Professional Documents
Culture Documents
Enzyme Amylase T Lúa
Enzyme Amylase T Lúa
1
1. GIỚI THIỆU CHUNG
1.1 Cây lúa
Cây lúa (Oryza sativa) thuộc họ cây thân thảo (Graminae) cũng là một loại cây lương
thực quan trọng đối với hơn 1/2 dân số thế giới và được trồng phổ biến nhiều ở vùng
đồng bằng sông Cửu Long vì tiềm lực ý nghĩa kinh tế lớn. với gian sinh trưởng trung
bình từ 75-250 ngày tùy theo chủng loại.
Cây lúa là loại lương thực vô cùng phổ biến và giữ vai trò quan trọng trong đời sống con
người Việt Nam. Nó gắn bó với người dân ta từ lâu đời, là thực phẩm quan trọng không
thể thiếu trong bữa ăn hằng ngày và cũng là cây lương thực xuất khẩu hàng đầu của nước
nhà.
1.1.1 Cấu trúc hạt lúa
Vỏ trấu: bao gồm hợp chất cellulose và silic cấu tạo thành thường rất cứng với mục đích
bảo vệ hạt chống sự phá hoại của côn trùng sâu bọ hay các mầm bệnh khác và điều kiện
thời tiết bất lợi. Màu sắc vỏ trấu (vàng nhạt → vàng nâu) sẽ có thay đổi theo mỗi giống
lúa.
Vỏ hạt: ở trong cùng là nội biểu bì đến tầng trung quả và lớp bên ngoài là lớp biểu bì, vỏ
hạt có màu đỏ và trắng đục và bọc xung quanh hạt.
Nội nhũ: trong hạt lúa đây là phần chiếm lớn nhất, chủ yếu là glucid 90%, protein,
vitamin...
Phôi: có chứa một tử diệp nằm ở góc hạt và được ép sát vào bên trong nội nhũ cũng là cơ
quan để biến đổi các chất được dự trữ trong nội nhũ thành các chất dinh dưỡng nhằm
2
cung cấp cho sự phát triển của cây mầm. Phôi hạt có protein, lipid, vitamin, đường hay
các enzyme khác.
Màng lúa: chiều cao khoảng 1/3 vỏ hạt. Tùy vào giống lúa cũng như là điều kiện canh tác
mà độ dài của màng lúa sẽ có sự khác nhau. Vỏ trấu hồng hơn so với màng lúa thì lại có
màu vàng nhạt.
1.1.2 Thành phần dinh dưỡng
Tùy theo điều kiện canh tác, giống lúa hay điều kiện đất đai mà thành phần dinh dưỡng
của hạt lúa sẽ khác nhau.
Bảng 1.1 Thành phần dinh dưỡng của hạt lúa
Nước: ở trong hạt thóc nước vừa ở dạng tự do vừa ở dạng liên kết. Chất lượng của hạt lúa
phụ thuộc vào lượng nước và lượng nước sẽ càng giảm đối với hạt lúa càng già.
Protein: chiếm 8-9%. Lượng protein bị biến tính và thoái hóa dần trong lúc bảo quản.
Khi kết hợp với nước, protein sẽ trương nở và thành thể keo.
Glucid: amylose và amylopectin là hai thành phần chính có trong tinh bột.Tùy thuôc vào
giống lúa mà amylose và anylopectin sẽ có sự thay đổi. Gạo tẻ khoảng 19,5% amylose và
81,5% amylopectin; nếp khoảng 0,7% amylose và amylopectin là 99,3%. Cellulose và
hemicellulose chủ yếu ở trong vỏ trấu và vỏ hạt, là những polysaccharide không thể tiêu
hóa được.
Amino acid: là những sản phẩm trung gian dùng để tổng hợp hoặc thủy phân protein.
Enzyme: là các enzyme amylase: enzyme oxy hóa khử, α-amylase và β-amylase, protease
và một số enzyme khác.
