Khủng hoảng tài chính 1997

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 9

Khủng hoảng tài chính châu Á 

là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 ở Thái


Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài
sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi như là "những con Hổ Đông Á".
Cuộc khủng hoảng này còn thường được gọi là Khủng hoảng tiền tệ châu Á.
Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc khủng hoảng
này. Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị ảnh hưởng trầm trọng bởi sự sụt giá bất thình
lình. Còn Đại lục Trung Hoa, Đài Loan, Singapore và Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nhưng không
quá lớn. Nhật Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều bởi sự khủng hoảng, song nền kinh tế Nhật phải
vượt qua những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân mình.
Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì nó bắt nguồn từ Đông Á, nhưng ảnh hưởng
của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng hoảng tài chính trên toàn cầu, với những tác
động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga, Brasil và Hoa Kỳ.

Nguyên nhân[sửa | sửa mã nguồn]


Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém[sửa | sửa mã nguồn]
Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà kinh tế gọi là Bộ ba
chính sách không thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị đồng tiền của mình vào Dollar Mỹ, vừa cho
phép tự do lưu chuyển vốn (tự do hóa tài khoản vốn). Kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng nhanh trong
thập niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo ra sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định,
các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung
tiền tăng gây ra sức ép lạm phát. Chính sách vô hiệu hóa (sterilization policy) đã được áp dụng để
chống lạm phát vô hình chung đẩy mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế.
Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt ngoại trừ việc
đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ trong thời kỳ từ sau năm 1987. Điều này
làm cho tài khoản vãng lai của Hàn Quốc suy yếu vì giá hàng xuất khẩu của Hàn Quốc trên thị
trường hàng hóa quốc tế tăng. Trong hoàn cảnh đó, Hàn Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá hối
đoái neo lỏng lẻo và chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Vì thế, thâm hụt tài khoản vãng lai được
bù đắp lại bằng việc các ngân hàng của nước này đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn
hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro.[1]
Năm 1994, nhà kinh tế Paul Krugman của trường đại học Princeton, (lúc đó còn ở MIT), cho đăng
bài báo tấn công ý tưởng về "thần kỳ kinh tế Đông Á".[2] Ông ta cho rằng: Sự tăng trưởng kinh tế của
Đông Á, trong quá khứ, là do kết quả của đầu tư theo hình thức tư bản, dẫn tới sự tăng năng suất
lao động. Trong khi đó, năng suất tổng nhân tố lại chỉ được nâng lên ở một mức độ rất nhỏ, hoặc
hầu như giữ nguyên. Krugman cho rằng việc chỉ tăng trưởng năng suất tổng nhân tố không thôi, mà
không cần đầu tư vốn, đã có thể mang lại sự thịnh vượng dài hạn. Krugman có thể được nhiều
người coi như một nhà tiên tri sau khi khủng hoảng tài chính lan rộng, tuy nhiên chính ông ta cũng
đã từng phát biểu rằng ông ta không dự đoán cơn khủng hoảng hoặc nhìn trước được chiều sâu
của nó.

Các dòng vốn nước ngoài kéo vào[sửa | sửa mã nguồn]


Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản cuối thập niên
1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nền cao quá mức. Các nhà đầu tư ở các trung tâm
tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay đổi danh mục tài sản của mình bằng cách chuyển vốn đầu
tư ra nước ngoài. Trong khi đó, các nước châu Á lại thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn.
Lãi suất ở các nước châu Á cao hơn ở các nước phát triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế đã ồ
ạt chảy vào các nước châu Á.[3]
Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của chính phủ cho các thể
chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á bất chấp mạo hiểm để đi vay ngân hàng
trong khi các ngân hàng bắt chấp mạo hiểm để đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn
và nợ không tự bảo hiểm rủi ro. (Hiện tượng thông tin phi đối xứng dẫn tới lựa chọn nghịch và rủi ro
đạo đức.)

Tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt[sửa | sửa mã nguồn]


Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là những cuộc tấn công đầu cơ
và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á.
Những nguyên nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc lộ. Thị trường bất động sản của Thái Lan đã vỡ.
Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người ta không còn tin rằng chính phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ
giá hối đoái cố định. Khi phát hiện thấy những điểm yếu chết người trong nền kinh tế của các nước
châu Á, một số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á.[4] Các nhà đầu tư nước
ngoài đồng loạt rút vốn ra.[5]
Một nguyên nhân trực tiếp nữa của khủng hoảng là năng lục xử lý khủng hoảng yếu kém. Nhiều nhà
kinh tế cho rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, đáng lẽ các nước châu Á phải lập tức thả nổi đồng tiền
của mình chứ không nên cố sức bảo vệ tỷ giá để đến nối cạn kiệt cả dự trữ ngoại hối nhà nước mà
lại càng làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài.
Ngoại trưởng 9 nước ASEAN (khi đó chưa có Campuchia) lúc đó tin rằng, việc liên kết các hệ thống
tiền tệ chặt chẽ là một nỗ lực thận trọng nhằm củng cố vững chắc các nền kinh tế ASEAN. Hội nghị
Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 30 diễn ra tại Subang Jaya, Malaysia đã thông quan một Tuyên bố
chung vào ngày 25 tháng 7 năm 1997 nêu rõ mối quan ngại sâu sắc và kêu goi các nước ASEAN
cần hợp tác chặt chẽ hơn nhằm bảo vệ và tăng cường lợi ích của ASEAN trong giai đoạn này.
[6]
 Ngẫu nhiên là trong cùng ngày này, các Ngân hàng Trung ương của hầu hết các nước chịu tác
động của khủng hoảng đã gặp nhau tại Thượng Hải trong Hội nghị cấp cao Đông Á Thái Bình
dương EMEAP, và thất bại trong việc đưa ra một biện pháp Dàn xếp cho vay mới. Trước đó một
năm, Bộ trưởng Tài chính của các nước này cũng đã tham dự Hội nghị Bộ trưởng Tài
chính APEC lần thứ 3 tại Kyoto, Nhật Bản vào ngày 17 tháng 3 năm 1996, và theo như Tuyên bố
chung, các bên đã không thể nhân đôi được Quỹ tài chính phục vụ cho Hiệp định chung về cho
vay và Cơ chế Tài chính trong tình trạng khẩn cấp. Vì vậy, cuộc khủng hoảng có thể xem như một
thất bại trong việc xây dựng năng lực phù hợp kịp thời, thất bại trong việc ngăn chặn sự lôi kéo tiền
tệ.
Một số nhà kinh tế lại chỉ trích chính sách tài chính thắt chặt của IMF được áp dụng ở các nước xảy
ra khủng hoảng càng làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng.[7] ..

Diễn biến[sửa | sửa mã nguồn]


Thái Lan[sửa | sửa mã nguồn]
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm là 9%.
Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng
trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được lâu. Cuối năm 1996, thị trường chứng
khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường
chứng khoán đều giảm đi.
Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn.
Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không phá giá baht, song
rốt cục lại thả nổi baht vào ngày 2 tháng 7. Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm
1998, nó đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái
Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị
trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất
của Thái Lan bị phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ
dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar.

Philippines[sửa | sửa mã nguồn]
Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương Philippines đã cố
gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn (lãi
suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một
dollar xuống còn 38 vào năm 2000 và còn 40 vào cuối khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan tới các vụ bê bối của
tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001, Chỉ số Tổng hợp PSE của thị
trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm
hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso thêm mất giá.
Giá trị của đồng peso chỉ được phục hồi từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên làm tổng thống.

