Tân Phúc Âm Hóa Lòng Ghen Tị

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 33

1

Tân Phúc Âm hóa Lòng ghen tị - kỳ I


Ghen tị là một cảm xúc phổ biến như tình yêu hay tức giận, và tất nhiên ghen tị cũng là một cảm xúc
mạnh mẽ như bất cứ đam mê nào khác trong lòng người. Thế thì tại sao người ta ít khi chấp nhận hay đề
cập đến cảm xúc này? Phải chăng vì cảm xúc ấy là một sự dữ nổi tiếng lâu đời? Ngày xưa cũng như ngày
nay, sự ghen tị đều làm cho tất cả chúng ta buồn phiền, bất chấp ý hướng hay những nỗ lực tốt lành mà
chúng ta muốn thực hiện để khắc phục sự ghen tị. Trong khi một số người chỉ cảm nhận sự ghen tị như
một cảm xúc nhất thời và chóng qua, thì có những kẻ lại bị “chế ngự bởi sự ghen tị,” và hậu quả là họ
phải đau đớn trầm trọng về mặt tâm thần, khi sự ghen tị thống trị cuộc sống và tâm thức của họ. [1]
Thần học và tâm lý học Kitô Giáo đều cảnh giác chúng ta đừng coi thường sức hủy hoại của lòng ghen tị.
Truyền thống Kitô Giáo xem lòng ghen tị như một điều xấu cố hữu, nên đã xếp lòng ghen tị vào danh
sách bảy mối tội đầu.
Các nhà phân tâm học cũng quan tâm đến lòng ghen tị, vì họ nghĩ rằng lòng ghen tị là nhân tố nằm bên
dưới nhiều vấn đề liên quan đến mối tương quan của con người, gây đổ vỡ giữa vợ chồng, con cái, bạn bè
và các quốc gia.[2]

I. SỰ GHEN TỊ
TRONG LỊCH SỬ NHÂN LOẠI

1. Những câu chuyện phổ biến về sự ghen tị

Nhiều tác phẩm văn chương đã từng mô tả những thảm kịch do lòng ghen tị gây ra, khi con người tương
quan với nhau. Trong Kinh Thánh thì có chuyện giữa Cain và Abel, Giuse và các anh của ông, Người
Con Hoang Đàng và ông anh cả; trong kho tàng cổ tích thì có chuyện Cô Bé Lọ Lem; và trong văn học thì
có chuyện Othello của Shakespear. Những câu chuyện ấy có thể minh họa lòng ghen tị như một tiềm năng
hủy hoại và phản ánh ý hướng căm thù của lòng ghen tị.
- Vì nung nấu lòng ghen tị, Cain đã bị thúc bách phải giết em mình là Abel, khi ông thấy Yavê sủng ái
Abel (Stk4,1-8).
- Giuse là nạn nhân của lòng ghen tị, khi các anh của ông thấy “Israel yêu thương Giuse hơn những người
con khác..., nên họ đã căm ghét ông và không thể nói năng tử tế với ông” (Stk 37,3-4). Thêm vào đó, khi
Giuse kể lại những giấc mơ về một tương lai sáng ngời, báo trước ông sẽ cai trị trên anh em mình, thì ông
làm cho họ càng thêm ghen tị. Giấc mơ của Giuse kích thích lòng căm hờn và ghen tị nơi các anh mình,
rồi lòng ghen tị ấy đã biến thành việc sát nhân.

- Trong dụ ngôn Người Con Hoang Đàng, hình ảnh người con cả cũng cho thấy rằng, khi chúng ta nhận
thấy một ai đó được ưu đãi một cách bất công mà đón nhận nhiều “của cải” hơn chúng ta thì chúng ta sinh
lòng tức giận và ghen tị. Khi người cha xin anh thông cảm với em mình, anh đã đáp lại bằng một thái độ
hờn dỗi và oán trách: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà
cha chưa bao giờ cho con một chú dê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha đó, sau khi
đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!” (Lc 15,29-30).

- Chuyện cổ tích Cô Bé Lọ Lem lại mô tả một khía cạnh khác của lòng ghen tị: sắc đẹp và tài năng thiên
phú của một ai đó có thể kích thích lòng ghen tị của những kẻ cảm thấy mình thua kém người khác. Trong
câu chuyện này, cô thiếu nữ xinh đẹp đã trở thành mục tiêu tấn công của bà dì ghẻ và con gái của bà, họ
cảm thấy sung sướng khi làm cho cô phải đau khổ.
2

- Cuối cùng, nhà văn Shakespeare vạch trần lòng ghen tị hiểm độc và hủy hoại của Iago, một nhân vật
phản diện trong vở kịch Othello. Vì ghen tị khi thấy Othello gặt hái thành công và có được cô vợ xinh đẹp
là Desdemona, Iago bị thôi thúc phải phá hoại cuộc sống hạnh phúc của Othello, bằng cách làm cho
Othello nghi ngờ lòng chung thủy của Desdemona. Khi Iago tiến hành âm mưu phá hoại, Othello đã trở
nên một người chồng hết sức ghen tuông, đến nỗi ông đã giết cô vợ đáng yêu của mình. Mặc dù lòng
ghen tị đã khiến cho Iago tự trừng phạt chính mình, lòng ghen tị ấy cũng đã gây nên thảm kịch cho
Othello, khiến ông cũng bị hủy hoại. Ngay cả khi người ghen tị không thể chiếm được những gì người
khác đang có, thì dường như họ cũng muốn tước đoạt niềm vui mà người khác đang thụ hưởng. [3]

Khi lòng ghen tị xuất hiện, thì đau khổ cũng đến gần. Theo cách nói của Horace, thì “nỗi đau lớn nhất mà
những nhà độc tài xứ Sicile đã tạo ra chính là lòng ghen tị.” [4]

2. Sự ghen tị đã gây ra biết bao đau khổ cho con người.

Nói chung, chính chúng ta là những người phải đau khổ nhất vì lòng ghen tị của mình. Lòng ghen tị có
tính chất ái khổ, bởi vì lòng ghen tị làm cho kẻ ghen tị phải chịu những đau khổ vô lý hơn là người bị
ghen tị.

Vào Thế kỷ XVIII, một nhà luân lý Do Thái đã nói như sau: Lòng ghen tị không gì khác hơn là tình trạng
đần độn và ngu xuẩn, bởi vì người có lòng ghen tị thì chẳng chiếm được gì, và cũng chẳng làm kẻ bị ghen
tị mất gì. Do đó, chỉ một mình người ghen tị chịu thiệt thòi... Có những kẻ ngu xuẩn đến mức, khi họ thấy
người thân cận có được một thứ gì đó, thì họ ngẫm nghĩ, lo lắng và đau khổ đến mức họ không thể vui
hưởng những gì mình đang có.” [5]

Điều chắc chắn là lòng ghen tị của chúng ta cũng có thể làm cho người khác bị tổn thương và đau khổ.
Tiếng nói của lòng ghen tị tựa như một băng ghi âm cứ lặp đi lặp lại lời này trong nội tâm kẻ ghen tị: “Tôi
sẽ không có được những điều tôi cần, cho nên tôi sẽ phá hoại những ai đang chiếm giữ những gì tôi
thiếu.” Vì thế, người ghen tị tìm cách trả thù cho mình bằng cách tấn công những đối tượng vô tội của
lòng ghen tị. Cả người ghen tị lẫn đối tượng bị ghen tị đều khó có thể hiểu được nguyên nhân gây ra đau
khổ, vì đó là một nhiệm vụ khó khăn và thường để lại một sự hỗn loạn không bao giờ giải quyết được.
Nhìn nhận và hiểu được lòng ghen tị của mình, chúng ta có thể đối phó tốt hơn với sự đổ vỡ do cảm xúc
ghen tị gây ra. Nếu không nhận ra điều đó, chúng ta dễ trở thành nạn nhân của lòng ghen tị của mình hay
của người khác. [6]

 
 

[1] Wikie AU và Norren Cannon, PhD, Urgings of the heart (Những thôi thúc trong tim) p.146
[2] Wikie AU và Norren Cannon, PhD, sđd trg.149
[3] Wikie AU và Norren Cannon, PhD, Urgings of the heart (Những thôi thúc trong tim) trg.147
[4]  Horace, Epistles, tập 1,1, dòng 58.
[5]   Mosche Haim Luzzatto, The path ofthlust, dg. Shraga Silverstein (Feldheim: 1996), được trích dẫn
trong Solomon Schimmed, The seven deadly sins: Jewish, Christian and classical relections on human
nature (New York: The Free Press, 1992), trg.60
[6] Wikie AU và Norren Cannon, PhD, Urgings of the heart (Những thôi thúc trong tim) trg.146-148
3

 
Tác giả bài viết: LM Giuse Đỗ Văn Thụy MSV

Tân Phúc Âm hóa Lòng ghen tị - kỳ II


 LÒNG GHEN TỊ TRONG CUỘC SỐNG
1. Phân biệt ghen tị và ghen tuông
Chúng ta thường lẫn lộn ghen tị với ghen tuông.

1.1. Ghen tị là cảm thấy đau đớn, khi thấy người khác có được những gì chúng ta thèm muốn, còn ghen
tuông là sợ mất những gì chúng ta đang có.
Cảm thấy tức tối khi người khác vui hưởng một điều đáng ao ước, người ghen tị muốn chiếm đoạt hay
làm cho điều ấy ra hư hỏng. Trái lại, ghen tuông thì liên quan đến tình yêu. Người ghen tuông sợ mất
người yêu vào tay tình địch.
Từ ghen tị bắt nguồn chữ invidere hay invidia trong tiếng La Tinh, có nghĩa “nhìn một cách độc ác hay
tức tối..và thèm muốn.” Nói cách khác, người ghen tị nhìn sự vật với “đôi mắt độc ác.” Theo Từ điển
Webster, lòng nghen tị là “cảm thấy đau đớn và tức giận khi người khác vui hưởng một lợi lộc, cùng với
lòng ước ao muốn chiếm đoạt lợi lộc ấy.” Các nhà tâm lý bổ túc thêm: và muốn phá hoại kẻ đang chiếm
hữu lợi lộc ấy.” Lòng ghen tị đặt nền tảng trên niềm tin này: Vì của cải có giới hạn, nên một ai đó chiếm
hữu quá nhiều, thì tôi chẳng còn được bao nhiêu. Tóm lại, sự khác biệt giữa ghen tuông và ghen tị là ở
chỗ, sự ghen tuông liên hệ đến mối tương quan tay ba, trong đó người ghen tuông sợ kẻ tình địch cướp
mất tình cảm của người mà mình yêu thương. Trái lại, lòng ghen tị chỉ liên quan đến hai người: Người
này là chủ thể của lòng ghen tị và người kia là đối tượng của lòng ghen tị. [1]

1.2. Ghen tuông liên quan đến việc chiếm hữu người khác, còn ghen tị thì so đo với người khác.
Trong kỳ tĩnh tâm, một người đàn ông đã chia sẻ kinh nghiệm của mình trong cuộc chiến chống lại sự
ghen tuông và ghen tị, kinh nghiệm của ông có thể làm sáng tỏ sự khác biệt giữa hai loại cảm xúc ấy. Khi
gặp vị linh hướng, ông nói là mình cảm thấy xấu hổ khi phải thừa nhận những cảm xúc khó chịu ấy,
nhưng ông thừa nhận là những cảm xúc ấy cản trở ông cầu nguyện, ông thất vọng và thú nhận rằng, sự
tức giận xâm chiếm cuộc sống ông đến mức ông không thể cầu nguyện. Và ông thấy rõ sự ghen tuông và
ghen tị chính là kẻ phá bĩnh nguy hiểm, vì chúng là tác nhân thổi bùng ngọn lửa tức giận. Sự ghen tuông
mãnh liệt đến nỗi, chỉ cần trông thấy bà vợ nói chuyện với một người đàn ông khác là ông đã muốn bỏ đi.
Sự ghen tuông ích kỷ của ông đã khiến đời sống hôn nhân toan rơi xuống vực thẳm ly dị. Ông cũng bị
dằn vặt vì lòng ghen tị. Ông không ngừng so đo với những người đàn ông khác, và vì thế mà ông cảm
thấy bất an vì tức giận. Ông tức giận vì họ thụ hưởng một nền huấn luyện và giáo dục tốt hơn ông, vì họ
có những chiếc xe sang trọng hơn xe của ông, vì họ có nghề nghiệp, ngoại hình, tài năng và nổi tiếng hơn
ông, và vân vân. Vì sự ghen tuông và ghen tị cản trở ông tiếp xúc với Thiên Chúa và tha nhân, ông cần
thẳng thắn đối phó với những cảm xúc ấy thì mới có thể phát triển đời sống tâm linh được. [2]

1.3. Lòng ghen tị có thể được kích hoạt khi so đo với kẻ khác.
Qua câu chuyện dưới đây về một người đàn ông trung niên, chúng ta có thể thấy những sự so đo đã kích
hoạt lòng ghen tị của ông như thế nào. [3]
Ông may mắn kết hôn với một phụ nữ mà ông cảm thấy tương hợp cả thể xác lẫn tinh thần . Ông cảm thấy
hài lòng với chân giáo sư tại trường đại học và tiền lương tuy khiêm tốn, nhưng cũng kha khá. Ông sống
tại một khu phố đủ tiện nghi và con cái ông được học tại những trường công có chất lượng. Về mặt xã
hội, ông cảm thấy hài lòng với các đồng nghiệp và bạn hữu thân thiện, cũng như với nhiều người bạn thân
4

khác. Nhìn chung, ông hoàn toàn mãn nguyện về cuộc sống mình, cho đến khi ông tham dự buổi họp mặt
lần thứ 20 của các bạn học thời sinh viên.
Vì tò mò, ông tham dự cuộc họp mặt ngoài trời để xem các bạn học cũ vui chơi với nhau như thế nào. Thế
nhưng, sự tò mò ấy sớm biến thành lòng ghen tị, khi ông biết rằng nhiều người có được một địa vị xã hội
cao trọng hơn ông, gặt hái được những thành quả trong lãnh vực kinh tế và nghề nghiệp nhiều hơn ông.
Không những họ thu nhập nhiều tiền hơn ông và đang hoạt động trong những lãnh vực có vẻ lý thú hơn
ông, mà con cái họ cũng được theo học tại những trường tư thục nổi tiếng và vợ họ dường như có học
thức và quyến rũ hơn vợ ông.
Những điều đó đã kích hoạt những cảm xúc ghen tị nơi ông, khiến ông không còn cảm thấy hài lòng với
chính mình. Sau cuộc họp mặt, ông trở về nhà với cảm xúc tức tối, tự ti và nghĩ rằng mình giống như một
kẻ thất bại. Ông không còn cảm thấy hạnh phúc với vợ mình, và tức giận với bà, vì bà thua kém những bà
vợ của các bạn học cũ. Trước đây, ông cảm thấy mãn nguyện với chiếc ghế giáo sư đại học, thì nay ông
lại cảm thấy bất mãn vì đồng lương khiêm tốn, công việc nhàm chán và ít có ảnh hưởng, ông ôm ấp một
mối thù hằn thầm kín đối với những người bạn thành đạt, ít nữa là ông nhận thấy mình đang ước ao cho
họ gặp phải một vài thất bại.
Tóm lại, khi ông so đo với những người khác, ông đã để cho mình bị tấn công bởi lòng ghen tị và hậu quả
là ông thường xuyên cảm thấy đau đớn trong lòng, và đánh mất cái nhìn lạc quan về toàn thể cuộc sống
mình. Chỉ trong thời gian cuối tuần vắn vỏi, lòng ghen tị đã làm vẩn đục nhận thức của ông, khiến ông
không còn thấy được những điều thiện hảo mà ông đã vui hưởng trong cuộc sống mình. [4]

2. Lòng ghen tị và những mặt tốt xấu.


2.1. Mặt tối của lòng ghen tị.
2.1. 1. Mặt tối của lòng ghen tị.

Nhiều người trong chúng ta đã không nhìn nhận lòng ghen tị của mình, hoặc chúng ta miễn cưỡng nhìn
nhận lòng ghen tị của mình, vì hình như chúng ta cảm thấy mất giá trị khi nhìn nhận như thế. Chúng ta
xem lòng ghen tị như một độc dược mà chúng ta có thể nhốt trong tủ trà, xa tầm nhìn và ngoài tầm tay
của chúng ta, mà khi chúng ta hợp lý hóa [5]  lòng ghen tị, thì nó không thể làm hại chúng ta được. Điều
đó có lẽ phản ánh xu hướng che giấu những mặt tối nơi con người chúng ta, nhất là những mặt tối khiến
chúng ta cảm thấy thấp hèn và hổ thẹn. Vì ghen tị là một trong những cảm xúc khó nhận diện và toàn
nhập nhất, nên sự ghen tị dễ trở thành một phần của bóng tối và xói mòn sự toàn vẹn của đời sống tâm
linh.
Thần học và tâm lý học Kitô Giáo đều cảnh giác chúng ta đừng coi thường sức hủy hoại của lòng ghen tị.
Truyền thống Kitô Giáo xem lòng ghen tị như một điều xấu cố hữu, nên đã xếp lòng ghen tị vào danh
sách bảy mối tội đầu.
Các nhà phân tâm học cũng quan tâm đến lòng ghen tị, vì họ nghĩ rằng lòng ghen tị là nhân tố nằm bên
dưới nhiều vấn đề liên quan đến mối tương quan của con người, gây đổ vỡ giữa vợ chồng, con cái, bạn bè
và các quốc gia. [6]

2.1.2. Ghen tị luôn che đậy một nỗi đói khát sự toàn vẹn đã bị cản trở.

Như mọi vấn đề khác liên quan đến bóng tối, những ai muốn phát triển đời sống tâm linh, thì phải biết
nhận ra nhiều bộ mặt khác nhau của lòng ghen tị. Chúng ta phải mở lòng đón nhận nỗi khao khát chưa
được thỏa mãn và là nguyên nhân sinh ra lòng ghen tị, bởi vì lòng ghen tị luôn che đậy một nỗi đói khát
sự toàn vẹn đã bị cản trở. Cho dù lòng ghen tị có thể được biểu lộ qua những sắc thái cụ thể khác nhau,
nhưng trong thực chất thì lòng ghen tị là một nỗi khao khát vô vọng hướng tới một cuộc sống viên mãn,
5

mà Thiên Chúa hứa ban cho chúng ta như một quyền lợi cơ bản. Nếu chúng ta có khả năng nhận ra sự
hiện diện của lòng ghen tị và giải mã được ý nghĩa của lòng ghen tị, chúng ta có thể hướng cảm xúc tiêu
cực ấy đến những mục tiêu cổ võ sự sống. Nếu chúng ta xem xét cảm xúc ghen tị một cách kỹ lưỡng,
chúng ta có thể khám phá được hai điều này. Thứ nhất, lòng ghen tị vừa biểu lộ nỗi khao khát muốn đón
nhận những điều thiện hảo của đời sống, vừa biểu lộ sự thất vọng vì những điều thiện hảo mà mình đã
đón nhận từ cuộc sống. Người ghen tị cố tước đoạt của người khác những điều họ khao khát. Thứ hai,
lòng ghen tị luôn luôn xuất hiện nơi những người không có lòng biết ơn. Trong khi lòng biết ơn sản sinh
ra tình yêu, lòng ghen tị lại sản sinh ra căm thù. Khi chúng ta nhận ra lòng ghen tị xuất hiện dưới bất cứ
hình thức nào, thì đó có thể là cơ may giúp chúng ta được chữa lành và trưởng thành. [7]

