: “Nhân dân miền Nam phải dùng con đường bạo lực cách
mạng để tự giải phóng mình, ngoài ra, không còn con đường nào khác”

.→ Nghị quyết 15 của Đảng đã đáp ứng yêu cầu bức thiết của cách mạng miền Nam, mở
đường cho cách mạng tiến lên. Với sự hậu thuẫn của miền Băc, cùng phong trào đấu
tranh chính trị phát triển mạnh mẽ, năm 1960 phong trào Đồng Khởi bùng nổ và giành
thắng lợi to lớn

• Ngày 20-12-1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời

→ Phong trào “Đồng Khởi” đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền
Nam, từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công, từ hình thức đấu tranh chính trị
là chính có lực lượng vũ trang hỗ trợ, chuyển sang kết hợp đấu tranh chính trị và đấu
tranh quân sự, từ đấu tranh quân sự từng bước lên ngang hàng đấu tranh chính trị.

(Ảnh: Một số hình ảnh phong trào Đồng Khởi (1959-1960) )


 Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (T9-1960)
 Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại thủ đô Hà
Nội, bầu Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng, Lê Duẩn làm Bí thư thứ nhất. Dự Đại
hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết thay mặt hơn 50 vạn đảng
viên trong cả nước, trong đó 50% số đại biểu là các đảng viên đã tham gia cách
mạng từ khi Đảng còn hoạt động bí mật. Tất cả các đại biểu đã trải qua cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
 Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng và thông qua Nghị quyết về Nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn
mới, thông qua Báo cáo về xây dựng Đảng và báo cáo về Kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
(Ảnh: Hình ảnh Bác Hồ phát biểu tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III)

 Nội dung đại hội


Đại hội đã thảo luận về các vấn đề:
- Về đường lối chung của cách mạng Việt Nam. Một là, đẩy mạnh cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ
trong cả nước.
- Về mục tiêu chiến lược chung Trước mắt hướng vào mục tiêu chung là giải
phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất nước.
- Về vị trí, vai trỏ, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi miền .
Miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu
thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội
về sau và giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách
mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước. Cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước
- Về hòa bình thống nhất tổ quốc. Kiên quyết giữ vững đường lối hòa bình để
thống nhất nước nhà. Song ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác, chuấn bị sẵn sàng
đối phó với mọi tình thế.
- Về triển vọng cách mạng. Đó là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian
khổ, phức tạp và lâu dài , là một nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân tộc. Thắng
lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp một
nhà.
- Về xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội xác định rằng, cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt. Đó là
quá trình đấu tranh gay go giữa hai con đường, con đường xã hội chủ nghĩa và
con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng,
văn hóa và kỹ thuật nhằm đưa miền Bắc tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa.
→ Đại hội cùng một lúc đề ra nhiệm vụ chiến lược ở hai miền, và hai nhiệm vụ
đó có quan hệ khăng khít với nhau- cùng đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chống mỹ cứu nước, giải phóng miền nam, thống nhất nước nhà.
Ngoài ra, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng quyết nghị từ nay trở
đi sẽ lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam có một ý nghĩa rất
trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Đường lối cách mạng do Đại hội vạch ra là
ngọn đèn pha sáng ngời chiếu rọi con đường của nhân dân ta tiến tới chủ nghĩa xã hội,
tiến tới thống nhất nước nhà, tiến tới một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh. Thành công của Đại hội lần thứ III của Đảng là cơ sở cho “Toàn
Đảng và toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ thành một khối khổng lồ. Chúng ta sáng tạo.
Chúng ta xây dựng. Chúng ta tiến lên”
II. Xây dựng CNXH ở Miền Bắc, phát triển thế tiến công của CM miền Nam (1961-
1965)

1. Hoàn cảnh lịch sử

Thắng lợi của phong trào “Đồng Khởi” đã làm thất bại cuộc chiến “chiến tranh một phía”
của Eisenhower, đẩy chính quyền Ngô Đình Diệm vào thời kỳ khủng hoảng triền miên.
Trước nguy cơ sụp đổ của chính quyền tay sai, Mỹ phải đối phó bằng chiến lược chiến
tranh đặc biệt, ra sức củng cố và phát triển QĐ Sài Gòn, tăng cường viện trợ, cố ván và
lực lượng yểm trợ của Mỹ; mở các cuộc hành quân càn quét, gom dân, lập ấp chiến lược
theo kế hoạch Stanley-Taylor.