Hồng Kông[sửa | sửa mã nguồn]


Tháng 10 năm 1997, Dollar Hồng Kông bị tấn công đầu cơ. Đồng tiền này vốn được neo vào Dollar
Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hồng Kông lại cao hơn ở Mỹ. Đây là cơ sở
để cho giới đầu cơ tấn công. Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu lên tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó
tương đương 700% lượng cung tiền M1 hay 45% lượng cung tiền M3, nên Cơ quan Tiền tệ Hồng
Kông đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của mình. Các thị trường chứng khoán ngày
càng trở nên dễ đổ vỡ. Từ ngày 20 tháng 10 đến 23 tháng 10, Chỉ số Hang Seng đã giảm 23%.
Ngày 15 tháng 8 năm 1998, Hồng Kông nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành 23% và
ngay lập tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hồng Kông bắt đầu mua vào các loại
cổ phiếu thành phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu. Cơ quan này và
ông Donald Tsang, lúc đó là Bộ trưởng Tài chính và sau này làm Trưởng Đặc khu hành chính Hồng
Kông, đã công khai tuyên chiến với giới đầu cơ. Chính quyền đã mua vào khoảng 120 tỷ Dollar
Hồng Kông (tương đương 15 tỷ Dollar Mỹ) các loại chứng khoán. Sau này, vào năm 2001, chính
quyền đã bán ra số chứng khoán này và thu lời khoảng 30 tỷ Dollar Hồng Kông (khoảng 4 tỷ Dollar
Mỹ).
Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hồng Kông và thị trường chứng khoán của nước này đã
ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ bị thiệt hại bởi chính sách điều tiết
dòng vốn nước ngoài của chính phủ Malaysia và bởi sự sụp đổ của thị trường trái phiếu và tiền tệ ở
Nga.
Tỷ giá neo giữa Dollar Hồng Kông và Dollar Mỹ vẫn được bảo toàn ở mức 7,8: 1.

Hàn Quốc[sửa | sửa mã nguồn]


Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ nước ngoài
khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong nước lại nợ ngân hàng nước
ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị trường châu Á bị khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư
bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn. Ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức
đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng
12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá.
Riêng trong ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7,2%
do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách khắc khổ.
Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000 KRW/USD.

Malaysia[sửa | sửa mã nguồn]
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng Ringgit của Malaysia và
thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh. Ringgit đã giảm từ mức
3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ
việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Những người tham gia thị trường
tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử
giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống
khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý
hai và quý ba năm 1997.[8]

Indonesia[sửa | sửa mã nguồn]
Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã nới rộng biên
độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng 8, đồng Rupiah bị
giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng
chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính
khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra
ồ ạt và lượng cầu Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường
chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử.
Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc biệt là làm cho món
nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh
mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF khiến chính phủ
phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng lên. Tình trạng bạo động để
tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500 người bị chết do bạo
động. Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm
1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống.
Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000: 1. Nhưng trong thời kỳ
khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000: 1.
Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của Indonesia đã giảm đi.

Hậu quả[sửa | sửa mã nguồn]


Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất giá tiền tệ, sụp đổ thị
trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản, dẫn
đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo trong các năm 1997-1998. Những nước bị
ảnh hưởng nặng nề nhất là Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan.
Khủng hoảng kinh tế còn dẫn tới mất ổn định chính trị với sự ra đi của Suharto ở Indonesia
và Chavalit Yongchaiyudh ở Thái Lan. Tâm lý chống phương Tây gia tăng cùng với sự phê phán
gay gắt nhằm vào George Soros và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Các phong trào Hồi giáo và ly khai phát
triển mạnh ở Indonesia khi chính quyền trung ương của nước này suy yếu.
Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng, đó là GDP và GNP bình quân đầu người tính bằng Dollar
Mỹ theo sức mua tương đương giảm đi. Nội tệ mất giá là nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng này.
Cuốn CIA World Fact Book cho biết thu nhập bình quân đầu người của Thái Lan đã giảm từ mức
8.800 USD năm 1997 xuống còn 8.300 USD vào năm 2005, của Indonesia giảm từ 4.600 USD
xuống 3.700 USD, của Malaysia giảm từ 11.100 USD xuống 10.400 USD.
Cuộc khủng hoảng không chỉ lây lan ở khu vực Đông Á mà nó góp phần dẫn tới khủng hoảng tài
chính Nga và khủng hoảng tài chính Brasil. Một số nước không bị khủng hoảng, nhưng kinh tế cũng
chịu ảnh hưởng xấu do xuất khẩu giảm và do FDI vào giảm.