2.2. Mặt sáng của lòng ghen tị: luôn khát khao một sự viên mãn tròn đầy.

Để hiểu rõ một cảm xúc phức tạp như lòng ghen tị, chúng ta nên biết rằng, cảm xúc ấy bắt nguồn từ ước
muốn hoàn thiện của mình. Bất cứ khi nào chúng ta nhận thấy một điều tốt, chúng ta cũng bị lôi cuốn bởi
điều tốt ấy. Chúng ta khao khát đến gần hay chiếm hữu điều tốt ấy. Điều tốt ấy có thể là một con người,
một đồ vật, một vẻ đẹp hay một đặc điểm cao quý như hạnh phúc hay lòng quảng đại. Trong thực chất,
lòng ghen tị liên quan đến sự thiện hảo. Lòng ghen tị bắt nguồn từ nỗi khao khát mãnh liệt muốn chiếm
hữu điều thiện và từ nỗi thất vọng sâu xa vì không chiếm được điều thiện ấy. Tính cách độc đáo của mỗi
người cũng là yếu tố định đoạt tại sao chúng ta khao khát và đánh giá điều này hay điều nọ là tốt. Điều
người này cho là đáng ước ao, thì người khác có thể cho là không đáng ước ao. Lòng ghen tị xâm nhập
con tim chúng ta, khi chúng ta không hy vọng chiếm được những điều tốt mà chúng ta ao ước. Tâm trạng
sụp đổ và thất vọng là mảnh đất mầu mỡ để lòng ghen tị phát triển, vì lòng ghen tị triển nở mỗi khi chúng
ta thiếu niềm hy vọng. Vì thế, chúng ta có thể cảm thấy rất đau đớn khi người khác thành công, hay cảm
thấy hân hoan trong lòng khi người khác thất bại.
Lòng ghen tị sẽ xuất hiện, khi chúng ta không hiểu rõ giá trị cao sâu của lòng khao khát mà con người
phàm nhân của chúng ta đang trải nghiệm. Là con người, chúng ta mang trong lòng một sự trống rỗng
không ngừng khao khát được lấp đầy. Do đó, thánh Augustinô đã cầu nguyện như thế này: “Lạy Chúa,
Chúa đã dựng nên con cho Chúa, và lòng con vẫn còn thao thức mãi cho đến khi được nghỉ yên trong
Chúa.” Qua lời nguyện ấy, chúng ta thấy rằng con người mang trong lòng một nỗi khao khát thẳm sâu, và
vì thế, họ luôn luôn cảm thấy chưa đầy đủ và cứ thèm muốn nhiều hơn nữa. Chính vì lòng khao khát vô
biên ấy, mà chúng ta hằng ước muốn trở nên viên mãn. Khi chúng ta không ý thức mà chấp nhận khía
cạnh ấy nơi thân phận con người chúng ta, chúng ta sẽ trở nên người thất vọng và ghen tị. Chúng ta quên
rằng, chúng ta chỉ là những thụ tạo của Thiên Chúa, và chúng ta được dựng nên là để đi tìm sự viên mãn
nơi tình yêu Thiên Chúa. Lòng ghen tị làm chúng ta nghĩ rằng, “giả như tôi chiếm được điều này hay điều
nọ, tôi sẽ trở nên viên mãn.” Nhưng cuối cùng, kinh nghiệm cho chúng ta thấy mình bắt đầu vỡ mộng và
căm ghét chính những điều mà chúng ta nghĩ là có thể làm cho chúng ta mãn nguyện.
Thay vì chấp nhận những hạn chế và mất mát như một phần của cuộc sống, kẻ ghen tị nghĩ rằng người
khác thì nhận được nhiều, trong khi họ chẳng nhận được bao nhiêu. Người ghen tị chú ý quá nhiều đến
những gì người khác sở hữu, khiến họ không thể tập trung vào những gì họ đang cần và đang mong
muốn. Khi họ thiếu nhận thức về chính mình, thì tình trạng đó cản trở họ lãnh trách nhiệm về cuộc đời
mình. Họ nghĩ rằng, người khác phải chịu trách nhiệm về những gì họ đang thiếu, và vì thế mà họ tức
giận. Họ đổ lỗi cho người khác, đó là tác nhân kích hoạt cảm xúc bị ngược đãi và thù hằn mà họ cho là
đúng, khiến họ nghĩ rằng người khác phải trả giá vì đã làm cho họ cảm thấy tồi tệ. Những cảm xúc đau
khổ mà họ cảm nghiệm nơi mình, dần dần trở thành sự đau khổ do ngươi khác gây ra cho họ. Sự trống
vắng và nỗi khao khát của họ được thay thế bằng sự tức giận và thịnh nộ. Và kẻ nào đang sở hữu những
điều mà họ khao khát, kẻ ấy sẽ trở thành kẻ thù, mà hạnh phúc của kẻ thù thì không có lợi cho họ. [8]
6

3. Bạn bị ghen tị, buồn hay vui, khổ hay sướng?

3.1. Bạn không gì phải buồn, bạn không gì phải khổ, nhưng bạn hãy hãnh diện vì bạn phải có cái gì
đó hơn người nên bạn mới bị ghen tị.

Bị người khác ghen tị là một loại bị tổn hại cực kỳ không công bằng và oán hận. Người bị ghen tị đối với
người ghen tị có thể không có một tí bất lợi và ác ý nào, thậm chí người trước có những việc làm có lợi và
hữu nghị với người sau. Hoàn toàn do lòng dạ hẹp hòi của loại người sau, không thể khoan nhượng người
khác trội hơn anh ta, đã sinh ra loại tình cảm đê tiện thấp hèn - đó là ghen tị. 
Nói chung, khi bạn bị người khác ghen tị là lúc bạn đang đóng vai của một kẻ mạnh trong cuộc sống, về
các phương diện tài năng hoặc tình cảnh nhân sinh hoặc địa vị danh dự đang có ưu thế nhất định. Còn
người ghen tị thì trái ngược với những điều đó, phần nhiều là kẻ thất bại trong cuộc sống. Anh ta có lẽ
biết thất bại, biết tình cảnh của nhiều phương diện không bằng người, nhưng anh ta không bằng lòng tiếp
nhận thất bại này, không bằng lòng tiếp nhận tình cảnh này mà anh ta lại không bằng lòng có lẽ không thể
dùng phương thức tích cực để cải thiện cảnh này. Thế là mưu toan đào khoét sâu khuyết điểm của người
khác để bù đắp lại và an ủi mình, hoặc mưu toan quật ngã người khác, đem người khác gạt bằng ngang
với mình hoặc thấp hơn một chút. Ðây chính là logic của kẻ ghen tỵ: tôi không làm được, để bạn cũng
không làm được như tôi, thậm chí để cho bạn càng không làm được hơn tôi. 

3.2. Bạn bị người khác ghen tị, bạn không gì phải buồn, bạn không gì phải khổ, bạn hãy hãnh diện
vì bạn phải có cái gì đó hơn người nên bạn mới bị ghen tị, nhưng bạn hãy coi chừng, nếu bạn không
có bản lãnh, bạn sẽ trở thành nạn nhân của sự ghen tị.

Sau khi gặt hái nhiều thành công trong nghề nghiệp và trở thành chuyên viên có tầm cỡ quốc tế, một nữ tu
đã kể lại nỗi kinh hoàng của mình, khi bà trở thành nạn nhân của chính cộng đoàn mình, giống như con
dê chuộc tội. Là một nhà giảng thuyết được nhiều người săn đón, bà được hưởng mọi “vinh dự” liên quan
đến chức vụ ấy. Bà lấy làm ngạc nhiên, vì công việc ấy tuy làm cho bà thích thú, nhưng cũng là một
nguyên nhân khiến bà mệt mỏi. Bà trở thành đối tượng ghen tị của chị em trong cộng đoàn, vì trong vô
thức họ cảm thấy bực bội vì bà được tự do đi lại (bà thường xuyên đi khắp thế giới như một học giả),
trong khi họ chẳng thể đi đâu vì thời khóa biểu dạy học dày đặc. Cuối cùng, khi bà giới thiệu một chuyên
viên phụ tá thay mặt bà, thì họ lại không cộng tác với người này, không một ai muốn nói chuyện với
người này. Bấy giờ, bà đoan chắc rằng cốt lõi của vấn đề chính là lòng ghen tị. Sau những ngày tháng hội
họp mà chẳng đi đến đâu, bà thấy mình không thể giải quyết sự ghen tị tiềm ẩn trong vô thức của họ, nên
bà xin chuyển đi nơi khác.
Câu chuyện trên đây cho thấy rằng, đối tượng bị ghen tị có thể trở thành nạn nhân của lòng ghen tị. Đối
tượng của lòng ghen tị cảm thấy mình bị tấn công, đe dọa và bơ vơ. Có thể là đối tượng bị ghen tị tìm
cách nói chuyện với người có lòng ghen tị và tranh luận với họ, thậm chí chứng minh cho họ thấy chẳng
có gì đáng ước ao. Kẻ bị ghen tị có thể đi tới chỗ cắt đứt mọi liên lạc với người có lòng ghen tị. Rốt cuộc,
kẻ bị ghen tị có thể nhận thấy là họ không thể làm gì được để cải thiện tình trạng đó, bởi vì nguyên nhân
gây ra lòng căm thù không phải là một lỗi lầm hay nhân đức cụ thể nào đó, mà chính là con người của họ.

3.3. Nạn nhân của lòng ghen tị có thể phản ứng bằng nhiều cách khác nhau.

- Nếu họ cảm thấy tức giận vì bị ngược đãi, thì hầu chắc là họ sẽ phản công, và như thế, họ sẽ trở nên
người tiêu cực và đầy căm phẫn như kẻ ghen tị.
7

- Một cách phản ứng khác là để cho mình bị đầu độc bởi lòng ghen tị, khi họ nội tâm hóa lời khiển trách
mà người khác phóng chiếu lên họ, và cảm thấy có lỗi. Đó là trường hợp của một thừa tác viên mục vụ
đầy năng động, khi ông vô tình biến mình thành nạn nhân của các đồng nghiệp đầy lòng ghen tị. Dần dần
ông đi đến chỗ tin rằng, mình cũng xấu xa như lời các bạn đồng nghiệp quả quyết. Hậu quả là ông phủ
nhận hoàn toàn những cấu tố trong nhân cách của mình đã khiến các đồng nghiệp tỏ lòng ghen tị. Sau
nhiều năm trị liệu, ông mới có thể sửa chữa sự thiệt hại và lấy lại nghị lực mà sống theo bản chất của
mình. Qua kinh nghiệm đau đớn ấy, ông biết rằng mọi nạn nhân của lòng ghen tị cần phải ý thức rằng, khi
họ đầu hàng trước những nhận xét mà người khác nêu ra vì lòng ghen tị, họ phản bội những phẩm chất
cao quý của mình, thậm chí làm cho họ thiếu ý thức về bản thân.
- Các nạn nhân của lòng ghen tị cảm thấy rất bị lôi cuốn phải từ bỏ chính mình, vì họ không thể chịu đựng
những đau khổ do người khác ngược đãi. Họ phải có nhiều nghị lực thì mới có thể quý mến những cấu tố
trong nhân cách của mình, vốn là những phẩm chất đã làm cho người khác ghen tị. Nhiều khi, hình như
người ta thích phủ nhận hay coi thường tài năng và thành công của mình, để xoa dịu những đòn tấn công
gây đau đớn của kẻ ghen tị, hơn là quý mến những tài năng và thành công ấy. [9]

4. Những người ghen tị và những người hay bị người khác ghen tị

4.1. Những người hay ghen tị:


Francis Bacon cho rằng những người hay ghen tị người khác là những người như sau: người không có
đức không có tài, họ không thể từ những ưu điểm của bản thân để rút ra được chất tu dưỡng, mà nhất định
phải tìm khuyết điểm của người khác để làm chất tu dưỡng, dùng biện pháp làm bại hoại hạnh phúc của
người khác để an ủi mình, bản thân họ thiếu một đức tính tốt đẹp nào đó thì lấy việc hạ thấp đức tính tốt
đẹp này của người khác để thực hiện sự cân bằng giữa hai người; người hay đi hỏi thăm những chuyện lời
ong tiếng ve, họ lấy việc phát hiện những điều không vui vẻ của người khác, để làm cho mình được một
trận hả hê vui tai vui mắt? Ghen tị là một thứ tính dục lang thang khắp nơi, chỉ có những người nhàn cư
mới có thể được hưởng nó, còn tất cả những ai vùi đầu vào sự nghiệp của mình, căn bản không có thì giờ
để ghen tị người khác; những người có loại khuyết điểm nào đó khó khắc phục, vì khiếm khuyết của mình
không có cách nào bù đắp được, nên họ cần phải làm tổn thương người khác để được bù đắp lại; người đã
từng trải qua tai họa và thảm họa lớn, những người này thích đem thất bại của người khác xem là sự đền
bù đối với những đau khổ mình phải kinh qua trước kia; người có lòng hư vinh cực mạnh, họ không thể
nhìn ra trong một sự nghiệp, người khác luôn luôn mạnh hơn anh ta, họ không thể khoan nhượng đồng
nghiệp hoặc người mà anh ta rất quen thuộc được đề bạt. 

4.2. Những người hay bị người khác ghen tị:


Francis Bacon cũng cho rằng những người dễ bị người khác ghen tị là những người như sau: người ưu tú
của thế hệ sau, họ rất dễ bị các vị nguyên lão ghen tị; người xuất thân hèn mọn một khi bốc lên; các công
tử nhà giàu "tọa hưởng kỳ thành"; người xuất phát từ dã tâm muốn ngoi lên, khắp nơi ôm lấy việc để làm;
người tự kiêu tự đại, những người này mọi lúc mọi nơi đều tỏ rõ ưu việt của mình, hoặc khoe khoang
trắng trợn cố hòng áp đảo tất cả mọi người cạnh tranh; người được hưởng địa vị ưu việt nào đó mà lại xảo
quyệt che giấu, họ làm cho người khác cảm thấy họ không có giá trị do đó mà không xứng đáng được
hưởng hạnh phúc đó; người thích xuất đầu lộ diện và những thằng ngốc thấy các nhân vật lớn xuất đầu lộ
diện. 

4.3. Những người dễ tránh tính ghen tị:


Francis Bacon còn cho rằng những người dễ tránh tính ghen tị là những người như sau: người có đức
hạnh cao cả, vì hạnh phúc của họ đến từ sự lao khổ của họ nên không dễ bị ghen; người với danh hiệu
8

quý tộc cha truyền con nối; người tuần tự tiệm tiến lên cao; người đã từng nếm đủ thảm họa sau mới
giành được hạnh phúc, hạnh phúc đến với họ không dễ dàng như thế, cả đến làm cho người khác đồng
tình; người hay kể khổ kể nghèo, loại người này cho dù ở địa vị trên cũng vẫn thích kể nghèo kể khổ với
người khác, ngâm nga một điệu than vãn ?đang sống như người bị tù đày?, kỳ thực họ chưa chắc đã thật
sự chịu khổ như thế, đây chỉ là một màu khói dùng để làm nhạt tính ghen tị của người khác; những nhân
vật lớn vui lòng dùng địa vị ưu việt của mình bảo hộ lợi ích của thuộc hạ, hành vi của họ bằng việc đắp
lên một "con đê" hữu hiệu để ngăn chặn ghen tị; người bất kể ở vị trí địa vị nào đều có thể bình thản
thành khẩn cởi mở mình với người khác; người chỉ nấp ở sau màn mà không dễ dàng xuất đầu lộ diện;
người mà ở một số mặt để cho người khác chiếm vị trí ở trên mình. [10]

4.4. Chiến lược để tránh thảm họa của lòng ghen tị:
Bị người khác ghen tị, không duyên cớ bị người khác thù hằn, bị người khác vu cáo hãm hại, bị người
khác bức hại, thì trong lòng luôn khó chịu, có một nỗi cay đắng khó nói ra. Nhưng, nhìn thế giới nhiều
hơn, nhất là nhìn những người hay ghen tị người khác nhiều hơn, nhìn thấu rõ hơn thì trong lòng sẽ có thể
bình tĩnh hơn nhiều. Những người ghen tị bạn phần nhiều là những người không bằng bạn, người mạnh
hơn bạn nói chung không thể ghen tị bạn. Như vậy, chiến lược cơ bản của bạn nên là giữ vững trận địa
của mình, ít xuất kích đối với người ghen tị bạn. Chỉ cần bạn bình tĩnh, giữ được thêm một ngày thì kẻ
ghen tị bạn sẽ có thể khó chịu thêm một ngày. Giống như khi bạn đang đọc sách, viết văn, gặp phải những
tiếng ồn từ bên ngoài phòng cố ý phát ra để quấy rầy bạn, bạn chỉ có bình tĩnh đứng dậy đi đóng chặt cửa
sổ lại, nhốt tiếng ồn ở bên ngoài phòng, như thế có lẽ bạn mới có thể tiếp tục đọc sách, viết văn được.
Bằng không, bạn phải chạy ra quát một tiếng lớn đối với kẻ phát ra tiếng ồn, cãi nhau một trận đến đỏ mặt
tía tai hoặc dẫn đến bệnh tim phát ra, thế thì bạn sẽ hỏng bét hết, không những không lập tức tiếp tục đọc
sách viết văn, chưa biết chừng đến mấy tiếng đồng hồ liền đều vì tâm trạng không tốt mà không làm nổi
việc gì. 
Ngoài việc giữ chặt trận địa của mình, không dễ dàng xuất kích, nếu như có thể thiết kế một vài biện pháp
khéo léo hơn để tránh né ghen tị, thì càng lý tưởng hơn. Ví dụ, trước vinh dự cố gắng ít chìa tay ra, khi
chưa cần xuất đầu lộ diện cố gắng ít xuất đầu lộ diện, càng không nên đi khoe khoang mình. Hãy suy nghĩ
thay cho người khác nhiều hơn một chút, những thuận tiện có thể nhường cho người khác thì hãy để cho
họ chiếm. Hãy cống hiến nhiều hơn một chút cho công chúng, cho xã hội. Mọi lúc mọi nơi làm việc thiện,
chân thành gặp gỡ với người khác. Bồi dưỡng tình cảm đạo đức cao thượng... Như thế, có lẽ bạn sẽ có thể
xua tan được đám sương mù của ghen tị sáng tạo cho mình một bầu trời trong trẻo. [11]
 
5. Lòng ghen tị trong đời sống cộng đoàn

Sự khác biệt của các cá nhân trong cộng đoàn có thể là một thuận lợi và có thể là một bất lợi tùy ở
nơi chúng ta.