→ Chính quyền Kennedy công bố học thuyết chiến tranh mới: Chiến lược “Chiến tranh
đặc biệt” và chọn miền Nam Việt Nam làm nơi thí điểm. Nội dung chủ yếu của “Chiến
tranh đặc biệt” là: 

“củng cố ngụy quyền, tăng cường khả năng chiến đấu của ngụy quân bằng chỉ huy, trang
bị vũ khí, yểm trợ kỹ thuật Mỹ, tăng cường phá hoại miền Bắc, chống miền Nam thâm
nhập, bình định dồn dân vào “ấp chiến lược” để thực hiện “tát nước bắt cá”, cô lập, đi
đến tiêu diệt cách mạng miền Nam”

 Ngụy quyền, ngụy quân và “ấp chiến lược” được coi là xương sống của “Chiến tranh
đặc biệt”.
2. Tầm nhìn chiến lược và sự lãnh đạo của Đảng giai đoạn 1961-1965

 Lãnh đạo thực hiện cách mạng XHCN ở miền Bắc: Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
(1961-1965)

• Mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể: Hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN; xây dựng cơ sở vật
chất của CNXH; bảo đảm an ninh quốc phòng, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống
nhất nước nhà.

Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III đã xác định những nhiệm vụ cơ bản của Kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất như sau

- Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý đồng thời ra sức phát triển nông
nghiệp toàn diện, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp nhẹ.
- Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, mở rộng quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc doanh.
- Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân, đẩy mạnh đào tạo cán bộ và công nhân
lành nghề, nâng cao năng lực quản lý kinh tế của cán bộ, xúc tiến công tác khoa
học kỹ thuật.
- Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, mở mang
phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị.
- Ra sức củng cố quốc phòng, trật tự an ninh xã hội.

• Nhiều phong trào thi đua được triển khai, đặc biệt, phong trào” Ba nhất”, phong trào
“Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt” và hoạt
động chi viện cho cách mạng miền Nam

Kế hoạch đã đạt được nhiều thành tựu


- Ngành công nghiệp được ưu tiên đầu tư xây dựng. Với sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung
Quốc và các nước XHCN, từ năm 1961 đến 1964, vốn đầu tư xây dựng cơ bản dành cho
công nghiệp là 48%, trong đó công nghiệp nặng chiếm gần 80%. Giá trị sản lượng công
nghiệp nặng 1965 tăng ba lần so với năm 1960. Trong những năm 1961 – 1965, 100 cơ
sở sản xuất mới được xây dựng. Một số nhà máy cơ khí, điện được xây dựng hoặc mở
rộng. Các khu công nghiệp Việt Trì, Thượng Đình (Hà Nội), các nhà máy đường Vạn
Điểm, v.v… đã sản xuất nhiều mặt hàng phục vụ dân sinh và quốc phòng. Công nghiệp
quốc doanh chiếm tỉ trọng 93% trong tổng giá trị sản lượng công nghiệp toàn miền Bắc,
giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp nhẹ cùng với tiểu thủ công
nghiệp đã giải quyết được 80% hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân.
- Trong nông nghiệp, sau khi đưa đại bộ phận nông dân vào các hợp tác xã, từ năm 1961,
các địa phương thực hiện chủ trương xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc cao.
Nông dân áp dụng khoa học – kĩ thuật vào sản xuất. Hệ thống thủy nông phát triển, nhiều
công trình mới được xây dựng, tiêu biểu như công trình Bắc – Hưng – Hải. Nhiều hợp
tác xã đạt và vượt năng suất 5 tấn thóc trên 1 héc ta gieo trồng.
- Thương nghiệp quốc doanh được Nhà nước ưu tiên phát triển nên đã chiếm lĩnh được
thị trường, góp phần vào phát triển kinh tế, củng cố quan hệ sản xuất mới, ổn định và cải
thiện đời sống nhân dân.
- Hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường liên tỉnh, liên huyện, đường sông,
đường hàng không được củng cố. Việc đi lại trong nước và giao thông quốc tế thuận lợi
hơn trước.
- Hệ thống giáo dục từ phổ thông đến đại học phát triển nhanh. Năm hoạc 1964 – 1965,
miền Bắc có hơn 9000 trường cấp I, cấp II và cấp III với tổng số trên 2,6 triệu học sinh.
Hệ đại học và trung học chuyên nghiệp có 18 trường, tăng gấp hai lần so với năm học
1960 – 1961.
- Hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe được đầu tư và phát triển, khoảng 6.000 cơ sở ý tế
được xây dựng.
- Về quân sự, quốc phòng, trong giai đoạn 1961 -1965 Đảng và Nhà nước ta đã tập trung
cho việc xây dựng quân đội chính qui hiện đại theo kế hoạch quân sự lần hai để thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ miền Băc,s giải phóng miền Nam và làm nhiệm vụ quốc tế. Lực lượng
vũ trang ba thứ quân lớn mạnh không ngừng cả về chất lượng và số lượng.
=> Những thành tựu đạt được trong việc thực hiện kế hoạch 5 năm đã làm thay đổi bộ
mặt xã hội miền Bắc.“Trong 10 năm qua, miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa
từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới”- (Hồ Chí
Minh)