Trong quá trình nảy mầm các enzyme hoạt động mạnh và tăng cao thúc đẩy cho các phản
ứng sinh-lý-hóa với nhau và sinh tổng hợp các loại enzyme. Các quá trình gần giống ở
đại mạch, chỉ khác mức độ tạo thành enzyme cũng như tốc độ phản ứng.
3
1.2 Enzyme amylase
1.2.1 Định nghĩa
Amylase là một nhóm thuộc các enzyme tiêu hoá thuỷ phân các liên kết glycosidic của
tinh bột thành glucose, maltos và dextrin hạn chế. Nhiều enzyme hoạt động trên tinh bột
hoặc trên các oligosaccharise có nguồn gốc từ chúng, dưới sự xúc tác và phân giải các
liên kết glucoside nội phân tử trong các polysaccharide có sự tham gia của nước. Ở trong
nước bọt của người có loại enzyme amylase và được gọi là ptyalin nhưng ở một số loài
động vật có vú khác như chó, mèo, ngựa thì lại không có sự hiện diện của amylase .
Ptyalin bắt đầu thuỷ phân tinh bột từ vùng miệng và quá trình này sẽ được ruột non hoàn
tất nhờ amylase ở tuyến tuỵ và còn gọi là amylopsin. Amylase của malt sẽ thủy phân tinh
bột lúa mạch để tạo thành disaccharide làm cơ chất của quá trình lên men bởi các nấm
men.
4
1.2.2 Phân loại
Amylase có sáu loại trong đó có ba loại phổ biến: α-amylase, γ-amylase và β-amylase,
dextrin-6-glucanhydrolase, amylopectin-6-glucanhydrolase và oligodextrin-6-
glucanhydrolase (hay dextrinase).
Amylase chia thành hai nhóm: endoamylase (enzyme nội bào) hoạt động trên phần bên
trong của phân tử cơ chất, và exoamylase (enzyme ngoại bào) thì ngược lại hoạt động
trên các đầu tận cùng và không có tính khử. Do đó, gốc glucose ở đầu tận cùng và các
liên kết α-1, 6 không thể bị phân cắt bởi α-amylase.
Endoamylase: α-amylase và các nhóm enzyme khử nhánh. Có hai loại thuộc nhóm
enzyme khử nhánh là nhánh khử trực tiếp (pullulanase hay α-dextrin 6-
gluccanohydrolase), nhánh khử gián tiếp (amylo-1,6-glucosidase và transglucosylase
(hay oligo-1,6-glucosidase)). Các loại enzyme trên thủy phân các liên kết ở bên trong
của chuỗi polysaccharide.
Exonuclease: β-amylase và γ-amylase. Đó là những loại enzyme thủy phân tinh bột từ
đầu không khử của chuỗi polysaccharide.
Amylase
Exonuclease Endoamylase
5
1.2.3 Đặc tính và cơ chế hoạt động
α-amylase
α-amylase là một enzyme hydrolase xúc tác cho quá trình thuỷ phân các liên kết α-1, 4-
glycosidic của cơ chất trong tinh bột một cách ngẫu nhiên tạo ra glucose và maltose và là
endoenzym (enzyme nội bào).
Bên cạnh α-amylase có khả năng phân hủy hồ tinh bột và cả khả năng phân hủy hạt tinh
bột nguyên vẹn.
α-amylase hiện tại là enzym có tầm quan trọng và thiết yếu do hoạt động thủy phân tinh
bột của nó và các hoạt động đó được thực hiện nhờ quá trình thủy phân. Một trong những
hoạt động như vậy là sản xuất xi-rô glucose và fructose từ tinh bột (α-amylase xúc tác là
bước đầu tiên trong quá trình này)
Trước đây, tinh bột được thủy phân thành glucozơ bằng phương pháp thủy phân bằng
axit. Tuy nhiên có những hạn chế về điều kiện nhiệt độ cao và hoạt động có tính axit cao.