Ý nghĩa[sửa | sửa mã nguồn]
Khủng hoảng tài chính Đông Á làm người ta nhận thức rõ hơn sự cần thiết phải có một hệ thống tài
chính - ngân hàng vững mạnh, minh bạch. Điều này thôi thúc Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng
Thanh toán Quốc tế đổi mới các quy chế về ngân hàng và các tổ chức tín dụng nói chung.
Chính phủ nhiều nước đang phát triển cho rằng các dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài và
vốn vay ngân hàng nước ngoài có thể đem lại những tác động bất lợi với nền kinh tế của họ. Do đó,
nhiều chính phủ đã ban hành những quy chế nhằm điều tiết các dòng vốn này.[9]
Bên cạnh đó, những thỏa thuận ở cấp khu vực nhằm phát triển một hệ thống phòng ngừa khủng
hoảng tái diễn đã được thúc đẩy ở châu Á, ví dụ như Sáng kiến Chiang Mai, Tiến trình Đánh giá và
Đối thoại Kinh tế ASEAN+3, Sáng kiến Thị trường Trái phiếu châu Á,...
Về mặt học thuật, các nhà nghiên cứu kinh tế đã nhận thấy sự hạn chế của các mô hình lý luận về
khủng hoảng tiền tệ trước đây trong việc giải thích nguồn gốc và sự lây lan của khủng hoảng tài
chính Đông Á. Đã có nhiều nỗ lực nhằm đưa ra một mô hình mới về khủng hoảng tiền tệ, chẳng hạn
như mô hình phương pháp tiếp cận bảng cân đối tài sản, lý thuyết bong bóng, lý thuyết về nguồn
gốc khủng hoảng từ chính sách tài chính và chính sách tiền tệ [1][2],...

Các biện pháp khôi phục kinh tế sau khủng hoảng[sửa | sửa


mã nguồn]
Để khôi phục nền kinh tế và ngăn ngừa khủng hoảng tái diễn, các nền kinh tế Đông Á bị ảnh hưởng
nặng đều tiến hành các cải cách cơ cấu mạnh mẽ, gồm: cải tổ cách thức quản lý trong khu vực
doanh nghiệp, cải cách tài chính, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, đổi mới phương pháp quản lý kinh tế
vĩ mô, và đổi mới cả phương thức tăng trưởng kinh tế.

Đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô[sửa | sửa mã nguồn]


Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã và đang thực thi một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt và cơ chế
ổn định giá cả. Cụ thể, các nước từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái neo và hướng tới chế độ mục tiêu lạm
phát. Đồng thời, các nước nỗ lực gia tăng lượng dữ trự ngoại hối nhà nước của mình. Từ 1997 đến
2005, năm nước bị ảnh hưởng nặng nhất của khủng hoảng đã tăng lượng dự trữ ngoại hối của
mình lên bốn lần, đạt 378 tỷ USD.

Cải cách khu vực tài chính[sửa | sửa mã nguồn]


Các nước Đông Á đã thực thi các biện pháp, chính sách sau để cải cách khu vực tài chính: (1) Xóa
và giảm nợ xấu, tái vốn hóa các thể chế tài chính; (2) Đóng cửa các thể chế tài chính đổ vỡ, (3)
Tăng cường giám sát và áp dụng các tiêu chuẩn quản trị, kế toán mới đối với các tổ chức tín dụng
và tài chính khác; (4) Đẩy mạnh chuyên môn hóa các thể chế tài chính; (5) Tăng cường giám sát và
điều tiết các tổ chức tín dụng đồng thời với nâng cao kỷ luật thị trường. Yellen (2007) cho thấy các
ngân hàng của Hàn Quốc đã áp dụng phương thức quản trị hiện đại của phương Tây và đã giảm
được tỷ lệ sở hữu gia đình tại các ngân hàng, tăng cường lợi ích cho các giám đốc bằng cách cho
họ quyền chọn mua cổ phiếu, v.v... Còn các ngân hàng Malaysia đã thay đổi tập quán cho vay của
mình. Giờ đây, họ cho các xí nghiệp nhỏ và vừa vay nhiều hơn.