5.1. Thuận lợi: Sự khác biệt của các cá nhân có thể là một cơ hội làm giầu cho cộng đoàn.

Cần lưu ý hết sức đến những hậu quả do lòng ghen tị gây ra trong đời sống cộng đoàn, vì đa số chúng ta
đều sống và làm việc trong nhóm. Các chuyên viên năng động nhóm đều cho rằng, các cuộc xung đột
trong nhóm thường bắt nguồn từ một sự ghen tị trong vô thức tập thể. Các nhóm ít khi được thành lập bởi
những người đồng đều như nhau; những khả năng phú bẩm không đồng đều là chuyện không thể tránh.
Tuy nhiên, sự bất bình đẳng ấy không đương nhiên sinh ra lòng ghen tị, nếu mỗi cá nhân cảm thấy đủ an
tâm và tự tin, mà hiểu rõ giá trị của những gì mà mỗi người cống hiến. Trong trường hợp đó, “chúng ta
không buộc phải có hết mọi sự và làm hết mọi việc. Chúng ta có thể tin tưởng rằng, người khác sẽ cung
9

cấp cho chúng ta những gì chúng ta thiếu.” Đó là điều mà Ann và Barry Ulanov, hai nhà phân tâm học
theo trường phái Jung, đã khẳng định trong một tác phẩm nghiên cứu về lòng ghen tị. Họ còn nói thêm
rằng, chúng ta “có thể vui mừng vì tài năng và khả năng của người khác, bởi vì chúng ta cùng nhau làm
nên một khối toàn vẹn và đáng mong ước.” [12]

5.1.1 Sự khác biệt của các cá nhân có thể là một cơ hội làm giầu cho cộng đoàn, nếu biết liên kết
những khác biệt:
Có khi nào bạn quan sát một người thợ xây bức tường từ những viên đá tự nhiên có hình dạng khác nhau
-  viên có dạng hình chữ nhật, viên hình tam giác và cả những viên không có hình dạng nhất định. Thế
nhưng với sự khéo léo của người thợ, những viên đá khác nhau đó đã tạo nên một bức tường rất chắc
chắn và mang tính mỹ thuật cao.
Cuộc sống cũng vậy. chúng ta sinh ra và lớn lên chẳng ai giống ai. Mỗi người một tính cách, mỗi người
một thế mạnh riêng. Cuộc sống, công việc xung quanh ta là bức tranh rộng lớn được hình thành bởi
những con người với những tính cách khác nhau đó. Có người chú ý đến tổng thể và có người chỉ quan
tâm đến chi tiết. Nhiều người rất giỏi trong việc nghĩ ra các ý tưởng hay thiết lập các kế hoạch vĩ mô
nhưng lại không có cách triển khai, theo đuổi và biến nó thành hiện thực. Ngược lại, số khác có thể bền bỉ
thực hiện mọi kế hoạch đề ra đến cùng. Hiếm có người nào một mình có thể làm được tất cả.
Chắc chắn sẽ rất thành công nếu chúng ta biết kết hợp những con người với những tính cách khác nhau đó
để tạo nên sức mạnh tổng hợp cho tổ chức của mình. Và người giỏi không phải là người làm tất cả mà là
người biết dùng những người giỏi hơn mình để làm những công việc thích hợp.
Howard Murad là bác sĩ chuyên khoa da liễu ở Los Angeles. Ông nhận thấy hầu hết các bệnh nhân đều
mong muốn được kết hợp giữa việc điều trị và chăm sóc sắc đẹp. Nhưng ông cũng biết rất rõ rằng ít có ai
trong ngành y có thể giỏi trong cả hai chuyên môn này: "Tôi quyết định hợp tác với một bác sĩ phẫu thuật,
và nếu bệnh nhân của tôi cần đến một cuộc giải phẫu thẩm mỹ thì đó không còn là việc của tôi nữa”.
Sau hai mươi năm thực hiện việc điều trị bệnh kết hợp với chăm sóc sắc đẹp, bác sĩ Murad thu được
khoảng 60 triệu đô la mỗi năm từ việc bán mỹ phẩm và điều trị theo phương pháp tắm nước khoáng. Ông
nhận xét: "Tôi có được ngày hôm nay có lẽ là do tôi chọn cách làm việc với những người am tường
những điều mà tôi không biết”. [13]

5.1.2. Sự khác biệt của các cá nhân có thể là một cơ hội làm giầu cho cộng đoàn, nếu biết hợp tác
với nhau:
Có hai người đang trong cơn hạn hán đói kém thì nhận được đồ bố thí của một ông cụ: một cần câu cá và
một giỏ cá sống. Người thứ nhất chọn giỏ cá, người thứ hai chọn cần câu rồi ai đi đường nấy.
Người chọn giỏ cá thì kiếm củi nhóm lửa, rồi ngấu nghiến nướng ăn mà chẳng biết tận hưởng mùi vị
thơm ngon của cá. Nhưng không lâu sau cá hết, anh ta chết đói cạnh cái giỏ không.
Còn người thứ hai thì cầm cần câu nhịn đói, ráng lê từng bước đi đến bờ sông. Nhưng chưa kịp đến nơi
thì kiệt sức, anh ta gục chết giữa đường.
Lại có hai người đang đói khác cũng được ông già cho một cái cần câu và một giỏ cá. Nhưng hai người
này không chia tay nhau mà rủ nhau cùng đi tìm dòng sông. Trên đường đi, họ vừa hỗ trợ, vừa động viên
nhau cùng cố gắng, khi mệt mỏi thì bắt ra một con cá nấu chia nhau ăn. Cuối cùng, họ cũng đến được
dòng sông. Từ đó, hai người sống bằng nghề đánh bắt cá. Mấy năm sau, họ xây nhà, lập gia đình rồi sinh
con đẻ cái, sống khỏe mạnh và hạnh phúc. [14]

5.1.3 Sự khác biệt của cá nhân có thể là một cơ hội làm giàu cho cộng đoàn, nếu biết ý thức trong xã
hội mỗi người có một vai trò khác nhau:
 
10

Một nhà khoa học già khá nổi tiếng và một chàng ca sĩ trẻ gặp nhau trên cùng một chuyến bay.
Khi xuống máy bay, rất nhiều người hâm mộ vây quanh chàng ca sĩ, còn nhà khoa học thì chẳng ai để ý
đến.
Chứng kiến điều này, một người quen của nhà khoa học bất bình nhưng khi vừa định lên tiếng thì liền bị
nhà khoa học ngăn lại:
- Ca sĩ thì phục vụ trước mặt công chúng, còn chúng tôi thì làm việc một cách thầm lặng. Do đó, mọi
người tất nhiên sẽ chào đón những ca sĩ và âm thầm kính trọng chúng tôi. Trước mặt biết bao nhiêu
người, các ca sĩ có thể hát; còn chúng tôi, trước mặt đông người thì làm sao có thể làm thí nghiệm hay
nghiên cứu được? Trong xã hội có rất nhiều người vẫn đang âm thầm phục vụ cho những người khác, và
có thể bạn cũng là một trong số đó. Vấn đề là bạn hiểu và biết rõ về việc mình đang làm và cảm thấy tự
hào chứ không cần đến sự tán dương của những người xung quanh. [15]

5.2. Bất lợi:

5.2.1. Sự khác biệt nơi mỗi cá nhân có thể là một nguy cơ cho sự ghen tị đầu độc cộng đoàn.

Nếu các thành viên trong nhóm thiếu lòng tự trọng, thì chúng ta có thể dự đoán là lòng ghen tị sẽ ngẩng
cao đầu và chĩa vào bất cứ thành viên nào tỏ ra nổi bật vì thành công hay vì may mắn. Vì thế, những dịp
mừng lễ, đám cưới, kỷ niệm và mừng sinh nhật có thể là cơ hội khiến người ta so đo mà ghen tị. Khi
người ta cảm thấy chẳng ai cho mình điều gì, hay không đối xử với mình một cách đặc biệt, thì họ có thể
cảm thấy rất tức giận khi người khác được đề cao.
Lòng ghen tị đầu độc đời sống cộng đoàn. Khi người ghen tị làm bầu khí cộng đoàn trở nên ô nhiễm vì
những cảm xúc tức giận và ngấm ngầm phá hoại những nỗ lực sống chung và hợp tác, họ gây ảnh hưởng
xấu trên toàn thể đời sống cộng đoàn. Họ có thể gieo vãi mầm mống chia rẽ, bằng cách loan truyền những
tin đồn gây ngờ vực, xúi giục những người khác chống đối nhau và tạo nên những cuộc đối đầu tay ba.
[16]

5.2.2. Sự khác biệt của các cá nhân có thể là một nguy cơ cho sự ghen tị hủy hoại cộng đoàn.

Để đối phó với những vấn đề liên quan đến đời sống cộng đoàn, thì đức tin và thiện chí mà thôi thì chưa
đủ. Nếu các thành viên cộng đoàn thiếu những kỹ năng giao tiếp và giải quyết xung đột một cách hữu
hiệu, họ sẽ không sao tránh khỏi những thiệt hại do lòng ghen tị gây ra. Nếu có nhiều người ghen tị trong
cộng đoàn, thì đời sống của toàn thể cộng đoàn có thể bị phá hủy.
- Một cách phá hoại phổ biến là trút tức giận lên đầu một kẻ bung xung: Một cách ý thức hay vô thức,
một vài người thông đồng với nhau mà chỉ định một thành viên làm “người có vấn đề,” rồi thuyết phục
những người khác cũng tin như thế. Khi tìm hiểu các gia đình có “một đứa con gây ra vấn đề,” các lý
thuyết gia về hệ thống đã chứng minh rằng, năng động “trút giận lên đầu một kẻ bung xung” là một điều
hoàn toàn có thật. Khi nghiên cứu gia đình như một hệ thống, họ có thể tìm thấy những sự liên minh và
xung đột giữa các thành viên trong gia đình. Khi giúp mỗi thành viên trong gia đình biết cách bộc lộ các
nhu cầu và cảm xúc của mình, họ không cần phải trút giận lên đầu một kẻ bung xung nữa. Khi các nhóm
bất hòa mà đưa ra những tiêu chuẩn như “phải tử tế” và “đừng vạch áo cho người ta xem lưng,” họ ngăn
cản các thành viên bày tỏ cảm xúc và bộc lộ sự bất đồng của mình, thì đó là bước đầu mở đường cho việc
trút giận lên đầu kẻ bung xung. Sự kiện đó đã xảy ra trong một cộng đoàn Kitô hữu nọ, khi họ giải quyết
sự xung khắc mà họ không nhìn nhận, bằng cách trút giận lên đầu một người, mỗi năm một người khác
nhau. Bề ngoài thì họ làm ra vẻ có tinh thần hiệp nhất và hợp tác, nên những người ngoài cộng đoàn nghĩ
rằng họ là một cộng đoàn gương mẫu. Tuy nhiên, sự thật không chỉ được tỏ lộ qua việc họ trút giận lên
11

đầu một kẻ bung xung, mà còn biểu hiện qua việc họ không có khả năng phát huy một đời sống cầu
nguyện cho có ý nghĩa, và không thể giao tiếp thân mật với nhau.
- Ngoài việc trút giận lên đầu kẻ bung xung, sự ghen tị trong cộng đoàn có thể biểu hiện qua những hình
thức ít bi thảm hơn. Chẳng hạn như đàm tiếu, tỏ thái độ tiêu cực (đối với bề trên và các bạn nổi bật),
không khích lệ và nâng đỡ nhau. Đó là những hình thức mà các thành viên trong cộng đoàn thường sử
dụng khi họ bộc lộ lòng ghen tị đối với nhau.
- Không có khả năng tiếp nhận sự trợ giúp hay chân thành tỏ lòng biết ơn đối với các thành viên khác
trong nhóm, cũng có thể là những hình thức che đậy sự ghen tị.
- Cuối cùng, sự ghen tị trong cộng đoàn đôi khi được phản ánh qua việc các thành viên lớn tuổi đối xử
không tốt với các thành viên trẻ tuổi hơn. Quả là điều đau đớn đối với những người lớn tuổi, khi họ phải
chấp nhận những dấu hiệu suy yếu mỗi ngày một gia tăng. Nếu họ không biết chấp nhận những sự mất
mát không sao tránh được, thì sự tức giận của họ sẽ tạo nên một sự ghen tị giữa người già và người trẻ,
khiến họ không thể vui hưởng những điều tốt lành mà họ trao ban cho nhau. Vì cảm thấy mình bị lường
gạt, nên một vài người lớn tuổi tỏ ra khó chịu với những người trẻ, khi người trẻ thụ hưởng những điều
mà họ không bao giờ có được. Trong đời sống gia đình, có lẽ cha mẹ phải đối phó với những cảm xúc
ghen tị đối với con cái, khi họ thấy con cái có được những lợi thế, mà khi họ còn trẻ, họ đã không có. Đây
là một điều nghịch lý: Trên bình diện ý thức thì cha mẹ muốn con cái có được mọi thứ, nhưng trên bình
diện vô thức thì họ lại bực bội vì con cái có quá nhiều thứ. [17]
 
 
 

[1] Wikie AU và Norren Cannon, PhD,  sđd trg.151


 
[ 2] Wikie AU và Norren Cannon, PhD, sđd trg.152
 
[3] Câu chuyện này được phỏng theo một dữ liệu của Solomon Schimmed, The seven deadly sins:
Jewish, Christian and classicalreflections on human nature (New York: The Free Press, 1992), trg. 56-57.
 
[4] Wikie AU và Norren Cannon, PhD, Urgings of the heart (Những thôi thúc trong tim) trg.151-153
[5]   Rationalization: Một cơ chế tự vệ, nhằm biện minh cho một vấn đề, để khỏi phải đối diện trực tiếp
với vấn để đó. X. Cencini và Manenti, Tâm lý và huấn luyện, dg. Nguyên Ngọc Kính (Thành Phố Hồ Chí
Minh: Nhà xuất bản Đông Phương, 2011), trg. 458 (ND).
 
[6]   Wikie AU và Norren Cannon, PhD, Urgings of the heart (Những thôi thúc trong tim) trg.149
 
[7]   Wikie AU và Norren Cannon, PhD, sđd trg.149-150
 
[8]   Wikie AU và Norren Cannon, PhD, sđd trg.154-155
 
[9]   Wikie AU và Norren Cannon, PhD, sđd trg.162-163
 
[10]   ZHANG ZI WEN tusach.mobi/61536. 90.khoanh-khac-bi-nguoi-khac-ghen-ti/htm.
 
[11]  ZHANG ZI WEN tusach.mobi/61536. 90.khoanh-khac-bi-nguoi-khac-ghen-ti/htm.
[12]   Wikie AU và Norren Cannon, PhD, Urgings of the heart (Những thôi thúc trong tim) trg.164
12

 
[13] Nguyễn văn Hải, Biết sống cao thượng trg. 96-98
 
[14] Thiên Trí Liên tổng hợp, Hạt giống tâm hồn: nghệ thuật sáng tạo cuộc sống trg.130
 
[15] Thiên Trí Liên tổng hợp, sđd trg.111-112
[16] Wikie AU và Norren Cannon, PhD, Urgings of the heart (Những thôi thúc trong tim) trg.164
 
[17] Wikie AU và Norren Cannon, PhD, sđd trg.165-166

Tân Phúc Âm hóa Lòng Ghen Tị - Kỳ III

PHƯƠNG THẾ CHỮA TRỊ LÒNG GHEN TỊ CỦA CON NGƯỜI

1.Chữa trị lòng ghen tị bằng phương thế tự nhiên.


Những cách ngụy trang của lòng ghen tị.

Những cơ chế tự vệ như phủ nhận và tri thức hóa, [1] là những hình thức tự vệ mà vô thức sử dụng để
tránh né những cảm nghĩ đau đớn và tâm trạng khó chịu. Con người sử dụng nhiều hình thức tự vệ để
chống lại cảm xúc ghen tị. Trong tác phẩm kinh điển về lòng ghen tị, bà Klein cho rằng những hình thức
tự vệ thì khá nhiều, nên chúng ta không thể liệt kê tất cả được. Những hình thức tự vệ ấy có mục đích
giúp chúng ta tránh khỏi đau khổ và khuynh hướng trả đũa, mà lòng ghen tị có thể khơi dậy nơi chúng ta.
Chúng ta thường sử dụng những hình thức tự vệ phổ biến nhất, mặc dầu chúng ta không nghĩ rằng đó là
những cách ngụy trang của lòng ghen tị. [2]

1.1.1.Lý tưởng hóa

Chúng ta thường ghen tị với những người chúng ta yêu mến và ngưỡng mộ, nhất là khi họ tỏ vẻ mình có
được mọi sự và những điều mà chúng ta không có. Khi chúng ta lý tưởng hóa những kẻ ấy và tài năng của
họ, thì đó có thể là một nỗ lực nhằm hạn chế lòng ghen tị của chúng ta. Tuy nhiên, nếu lòng ghen tị quá
mạnh mẽ, thì sớm hay muộn việc đánh giá ấy cũng biến thành sự căm ghét, bởi vì nó làm cho chúng ta
cảm thấy thấp kém.

1.1.2. Đánh giá thấp

Đánh giá thấp là một hình thức tự vệ khác nhằm tránh né lòng ghen tị. Người ta thường đưa ra hai ví dụ
sau đây để minh họa cho hình thức tự vệ này:
Thứ nhất là thái độ “chê nho xanh,” [3] nhằm coi nhẹ những thất bại của mình (dù sao thì giải thưởng ấy
chẳng có giá trị gì!)
Thứ hai là bày tỏ một sự thật hiển nhiên như “người giàu có nhiều tiền bạc, nhưng tiền bạc đâu mua được
hạnh phúc!” Một khi chúng ta đánh giá thấp một điều gì đó, cảm nghĩ ghen tị của mình cũng biến mất.
Chắc hẳn là chúng ta có thể đánh giá thấp bất cứ điều gì hay bất cứ ai mà chúng ta xem là lý tưởng. Sớm
hay muộn thì việc lý tưởng hóa ấy cũng đưa đến việc vỡ mộng. Cơ chế lý tưởng hóa bị sụp đổ nhanh hay
chậm là tùy cường độ của lòng ghen tị ẩn khuất bên dưới. Khi người ta tương giao thân thiết với kẻ này,
13

rồi lại đoạn giao mà tìm cách tương giao với kẻ khác, vì xu hướng phá hoại và đánh giá thấp chi phối mọi
tương giao thân thiết của mình, thì tâm trạng vỡ mộng và thất vọng của họ cứ lặp đi lặp lại. [4]  

1.1.3. Bối rối

Gắn liền với lòng ghen tị là cảm xúc thất vọng vì không đạt được điều mình hằng khao khát nhất. Nếu
chìm đắm trong những sự phù phiếm, chúng ta có thể cảm thấy rất khó khăn khi chọn lựa, ngay cả những
vấn đề hệ trọng như ơn gọi, nghề nghiệp, và những chuyện vụn vặt như chọn thực đơn ở nhà hàng. Lối
suy nghĩ thiếu quyết đoán và minh bạch khiến chúng ta không thể lấy quyết định, đôi khi bắt nguồn từ
lòng ghen tị và thất vọng vì không đạt được điều chúng ta muốn. Sự bối rối đưa đến tình trạng bất động
và đình hoãn, có thể là một cách thức tự vệ nhằm tránh né hay chống lại sự ghen tị. [5]

1.1.4. Coi thường bản thân

Coi thường bản thân hay thiếu lòng tự trọng là một cách thức khác để tránh né cảm xúc ghen tị. Coi
thường bản thân là đặc điểm nổi bật của những nguời dễ rơi vào tình trạng trầm cảm. Việc coi thường bản
thân có thể đưa đến hậu quả là chúng ta không bao giờ có thể phát huy những tài năng của mình một cách
mỹ mãn, hay chỉ xuất hiện trong những trường hợp nhất định như khi chúng ta phải đối đầu với một
người quan trọng. Hành động tháo lui và từ chối cạnh tranh có thể là một cách thức tránh né những cảm
xúc đau đớn do lòng ghen tị gây ra. Tuy nhiên, khi trốn tránh như vậy, chúng ta phải trả một giá đắt, là
đánh mất cơ hội quý giá để phát huy tài năng của mình mà gặt hái thành công.