Những hạn chế này được khắc phục bằng cách thủy phân tinh bột bằng enzyme để thu
được xi-rô fructose cao. Enzyme an toàn với môi trường và tăng cường khả năng tẩy rửa
để loại bỏ các vết bẩn khó giặt. Chúng có thể phân hủy sinh học và hoạt động ở điều kiện
nhẹ hơn so với chất xúc tác hóa học và do đó được ưa chuộng hơn chất xúc tác sau này.
α-amylase có nhiều ứng dụng vào ngành công nghiệp Việt nam và đó cũng chính là động
lực thúc đẩy cho việc nghiên cứu sản xuất enzyme này một cách tối ưu bởi tính an toàn
và tiện lợi.
Đặc tính:
- Trọng lượng phân tử của α-amylase malt là 59.000dkDa.
- Điểm đẳng điện trong vùng pH 4,2 – 5,7.
- Protein của các amylase này có tính chất của globuline và có tính acid yếu.
- Mỗi phân tử α-amylase đều chứa 1-30 nguyên tử gam Ca/mol, nhưng không ít hơn 1-6
nguyên tử gam/mol. Ca góp phần tạo nên sự ổn định và hình thành cấu trúc bậc 3 của
enzym. Khi bị tác động bởi các enzym phân giải protein và tác nhân gây biến tính khác,
Ca còn có công dụng duy trì sự tồn tại cho enzyme. Trường hợp Ca bị loại ra khỏi phân
tử α-amylase thì nó sẽ hoàn toàn bị mất hết khả năng thủy phân cơ chất. Các amylase
khác chịu nhiệt kém hơn so với α-amylase. Đặc tính này có lẽ liên quan đến hàm lượng
Ca trong phân tử.
- Tùy vào các nguồn khác nhau mà khả năng hoạt động và điều kiện hoạt động của α-
amylase là khác nhau.
6
Ví dụ: pH tối thích cho hoạt động của α-amylase từ đại mạch nảy mầm và thóc nảy mầm
là 5,3 (hoạt động tốt có thể trong khoảng pH 4,7 – 5,4). Cũng như độ bền của α-amylase
nấm mốc tốt hơn so với acid của α-amylase malt. Từ đó có thể thấy rằng pH tối thích của
α-amylase từ vi sinh vật khác so với của α-amylase từ malt.
- Tuy nhiên pH và nhiệt độ là hai yếu tố ảnh hưởng đến độ bền của α-amylase
Ví dụ: Ở điều kiệu nhiệt độ là 0°C và pH=3,6, thì α-amylase của malt bị mất hoạt tính
hoàn toàn. Tuy nhiên khi ở nhiệt độ 58-60°C thì α-amylase của mầm thóc và malt hoạt
động tốt nhất. Chính vì thế người ta thường đường hóa cơ chất bằng malt trong khoảng
nhiệt độ từ 60-65°C để sản xuất rượu.
65 100 80 25
70 100 85 1
75 58 90 0
Cơ chế:
Hình 1.3 Cơ chế tác động của α-amylase lên tinh bột
7
α-amylase trong quá trình thủy phân tinh bột bao gồm nhiều giai đoạn:
- Trong tinh bột, enzyme này sẽ phân cắt một số liên kết và tạo ra một lượng lớn dextrin
(phân tử thấp), các dextrin này tiếp tục bị thủy phân cho ra maltose và glucose.
- Amylose bị phân cắt thành các polyglucose (6-7 gốc glucose) dưới tác dụng của α-
amylase, sau đó các polyglucose (6-7 gốc glucose) này tiếp tục được phân cắt thành chuỗi
ngắn dần và tạo thành maltose, maltotriose, maltotetrose. Nếu thời gian tác dụng dài hơn,
thì amylose sẽ là 13% glucose và 87% maltose cũng là sản phẩm của quá trình thủy phân
này.
Tương tự khi cho α-amylase tác dụng lên trên amylopectin và sản phẩm được tạo là 19%
glucose, 72% maltose, bên cạnh còn có dextrin (phân tử thấp) và 8% isomaltose lí do là
α-amylase không cắt được liên kết 1,6-glucoside ở mạch nhánh của phân tử amylopectin.