Cải tổ cách thức quản lý của khu vực xí nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]


Các nước Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã hoàn thiện các thủ tục về phá sản, nỗ lực tái cơ cấu
nợ của các xí nghiệp, củng cố các quy định và tiêu chuẩn về cáo bạch, bảo vệ quyền lợi của các cổ
đông nhỏ cũng như nâng cao quyền lực và trách nhiệm của ban giám đốc, áp dụng các tiêu chuẩn
kế toán và kiểm toán theo thông lệ quốc tế, tăng cường mức vốn tự có của doanh nghiệp và tạo
thuận lợi cho các hoạt động mua lại và sáp nhập kể cả với doanh nghiệp trong nước cũng như với
doanh nghiệp nước ngoài.

Cải cách các thị trường[sửa | sửa mã nguồn]


Các nước Đông Á đã và đang phát triển thị trường trái phiếu định danh bằng nội tệ của mình. Đồng
thời, cải cách thị trường lao động đã cho phép các xí nghiệp tuyển dụng và sa thải lao động dễ dàng
hơn, giúp xí nghiệp của các nước Đông Á trở nên linh hoạt hơn.
Bài học

Bài học thứ nhất: Phải có công cụ điều tiết luồng vốn.
 
Không phải tình cờ khi hai nước châu Á ít bị ảnh hưởng nhất của cuộc
khủng hoảng tài chính, Trung Quốc và Ấn Độ, cũng chính là những nước
không tự do hóa thị trường vốn. Và trong số những nước đã tự do hóa thị
trường vốn, cũng không phải ngẫu nhiên mà nước khống chế tốt nhất
những tác động của cuộc khủng hoảng, Singapore, chính là nước có hệ
thống luật pháp tốt nhất.
 
Do thiếu các biện pháp kiểm soát, nhiều nền kinh tế châu Á đã rơi vào
tình trạng quá phụ thuộc vào nguồn tài chính rất dễ biến động từ bên
ngoài - đó là các khoản vay ngắn hạn. Cuối năm 1996, các nước Đông Á đã
nợ các ngân hàng châu Âu 318 tỷ USD, ngân hàng Nhật Bản 260 tỷ USD và
ngân hàng Mỹ 46 tỷ USD, đa số là dưới hình thức vay ngắn hạn - dưới 1
năm.
 
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho biết trong 3 năm trước thời điểm 1997, các
khoản nợ ngắn hạn của Thái Lan chiếm tới 7-10% GDP, trong khi tổng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chỉ chiếm 1% GDP.
 
Khi xảy ra khủng hoảng, các nguồn vốn ngắn hạn này biến mất cũng
nhanh như khi xuất hiện, vì không hề có các công cụ điều tiết.
 
Bài học thứ hai: Cần xây dựng hành lang pháp lý phù hợp.
 
Cũng giống như việc nối các thị trấn nhỏ với đường cao tốc mà trước đó
không trang bị cho chúng hệ thống đường xá và cảnh sát giao thông phù
hợp để giám sát việc tuân thủ luật lệ, sẽ thật liều lĩnh khi mở cửa nền kinh
tế của các nước đang phát triển với thị trường vốn quốc tế mà chưa xây
dựng hệ thống luật pháp phù hợp và đào tạo được đội ngũ cán bộ liêm
khiết.
 
Hệ thố ng ngân hàng vớ i sự giám sát lỏ ng lẻo vào nhữ ng nă m trướ c thờ i
điểm 1997 đã dẫ n đến sự phát triển quá mứ c củ a thị trườ ng tín dụ ng ở
nhiều nướ c châu Á, như Indonesia, Malaysia, Philippines, Hàn Quố c và
Thái Lan, kéo theo việc đầ u tư dư thừ a vào mộ t số ngành kinh tế.
 