1.1.4. Tham lam

Tham lam có thể là một cách thức tự vệ tinh vi chống lại lòng ghen tị. Phát xuất từ sự thiếu thốn cùng cực
trong thời thơ ấu, lòng ghen tị đưa tới tình trạng bất lực vì không bao giờ cảm thấy mãn nguyện. Những ai
phải chịu đau khổ như thế thì nghĩ rằng: “Tôi có được gì và tôi có là gì, hẳn không bao giờ đủ!” Cảm nghĩ
túng thiếu có thể thúc bách họ thèm muốn hay chiếm hữu tất cả những gì họ có thể chiếm hữu, bất luận là
của cải vật chất hay của cải tinh thần. Bị thôi thúc bởi lòng tham không đáy, họ quan tâm đến việc “chiếm
hữu” và “vượt thắng kẻ khác” để tránh né lòng ghen tị. Khuynh hướng cầu toàn và chuyên môn hóa có
thể là những biểu hiện của xu hướng tránh né ghen tị, khi người ta đuổi theo những thành công và thành
tựu để làm cho mình được yên lòng. [6]

1.1.6. Khoe khoang

Khi người ta khoe khoang thành công và tài sản của mình để kích thích lòng ghen tị nơi người khác, thì
đó cũng là một cách đảo ngược tâm trạng ghen tị mà mình đang trải nghiệm. Khi người ta muốn làm cho
người khác trở thành kẻ ghen tị và chiến bại, thì thái độ ấy vừa biểu lộ sự thù hằn, vừa biểu lộ sự bất lực
sâu xa, vốn là đặc điểm trong thế giới nội tâm của kẻ ghen tị. Thái độ tự tôn hay xu hướng khoe khoang
tài sản của mình là mặt nạ quen thuộc của lòng ghen tị.

1.1.7. Căm thù và dửng dưng

Để chống lại lòng ghen tị, người ta còn sử dụng một hình thức tự vệ khác, là dập tắt cảm xúc yêu thương
và ôm ấp cảm xúc căm thù. Kẻ ghen tị tỏ ra bối rối trước một mớ cảm xúc lẫn lộn giữa yêu thương, thù
ghét và ghen tị, mà hậu quả là những cảm xúc ấy sẽ xuất hiện trong các mối tương quan thân thiết của
14

mình và họ không thể chịu đựng được những cảm xúc mâu thuẫn như thế. Để tránh né sự xung đột giữa
các cảm xúc mâu thuẫn trong nội tâm, họ có thể phủ nhận cảm xúc yêu thương, bằng cách biểu lộ sự căm
thù một cách công khai, hay tỏ vẻ dửng dưng. Kìm nén cảm xúc ấm áp và những biểu hiện của lòng nhân
ái là một hình thức trả thù tinh vi đối với những kẻ mà chúng ta ghen tị

1.1.8. Thoái lui

Một biến thể khác của cơ chế tự vệ là cắt đứt quan hệ với người khác. Một sự độc lập thái quá thường che
giấu nỗi sợ ghen tị và chống lại lòng ghen tị của mình, bằng cách tránh né những kinh nghiệm có thể làm
phát sinh lòng ghen tị cũng như lòng biết ơn. Nếu chủ thể không có khả năng xin người khác giúp đỡ hay
đón nhận sự giúp đỡ của người khác, thì đôi khi đó là dấu chỉ của lòng ghen tị, bởi vì khẳng định sự độc
lập quá mức có thể là từ chối nhìn nhận sự thành công của người khác.

1.1.9. Chỉ trích thiếu xây dựng


Ngồi lê đôi mách, nói xấu sau lưng kẻ khác, và những cách thức hạ nhục người khác như thế, là những
hình thức biểu lộ sự ghen tị rất phổ biến trong cuộc sống hàng ngày. Kẻ ghen tị thì cảm thấy không vui
khi người khác được hạnh phúc, nhưng lại cảm thấy hài lòng và hân hoan khi kẻ khác gặp điều bất hạnh.
Làm mất uy tín hay bôi nhọ thanh danh của kẻ khác được xem là biểu hiện của lòng ghen tị. [7]

1.2. Chữa trị bằng phương thế tự nhiên.

1.2.1. Hãy nhìn nhận những thành công đến với người khác từ sự nỗ lực của họ:
Hãy nhìn nhận những thành công, những may mắn đến với người khác từ sự nỗ lực của họ. Đó là thành
quả họ đáng nhận được. Chỉ nghĩ như vậy, bạn mới xóa tan cảm giác tiêu cực trong lòng bạn. Đừng bao
giờ tỏ ra ghen tị với thành công của người khác, bởi vì để có được nó họ đã dốc hết sức mình cho nó. Bạn
hãy cổ vũ họ, khuyến khích và công nhận thành công của người khác. Như thế, bạn sẽ có thêm động lực
để phấn đấu. [8]

1.2.2. Học cái hay của người khác:


Khi Hasan - một nhà hiền triết Hồi Giáo sắp qua đời, có người hỏi ông: “Thưa ngài, xin ngài cho tôi biết
ai là thầy ngài? Ai là người đã truyền cho ngài những kiến thức uyên bác đến vậy?”.
Hasan mỉm cười: Những người thầy của ta nhiều vô kể. Nếu điểm lại tên tuổi của các vị ấy hẳn sẽ mất
hàng tháng, hàng năm. Điều đó quá dài vì thời gian của ta còn rất ít . Nhưng ta có thể kể ra đây ba người
thầy trong số những vị ấy.
Người đầu tiên là một tên ăn trộm. Một lần, sau khi lạc giữa sa mạc, ta tìm đến được một khu làng, trời đã
rất khuya, mọi nhà đều đóng cửa ngủ cả. Đi mãi, cuối cùng tình cờ ta bắt gặp một người đàn ông đang hì
hục khoét vách. Ta hỏi ông ta xem có thể tá túc ở đâu, ông ta trả lời: “Khuya khoắt thế này thật khó tìm
chỗ nghỉ chân. Nhưng ông có thể đến ở chỗ tôi nếu ông không ngại ở chung với một tên ăn trộm”.
Quá khát và mệt mỏi, ta quyết định theo người đàn ông đó về chỗ trú chân, không một chút chần chừ. Ta
đã nán lại đấy hẳn một tháng! Mỗi đêm, trước khi đi, người đàn ông ấy đều lặp lại câu nói quen thuộc:
“Tôi đi làm đây, ông ở nhà cầu nguyện cho tôi nhé!”. Lần nào người đó trở về, đáp lại ánh mắt tò mò của
ta, vẫn là câu trả lời: “Hôm nay chẳng ăn trộm được gì cả, nhưng ngày mai tôi sẽ làm được. Có thể lắm
chứ”.
Bỏ qua chuyện xét đoán việc làm bất chính của người đàn ông kia, rõ ràng ông ta cũng rất đáng nể vì
niềm tin mạnh mẽ của mình phải không? Đã có lúc ta trải qua giai đoạn vô cùng bế tắc, trí óc liên tục suy
ngẫm nhưng chẳng ngộ ra được một chân lý nào. Điều đó khiến ta rơi vào tâm trạng tuyệt vọng đến mức
15

nghĩ rằng mình nên chấm dứt tất cả những tìm kiếm vô nghĩa này. Nhưng ngay sau đấy ta chợt nhớ đến
tên ăn trộm, kẻ hằng đêm vẫn quả quyết: “Ngày mai tôi sẽ làm được. Có thể lắm chứ!”.
Người thầy thứ hai của ta là một con chó - đừng vội cười nhé anh bạn. Lần đó, khi ta đang đi dọc bờ sông
thì một con chó xuất hiện. Nó đang khát nước. Nhưng vừa nhìn xuống dòng nước, nó liền hoảng sợ bỏ
chạy. Chắc chắn nó đang nhầm tưởng cái bóng của mình là một con chó khác. Có lẽ quá khát nên chạy
được một đoạn, con chó đáng thương lại quay trở lại . Mặc nỗi sợ hãi trong lòng, nó nhảy xuống sông và
cái bóng biến mát. Ta nhận ra rằng, cũng như con vật kia, phần lớn nỗi sợ hãi trong con người chúng ta
đều do tưởng tượng mà nên. Vì vậy, phải biết lấy hành động để chiến thắng nỗi sợ của bản thân.
Người thầy cuối cùng của ta là một đứa bé. Lần nọ, ta đến một thành phố lớn và thấy một đứa bé cầm trên
tay ngọn nến đã thắp sáng để đặt trong đền thờ. Ta hỏi đứa bé: “Con tự thắp cây nến này phải không?”.
Đứa bé đáp: “Thưa phải”. Đoạn ta hỏi: “Lúc nãy ta còn thấy cây nến chưa được thắp nhưng chỉ một
thoáng sau đã cháy sáng. Vậy con có biết ánh sáng từ đâu đến không?”.
Đứa bé cười to, thổi phụt ngọn nến và nói: “Ngài thấy ánh sáng đã biến mất, vậy ngài bảo ánh sáng đã đi
đâu?”.
Cái tôi ngạo nghễ của ta hoàn toàn sụp đổ, pho kiến thức kim cổ của ta cũng sụp đổ theo. Lúc ấy ta
nghiệm ra sự dốt nát của bản thân. Và từ đó trở đi, ta không bao giờ còn dám tự hào về kiến thức của
mình.
Đúng là có thể nói ta không có một ai là thầy, nhưng điều này không có nghĩa ta không phải là một học
trò. Ta xem vạn vật là thầy. Ta học hỏi từ tất cả mọi vật, từ cành cây, ngọn cỏ đến đám mây trên trời kia.
Ta không có một người thầy, vì ta có hàng triệu triệu người thầy mà ta đã học được mỗi khi có thể. Điều
thiết yếu trong cuộc sống là phải luôn sẵn sàng làm một người học trò và phải biết học hỏi ngay từ những
điều bình thường, từ những con người giản dị nhất. [9]

1.2.3. Phát huy sở trường:

Phát huy sở trường, hạn chế sở đoản, tìm kiếm những giá trị mới.
Tiến sĩ Don Clinfton, một nhà tâm lý học hành vi đã trở nên nổi tiếng vì câu chuyện có ý nghĩa sau.
Đã có thời kỳ, các loài động vật quyết định phải làm một điều gì đó có ý nghĩa để giải quyết các vấn đề
đặt ra trong thế giới mới này. Chúng đã tổ chức ra một trường học và thực hiện một chương trình giảng
dạy bao gồm các môn học như chạy, leo trèo, bơi và bay. Để tạo điều kiện dễ dàng cho các môn học.
Vịt tỏ ra xuất sắc trong môn bơi. Trên thực tế, nó còn bơi tốt hơn cả giáo viên hướng dẫn. Tuy nhiên Vịt
lại chỉ vừa đủ điểm để thi đỗ trong môn bay, còn môn chạy thì rất kém. Do chạy chậm, Vịt đành phải bỏ
môn bơi và ở lại trường sau giờ học để tập chạy. Điều đó làm cho đôi chân Vịt bị môn đi nhanh khiến cho
nó chỉ đứng vị trí trung bình trong môn bơi. Tuy nhiên, với vị trí trung bình cũng là quá đủ, bởi vậy,
không một ai trừ Vịt lại lo ngại về điều này.
Thỏ bắt đầu với vị trí số 2 trong môn chạy, tuy nhiên, sau đó, bệnh co giật cơ bắp chân đã tiến triển với
một mức độ đáng lo ngại do Thỏ phải hoá trang quá nhiều trong môn bơi.
Sóc là người đứng đầu trong môn leo trèo, song nó lại có thành tích đáng thất vọng trong lớp bởi vì thầy
giáo đã bắt nó phải xuất phát từ dưới đất lên chứ không phải từ trên ngọn cây xuống. Sóc đã trở thành
"chú ngựa ngốc nghếch” do cố quá sức và bởi vậy chỉ được xếp loại "C” trong môn leo trèo và loại "D”
trong môn chạy.
Chim đại bàng là một đứa trẻ ngỗ nghịch và đã bị phạt nặng do không chịu nghe lời. Trong lớp leo trèo,
nó đánh bại tất cả những học sinh khác để leo lên ngọn cây, nhưng cứ khăng khăng đòi sử dụng đôi cánh
của mình để bay lên đó.
Bài học rõ ràng rút ra từ câu chuyện này thật giản dị. Mỗi loài vật đều có những khả năng riêng mà tại đó
nó tỏ ra xuất sắc nhất, trừ khi nó bị yêu cầu hay buộc phải tuân theo một khuôn mẫu khác không thích
16

hợp đối với nó. Khi điều này xảy ra, sự thất vọng, nản chí hay thậm chí tội lỗi sẽ dẫn đến sự tầm thường
trong tất cả các hoạt động hay sự thất bại hoàn toàn. Con Vịt dù sao vẫn là con Vịt và chỉ là con Vịt mà
thôi. Vịt được sinh ra để bơi chứ không phải để chạy, hay leo trèo, vốn không phải là sở trường của nó.
Do đó, việc nghĩ rằng Vịt chỉ có thể bơi hay bay sẽ giải quyết được khó khăn của Sóc. Chim Đại Bàng là
những sinh vật đẹp trên bầu trời chứ không phải trong một cuộc chạy đua chân đất. Trong những cuộc
đua đó, Thỏ sẽ luôn luôn là người chiến thắng trừ khi Đại Bàng bị đói.
Điều đúng với các loài vật trong rừng cũng đúng với tất cả chúng ta. Mỗi người đều có thể làm một việc
gì đó rất tốt. Nhiệm vụ của chúng ta là giúp cho họ làm được nhiều điều mà họ có thể làm tốt. Nguyên tắc
quản lý cần phải tuân theo là phát huy sở trường và thế mạnh của từng cá nhân và làm cho các thiếu sót,
hạn chế không ảnh hưởng đến công việc đang tiến hành. [10]

1.2.4. Chuyển từ tiêu cực sang tích cực:

Khi những ý nghĩ ghen tị xuất hiện, bạn hãy chuyển hướng những ý nghĩ tiêu cực sang một bên và hướng
đến những điều mới mẻ khác.
Ông vua xe hơi Henry Ford từng kể lại rằng: Tất cả những gì ông ta có được ngày nay là xuất phát từ một
chuyện nhỏ xảy ra ở một nhà hàng ăn. Ngày trước, ông chỉ là một anh công nhân sửa chữa xe. Một lần,
sau khi lĩnh lương tháng, ông rất vui sướng, bèn quyết định tới một nhà hàng cao cấp mà mình đã mong
ước được đến từ lâu.
Nhưng ông đã ngồi trong phòng ăn tới gần 15 phút mà không có nhân viên phục vụ nào đến chào hỏi ông
cả. Cuối cùng cũng có một người miễn cưỡng tới bên bàn, hỏi ông cần gọi gì.
Henry Ford rối rít gật đầu nhưng chỉ thấy người phục vụ tỏ vẻ khó chịu, quẳng thực đơn lên bàn một cách
thô lỗ. Henry Ford vừa mở thực đơn xem thì nghe thấy người phục vụ nói giọng khinh miệt: "Không cần
xem kỹ quá đâu, anh chỉ cần xem phần bên phải (ý chỉ giá tiền) thôi, phần bên trái chỉ là tên món ăn,
không cần phí công làm gì!”
Henry Ford ngẩng đầu lên. Bắt gặp vẻ mặt đầy khinh miệt của người phục vụ, ông rất phẫn nộ. Ông định
gọi ngay món ăn đắt nhất nhưng nhớ ra trong túi chỉ có vài đồng lương ít ỏi, nên đành phải nén cơn giận
lại để chỉ gọi món hamburger.
Người phục vụ "hứ” một tiếng, ngạo mạn nhận lại thực đơn từ tay Henry Ford. Tuy không nói nhưng vẻ
mặt anh ta đã cho Henry Ford thấy rõ anh ta nghĩ gì: "Tôi biết mà, một tên nghèo kiết như thế này, chẳng
qua cũng chỉ ăn hamberger là cùng!”
Sau khi người phục vụ đi khỏi, Henry Ford ngồi im lặng suy nghĩ: Tại sao mình chỉ có thể ăn món mà
mình ăn được chứ không thể ăn những gì mình muốn?
Ngay lúc ấy, Henry Ford đã hạ quyết tâm sẽ trở thành một nhân vật lớn trong xã hội. Cuối cùng, từ một
anh công nhân sửa xe bình thường, Henry Ford đã trở thành một ông vua xe hơi nổi tiếng thế giới. [11]

1.2.5. Chuyên tâm vào công việc và cuộc sống của mỗi người:

Hãy xác định lại những giá trị cuộc sống đối với bạn, khi bạn đã có một đích nhắm bạn sẽ không bị phân
tán bởi những đích nhắm của người khác. Chuyên tâm vào công việc và cuộc sống của mình sẽ giúp bạn
nhận ra được những giá trị đích thực mà bạn cần cho cuộc sống. Đừng lãng phí thời gian ghen tị với
những thứ không hợp với mình.
Người sáng lập ra tập đoàn quản lý quốc tế của Mỹ (IMG), chuyên gia quản lý hàng đầu thế giới, kể về
một người bạn đã giúp anh nhận ra nhiều điều hay trong cuộc sống. Anh bạn này là nhân viên bán hàng
cực kỳ tài giỏi, bạn mà bước chân vào cửa hàng có anh đứng bán thì khó lòng thoát khỏi những lời nói
đầy ma lực của anh ta. Anh sẽ nói cho đến khi tiền trong túi bạn phải bò ra mới thôi.
17

Mọi người ai cũng công nhận anh ta có năng khiếu thiên bẩm trong lĩnh vực bán hàng, anh cũng tự biết
thế. Nhưng anh lại không muốn mọi người chỉ nhìn nhận mình như một người bán hàng giỏi. Anh muốn
chứng tỏ bản thân anh cũng chẳng thua ai trong các lĩnh vực khác.
Tuy nhiên, thực tế thì anh chỉ có sở trường về bán hàng, đối với những lĩnh vực như cách thức tổ chức,
đầu tư tiền bạc, quản lý nhân viên anh không thông thạo gì mấy.
Người như thế có thể trở thành giám đốc bán hàng số một của công ty, nhưng tuyệt đối không thể là nhà
doanh nghiệp được. Một bậc thầy về khả năng ăn nói, nhưng lại là doanh nhân hạng bét! Suốt mười năm
ròng, anh không ngừng cố gắng tạo dựng sự nghiệp cho riêng mình: Liên tục mở công ty nhưng cũng liên
tục đóng cửa!
Vì sao nên nỗi? Ấy là vì anh đã không nhìn nhận đúng về bản thân mình và người khác. Theo quan điểm
của anh, bán hàng là công việc rất đơn giản, ai cũng làm được, nên khi mở công ty, anh giao cho người
khác trách nhiệm bán hàng, còn mình thì chuyển sang làm quản lý. Đó chính là sai lầm chết người, vì
thực ra anh là một quản lý tồi, trong khi chẳng có nhân viên nào bán hàng hiệu quả như anh. Cuối cùng,
sự phân công bất hợp lý khiến cho không ai trong công ty phát huy được sở trường của mình, kể cả anh.
Nào ai có thể toàn diện về mọi mặt, vì thế đừng mong cầu sự hoàn mỹ. Điều quan trọng nhất là chúng ta
phải nhận biết và cố gắng phát huy sở trường của mình đến cùng, giảm thiểu thiệt hại ở mức thấp nhất.
Nếu cứ nhằm điểm yếu mà ra sức khai thác, bỏ luôn sở trường vốn có, bạn sẽ mất đi nhiều cơ hội tốt.
Cuối cùng, bạn sẽ trở thành một cái bóng mờ nhạt, không có gì nổi trội cả.
Có sở trường quả là may mắn, nhưng bỏ qua mà không dùng đến thì có cũng như không!  [12]