Các giai đoạn của quá trình thủy phân tinh bột của a-amylase:
α-amylase có khả năng dextrin hóa khá cao nên có thể gọi α-amylase là: amylase dịch
hóa hoặc amylase dextrin hóa.
β-amylase
β-amylase là một enzyme exohydrolase hoạt động từ đầu không nhân tạo bằng cách thủy
phân các liên kết α-1, 4-glucan trong tinh bột , polysaccharide và glucogen để tạo ra các
đơn vị maltose liên tiếp do sự xúc tác của β-amylase có cấu hình β. Vì nó không thể phân
cắt các liên kết nhánh trong polysaccharide phân nhánh như glycogen hoặc amylopectin,
nên sự thủy phân không hoàn toàn và các đơn vị dextrin vẫn còn.
8
β-amylase hiện diện phổ biến ở thực vật bậc cao, đặc biệt là ở hạt nảy mầm.
- Ở ngũ cốc, β-amylase tham gia vào sự phân giải tinh bột trong quá trình nảy mầm của
hạt.
- Ở lúa, β-amylase được tổng hợp trong hạt suốt quá trình nảy mầm của hạt tuy nhiên ở
hạt khô thì không được tổng hợp.
- Ở lúa mạch, trong hạt khô enzyme được tích lũy trong suốt quá trình phát triển của hạt,
chủ yếu là liên kết với tinh bột của hạt. Khi ở dạng liên kết, enzyme này là một phân tử
có trọng lượng phân tử là 64kDa và khi bị phân cắt bởi một protease sẽ được phóng thích
dưới dạng tự do và có trọng lượng phân tử là 59kDa.
Maltose là nguyên nhân chính tạo ra vị ngọt của trái cây trong quá trình chính vì được β-
amylase phân giải tinh bột (pH tối ưu khoảng 4,0 – 5,5).
β-amylase được sử dụng cho các ứng dụng khác nhau trong nghiên cứu cũng như công
nghiệp. Nó có thể được sử dụng để nghiên cứu cấu trúc của các phân tử tinh bột và
glycogen được sản xuất bằng nhiều phương pháp khác nhau. Trong công nghiệp, nó được
sử dụng để lên men, sản xuất bia và chưng cất. Ngoài ra còn được sử dụng để sản xuất xi-
rô có hàm lượng maltose cao.
Đặc tính:
- Mầm lúa mạch có α-amylase và β-amylase.
- β-amylase bền với acid nhưng chịu nhiệt kém hơn α-amylase.
- β-amylase ở nhiệt độ 70°C bị bất hoạt (nhiệt độ hoạt động tối thích 55°C, pH 5,1-5,5).
- β-amylase không bền khi có Ca2+, β-amylase bị kìm hãm bởi Cu2+, Hg2+, urea,
iodoacetamide, iodin, ozon...
- β-amylase là một albumin, tâm xúc tác có chứa nhóm -SH, nhóm -COOH và vòng
imidazol của các gốc histidine và là enzym ngoại bào (exoenzym).
9
Cơ chế:
Hình 1.4 Cơ chế tác động của α-amylase lên tinh bột
β-amylase là một exoamylase (enzyme ngoại bào). Các nhánh ngoài cùng của cơ chất tiến
trình phân giải bắt đầu từ đầu không khử. β-amylase phân cắt các liên kết α-1,4 glucoside
nhưng khi gặp liên kết α-1,4 glucoside đứng kế cận liên kết (α-1,6 glucoside thì nó sẽ
ngừng tác dụng. Phần polysaccharide còn lại được gọi là β-dextrin là dextrin phân tử lớn
có chứa rất nhiều liên kết α-1,6 glucoside.
Tinh bột sẽ bị thủy phân đến 95% trong trường hợp cả α và β-amylase đều được thuỷ
phân đồng thời.
- β-amylase phân huỷ rất mạnh hồ tinh bột và ngược lại không thủy phân các hạt tinh bột
nguyên vẹn.