Việc dư thừ a nguồ n tín dụ ng còn dẫ n đến tình trạ ng lãng phí, vớ i cuộ c
chạ y đua sở hữ u tòa nhà cao nhấ t thế giớ i ở các nướ c châu Á là mộ t ví dụ .
Tệ hơn, việc “thừ a tiền” còn châm ngòi cho sự phát triển bong bóng củ a
thị trườ ng bấ t độ ng sả n, từ đó lạ i quay lạ i tình trạ ng dư thừ a tín dụ ng, vì
các ngân hàng cho vay nhiều hơn giá trị thự c củ a tài sả n thế chấ p. Kết
quả là khi “bong bóng” vỡ , các ngân hàng phả i hứ ng chịu hậ u quả .
 
Hệ thố ng ngân hàng vớ i sự giám sát lỏ ng lẻo còn cho phép các ngân hàng
có tỷ lệ vố n lưu độ ng không phù hợ p. Theo số liệu nă m 1997 củ a Ngân
hàng Thanh toán Quố c tế (BIS), ở Philippines (17%), Hồ ng Kông (18%) và
Singapore (19%), tỷ lệ này cao hơn nhiều so vớ i tiêu chuẩ n tố i thiểu quố c
tế.
 
Bài học thứ ba: Nguy cơ dư thừa vốn.
 
Chính phủ củ a các nền kinh tế mớ i nổ i không thể làm gì nhiều để ngă n
“lũ ” vì nguồ n cơn củ a sự mấ t cân bằ ng trên thị trườ ng tài chính quố c tế
không nằ m trong tầ m kiểm soát trự c tiếp củ a họ .
 
Cuộ c khủ ng hoả ng tài chính châu Á không phả i chỉ do sự “tắ c trách” củ a
ngườ i châu Á gây ra. Ngân khố củ a hầ u hết các nền kinh tế châu Á đều ở
mứ c cân bằ ng hoặ c thặ ng dư, và không hề có lạ m phát. Cuộ c khủ ng hoả ng
xả y ra phầ n nhiều là do nhữ ng thay đổ i về mô hình củ a hoạ t độ ng trung
gian tài chính quố c tế.
 
Thứ nhấ t, sự mở rộ ng đáng kể củ a khả nă ng thanh khoả n quố c tế vào thậ p
niên 90 đã làm gia tă ng sự cạ nh tranh trong ngành dịch vụ tài chính trên
toàn thế giớ i. Vì thế, các giám đố c tài chính buộ c phả i tìm kiếm nhữ ng
khoả n lợ i nhuậ n cao hơn, thông qua các dự án đầ u tư mạ o hiểm.
 
Thứ hai là chính sách kinh tế vĩ mô củ a các cườ ng quố c kinh tế đóng vai
trò quan trọ ng trong sự mở rộ ng củ a khả nă ng thanh khoả n quố c tế. Ví dụ
như ở Mỹ, việc thâm hụ t ngân sách giả m xuố ng trong khi khả nă ng sả n
suấ t tă ng lên đã dẫ n đến tố c độ lạ m phạ t giả m và do đó lãi suấ t giả m.
 
Không có gì đáng ngạ c nhiên khi luồ ng vố n đổ vào châu Á tă ng lên, vì lãi
suấ t ở châu Á cao hơn, còn các nướ c châu Á nhậ n thấ y việc vay mượ n
quy đổ i bằ ng đồ ng đôla Mỹ hoặ c yên Nhậ t  có lợ i hơn là bằ ng đồ ng nộ i tệ.
 
Tuy nhiên, tình trạ ng mấ t cân đố i này không thể kéo dài. Việc tă ng nguồ n
vố n đã gia tă ng sứ c ép đố i vớ i việc tă ng tỷ giá hố i đoái, từ đó làm trầ m
trọ ng thêm tình hình thâm hụ t thương mạ i. Và khi thị trườ ng tạ o sứ c ép
giả m giá đồ ng tiền, tình hình càng trở nên xấ u đi do sự rút vố n độ t ngộ t
củ a các nhà đầ u tư nướ c ngoài. Thị trườ ng tài chính châu Á chao đả o.
 