1.2.6. Hãy trân trọng bản thân:

Hãy yêu thương và trân trọng bản thân, khi bạn yêu thương bản thân mình bạn sẽ thấy không ai có thể
bằng mình. Yêu bản thân chính là cách bạn đối phó hiệu quả nhất với sự ghen tị. Sự ghen tị chỉ mang lại
cho bạn sự tự ti và chán nản. Đừng đem những cảm xúc đó đến với mình. Hãy cho mình cơ hội được tỏa
sáng với chính khả năng và phẩm chất của mình.
Chúng ta thường để sự ghen tị lấn át đi những điều tốt đẹp khác, đừng bao giờ để những sai lầm đáng tiếc
xảy ra bạn nhé! Hãy sống là chính mình để thấy rằng mình là vô giá. [13]
“Trong mắt người khác, bạn tuyệt vời theo cách riêng của mình bởi vẻ đẹp thật sự luôn xuất phát từ tâm
hồn và tính cách của bạn ” với câu chuyện như sau:
Cô có phải là người mẫu không?"
Ngón tay ông vừa nhẹ nhàng miết lên vết sẹo trên má tôi vừa hỏi. Vị bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ này hơn tôi
khoảng mười lăm tuổi. Vẻ nam tính cộng với ánh mắt như biết nói của ông làm tôi cảm thấy ấm áp và tin
cậy.
Ông ta đang đùa với tôi ư? Tôi thầm hỏi và tìm kiếm trên gương mặt của ông chút dấu hiệu của sự chế
nhạo. Không một ai có thể nhầm lẫn tôi với một người mẫu được. Tôi rất xấu! vết sẹo trên má tôi là minh
chứng cho điều đó.
Tai nạn xảy ra năm tôi học lớp bốn. Và hậu quả để lại là một vết sẹo kéo dài từ gò má xuống tận cằm trên
khuôn mặt của tôi. Chưa hết, vài tuần sau tai nạn, tôi đi khám mắt và phát hiện mình bị cận thị nặng. Vậy
là ngoài vết sẹo, trên mặt tôi còn chễm chệ một cặp kính dày cộp, trên đầu lại thêm mớ tóc quăn lộn xộn.
Từ đó trở đi, tôi không dám nhìn vào gương và không ngừng mặc cảm về vẻ bên ngoài của mình. Mỗi lần
gia đình tôi xem chương trình thi sắc đẹp hoặc tuyển chọn "người mẫu tài năng" trên truyền hình, tôi đều
nhốt mình trong phòng khóc tấm tức.
Cuối cùng, tôi cũng quyết định nếu như không thể xinh đẹp thì ít ra tôi cũng phải duyên dáng và biết
trang điểm. Tôi bắt đầu học cách làm đẹp, mặc trang phục phù hợp với vóc dáng của mình, thay đổi kiểu
tóc, đeo kính sát tròng. Tôi làm mọi cách để vượt qua sự mặc cảm đó. Và hôm nay, tôi đến đây để chuẩn
18

bị cho một cuộc phẫu thuật xóa đi vết sẹo xấu xí kia - vết sẹo đứng giữa quá khứ và cuộc sống mới của
tôi.
- Dĩ nhiên, tôi không phải là một người mẫu. - Tôi trả lời ông bác sĩ bằng một giọng nói pha chút bực tức.
Vị bác sĩ phẫu thuật im lặng khoanh tay trước ngực và nhìn thẳng vào mắt tôi.
- Vậy tại sao cô phải quá lo lắng về vết sẹo như thế? Nếu không có lý do gì liên quan đến nghề nghiệp của
cô thì tôi sẽ không xóa nó. Điều gì đã đưa cô đến đây thế?
Bất giác tôi đưa tay sờ lên vết sẹo, khung cảnh trước mắt tôi bỗng trở nên nhạt nhòa. Tôi thấy ông bác sĩ
như là đại diện của tất cả những người tôi từng gặp. Những người bạn gái nhìn tôi thương cảm, dù họ đã ý
tứ tránh đề cập đến vấn đề nhan sắc. Cũng rất ít chàng trai mời tôi khiêu vũ trong những buổi dạ
hội. Những cuộc hẹn hò lác đác và không đi đến đâu hồi đại học. Vết sẹo đã khẳng định sự thật rằng: tôi
rất xấu. Mắt tôi chợt ngân ngấn nước.
Vị bác sĩ dường như cảm nhận được suy nghĩ của tôi, kéo ghế đến và ngồi xuống trước mặt tôi. Giọng nói
trầm ấm và dịu dàng của ông lại vang lên:
- Cô có biết tôi đã nhìn thấy gì không? Trước mặt tôi đây là một người phụ nữ xinh đẹp, không phải là
người hoàn hảo, nhưng là một người xinh đẹp. Cô không nhớ Lauren Hutton có hai răng cửa bị hở,
Elizabeth Taylor có một cái sẹo trên trán sao?
Ông ngừng lại đưa cho tôi một cái gương nhỏ rồi tiếp tục:
- Bất cứ người phụ nữ nào, dù nổi tiếng, cũng đều có một khuyết điểm nào đó, và sự khiếm khuyết đó
khiến cho vẻ đẹp càng nổi bật vì nó minh chứng rằng cô ấy cũng là một con người.
Ông đẩy chiếc ghế ra và đứng lên.
- Tôi sẽ không làm gì với vết sẹo này. Đừng để cho ai đó lừa dối cô chỉ bởi gương mặt. Cô đã tuyệt vời
theo cách riêng của mình.  Vẻ đẹp thật sự xuất phát từ tâm hồn. Tin tôi đi.
Sau đó ông bước ra ngoài, để tôi một mình trong căn phòng. Tôi nhìn lại khuôn mặt mình trong gương
như ngắm nhìn một người khác. Và bỗng nhiên, tôi cảm nhận được một vẻ đẹp riêng - một vẻ đẹp mà bấy
lâu nay, vì quá quan tâm đến vết sẹo nên tôi đã không nhận ra.
Khi thay đổi cách nhìn nhận bản thân, tôi đã khiến những người khác cũng thay đổi cách nhìn của họ về
tôi. Vị bác sĩ không xóa đi vết sẹo trên gương mặt tôi, nhưng ông đã xóa được vết sẹo từ lâu đã ăn sâu
trong suy nghĩ của tôi. [14]         

1.2.7. Không nản lòng trước thất bại:

Cánh cửa này đóng lại, cánh cửa khác mở ra: Nhà văn Mỹ Roberto Sheller, trong tác phẩm "Niềm tin” đã
ghi lại câu chuyện dưới đây:
Trong số bạn bè của ông, có một nữ nhân viên đánh máy tên là Bachinia Hayda. Người phụ nữ này không
may bị bệnh hoại thư nên phải cắt bỏ một số ngón tay. Khi ông đến thăm Hayda ở bệnh viện, chị tâm sự:
"Tôi đang rất băn khoăn là nếu tôi không thể đánh máy được nữa thì tôi sẽ làm được việc gì đây?”
Sheller động viên bạn:
- Tôi tin chắc rằng, mỗi khi một cánh cửa này đóng lại thì nhất định sẽ có cánh cửa khác mở ra. Cơ hội
nhất định sẽ đến với bạn thôi.
Chị nói:
- Có lẽ tôi phải chuyển hướng tìm một công việc khác.
Sau đó khoảng hai tháng, sau khi ra viện, Hayda đến thăm Sheller và nói với ông:
- Đúng như lần trước anh đã nói, một cánh cửa đóng lại sẽ có cánh cửa khác mở ra. Cấp trên của tôi cần
một người có khả năng phân tích giá thành. Sau khi đọc lại hồ sơ lưu trữ nhân sự, cho rằng có lẽ tôi có
năng lực làm công việc này, ông đề nghị tôi đảm nhận công việc này và trả lương cao hơn lương đánh
máy.
19

Sau này chị đã trở thành người thành công trong công việc phân tích giá thành.
Trong cuộc đời khó tránh khỏi có lúc bạn bị rơi xuống đáy hình sin, lúc này ta nên đối phó như thế nào?
Thực ra Thượng Đế rất công bằng, bất kỳ một người nào trong cuộc đời cũng có thời kỳ thăng và thời kỳ
trầm. Thượng Đế đóng cánh cửa này thì đồng thời sẽ mở cánh cửa khác đối với bạn. Cho nên, cho dù có
lúc gặp vận đen thì bạn cũng chớ nản lòng và đừng đánh mất niềm tin. [15]

1.2.8. Đừng dại dột làm tổn thương người khác:

Đừng dại dột làm tổn thương người khác vì làm tổn thương người khác là làm tổn thương chính
mình. Một con chuột nhắt hoành hành trên chiếc tầu biển. Ngày nào nó cũng cắn phá thức ăn và quần áo
của thợ thuyền. Đám thợ khó chịu nên tìm cách đánh bẫy nó. Thấy vậy, nó đục một cái lỗ dưới đáy
thuyền để làm chỗ trú thân cho mình.
Và kết cục thì không cần nghĩ cũng biết. Con chuột không ngờ là khi đục đáy thuyền, nó không những hại
thuyền mà cùng hại luôn cả mình.
Trong mối quan hệ với mọi người, đừng bao giờ nghĩ kế hãm hại người khác, bởi hại người là hại mình
[16]

1.2.9. Không ngồi lê đôi mách:

Thử nhìn vào tương quan con người trong cuộc sống hằng ngày, ta thấy, đã bao lần ta nói lời nguyền rủa
lẫn nhau. Nhiều khi ta đã tạo ra một dạng thức ma lực tồi tệ nhất với nhau, đó chính là ngồi lê đôi mách,
tán gẫu, nói chuyện tầm phào.
Ngồi lê đôi mách là thứ ma lực tồi tệ nhất, vì nó hoàn toàn độc hại. Trong thực tế, có lúc bạn bắt gặp
nhiều người lớn túm tụm nói chuyện tầm phào với nhau, thoải mái đưa ra nhận xét này nọ về người này
người kia. Thậm chí, họ còn bàn tán xôn xao về cả những người mà họ chưa hề quen biết. Song song với
những phê phán mà họ đưa ra là các chất độc hại cảm xúc (ác cảm). Và bạn nghiễm nhiên học đòi cách
tán gẫu tầm phào đó trong giao tiếp. Ngồi lê đôi mách trở thành một thỏa thuận của bạn!
Ngồi lê đôi mách là một dạng thức giao tiếp khá phổ biến trong cộng đồng xã hội. Qua ngồi lê đôi mách,
người ta cảm thấy gần gũi nhau. Vì, qua ngồi lê đôi mách, họ bỗng tìm gặp được người cũng tồi tệ như
họ. Và điều đó làm họ vui thú. Thành thực mà nói, có hiện tượng rất oái oăm là: Ta đau khổ, ta muốn
người khác cùng đau khổ giống ta. Ta tìm đồng minh, tìm người cùng cảnh ngộ. Giả như ta không tìm
được đồng minh đau khổ, thì ta sẽ bằng nhiều cách lôi kéo người khác, gây cho người khác đau khổ như
ta. Như thế ta mới bằng lòng! Nói cách khác, trong địa ngục, những người đau khổ không muốn cô đơn
một mình. Oái oăm là thế đó! Nỗi sợ hãi và đau khổ là một thực trạng trong bối cảnh cuộc sống nhân loại
trên hành tinh này.
Tâm trí con người một góc độ nào đó cũng hệt như chiếc máy vi tính: chuyện ngồi lê đôi mách có thể
được ví như một con virus máy tính. Virus máy tính là một thứ ngôn ngữ tương tự các ngôn ngữ khác đều
được viết ra, nhưng ngôn ngữ này được mã hóa và có nội dung độc hại. Mã này xâm nhập vào chương
trình máy tính hầu như ngay lúc bạn ít lưu ý đến nó nhất. Khi mã này đã xâm nhập máy tính, thì máy tính
không còn hoạt động ổn định nữa, hoặc tệ hơn có khi máy tính chẳng còn hoạt động được chút nào nữa,
bởi vì các mật mã virus này đã xáo trộn các dữ liệu thông tin, gây ra sự xung đột giữa các dữ liệu thông
tin với nhau, làm cho máy tính không thể phân định được và do đó, máy tính ngưng hoạt động. [17]

1.2.10. Không rỉ tai:


20

Những người xung quanh thường thích lái suy nghĩ cũng như hành động của bạn theo ý họ muốn. Khi đó,
bạn sẽ dễ bị xao lãng và đi lệch so với những dự định, những ý tưởng ban đầu của mình, và cứ thế, bạn sẽ
trở thành một bản sao, một cái bóng của họ.
Mary được nhận vào làm việc tại một công ty sản xuất bia ở vị trí nhân viên tiếp thị. Ngày đầu tiên đến
công ty, cô phấn chấn, hồ hởi với rất nhiều dự định cho con đường sự nghiệp tại đây. Dù sao thì cô cũng
là một ứng viên xuất sắc và đã vượt qua nhiều đối thủ.
Ngoài kiến thức cùng kinh nghiệm làm việc đã có, Mary còn là một nhân viên có tư cách đạo đức tốt
được cấp trên tín nhiệm.
Một số nhân viên lâu năm có tính bảo thủ và trì trệ trong bộ phận đã tỏ ra không mấy vui trước những kết
quả nho nhỏ của cô. Họ rỉ tai cô bằng những lời bóng gió xa xôi, rằng ở đây nếu muốn tồn tại lâu thì phải
biết nghe lời và phục tùng họ. Họ nói xa nói gần, thì thầm to nhỏ và khuyên cô không nên tốn công sức để
cống hiến cho một công ty "không biết điều với nhân viên”, rằng mọi cố gắng của Mary khi làm thêm
ngoài giờ sẽ chẳng bao giờ được cấp trên tính đến.
Ban đầu, Mary cũng cảm thấy hơi nản vì phải chứng kiến những thói quan liêu vô trách nhiệm của đồng
nghiệp. Dần dần, Mary trở nên lười biếng hơn. Đồng nghiệp ở các bộ phận khác cũng không còn thấy cô
năng nổ trong công việc nữa. Cô trở thành một con người khác hẳn, bằng lòng và an phận với những gì
mình có. Cho đến một ngày, ban giám đốc buộc cô phải chuyển sang một bộ phận khác với mức lương
thấp hơn vì đã không cố gắng trong công việc. Lúc bấy giờ, Mary mới hiểu ra rằng trong suốt một thời
gian dài, cô đã a dua cùng đám nhân viên xấu để rồi trở thành cái bóng của chính họ.
Chúng ta đều biết thói quen xấu dễ lây lan như một căn bệnh truyền nhiễm và chúng ta rất dễ bị lây nhiễm
những hành vi tiêu cực từ những người xung quanh. Người có bản lĩnh sẽ tránh được ảnh hưởng của
những thói xấu ấy, đồng thời cảm hóa để những người xung quanh trở nên tốt hơn. Tự tin, bản lĩnh là
những yếu tố quan trọng để bạn luôn là chính mình chứ không phải là bản sao cá tính của người khác.
[18]

1.2.11. Không chỉ trích:

Nếu bạn muốn người ta oán tới chết thì hãy dùng những lời chỉ trích cay độc. Còn nếu không thì bạn hãy
nên nhớ rằng: loài người không phải luôn luôn có lý trí. Họ hành động, suy nghĩ theo tình cảm, thành
kiến, lòng tự ái mà lòng kiêu căng của con người như một kho thuốc súng vốn có thể bùng nổ bất cứ lúc
nào và gieo tai hại vô cùng.
Bí quyết của sự thành công trong cư xử của Benjamin Franklin là không bao giờ chỉ trích một ai hết và
chỉ thành thực ca tụng những điều hay của kẻ khác và có lòng tự chủ mạnh mẽ.
Carley nói: "Muốn xét độ lượng của ai thì chỉ cần xem cách xử sự của người đó với kẻ dưới”.
Vậy đáng lẽ phải buộc tội, chỉ trích một ai đó thì ta hãy cố gắng hiểu họ, tìm nguyên nhân những hành vi
của họ. Đó là nguồn gốc của cảm tình, khoan dung và hoà nhã. [19]

1.2.12. không nói hành nói xấu:

Một vị cao tăng đang trên đường ngao du truyền giảng Phật Pháp cho chúng sinh thì gặp phải một anh
chàng không có niềm tin vào Phật. Liên tục mấy ngày đường, người đó luôn bám theo tìm cách sỉ nhục vị
cao tăng kia.
Cuối cùng, vị cao tăng quay lại hỏi:
- Nếu có người tặng cho anh một món quà, nhưng anh lại từ chối, như thế món quà đó sẽ thuộc vẻ ai?
Anh ta mau mắn đáp:
- Tất nhiên là thuộc về người tặng món quà ấy.
21

Vị cao tăng bật cười, nói tiếp:


- Vậy nếu suốt mấy ngày qua, tôi không để tâm đến lời mắng chửi của anh thì có phải tự anh đang hứng
lấy chúng không!
Người kia im lặng, đành cúi đầu bỏ đi. [20]

1.3. Phương thế tự nhiên để chữa trị thói ghen tị

Tóm lại, chúng ta không để tâm lý ghen tị khống chế sinh ra chán nản, buồn phiền. Càng không được
ghen tị làm điều dại dột tổn thương đến người mà mình ghen ghét. Hãy nhanh chóng tự thể hiện mình,
giải quyết “rác rưởi” trong lòng, lựa chọn phương thức hành động đúng đắn, cao thượng, có lý có tình, đó
là phương cách tốt nhất để có thể xóa đi tâm lý ghen tị, vui hưởng cuộc sống. [21]

Linh Mục Giuse Đỗ Văn Thụy, MSV

 
[1]  Về cơ chế tự vệ, có thể tham khảo Cencini và Manenti, Tâm lý và huấn luyện, dg. Nguyễn ngọc Kính
(Tp. HCM: Nxb Phương Đông, 2011), trg. 397-473 (ND).
[2] Wikie AU và Norren Cannon, PhD, Urgings of the heart (Những thôi thúc trong tim) trg.157
[3]  “Sour-grapes” attitude.
[4] Wikie AU và Norren Cannon, PhD, Urgings of the heart (Những thôi thúc trong tim) trg.158
[5] Wikie AU và Norren Cannon, PhD, sđd trg. 159
[6] Wikie AU và Norren Cannon, PhD, sđd trg. 179-160
[7]  Wikie AU và Norren Cannon, PhD, sđd trg. 161
[8] Nhóm tác giả hanhtrinhdelta.edu.vn
[9] Lê Lai Theo Internet Nhiều tác giả, First News tổng hợp và thực hiện, Hạt giống tâm hồn: câu chuyện
cuộc sống trg.65-68
[10] Nguyễn văn Hải,Biết phát huy sở trường trg.66-68
 [11] Nguyễn văn Hải, Biết tin vào chính mình trg.51-52
[12]  Nguyễn văn Hải,Biết phát huy sở trường trg.128-130
[13] Nhóm tác giả: hanhtrinhdelta.edu.vn
[14] First News , Hạt  giống tâm hồn và ý nghĩa cuộc sống.5.trg. 50-53
[15] Nguyễn văn Hải, Biết sống cao thượng trg. 84-85
[16] Thiên Trí Liên tổng hợp, Hạt giống tâm hồn: nghệ thuật sáng tạo cuộc sống trg.104
[17] Don Miguel Ruiz, Thỏa thuận với chính mình trg.43-44
[18]   Nguyễn văn Hải, Biết sống cao thượng trg.105-107
[19] Trích từ "Đắc Nhân Tâm” - Dale Carnegie Nguyễn văn Hải,Biết tin vào chính mình trg. 140
[20]  Thiên Trí Liên tổng hợp, Hạt giống tâm hồn: nghệ thuật sáng tạo cuộc sống trg.37
[21] Khánh Hòa. (Hieuhoc.com).