10
γ-amylase phân cắt các liên kết glycosidic α (1-6), ngoài ra còn phân cắt các liên kết
glycosidic tận cùng α (1-4) ở các đầu không nhân tạo của amylose và amylopectin, không
giống như các dạng amylase khác, nó tạo ra glucose.
γ-amylase hoạt động mạnh nhất trong môi trường axit và có độ pH tối ưu là 3. Tên gọi
khác: α-1,4:1,6-glucan-4:6-glucohydrolase; glucoamylase; amyloglucosidase; taka-
amylase B; γ -amylase; maltulase,... glucoamylase là enzym ngoại bào. Glucoamylase có
khả năng thủy phân liên kết α-1,4 lẫn α-1,6 glucoside, ngoài ra cũng có thể thủy phân các
liên kết α-1,2 và α-1,3 glucoside.
Khi thủy phân liên kết α-1,4-glucan trong chuỗi polysaccharide, sẽ lần lượt tách từng
phân tử glucose ra khỏi đầu không khử của mạch để tạo ra glucose. Ở nhiệt độ 50°C và
pH 3,5-5,5 glucoamylase có hoạt lực cao nhất, kém bền trong rượu acetone và không
được bảo vệ bởi Ca2+ nhưng lại bền với acid hơn α-amylase.
Tinh bột, panose, glucogen, dextrin, isomaltose, maltose và amylopectin hoàn toàn bị
thuỷ phân bởi glucoamylase thành glucose mà không cần có sự góp mặt của khác enzyme
khác. Glucoamylase thủy giải các polysaccharide có phân tử lớn nhanh hơn so với các
chất có phân tử nhỏ. Các polysaccharide có nhánh như amylopectin, glucogen, β-dextrin
bị gluoamylase thủy phân khá nhanh.
Trong isomaltose, panose và các dextrin tới hạn, oligo-1,6-glucosidase sẽ thuỷ phân liên
kết a-1,6-glucoside thành đường có thể lên men được.
Hoạt động dextrinase mạnh nhất ở điều kiện tốt thích là 40°C và độ pH tối ưu là 5,1
Hệ dextrinase trong hạt ngũ cốc nảy mầm hoặc đại mạch, thóc nảy mầm có amylopectin -
1,6-glucosidase hay R-enzyme và dextrin-1,6-glucosidase hay amylo-1,6glucosidase hay
dextrin-6-glucanhydrolase. Trong quá trình thuỷ phân thì dịch thuỷ phân có nhiều
maltose vì các enzyme này thủy phân dextrin triệt để hơn so với α và β-amylase.
12
2. PHƯƠNG PHÁP THU NHẬN
2.1 Sơ đồ quy trình
14
+ Trong sản xuất rượu ở Việt Nam, người ta dùng canh trường bề mặt nấm mốc
Aspergillus oryzae, Aspergillus usamii, Aspergillus awamori để đường hóa. Chế phẩm
enzyme amylase từ vi khuẩn Bacillus subtilis chịu nhiệt cao, dùng trong giai đoạn dịch
hóa tinh bột lúc đầ. Ở nhiệt độ 80 – 90 độ C trong 10 – 15 phút thì a-amylase của vi
khuẩn bị vô hoạt một phần rất nhỏ
+ Trong sản xuất bia thường dùng Aspergillus oryzae và Bacillus subtilis để đường hóa
thay malt, nguyên liệu khá đắt tiền. Dùng chế phẩm enzyme này người ta có thể thay thế
một lượng malt bằng đại mạch không nảy mầm. Khi dùng chế phẩm enzyme vi sinh vật
thay malt cần bổ sung nguồn nguyên liệu có bột như bắp, sắn, gạo,… Việc sử dụng
amylase có trong các hạt nảy mầm thay thế malt đã góp phần đáng kể trong việc giảm giá
thành mà chất lượng bia vẫn được đảm bảo.
3.3 Enzyme amylase trong sản xuất bánh mì
Trong sản xuất bánh mì, người ta có thể sử dụng chế phẩm enzyme amylase của nấm mốc
Aspergillus oryzae, Aspergillus awamori hay của vi khuẩn, nhưng chế phẩm từ nấm mốc
được áp dụng nhiều hơn vì nó có hiệu quả hơn.