Liệu điều tương tự có thể xả y ra lầ n nữ a? Câu trả lờ i là hoàn toàn có thể.
 
Trong suố t thờ i gian diễn ra khủ ng hoả ng, đã có khá nhiều thả o luậ n về
việc hình thành mộ t “kiến trúc tài chính toàn cầ u”. Tuy nhiên từ đó đến
nay, cái “kiến trúc” đó hầ u như không có gì thay đổ i. Vẫ n chưa có đượ c
nhữ ng công cụ điều tiết luồ ng vố n mộ t cách hiệu quả .
 
 
Về hành lang pháp lý, đã có nhiều cả i tiến kể từ nă m 1997. Giờ đây nhiều
ngân hàng củ a châu Á hoạ t độ ng bền vữ ng hơn, vớ i tỷ lệ vố n lưu độ ng
tă ng lên trong khi tỷ lệ nợ xấ u giả m xuố ng.
 
Tuy nhiên, trình độ quả n lý vẫ n chưa đượ c cả i thiện. Mộ t cuộ c điều tra
gầ n đây củ a Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho thấ y trên thự c tế,
chấ t lượ ng trình ở 4 trong 5 nướ c bị ả nh hưở ng nặ ng nhấ t củ a cuộ c khủ ng
hoả ng tài chính châu Á - Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan  -
thậ m chí còn có chiều hướ ng kém đi so vớ i nă m 1997, ở 6 thướ c đo: trách
nhiệm quả n lý, sự ổ n định chính trị, hiệu quả củ a chính phủ , chấ t lượ ng
củ a hệ thố ng luậ t pháp, sự tuân thủ pháp luậ t và tình hình kiểm soát
tham nhũ ng.
 
Hiện nay lạ i đang xả y ra tình trạ ng tính thanh khoả n quố c tế lên quá cao.
Tuy nhiên, lầ n này nguyên nhân lạ i khác - dự trữ củ a các nướ c châu Á đã
tă ng từ mứ c 250 tỷ USD củ a nă m 1997 lên 2,5 nghìn tỷ USD trong nă m
nay, chủ yếu nhờ Trung Quố c.
 
Luồ ng vố n chả y vào các thị trườ ng châu Á mớ i nổ i trung bình chiếm 6-
7% GDP, cùng mứ c vớ i thờ i điểm trướ c cuộ c khủ ng hoả ng tài chính nă m
1997-98. Tuy nhiên, không như hồ i thậ p kỷ 90, hiện nay luồ ng vố n phầ n
lớ n là đầ u tư trự c tiếp và gián tiếp nướ c ngoài (FDI và FPI) chứ không
phả i là đầ u tư ngắ n hạ n.
 
Dù vậ y, giớ i lãnh đạ o tài chính châu Á đã chỉ ra rằ ng tỷ lệ lãi suấ t thấ p
trong suố t mộ t thờ i gian dài đã dẫ n đến sự phát triển bong bóng củ a thị
trườ ng chứ ng khoán, bấ t độ ng sả n, thị trườ ng hàng hóa và hoạ t độ ng đầ u
tư tư nhân. Và như Thủ tướ ng Singapore Lý Hiển Long đã cả nh báo, nếu
tình trạ ng mấ t cân đố i trên thị trườ ng tài chính quố c tế không đượ c giả i
quyết mộ t cách nhịp nhàng thì nền kinh tế toàn cầ u sẽ bị ả nh hưở ng.
 
Nói như nhà soạn kịch Eugene O'Neill, không có hiện tại hay tương lai,
mà chỉ có quá khứ cứ lặp đi lặp lại. Cách nói này có thể hơi cường điệu. Có
lẽ sẽ chính xác hơn khi nói rằng lịch sử luôn lặp lại, nhưng có một chút
thay đối. Nếu khôn ngoan và thận trọng, chính phủ các nước sẽ cố gắng
tìm ra sự khác biệt đó để có các biện pháp đề phòng.

You might also like