Con gấu và chị đan sĩ: Ý nghĩa đời sống tu trì hôm nay
Xin được đăng tải lại bài viết của cha nguyên Tổng quyền vì tính thời sự, và tầm nhìn sâu sắc của
nó.
06/03/2017 -  
Thần học
Đi tìm một câu truyện
22

Tôi được mời đến trình bày với anh chị em về “Ý nghĩa đời sống tu trì ngày hôm nay”. Câu hỏi được đặt
ra cách cấp bách cho các tu sĩ ngày nay, bởi vì nhiều người trong chúng ta tự hỏi: phải chăng lối sống mà
chúng ta đang dấn thân chẳng còn chút ý nghĩa gì. Ơn gọi ở châu Âu ít hơn trước; tại Pháp, nhiều hội
dòng giảm sút nhân số và một vài hội dòng bị khai tử; bậc tu trì không còn có chỗ đứng, cũng chẳng được
quý trọng như trước. Dường như chúng ta đã đánh mất vai trò của mình trong một Hội Thánh có vẻ nặng
tính giáo sĩ hơn, và đã đánh mất tầm quan trọng của mình trong xã hội, vì những người giáo dân hôm nay
làm biết bao công việc mà trước đây phần lớn do các tu sĩ đảm nhiệm. Với ý thức mới về sự thánh thiện
của hôn nhân, người ta không còn coi lối sống của chúng ta là hoàn thiện hơn bất cứ lối sống nào khác.
Cũng dễ hiểu khi nhiều tu sĩ thắc mắc: “Đời sống tu trì ngày hôm nay có ý nghĩa gì?”.

Trong hoàn cảnh đó, chúng ta thường đi tìm ý nghĩa của đời sống tu trì nơi những gì là riêng biệt của
chúng ta, nơi những việc chúng ta làm mà người khác không làm, nơi những gì đem lại cho chúng ta chỗ
đứng đặc biệt, đem lại một căn tính riêng. Chúng ta giống như những người thợ rèn đi tìm một công việc
mới trong thế giới kỹ nghệ xe hơi. Tôi cho rằng đó là một trong những lý do khiến tu sĩ chúng ta thường
hăng say nói về mình như những ngôn sứ. Chúng ta tự phụ là thành phần ngôn sứ trong đời sống Hội
Thánh. Điều đó đem lại cho chúng ta một vai trò, một căn tính, một nhãn hiệu. Quả thực, tôi tin rằng đời
sống tu trì được mời gọi trở nên ngôn sứ, nhưng đó không phải là giải pháp cho cơn khủng hoảng về căn
tính của chúng ta! Tôi thích bắt đầu từ chỗ khác hơn, đó là cuộc khủng hoảng về ý nghĩa mà xã hội Tây
phương đang trải qua. Tôi nghĩ rằng so với trước đây, đời sống tu trì quan trọng hơn do cách thức chúng
ta được mời gọi đương đầu với cuộc khủng hoảng về ý nghĩa của những người đương thời. Cuộc sống của
chúng ta phải là lời đáp cho câu hỏi: “Đời sống con người ngày hôm nay có ý nghĩa gì?”. Có lẽ điều đó
mãi mãi là chứng tá chủ yếu của đời sống tu trì.

Chúng ta sẽ suy nghĩ như thế nào về một vấn đề rộng lớn như cuộc khủng hoảng về ý nghĩa hiện nay. Để
trình bày điều đó cho thích hợp, tôi sẽ phải học hỏi cả đống sách về thời cận đại và thời hậu cận đại.
Nhưng tôi đã không làm như vậy. Lý do là vì sống lưu động liên tục, tôi không có thời giờ. Nhưng nói
thực ra, dù có đọc những sách đó, có lẽ tôi cũng chẳng hiểu. Những cuốn sách đó thường do những người
Pháp thông minh viết, và vượt quá tầm hiểu biết của một người Anh! Trái lại, tôi sẽ thử tiếp cận vấn đề
cách đơn sơ hơn. Tôi muốn trình bày cho anh chị em sự tương phản giữa hai hình ảnh, hai câu truyện hàm
ẩn trong đời sống nhân loại.

Mọi nền văn hóa đều cần đến những câu truyện để lồng vào trong đó một sự hiểu biết ý nghĩa đời người.
chúng ta cần đến những câu truyện để nói cho ta biết ta là ai và ta đi về đâu. Khi xã hội trải qua cơn
khủng hoảng về ý nghĩa, một trong những triệu chứng là các câu truyện mà xã hội tường thuật không còn
đem lại ý nghĩa cho kinh nghiệm sống của chúng ta. Những câu truyện ấy không còn thích hợp. Khi xã
hội trải qua một giai đoạn thay đổi sâu rộng, xã hội đó cần đến một loại truyện mới để đem lại ý nghĩa
cho đời sống của mình.

Tôi sẽ cho thấy rằng cuộc khủng hoảng căn bản về ý nghĩa trong xã hội chúng ta, tức là câu truyện hàm
ẩn trong nền văn hóa châu Âu từ nhiều thế kỷ qua đã không còn có ý nghĩa nữa: câu truyện về sự tiến bộ,
về sự sinh tồn của những người biết thích nghi, về chiến thắng của kẻ mạnh. Người hùng trong câu truyện
đó là cái tôi hiện đại. Anh ta (thường là một người đàn ông) đơn độc và tự do. Đó là câu truyện tiềm ẩn
trong các tiểu thuyết, phim ảnh, triết học, kinh tế và chính trị của chúng ta. Nhưng nó không còn mang
lại  ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta nữa. Tôi sẽ lấy tấm quảng cáo vẽ một con gấu mà tôi thường thấy
trên các bức tường ở Roma để làm biểu tượng cho câu truyện này.
23

Như thế, xã hội chúng ta là một xã hội đang khao khát một câu truyện mới nhằm mang lại ý nghĩa cho
căn tính của chúng ta. Tôi tin rằng ý nghĩa của đời sống tu trì là ở chỗ trả lời cho câu hỏi này:  “Đời sống
con người ngày hôm nay có ý nghĩa gì?”. Phải nhận ra được trong đời sống chúng ta lời mời gọi trở nên
một con người theo cách thức mới; đối với tôi, biểu tượng của câu truyện khác này sẽ là một chị   đan sĩ
đang cất tiếng hát trong bóng tối, dưới chân ngọn nến Phục sinh.

Vậy tôi muốn trình bày với anh chị em sự tương phản giữa hai hình ảnh, hai câu truyện, truyện con gấu và
truyện chị đan sĩ. Tôi muốn nêu ra sự tương phản khi xét đến ba yếu tố cần thiết cho mọi câu truyện: một
cốt truyện xuyên suốt thời gian; diễn biến của câu truyện; và các diễn viên. Sở dĩ những người đương thời
cảm thấy lạc lõng và mất phương hướng, đói khát ý nghĩa, đó là vì những câu truyện hiện đại không còn
đem lại ý nghĩa cho kinh nghiệm của chúng ta về thời gian, về các biến cố và về bản chất của một cá
nhân. Tu sĩ  chúng ta cần thể hiện một cách thế hiện hữu khác trong cuộc đời.

Cốt truyện và thời gian

Cho phép tôi bắt đầu nói với anh chị em về con gấu của tôi. Cách đây một năm, người ta dán đầy các bức
tường ở Roma những tấm bích chương vẽ hình một con gấu lớn đang giận dữ. Và trên tấm bích chương
có ghi câu: “La forza del prezzo giusto” - sức mạnh của giá cả phải chăng. Trong lúc chờ xe buýt, tôi có
nhiều thời gian để chiêm ngưỡng con gấu ấy. Nó diễn tả câu truyện của thời hiện đại một cách tuyệt vời.

Trước hết hình ảnh con gấu này cho thấy cốt truyện cơ bản của lịch sử là một sự tiến bộ không thể đảo
ngược. Đó là một con gấu mà Darwin sẽ phải hãnh diện về nó, một kẻ chiến thắng trong tiến trình tiến
hóa. Lịch sử con người là một hành trình tiến lên phía trước. Đó cũng là biểu tượng của nền kinh tế toàn
cầu, nền kinh tế thị trường. Cái làm cho lịch sử nhân loại tiến tới, đó là kinh tế.  “La forza del prezzo
giusto” - sức mạnh của giá cả phải chăng. Lịch sử, đó là câu truyện về sự tiến bộ tất yếu, qua việc tự do
hóa kinh tế thị trường. Hệ thống kinh tế nào tốt hơn cả sẽ chiến thắng. Con gấu chính là kẻ chiến thắng.

Thời tôi còn nhỏ (và nhìn anh chị em, tôi nghĩ nhiều người trong anh chị em cũng vậy), ai nấy vẫn nghĩ
rằng nhân loại đang trên đường tiến tới một tương lai tươi sáng. Nhưng ngay thời đó, những bóng tối đã
ló dạng rồi. Tôi chào đời một tuần trước khi kết thúc cuộc chiến tranh đã tiêu diệt đến 50 triệu người. Dần
dần chúng ta mới hiểu được sự hy sinh và sáu triệu người Do Thái chết trong các trại tập trung. Tôi đã lớn
lên dưới bóng đen của bom đạn. Tôi còn nhớ mẹ tôi tích trữ những hộp thức ăn trong hầm, đề phòng
trường hợp bùng nổ một cuộc chiến tranh hạt nhân. Vậy mà người ta vẫn còn có thể bám vào ý nghĩ cho
rằng nhân loại đang tiến tới. Hằng năm người ta chứng kiến các cựu thuộc địa của chúng tôi giành lại độc
lập, y học đẩy lùi được những căn bệnh như lao hoặc sốt rét. Chắc chắn rồi đây, người ta sẽ chiến thắng
sự nghèo đói. Cả đến máy bay và xe hơi, mỗi năm tốc độ mỗi nhanh hơn. Mọi sự sẽ còn tiến triển tốt đẹp
hơn nữa.

Ngày nay, chúng ta không còn lạc quan như vậy nữa. Hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo tiếp
tục sâu rộng thêm. Bệnh sốt rét và bệnh lao đã quay trở lại, và một năm tới đây, hẳn sẽ có 40 triệu người
mắc bệnh siđa. Chỉ riêng tại châu Âu thôi, có tới 20 triệu người thất nghiệp. Những giấc mơ về một xã
hội công bằng như đã lùi xa. Nhân loại sẽ đi về đâu? Lịch sử của chúng ta có ý nghĩa, có định hướng nào
không? Hay là chúng ta đang đi lòng vòng, lang thang trong sa mạc, chẳng hề tiến gần tới được đất hứa?
Cả Hội Thánh cũng thế, có vẻ như đang hướng về một cuộc canh tân và một cuộc sống mới sau Công
Đồng Vatican II, thế mà bây giờ hình như không biết đi về đâu.
24

Ngay giữa thời hiện đại, có một mâu thuẫn, và đó là lý do khiến câu truyện của thời hiện đại không còn
chấp nhận được nữa. Một mặt, con gấu thực sự là vô địch. Khắp nơi trên thế giới, nền kinh tế thị trường
đã chiến thắng tất cả các đối thủ của mình. Cộng sản chủ nghĩa đã sụp đổ ở Đông Âu, và ngay ở Trung
quốc cũng có vẻ như sắp sụp đổ. Nhưng mặt khác, lịch sử không dẫn đưa chúng ta tới Vương quốc. Điều
chúng ta thấy trước mắt là nạn nghèo đói càng ngày càng gia tăng, và chiến tranh càng ngày càng lan
rộng. Cả những con hổ châu Á cũng ngã bệnh. Con gấu bất khả chiến bại, nhưng nó đang cắn xé chúng ta.
Như thế, cái cốt truyện của thời hiện đại chứa đựng một nghịch lý không thể chịu nổi. Chúng ta không thể
tìm thấy chính mình trong đó.

Chúng ta không thể sống mà không có những câu truyện. Bởi vì chúng ta đã đi đến chỗ nghi ngờ câu
truyện tiến bộ của nhân loại, phải có những câu truyện khác để lấp đầy chỗ trống. Đó có thể là những câu
truyện về ngày tận thế nhân dịp thiên niên kỷ mới, về người ngoài trái đất, về chiến thắng đoạt World
Cup(hoan hô nước Pháp vô địch bóng đá thế giới!). Rất nhiều khi, đó chỉ là cái mà người Anh gọi
là “soap operas”,[1] những loạt chương trình truyền hình vô nghĩa. Mới đây, đoạn cuối của một “soap
operas” ở Mỹ đã được 80 triệu người theo dõi. Các nhà hàng đã đóng cửa vào buổi tối hôm ấy. Trong lúc
đó, tin tức về một thiên thạch khổng lồ có thể sẽ đụng vào trái đất vào ngày 26-10-2028 lại không gây
được sự chú ý bao nhiêu. Khi không còn tin vào huyền thoại về sự tiến bộ nữa, chúng ta chạy trốn vào
những truyện giả tưởng.

Khát vọng cần đến một câu truyện có thể là lời giải thích cho phản ứng bất thường trước cái chết của
công nương Diana. Như anh chị em biết, người Anh ít biểu lộ cảm xúc, hay ít ra người Pháp thích nghĩ
như thế! Nhưng tôi chưa bao giờ thấy người ta buồn như vậy. Có vẻ như câu truyện tình của nhân loại kết
thúc dưới chân một cây cầu ở Paris vậy. Hàng triệu người đã khóc như thể họ đã mất vợ, mất con hoặc
mất mẹ vậy. Đi đến bất cứ nơi nào trên thế giới, tôi biết cuối cùng người ta cũng sẽ hỏi tôi về công
nương. Tôi đang chờ để trả lời anh chị em về công nương sau buổi nói chuyện này. Tại Việt Nam, người
ta còn nói rằng tôi giống hoàng tử Williams. Tôi khoái lắm chứ, nhưng những người ấy cũng thật quá sức
lịch sự! Đó là soap operas của thế giới. Câu truyện của công nương hấp dẫn được đông đảo quần chúng
như thế, có lẽ chỉ vì nơi công nương, chúng ta có thể thấy được chính mình. Đó là một người tốt, quan
tâm thực sự đến người khác, dù không được hoàn thiện lắm. Cuộc đời của công nương lẽ ra phải thật
tuyệt vời, thế nhưng, nó lại là một thất bại không thể giải thích được. Đó là một câu truyện buồn và phù
phiếm. Nó gợi lên sự phù phiếm mà bao người cảm thấy khi tự hỏi: Đời sống tôi sẽ đi về đâu?.

Làm thế nào để đời sống tu trì có thể gợi lên một cốt truyện khác, một cốt truyện đối trọng?

Tôi xin trình bày với anh chị em một hình ảnh khác. Năm nay tôi cử hành lễ Phục sinh tại một nữ đan
viện Đaminh. Đan viện được xây cất trên một ngọn đồi phía sau Caracas, ở nước Venezuela. Nhà thờ
đông đảo những người trẻ. Chúng tôi thắp sáng cây nến Phục sinh và đặt trên giá. Và một chị đan sĩ trẻ,
với cây đàn ghi ta, đã hát lên một bài tình ca dưới chân ngọn nến. Lời ca mang tất cả âm giọng khàn khàn
cuồng nhiệt của miền Andalousie. Thú thật tôi đã hoàn toàn sửng sốt trước hình ảnh một nữ đan sĩ trẻ,
trong đêm tối, hát lên một bài tình ca tặng cho ngọn lửa mới. Hình ảnh này cho thấy chúng ta bị chiếm
hữu bởi một vở kịch  khác, một câu truyện khác. Và đó chính là câu truyện của chúng ta, chứ không phải
câu truyện về con gấu giận dữ cắn xé các đối thủ của nó.

Trước hết, việc chị đan sĩ ca hát trong đêm tối cho thấy nền tảng của lịch sử nhân loại không phải là tình
tiết mà con gấu đã diễn tả. Ở ngoài kia, trong vườn, vị chủ sự vừa ghi các biểu tượng lên cây nến vừa nói
25

những lời này: “Đức Kitô hôm qua và hôm nay, khởi nguyên và cùng đích, Alpha và Omega. Người làm
chủ thời gian và muôn thế hệ. Vạn tuế Đức Kitô, Đấng vinh hiển quyền năng, vạn vạn tuế. Amen”.

Đời sống tu trì trước hết có lẽ là một lời Amen sống động trước viễn ảnh về thời gian vô tận. Chính trong
chiều dài lịch sử này, từ Alpha đến Omega, từ Tạo dựng cho đến Nước Trời, mà mọi người phải tìm thấy
ý nghĩa của mình. Chúng ta là những người sống cho Nước Trời, cho thời gian mà, như Julian Norwich
đã nói, trong đó “mọi sự sẽ tốt đẹp, mọi thứ đều tốt đẹp”.

Ơn gọi làm sáng tỏ cách triệt để nhất câu truyện vô tận ấy, đó là ơn gọi của các nam nữ đan sĩ chiêm
niệm. Đời sống của họ chẳng có ý nghĩa gì nếu họ không ở trên đường tiến về Vương quốc. Đức Hồng y
Basil Hume là một Kitô hữu được kính trọng nhất ở Anh quốc, một phần vì người là đan sĩ. Và Đức Hồng
y đã viết về các đan sĩ như sau: “Chúng tôi không nghĩ mình có một sứ mạng hoặc một phận sự riêng biệt
trong Hội Thánh. Chúng tôi không có ý định làm thay đổi dòng lịch sử. Chúng tôi hiện diện ở đấy, chỉ có
thế, hầu như do ngẫu nhiên xét theo cái nhìn nhân loại. Và may thay, chúng tôi tiếp tục hiện diện ở đấy,
thế thôi”.[2]

Các đan sĩ hiện diện ở đấy, chỉ có thế, và như vậy, đời sống của họ chẳng có ý nghĩa gì nếu không loan
báo sự kết thúc của thời gian, cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Họ giống như những người đang đứng chờ ở
trạm xe buýt. Nguyên việc họ đứng đó đủ nói lên rằng xe buýt chắc chắn sẽ đến. Chẳng có ý nghĩa tạm
thời hoặc ý nghĩa từng phần. Không con cái, không nghề nghiệp, không có những công trình, không có
thăng cấp, không sinh ích lợi. Chính sự thiếu vắng ý nghĩa mà cuộc đời của họ mạc khải cho thấy sự viên
mãn của ý nghĩa mà chúng ta không thể nào diễn tả được. Cũng giống như ngôi mộ trống loan báo mầu
nhiệm Phục sinh, hoặc đường bay không ổn định trên quỹ đạo một ngôi sao cho thấy sự hiện diện của một
hành tinh vô hình.

Đời sống đan tu ở Tây phương xuất hiện vào một thời điểm khủng hoảng. Thánh Benedicto đến Subiacô
thiết lập một cộng đoàn đan sĩ chính trong lúc đế quốc Roma tan rã dần dần trước những cuộc tấn công
của quân man di. Trong khi lịch sử nhân loại có vẻ như chẳng đi về đâu cả, thánh Benedicto đã thiết lập
một cộng đoàn gồm những người mà đời sống chẳng có ý nghĩa nào khác ngoài việc chỉ cho thấy cùng
đích tối hậu, đó là Vương quốc.

Có thể nói đời sống tu trì thúc bách chúng ta sống cơn khủng hoảng hiện thời một cách thẳng thắn. Phần
đông người ta theo một lối sống và một câu truyện cho phép gạt vấn đề chính yếu sang một bên. Một
cuộc sống có thể có ý nghĩa riêng của nó từ yêu đương, kết hôn, có con cái rồi cháu chắt. Hoặc một cuộc
sống khác khác tìm thấy ý nghĩa trong một nghề nghiệp, những nấc thang địa vị, làm giàu và được danh
tiếng nữa. Người ta có thể kể ra nhiều câu truyện để giới thiệu một kiểu mẫu tạm thời và một ý nghĩa cho
cuộc sống của chúng ta. Điều ấy vốn chính đáng và tốt lành. Nhưng những lời khấn của chúng ta không
ban tặng cho chúng ta niềm an ủi ấy. Chúng ta không có hôn nhân để tạo một mô hình cho cuộc sống của
mình. Chúng ta không có nghề nghiệp. Chúng ta trần trụi đối diện với câu hỏi: “Đời sống con người có ý
nghĩa gì?”.