Sử dụng với lượng 0,002 – 0,05% chế phẩm enzyme amylase so với bột nhão sẽ làm tăng
cường quá trình lên men bột, làm rút ngắn thời gian lên men, làm tăng độ xốp, tăng thể
tích bánh lên men đáng kể, màu sắc vỏ bánh đẹp hơn, bắt mắt hơn, ruột bánh xốp và sáng
màu hơn, tăng giá trị cảm quan cho sản phẩm được ứng dụng. Bánh mì ngọt nếu được bổ
sung enzyme amylase thì sẽ xảy ra quá trình thủy phân bột thành đường, do đó góp phần
làm giảm lượng đường tiêu hao trong quá trình sản xuất.
3.4 Enzyme amylase trong một số ngành công nghiệp khác
Enzyme amylase được phát hiện đã góp phần quan trọng cho nhiều ngành công nghiệp
chế biến thực phẩm.
- Trong công nghiệp dệt, chế phẩm enzyme amylase của vi khuẩn Bacillus subtilis có tính
chịu nhiệt cao, dùng trong rũ hồ vải, tạo điều kiện tốt hơn dễ dàng hơn cho quá trình tẩy,
nhuộm vải sau này.
- Chế phẩm enzyme amylase được sử dụng riêng rẽ hoặc sử dụng kết hợp với các
enzymw khác để sản xuất các loại thức ăn dễ tiêu hóa, hấp thu trong chăn nuôi, tăng
trọng, giảm khả năng bệnh tật cho vật nuôi.
- enzyme amylase và một số enzyme khác được cho chữa bệnh thiếu enzyme, khả năng
chuyển hóa kém, bệnh tiêu hóa, tim,… Ngoài ra còn dùng để điều chế môi trường nuôi vi
sinh vật phục vụ nghiên cứu.
- Trong sản xuất bánh kẹo, maltose là sản phẩm thủy phân tinh bột bằng amylase và
glucose bằng glucoamylase. Chính glucoamylase là yếu tố làm tăng hiệu suất alpha
amylase.
- Enzyme amylase có thể tìm thấy ở nhiều nguồn khác nhau như amylase từ thực vật
động vật, mầm thóc, mầm đại mạch (malt), hạt bắm nảy mầm hay từ nấm mốc,… nguyên
liệu cho sản xuất là gạo, bắp, khoai mì… đây là những nguyên liệu dễ tìm, rẻ có thể dễ
15
dàng tìm thấy ở Việt Nam. Do đó, đây là một lợi thế và là hướng phát triển mạnh làm cơ
sở cho nhiều ngành khác phát triển.
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Đức Lượng, Cao Cường, Nguyễn Ánh Tuyết, Lê Thị Thủy Tiên, Tạ Thu
Hằng, Huỳnh Ngọc Oanh, Nguyễn Thúy Hương và Phan Thị Huyền. Công nghệ enzyme,
(2004). NXB Đại học Quốc gia Thành phố Cần Thơ. Hồ Chí Minh.
[2]. Ứng dụng của enzyme amylase trong công nghiệp. Đại học Công nghiệp Thực phẩm
Thành phố Hồ Chí Minh.
[3]. H. Taniguchi, Y. Honnda, in Encyclopedia of Microbiology (Third Edition), (2009)
P. Williams, in Encyclopedia of Analytical Science (Second Edition), 200
[4]. Ajita Sundarram, and Thirupathihalli Pandurangappa Krishna Murthy, “α-Amylase
Production and Applications: A Review.” Journal of Applied & Environmental
Microbiology, vol. 2, no. 4 (2014): 166-175
[5]. Ritu Saini, Harnek Singh Saini and Anjali Dahiya, “Amylase: Characteristics and
industrial applications” Journal of Pharmacognosy and Phytochemistry, 2017;6(4): 1865-
1871.
17