 Lãnh đạo của Đảng đối với “chiến tranh đặc biệt”
Trên đà thắng lợi, cách mạng miền Nam tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh vũ trang và đấu
tranh chính trị, đưa dần đấu tranh vũ trang lên ngang hàng với đấu tranh chính trị,
giành và giữ thế chủ động, xây dựng lực lượng mọi mặt, củng cố mở rộng căn cứ địa,
phá “chương trình bình định” của Mỹ-Diệm, đẩy cách mạng lên một bước mới. 

• Hội nghị Bộ Chính trị (1961, 1962): đã phân tích và nhận định một cách khoa học, so
sánh lực lượng giữa ta và địch ở miền Nam sau cao trào “ Đồng Khởi”. Hội nghị chỉ ra
rằng “chiến tranh đặc biệt” là một chiến lược thâm độc, nguy hiểm, gây nhiều khó khăn
cho cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Tuy nhiên, chiến lược này ra đời trong thế yếu của
Mỹ, nó không những không phát huy tác dụng mà từng bước bị bẻ gãy trước cao trào nổi
dậy tiến công của lực lượng cách mạng. Bộ chính trị cũng chủ trương chuyển từ “ khởi
nghĩa sang chiến tranh cách mạng”. Đây là chủ trương cực kì quan trọng, đánh dấu thời
kì đổi mới của cách mạng. Hội nghị cũng đề ra chủ trương chỉ đạo chính xác là tiếp tục
giữ vững tư tưởng tiến công chiến lược, thực hiện kế hoạch: “2 chân, 3 mũi, 3 vùng” 2
hai chân – hai loại hình đấu tranh kết hợp đấu tranh chính trị kết hợp vũ trang, 3 mũi giáp
công phối hợp: quân sự, chính trị, binh vận, 3 vùng chiến lược là: vùng núi, nông thôn,
đồng bằng

• Ngày 16/2/1961, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra đời

• Tháng 10/1961, Trung ương Cục thành lập do Nguyễn Văn Linh làm Bí thư

• Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 9 (1963): xác định những vấn đề
quan trọng về đường lối cách mạng miền Nam và đường lối đoàn kết quốc tế của Đảng.

Nghị quyết Trung ương lần thứ 9 đã xác định “đấu tranh vũ trang đóng vai trò quyết định

trực tiếp” thắng lợi trên chiến trường,nâng đấu tranh vũ trang song song với đấu tranh
chính trị, đấu tranh vũ trang phải đáp ứng yêu cầu mới, đóng vai trò quyết định trực tiếp.

→. Được sự chi viện ngày càng lớn của miền Bắc, Quân Giải phóng Miền Nam VN phát
triển lớn mạnh, từ tác chiến du kích tiến lên tác chiến tập trung, mở các chiến dịch tiến
công lớn nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân ngụy. Chiến dịch Bình Giã (Bà
Rịa, Long Khánh) là chiến dịch đầu tiên phối hợp chủ lực miền Nam, chủ lực quân khu
và LLVT địa phương tiến công địch, loại khỏi vòng chiến đấu trên 1.700 địch. Thực hiện
chủ trương của Đảng và lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc Gỉải phóng, trong hai năm 1964-
1965, sự nỗ lực vượt bậc đẩy mạnh chiến tranh cách mạng của nhân dân miền Nam đã
đem lại cho ta những thắng lợi liên tiếp có ý nghĩa quyết định Chiến thắng Bình Giã (12-
1964) mở đầu cho một loạt chiến thắng khác như An Lão (Bình Định 12-1964); Ba Gia
(Quảng Ngãi 6-1965); Đồng Xoài (Biên Hòa 6-1965)…

(Ảnh: Máy bay Mỹ bị bắn rơi ở Bình Giã)

Kết quả: Đến giữa năm 1965, Ngụy quân tan rã, ngụy quyền khủng hoảng do các cuộc
đảo chính liên tục ngay trong nội bộ địch sau thời kì anh em Diệm-Nhu bị lật đổ, ấp chiến
lược bị phá tan (hơn 85%).

→ Chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ đã được triển khai đến mức cao nhất đã hoàn
toàn bị phá sản

Ý nghĩa

Sự thất bại của "phong trào đặc biệt" đã chứng tỏ đường lối lãnh đạo của Đảng là đúng
đắn và sự trưởng thành nhanh chóng của quân giải phóng miền Nam Việt, để lại nhiều bài
học quý, mang tầm chiến lược, nổi bật

You might also like