Nhưng không phải chỉ ngồi mà chờ Nước Chúa đến. Những anh em trẻ nhất đôi khi không đồng quan
điểm với tôi, nhưng mỗi buổi sáng cần phải rời khỏi giường để làm một việc gì đó. Ngay những nam nữ
đan sĩ cũng phải làm một việc gì đó! Tôi nhớ có lần hỏi một anh hết sức lười biếng: anh đã làm gì. Anh
trả lời với tôi rằng anh là một “dấu chỉ của thời cánh chung”, chờ Nước Chúa đến. Làm sao để đánh giá
việc chúng ta làm bây giờ? Phần đông chúng ta trải qua ngày sống bằng những hoạt động hữu ích, dạy
26

học, làm việc trong các bệnh viện, phục vụ trong các họ đạo, săn sóc những người bị bỏ rơi. Đời sống
thường nhật của chúng ta diễn tả lịch sử của nhân loại như thế nào?

Chúng ta hãy quay trở lại với chị đan sĩ kia. Lúc ấy là nửa đêm và chị hát lên bài tình ca. Chính trong đêm
tối mà chị hát lên những lời ca tụng Chúa. Cũng chính trong đêm tối, giữa khởi nguyên và kết thúc, ta có
thể gặp gỡ Thiên Chúa và tôn vinh Người. Đã đến giờ rồi. Đang khi chờ bị đem đi giết, Đức Giêsu nói
với các môn đệ: “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng
thế gian” (Ga 16:33). Chính bây giờ là giờ chiến thắng và là giờ ca ngợi.

Đây chính là điều gợi lên cho chúng ta một ý thức mới về thời gian. Yếu tố làm cho thời gian có ý nghĩa,
không phải là câu truyện về một sự tiến bộ tất nhiên dẫn tới thịnh vượng và thành công. Mô hình ẩn khuất
của đời sống chúng ta là lớn lên trong tình bằng hữu với Thiên Chúa, khi chúng ta gặp Người trên đường
và thưa Amen với Người. Không phải chỉ có kết thúc của câu truyện mới làm cho câu truyện có ý nghĩa.
Khuôn mẫu của đời tôi là cuộc gặp gỡ Thiên Chúa, và là lời đáp trả của tôi trước tiếng gọi của Người.
Điều đó làm cho đời sống của tôi không chỉ là một chuỗi các biến cố, nhưng là một định mệnh. Anh
Cornelius Ernst, O.P. đã nói: “Định mệnh là tiếng gọi và lời mời của Thiên Chúa tình yêu mà chúng ta
đáp lại bằng một sự ưng thuận đầy sáng tạo và tràn ngập tình yêu”.[3] Dù trong đêm tối, dù trong tuyệt
vọng, khi không còn gì có ý nghĩa nữa, chúng ta vẫn có thể gặp gỡ Thiên Chúa của sự sống. Như một triết
gia Do Thái đã viết: “Mỗi khoảnh khắc có thể là một cánh cửa nhỏ cho Đấng Messiah đi vào”. Câu
truyện của đời ta là câu truyện về cuộc gặp gỡ ấy với Thiên Chúa, Đấng đến với chúng ta như người bạn
tình đến trong đêm tối. Đó chính là điều chúng ta cử hành và tôn vinh Người.

Những giờ phút cảm động nhất tôi đã trải qua trong sáu năm vừa rồi là những cơ hội chia sẻ với anh em,
chị em của tôi lời ca tụng Thiên Chúa trong những tình huống khó khăn nhất. Tôi đã chia sẻ trong một
đan viện ở Burundi, sau cuộc hành trình ngang qua một đất nước bị xâu xé vì chiến tranh sắc tộc; ở Iraq,
dưới sự đe dọa của bom đạn; ở Algeria, cùng với người anh em của chúng tôi là đức cha Pierre Claverie
trước khi người bị sát hại. Điều thiết yếu đối với đời sống tu trì là chúng ta hát lên những lời ca tụng
Chúa, dù trong đêm tối. Chúng ta hát các thánh vịnh, sách tehillim, sách ngợi khen. Chúng ta đo thời gian
bằng những giờ thần vụ, những giờ kinh phụng vụ, chứ không phải chỉ bằng những giờ máy móc của
đồng hồ. “Bảy lần mỗi ngày, con ca ngợi Chúa”. Vâng, ít là hai lần đối với phần đông chúng ta.

Tôi nhớ đến một câu truyện có thể minh họa sự tương tác giữa thời gian ca tụng với thời gian của đồng
hồ, thời gian của cái hiện đại như thế nào. Hồi em tôi còn nhỏ, một hôm ông nha sĩ đến dạy cho các em
bài học về vệ sinh răng miệng. Ông hỏi cả lớp khi nào phải đánh răng. Im lặng tuyệt đối. Ông nhấn
mạnh:“Nào, các em biết phải đánh răng khi nào chứ: sáng và tối…”. Lời đó tức khắc gợi lên một phản
xạ trong tâm trí của những em nhỏ Công giáo đã học giáo lý. Thế là chúng đồng thanh đáp: “Trước và
sau bữa ăn”. Ông nha sĩ khen: “Tuyệt vời”, và các em nhỏ tiếp luôn: “… trong cơn cám dỗ và trong giờ
lâm tử”. Đúng thế, nếu chúng ta luôn đánh răng lúc gặp cám dỗ, chúng ta sẽ tránh được bao tội lỗi!

Nhịp độ đều đặn của lời ngợi khen không phải chỉ là một thứ lạc quan ngây ngô cho rằng mọi sự sẽ kết
thúc tốt đẹp. Chúng ta công bố rằng, ngay tự bây giờ, giữa sa mạc, Chúa của sự sống đến với chúng ta và
đem lại cho chúng ta một lối sống. Theo nghĩa này, đời sống tu trì phải thực sự là một đời sống có tính
ngôn sứ, bởi vì ngôn sứ là người thấy tương lai xuất hiện ngay trong hiện tại. Đúng như ngôn sứ
Habakkuk đã nói: “Thật thế, cây vả không còn đâm bông nữa, cả vườn nho không được trái nào. Quả
ôliu đợi hoài không thấy, ruộng đồng chẳng đem lại gì ăn (…) Nhưng phần tôi, tôi nhảy mừng vì Đức
Chúa, hỉ hoan vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi!” (3,17-18).
27

Mới đây, tôi gặp những anh em của Dòng hoạt động cho Công lý và Hòa bình ở châu Mỹ Latinh. Đây là
một thế hệ trẻ, không phải là những người thuộc thập niên 60 như tôi! Những người trẻ nam nữ đang ôm
ấp một giấc mơ trong đời. Tôi tưởng họ sẽ chán nản thất vọng, do tình trạng kinh tế đang xuống dốc, bạo
lực gia tăng, sự phân hóa xã hội trên lục địa của họ. Không đâu! Họ nói rằng, đúng là lúc này, khi mọi ảo
tưởng đã tiêu tan, khi Nước Trời có vẻ như xa vời hơn bao giờ hết, thì tu sĩ chúng ta phải đóng vai trò của
mình. Không ai còn có thể mơ mộng vào lúc này. Nhưng ngày hôm nay đấu tranh cho một thế giới công
bằng hơn, đang khi ta có cảm tưởng không có một chút tiến triển, có nghĩa là con người phải biết cầu
nguyện sâu xa. Như anh Frei Betto, một người anh em Brazil của chúng tôi, đã viết, ngày nay cần phải là
một nhà thần bí mới tin được vào công lý và hòa bình.

Diễn xuất

Giữa câu truyện con gấu và câu truyện chị đan sĩ có một sự tương phản thứ hai mà tôi muốn lưu ý, liên
quan đến cách thức các sự việc xảy ra. Đâu là động cơ của câu truyện? Cái gì làm cho câu truyện tiếp
diễn? Chúng ta cần có cả cốt truyện lẫn diễn xuất.

Chúng ta đã thấy con gấu tượng trưng sự đấu tranh sinh tồn. động lực thúc đẩy lịch sử tiến lên, đó là sự
cạnh tranh “mạnh được yếu thua”. Dù nghiên cứu về tiến hóa hay kinh tế, ta cũng thấy sự việc xảy ra
đúng như thế. Đó là giả định nền tảng của câu truyện hiện đại. Động cơ thúc đẩy lịch sử là sự cạnh tranh
loại trừ người bất toàn, kẻ thất vọng và kẻ yếu nhược.

Nhưng một lần nữa, chúng ta nhận thấy có sự mâu thuẫn. Thật vậy, con gấu kia tượng trưng cho chính sự
tự do, sự tự do là trọng tâm của thời hiện đại: tự do cạnh tranh trong thị trường tự do, ở đó mỗi người tự
do chọn lựa cái mình muốn. Vậy mà chúng ta đã thấy rằng, cả sự tự do ấy nữa, ở một mức độ nào đó,
cũng chỉ là ảo tưởng.  Quả thực, chúng ta bị cuốn hút vào trong sự biến đổi toàn diện của thế giới, làm
cho chúng ta trở thành bất lực, không thể dừng lại được, một sự biến đổi hủy diệt các cộng đồng và nuốt
chửng hành tinh của chúng ta. Do đó chúng ta thấy một nghịch lý kép trong lịch sử hiện đại: người ta hứa
cho ta tiến bộ, ta lại thấy nghèo đói; người ta hứa cho ta tự do, ta lại thấy bất lực. Vậy thì đời sống tu trì
có thể hàm ngụ một câu truyện nào khác đây?

Nhưng một lần nữa, chúng ta hãy nhìn chị đan sĩ trẻ kia, chị hát lên bài tình ca của chị trong đêm tối. Chị
tượng trưng cho một lối kể truyện khác. Câu truyện mà chị kể là câu truyện về một con người đã bị những
kẻ mạnh quật ngã, nhưng người đó vẫn luôn sống mãi. Những con gấu to lớn của thành Roma và thành
Jerusalem cấu xé con người nhỏ bé miền Galilee ấy. Điều chúng ta ca ngợi trong câu truyện này không
phải là sức mạnh tối cao của Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa là con gấu to lớn nhất, nhưng là khả năng
sáng tạo tuyệt đối của Người trong việc phục sinh Đức Giêsu từ cõi chết.

Chỉ có câu truyện khi có một cái gì mới mẻ xảy ra. các câu truyện kể lại sự việc thay đổi biến chuyển như
thế nào. Nhưng mô hình của sự thay đổi trong thế giới hôm nay là sự tồn tại của kẻ mạnh nhất.

Sự tiến hóa về sinh học hoặc kinh tế mang lại sự thay đổi, nhưng phải đi qua cuộc cạnh tranh sinh tồn.
Đang khi đó câu truyện mà chị đan sĩ của chúng ta kể, giới thiệu một sự mới mẻ còn triệt để hơn, đó là
hồng ân khôn tả của sự sống mới. Chúng ta tôn vinh Thiên Chúa, Đấng đã phán: “Này đây, Ta làm mới
mọi sự”. Các tu sĩ chúng ta được kêu gọi để trở thành dấu chỉ cho sự đổi mới khôn tả của Thiên Chúa,
cho quyền năng sáng tạo khôn lường của Người.
28

Người tu sĩ phải làm thế nào để trở nên dấu chỉ câu truyện lạ lùng về một Thiên Chúa của sự chết và sự
sống lại? Dấu chỉ hiển nhiên nhất, đó là các tu sĩ, vì tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng phục sinh kẻ chết,
đã không chịu rời bỏ những vùng đất đầy chết chóc và bạo lực. Ở tất cả những nơi có bạo hành, ở
Rwanda, Burundi, Congo, Chiapas, người ta đều có thể thấy những nam nữ tu sĩ đang là một dấu chỉ cho
câu truyện khác đó, câu truyện mà chị đan sĩ của chúng ta đang hát lên. Tại nước Pháp đây, chúng ta nghĩ
đến nhiều tu sĩ đã chết ở Algeria. Tất cả anh chị em đều biết rõ những lời tuyệt vời này của Christan de
Chergé, Viện phụ Trappist trong bản di chúc thiêng liêng mà người viết ít lâu trước khi qua đời. Tôi nghĩ
rằng, anh chị em cho phép tôi đọc lại một lần nữa:

Ngày vĩnh biệt thấy trước

“Nếu một ngày nào đó - và có thể là ngày hôm nay - tôi trở thành nạn nhân của sự khủng bố hình như
đang chụp xuống tất cả những ngoại kiều sống tại Algeria, tôi mong rằng cộng đoàn của tôi, Hội Thánh
của tôi, gia đình của tôi, hãy nhớ rằng đời sống của tôi đã được hiến dâng cho tất cả mọi người và cho
đất nước này. Ước gì anh chị em hãy nhận ra rằng Vị Chủ tể Duy nhất của mọi sự sống đâu  phải là
người nước ngoài[4] khi phải ra đi tàn nhẫn như thế này. Xin anh chị em hãy cầu nguyện cho tôi: làm
sao tôi được xứng đáng với một sự hiến dâng như thế? Xin anh chị em kết hợp cái chết này với bao cái
chết khác cũng tàn bạo như thế mà bị lãng quên trong sự vô danh (...)

“Cuộc đời này mất đi, trọn vẹn cuộc đời của tôi, và trọn vẹn cuộc đời của họ, tôi xin cảm tạ Chúa, Đấng
đã muốn dẫn dắt đến Niềm Vui Ở Phía Bên Kia, bất chấp mọi sự”.

Việc chuẩn bị cho một chứng tá như thế chắc chắn hệ tại việc toàn thể cộng đoàn tu trì phải là nơi học hỏi
cách thế sinh ra qua sự chết và sự sống lại. Một trong những bà cô của tôi là một nữ tu dòng Thánh Tâm.
Hồi 7 tuổi, bà đã làm cho các bạn hoảng sợ khi bà gắn lên tường căn phòng dành cho trẻ nít một tờ giấy
ghi: “Tôi muốn tan biến đi và được kết hợp với Đức Kitô”. Tôi nghĩ ngày nay chắc không có nhiều ứng
sinh làm như thế, tạ ơn Chúa! Nhưng một cộng đoàn tu trì phải là nơi chúng ta học cho biết chết đi và
sống lại, một nơi biến đổi. Chúng ta không phải là những tù nhân của quá khứ. Chúng ta có thể lớn lên
trong sự thánh thiện. Chúng ta có thể chết đi và được đổi mới.

Có lẽ điều đó sẽ không xảy ra nếu chúng ta tránh né đối diện với cái chết nơi các định chế của chúng ta.
Ngày nay, ở Tây Âu, nhiều tu hội, nhiều cộng đoàn, nhiều tu viện và nhiều tỉnh dòng đang phải đối diện
với cái chết. Có nhiều chiến lược để tránh né thực tế này: phong chân phước cho vị sáng lập, khởi xướng
những chương trình xây dựng tốn kém, viết ra những văn bản tuyệt vời về những dự án chẳng bao giờ
được đưa ra thực hiện. Khi chúng ta gửi những anh em, chị em sang Philippines, Colombia, Brazil, phải
chăng là do lòng nhiệt thành truyền giáo bộc phát và mới mẻ hay là vì muốn có những ơn gọi để có thể
sống còn? Nếu chúng ta không thể đối diện với viễn ảnh sự chết, chúng ta còn có thể nói được gì về Thiên
Chúa của sự sống? Ngày nọ, tôi đến thăm một đan viện Đaminh ở Anh quốc cùng với một anh em cao
niên. Rõ ràng đan viện này đến ngày tàn rồi, nhưng một trong các nữ đan sĩ nói với anh bạn đồng hành
của tôi: “Thưa cha, chắc chắn Chúa sẽ không để cho đan viện này phải chết!”. Anh đáp lại:“Thế nhưng
Người đã chẳng để Con của Người phải chết đó sao?”.

Một trong những cách thức để sống câu truyện không thể tưởng tượng này về sự chết và sự sống lại, là tin
chắc sẽ đem lại một đời sống mới trong những nơi không ai ngờ tới. Chúng ta phải là những người đi vào
trong thung lũng của tử thần và biểu lộ niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ chết sống
29

lại. Tôi nhớ một người anh em của tôi, người Scotland, vừa là một thi sĩ vừa là nhà đô vật, một sự kết hợp
khó tin. Anh phát động một phong trào ở Scotland để dạy nghệ thuật cho các tù nhân. Anh xác tín rằng
nếu chúng ta không tin vào óc sáng tạo của họ, họ sẽ chẳng bao giờ được chữa lành. Đầu tiên, anh thử
nghiệm trong một nhà tù khét tiếng ở Glasgow. Anh hỏi các tù nhân xem họ thích làm việc gì: hội họa, thi
ca, điêu khắc, múa. Anh chị em có thể đoán ra họ phản ứng như thế nào không! Thế là anh xắn tay áo lên
và nói: “Nếu có ai trong các bạn nghĩ rằng nghệ thuật không phải là chuyện dành cho người đàn ông
như các bạn, thì tôi sẽ đánh nhau với người đó!”. Và anh đã đánh nhau với từng người trong họ. Và tất cả
bọn họ đều bắt đầu học hỏi về thi ca và hội họa! May thay, đó không phải là cách duy nhất để đưa người
ta đến với đức tin vào Thiên Chúa, Đấng làm mới mọi sự.

Một cách thức khác, có lẽ truyền thống hơn, để các tu sĩ luôn là một dấu chỉ về Thiên Chúa hằng sáng tạo,
đó là qua cái đẹp. Các anh chị em ở Pháp ý thức rõ điều này hơn ở bất cứ nơi nào khác. Cách đây mấy
tuần, tôi gặp ở Đức một anh Đaminh cao niên, vừa là họa sĩ, vừa là nhà điêu khắc. Tôi hỏi anh thích làm
cái gì nhất. Anh trả lời rằng anh luôn say mê khắc chữ trên những tấm bia mộ! Có những vết thương trầm
trọng đến nỗi chỉ có cái đẹp mới chữa lành được. Đứng trước nỗi thống khổ, người ta chỉ có thể diễn tả
niềm hy vọng bằng nghệ thuật. Một tấm bia mộ thật đẹp có thể diễn tả hùng hồn niềm hy vọng vào sự
sống lại, vào Thiên Chúa, Đấng có thể làm cho kẻ chết sống lại.

Cuối cùng, có cái đẹp của phụng vụ, cái đẹp của lời ca ngợi Thiên Chúa, nói về Thiên Chúa, Đấng biến
đổi mọi sự. Đó là vẻ đẹp mà chúng ta đã đề cập tới khi bắt đầu buổi nói chuyện, vẻ đẹp của chị đan sĩ hát
bài tình ca trong đêm tối trước ngọn nến. Đó là vẻ đẹp của một bài ca tràn ngập đam mê của những người
miền nam Tây Ban Nha khiến tôi rất xúc động. Điều đó làm tôi nghĩ đến Pablo Neruda, ông nói rằng giữa
những tấn thảm kịch của sự sống và sự chết, ông đã chọn cây đàn ghi ta!

Diễn viên

Cuối cùng, không có câu truyện nếu không có các diễn viên, các nhân vật. Mỗi câu truyện đều có một vị
anh hùng. Và đâu là hình ảnh thích hợp nhất về cái tôi hiện đại nếu không phải là con gấu của chúng ta,
con gấu đang giận dữ và cô độc. Nhưng cái “tôi hiện đại” ấy đang gặp khủng hoảng.

Điều căn bản nhất đối với thế giới hôm nay là chính ý nghĩa mới này về con người; một cái tôi riêng rẽ và
độc lập, tách biệt và tự do, và xét cho cùng là cái tôi cô độc. Đó là hậu quả của cuộc tiến hóa kéo dài từ
nhiều thế kỷ nay, trong đó các tương quan xã hội bị cắt đứt, trong đó người ta chấp nhận cái riêng tư,
thậm chí còn cho đó là lý tưởng nữa. Cái tôi ấy chính là người hùng của chúng ta kể từ thời Descartes.
Chúng ta gặp thấy cái tôi ấy trong bất cứ cuốn phim cao bồi nào của Mỹ. Đó là một khuôn mặt đơn độc.

Cơn khủng hoảng của thời hiện đại một phần là do “cái tôi hiện đại này” chứa đựng một sự mâu thuẫn.
Bởi vì con người không thể là một cái “tôi” đơn độc. Con người không thể hiện hữu như một nguyên tử
đơn độc, tự chủ. Chúng ta không thể hiện hữu mà không có cộng đoàn, không có người để chuyện trò,
không có những cái mà Charles Taylor gọi là “những mạng lưới đối thoại”.[5] Đó là mâu thuẫn nằm
ngay tại gốc rễ lịch sử hiện đại: trong khi con người tự cho mình là đơn độc, thì thực tế, không ai có thể là
một cá nhân đứng ngoài mọi hình thức cộng đoàn. Không thể là một “cái tôi hiện đại” trong một thời
gian lâu dài được. Con gấu trên tấm biển quảng cáo diễn tả một lý tưởng không thể có được. Đơn độc, nó
sẽ chết.
30

Chúng ta trở lại với chị đan sĩ của chúng ta một lần cuối, chị ca hát trước cây nến Phục sinh. Chị không
đơn độc. Lờ mờ trong ánh sáng của cây nến, có một đám đông những người trẻ. Canh thức Phục sinh là
một cuộc tập họp của Dân Thiên Chúa. Một cộng đoàn đã được sinh ra trong đêm ấy. Chúng ta họp nhau
để nhớ lại phép Thánh tẩy của chúng ta trong thân mình Đức Kitô và cùng nhau tuyên xưng một niềm tin
chung. Điều đó diễn tả một cái nhìn khác về ý nghĩa con người.

“Đời sống con người hôm nay có ý nghĩa gì?”. Một trong những cách thức trả lời cho câu hỏi ấy trong
nếp sống tu trì, đó là sống cộng đoàn. Tìm thấy căn tính của mình trong cộng đoàn, như một người anh
em, một người chị em, đó là sống một hình ảnh khác về cái tôi, một cách thức khác để làm người. Nó thể
hiện một hình ảnh đối lập với hình ảnh của người hùng hiện đại. Vào thời khai nguyên của Dòng, người
ta gọi cộng đoàn Đaminh là một “sacra praedicatio”, một “trung tâm giảng thuyết thánh”. Sống với
nhau như anh em “đồng tâm nhất trí” đã là một lời thuyết giảng, ngay cả trước khi có ai đó nói lên được
một lời. Những người trẻ đến với đời sống tu trì có lẽ là để đi tìm một cộng đoàn hơn là vì một lý do nào
khác. Theo Tông huấn Đời sống Thánh hiến, chúng ta là dấu chỉ của sự hiệp thông cho toàn thể Hội
Thánh, một chứng tá về đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Nhưng nếu cộng đoàn đã dẫn đưa những người trẻ đến với đời sống tu trì, thì cũng chính những khó khăn
của đời sống chung đã khiến nhiều người rời bỏ đời sống ấy. Chúng ta khát khao sự hiệp thông, vậy mà,
sống sự hiệp thông ấy lại là một nỗi khổ. Khi gặp các anh em Đaminh trẻ đang trong thời gian thụ huấn,
tôi thường hỏi họ thấy điều gì tốt nhất và điều gì tồi tệ nhất trong đời sống tu trì, nói chung, họ đưa ra
cùng một câu trả lời: sống  cộng đoàn. Đó là vì chúng ta là con đẻ của thời đại mình, được nhào nặn bởi
quan niệm về cái tôi hiện đại. Chúng ta không phải là những con chó sói đội lốt chú cừu. Chúng ta là
những con gấu đội lốt chị đan sĩ!

Có thể nói đời sống tu trì của chúng ta phản ánh sự khủng hoảng của cái tôi hiện đại. Con người cá nhân
hiện đại khát vọng được sống độc lập, tự do, tách biệt, là những điều không thể đứng vững được, bởi vì
người ta không thể là một con người hoàn toàn đơn độc. Dù nghĩ thế nào đi nữa, chúng ta cần thuộc về
cộng đoàn để sống như những con người. Nhưng là tu sĩ, đời sống chúng ta đang phản ánh bi kịch này.
Chúng ta bước vào đời sống tu trì với khát vọng sống cộng đoàn, thật sự mong muốn trở thành anh em,
chị em với nhau, nhưng chúng ta vẫn là những sản phẩm của thời hiện đại, mang nặng dấu ấn cá nhân chủ
nghĩa, sợ phải dấn thân, khát khao được độc lập. Phần đông chúng ta sinh ra trong những gia đình trung
bình chỉ có một người con rưỡi, và vì thế thật khó sống với đám đông. Như vậy, con người cá nhân hiện
đại và người tu sĩ là hai khía cạnh của cùng một sự căng thẳng. Con người cá nhân hiện đại mơ ước một
sự độc lập không thể có, còn chúng ta, người tu sĩ, chúng ta khát vọng một cộng đoàn khó có thể chấp
nhận được.

Con gấu không thể trở thành chị đan sĩ trong thời gian một năm tập. Cần phải huấn luyện dần dần để trở
nên người, học nói học nghe, cắt đứt sự chi phối của tính quy ngã và tính ích kỷ, những cái làm cho tôi
trở thành cái rốn của vũ trụ. Chính sự sinh lại từ từ qua cầu nguyện và hoán cải sẽ giải phóng tôi khỏi
những hình ảnh sai lạc về thiên chúa và tha nhân.

Chính trong tình trạng ấy, mà chúng ta – những người bị bóc trần - phải sống thảm kịch của Hội Thánh
hiện đại một cách mãnh liệt. Trước đây chưa bao giờ Hội Thánh nhấn mạnh như thế đến việc trình bày
mình như một cộng đoàn. “Koinonia” - hiệp thông - là trọng tâm của mọi khoa Giáo hội học hiện nay.
Thế mà chưa bao giờ Hội Thánh, ít là ở Tây phương, lại tỏ ra thiếu hiệp thông thực sự như vậy. Chúng ta
dùng ngôn ngữ hiệp thông, nhưng chúng ta hiếm khi sống hiệp thông. Lời nói và thực tế không đi đôi với
31

nhau. Một trong những cố gắng của chúng ta để cho giấc mơ về sự hiệp thông ấy trở thành hiện thực, là
dám xây dựng cộng đoàn ở những nơi xem ra không thể được, nơi mà người khác đã bỏ đi. Trong những
năm gần đây, tôi hay gặp những cộng đoàn nhỏ các tu sĩ, thường là nữ tu. Họ lập cộng đoàn ở những nơi
mà người khác đường như đã tuyệt vọng, nơi chỉ có những con người bị chà đạp và tuyệt vọng trước bạo
lực và nghèo đói. Ở chính những nơi có vẻ như chẳng còn chút hy vọng gì, người ta thấy các nữ tu dựng
lên một căn nhà luôn mở rộng cửa.

Còn đây là một hình ảnh nói lên bao kỷ niệm. Hôm sau buổi canh thức Phục sinh cử hành với chị đan sĩ
kia, tôi đi thăm một ngôi nhà nguyện nhỏ tại Caracas do anh em phụ trách, ở một trong những khu nhà ổ
chuột tồi tệ  nhất của Mỹ châu Latinh. Ngôi nhà nguyện này dày đặc những lỗ đạn. Trung bình mỗi dịp
cuối tuần có khoảng 28 người trong họ đạo bị sát hại. Trên bức tường phía sau bàn thờ, có một bức họa
do các em nhỏ trong khu phố vẽ. Đó là bức họa Bữa Tiệc ly, vẽ Đức Giêsu đang dùng bữa, có các anh em
và chị em Đaminh vây quanh, thánh Đaminh thì đang vuốt ve con chó. Còn người môn đệ Chúa Giêsu
yêu mến, thiêm thiếp ngủ bên cạnh Chúa, lại là một em bé người địa phương, một trẻ em đường phố.
Trong một thế giới bạo lực như vậy, biểu tượng trên cho thấy cuối cùng em nhỏ đã tìm được một căn hộ,
tìm được một lời hứa, một mái ấm.

Kết luận

Tôi phải kết thúc thôi. Khi mở đầu tôi đã khẳng định rằng, chúng ta chỉ có thể tìm thấy ý nghĩa của đời
sống tu trì khi hiểu rằng đó là một câu trả lời cho việc tìm kiếm ý nghĩa của đời sống “con người”. Tiếp
đó tôi đã gợi ý rằng một trong những phương cách để hiểu cơn khủng hoảng về ý nghĩa nơi xã hội Tây
phương là: câu truyện nền tảng mà chúng ta kể ra để giải thích chúng ta là ai và chúng ta đi về đâu không
còn tác dụng nữa. Hình ảnh làm biểu tượng là con gấu thân thương của chúng ta. Đó là một câu truyện
đầy những mâu thuẫn. Câu truyện ấy nói về sự tiến bộ, nhưng hình như lại dẫn chúng ta đến nghèo đói.
Nó cống hiến sự tự do, thế mà chúng ta thường cảm thấy bất lực. Nó mời gọi trở thành “cái tôi hiện đại”,
tự lập và đơn độc, nhưng chúng ta lại khám phá ra rằng chúng ta không thể là người nếu không có cộng
đoàn.

Cũng thế, đời sống tu trì chỉ có thể đáp ứng được nỗi khát khao tìm kiếm ý nghĩa khi nó là hiện thân của
một câu truyện khác, một cái nhìn khác cho biết “là người” nghĩa là gì. Chúng ta thấy biểu tượng của
điều đó nơi chị đan sĩ rất đáng yêu đang hát ca trước cây nến trong đêm tối. Và đó là một câu truyện gợi
lên một ý nghĩa khác của thời gian. Không còn là sự tiến bộ tất yếu, nhưng là làm thế nào để chúng ta gặp
được Chúa, Đấng kêu gọi chúng ta đến với Người. Và cái làm cho câu truyện trở nên sinh động không
phải là sự tự do cạnh tranh, nhưng là sự sáng tạo khôn lường của Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ chết sống
lại. Và người hùng của câu truyện này không phải là người hùng đơn độc của thời hiện đại, nhưng là
những nam, nữ tu sĩ đang sống trong cộng đoàn và xây dựng cộng đoàn cho những người khác.

Đời sống tu trì chỉ là một nỗ lực sống câu truyện khác ấy, câu truyện Vượt Qua tường thuật sự chết và sự
sống lại. Như anh Bruno Chenu đã viết trong cuốn sách tuyệt hay, mà tôi được đọc quá trễ: “Các tu sĩ
muốn thể hiện một thứ lôgích của phép Thánh tẩy, đó là một đời sống trong Đức Kitô được đẩy tới những
hệ quả cuối cùng”.[6] Các lời khấn không mang lại một ý nghĩa khác hoặc một ý nghĩa đặc biệt cho cuộc
đời chúng ta. Nhưng các lời khấn công khai hóa và làm sáng tỏ việc chúng ta bác bỏ câu truyện con gấu.
Chẳng hạn, đức vâng phục là một sự khước từ rõ ràng cái tôi độc lập, đơn độc và không dấn thân. Đó là
lời tuyên bố rằng, chúng ta có ý định sống một câu truyện khác, chúng ta khám phá ra mình là ai trong
đời sống chung với anh em. Đó là một sự dấn thân để tự giải phóng mình khỏi cái ách nặng không thể
32

chịu nổi của cái tôi hiện đại và đơn độc. Trong đức vâng phục, chúng ta cũng khước từ hình ảnh về cuộc
sống như một cuộc đấu tranh giành quyền lực, cũng như trong đức thanh bần, chúng ta công khai từ bỏ
cuộc đua tranh giành chiến thắng, từ bỏ thị trường chụp giựt của xã hội tiêu thụ. Trong đức khiết tịnh,
chúng ta chấp nhận rằng sự phong phú sâu xa nhất mà chúng ta có thể có được, đó là sự phong phú của
Thiên Chúa Tạo hóa, Đấng làm cho kẻ chết sống lại.

Những lời tuyên khấn ấy làm cho chúng ta trở nên trần trụi và bị phơi bày, làm đảo lộn mọi câu truyện
khác, những câu truyện chỉ đem lại ý nghĩa tạm bợ cho đời sống chúng ta và giúp chúng ta kéo lê cuộc
đời thêm một ngày nữa. Chúng ta hứa từ bỏ chức nghiệp, thành công về tài chánh, (tóm lại), bất cứ những
thứ ngụy trang nào khác có thể gợi cho chúng ta ảo tưởng rằng cuối cùng, hóa ra con gấu có lý. Nếu câu
truyện Vượt Qua ấy không thực, thì cuộc sống chúng ta chẳng có ý nghĩa gì, và “chúng ta là những kẻ
đáng thương hơn hết mọi người” (1Cr 15:19).

Việc đó không dễ dàng. Chúng ta là con đẻ của thời hiện đại và chúng ta được nhào nặn bởi những câu
truyện của thời đại, chúng ta chia sẻ những giấc mơ của thời đại. Chẳng hạn, tôi biết bản thân tôi giống
con gấu hơn là chị đan sĩ. Những đáp trả theo bản năng của tôi thường là những đáp trả của cái tôi đơn
độc hơn là của người anh em. Tôi biết rằng tôi chỉ mới bắt đầu tiến trình sinh lại mà thôi. Óc tưởng tượng
của tôi chỉ mới biến đổi được một nửa. Khi đứng chờ xe buýt ở Roma và nhìn tấm bích chương, tôi đã
nhìn thấy chính bản thân tôi.

Tôi rút ra hai kết luận. Trước hết, ít ra là tôi có thể cùng với những người đương thời tham gia cuộc chiến
đấu để cất đi mặt nạ của con gấu và mang lấy khuôn mặt của con người. Nếu tôi không tham gia cuộc
chiến này, tôi chẳng có gì để trả lời cho câu hỏi: “Đời sống con người ngày hôm nay có ý nghĩa gì?”.
Người tu sĩ không phải là thần thánh chạy trốn cuộc sống hiện tại, nhưng là một con người, do lời tuyên
khấn, đã dứt khoát dấn thân vào cuộc chiến đấu để tái sinh. Chúng ta chia sẻ với người khác những nỗi
đau đớn của cuộc tái sinh. Nếu chúng ta chân thực trong cuộc chiến của mình, có lẽ những người khác sẽ
chia sẻ niềm hi vọng của chúng ta.

Thứ đến, bởi đây là điều khó, nên chúng ta phải thật sự dấn thân xây dựng những cộng đoàn trong đó có
đời sống mới của sự Phục sinh. Một cộng đoàn tu trì không phải chỉ là nơi để ăn uống, đọc một ít kinh và
đi ngủ mỗi tối. Đó là một nơi để chết đi và sống lại. Ở đó chúng ta giúp đỡ nhau canh tân. Tôi thích coi
đời sống tu trì như một hệ sinh thái, một khái niệm tôi đã khai triển ở nơi khác.[7] Hệ sinh thái là môi
trường cho phép những hình thức sống mới lạ được phát triển. Mỗi dạng sống mới lạ cần có hệ sinh thái
của nó. Điều này đặc biệt đúng với những người trẻ vừa mới bước vào đời sống tu trì, thường là những
người mới tin vào Chúa. Một con nhái quý hiếm chỉ có thể sống và sinh sản, và có một tương lai, nếu nó
có được tất cả những yếu tố cần thiết thuộc hệ sinh thái của nó: một hồ nước, một ít bóng mát, những cây
cỏ khác nhau, nhiều bùn và những con nhái khác. Đi tu là chọn lựa một lối sống mới lạ, và mỗi người
chúng ta phải cần đến một môi trường thuận lợi: cầu nguyện, thinh lặng, cộng đoàn. Thiếu những cái đó,
chúng ta không thể phát triển được. Như vậy, một bề trên giỏi là một nhà sinh thái giúp anh chị em mình
xây dựng những khung cảnh cần thiết cho sự phát triển của họ. Tuy nhiên, các hệ sinh thái không phải là
những nhà tù chật hẹp ngăn cách chúng ta khỏi thế giới hiện đại. Một hệ sinh thái tạo điều kiện cho một
lối sống phát triển và tác động một cách sáng tạo lên những hình thức sống khác.

Chúng ta cần đến những hệ sinh thái duy trì nơi chúng ta ý nghĩa của mùa Phục sinh, nhịp độ của năm
phụng vụ dẫn chúng ta từ mùa Vọng đến lễ Hiện xuống. Chúng ta cần đến những cộng đoàn sống theo
chu kỳ năm phụng vụ, trong đó họ vừa cử hành phụng vụ, vừa chay tịnh với nhau. Chúng ta cần đến
33

những cộng đoàn, nơi đó chúng ta không chỉ hài lòng với việc đọc một ít thánh vịnh trước khi đi làm việc,
nhưng ở đó, chúng ta được nâng đỡ để có thể hát lên những lời ca tụng ngay giữa nơi sa mạc. Chúng ta
cần xây dựng những cộng đoàn là nơi chia sẻ đức tin và những nỗi thất vọng của chúng ta, để giúp nhau
vượt qua sa mạc. Chúng ta cần những cộng đoàn trong đó chúng ta có thể sinh lại dần dần thành những
người anh em, chị em, con cái của Thiên Chúa hằng sống.

Chị đan sĩ ca hát trong đêm tối, giống như thánh Đaminh đã ca hát khi rảo bước trên những con đường ở
miền nam nước Pháp. Đó là ơn gọi của Kitô hữu. Thánh Augustine nói với chúng ta: “Anh em hãy lên
đường. Hãy vừa đi vừa hát. Những khách lữ hành đã làm thế để nhẹ bớt gánh nặng. (…) Hãy hát lên một
bài ca mới. Đừng ai hát những bài ca cũ. Hãy hát lên những bài tình ca của quê hương anh em. (…) Hãy
hát lên như những khách lữ hành, và họ thường hát trong đêm tối. Những tiếng động họ nghe thấy chung
quanh thật đáng khiếp sợ. Nhưng họ vẫn ca hát dù run sợ trước những tên cướp”.[8] Hay những con gấu!

Fr. Timothy Radcliffe, OP.


Nguyên Tổng Quyền Dòng Anh Em Giảng Thuyết (Đa Minh).
Bài nói chuyện tại Hội nghị Các Bề Trên Thượng Cấp nước Pháp,

[1]  Chương trình truyền hình hay truyền thanh đề cập đến những biến cố hay những vấn đề của đời sống
thường nhật, thường thì có vẻ ướt át (Người Dịch).
[2] In Praise of Benedict, Ampleforth, 1996, tr. 23.
[3] The Theology of Grace, Dublin, 1974, tr. 82.
[4]  Chúa Giêsu là người Do Thái, chết tại Jerusalem (Người Dịch).
[5] Sources of the Self, Cambridge, 1989, tr. 36.
[6] L’Urgence prophétique, Dieu au défi de l’Histoire, Paris, tr. 262.
[7] Ơn gọi tu trì: Từ bỏ những dấu chỉ căn tính quen thuộc.
[8] Enarrationes in Psalmos 66,6.

You might also like