Professional Documents
Culture Documents
Khủng hoảng tài chính 1997
Khủng hoảng tài chính 1997
Khủng hoảng tài chính 1997
Philippines[sửa | sửa mã nguồn]
Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương Philippines đã cố
gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn (lãi
suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một
dollar xuống còn 38 vào năm 2000 và còn 40 vào cuối khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan tới các vụ bê bối của
tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001, Chỉ số Tổng hợp PSE của thị
trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm
hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso thêm mất giá.
Giá trị của đồng peso chỉ được phục hồi từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên làm tổng thống.
Malaysia[sửa | sửa mã nguồn]
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng Ringgit của Malaysia và
thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh. Ringgit đã giảm từ mức
3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ
việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Những người tham gia thị trường
tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử
giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống
khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý
hai và quý ba năm 1997.[8]
Indonesia[sửa | sửa mã nguồn]
Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã nới rộng biên
độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng 8, đồng Rupiah bị
giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng
chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính
khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra
ồ ạt và lượng cầu Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường
chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử.
Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc biệt là làm cho món
nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh
mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF khiến chính phủ
phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng lên. Tình trạng bạo động để
tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500 người bị chết do bạo
động. Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm
1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống.
Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000: 1. Nhưng trong thời kỳ
khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000: 1.
Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của Indonesia đã giảm đi.
Ý nghĩa[sửa | sửa mã nguồn]
Khủng hoảng tài chính Đông Á làm người ta nhận thức rõ hơn sự cần thiết phải có một hệ thống tài
chính - ngân hàng vững mạnh, minh bạch. Điều này thôi thúc Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng
Thanh toán Quốc tế đổi mới các quy chế về ngân hàng và các tổ chức tín dụng nói chung.
Chính phủ nhiều nước đang phát triển cho rằng các dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài và
vốn vay ngân hàng nước ngoài có thể đem lại những tác động bất lợi với nền kinh tế của họ. Do đó,
nhiều chính phủ đã ban hành những quy chế nhằm điều tiết các dòng vốn này.[9]
Bên cạnh đó, những thỏa thuận ở cấp khu vực nhằm phát triển một hệ thống phòng ngừa khủng
hoảng tái diễn đã được thúc đẩy ở châu Á, ví dụ như Sáng kiến Chiang Mai, Tiến trình Đánh giá và
Đối thoại Kinh tế ASEAN+3, Sáng kiến Thị trường Trái phiếu châu Á,...
Về mặt học thuật, các nhà nghiên cứu kinh tế đã nhận thấy sự hạn chế của các mô hình lý luận về
khủng hoảng tiền tệ trước đây trong việc giải thích nguồn gốc và sự lây lan của khủng hoảng tài
chính Đông Á. Đã có nhiều nỗ lực nhằm đưa ra một mô hình mới về khủng hoảng tiền tệ, chẳng hạn
như mô hình phương pháp tiếp cận bảng cân đối tài sản, lý thuyết bong bóng, lý thuyết về nguồn
gốc khủng hoảng từ chính sách tài chính và chính sách tiền tệ [1][2],...
Bài học thứ nhất: Phải có công cụ điều tiết luồng vốn.
Không phải tình cờ khi hai nước châu Á ít bị ảnh hưởng nhất của cuộc
khủng hoảng tài chính, Trung Quốc và Ấn Độ, cũng chính là những nước
không tự do hóa thị trường vốn. Và trong số những nước đã tự do hóa thị
trường vốn, cũng không phải ngẫu nhiên mà nước khống chế tốt nhất
những tác động của cuộc khủng hoảng, Singapore, chính là nước có hệ
thống luật pháp tốt nhất.
Do thiếu các biện pháp kiểm soát, nhiều nền kinh tế châu Á đã rơi vào
tình trạng quá phụ thuộc vào nguồn tài chính rất dễ biến động từ bên
ngoài - đó là các khoản vay ngắn hạn. Cuối năm 1996, các nước Đông Á đã
nợ các ngân hàng châu Âu 318 tỷ USD, ngân hàng Nhật Bản 260 tỷ USD và
ngân hàng Mỹ 46 tỷ USD, đa số là dưới hình thức vay ngắn hạn - dưới 1
năm.
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho biết trong 3 năm trước thời điểm 1997, các
khoản nợ ngắn hạn của Thái Lan chiếm tới 7-10% GDP, trong khi tổng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chỉ chiếm 1% GDP.
Khi xảy ra khủng hoảng, các nguồn vốn ngắn hạn này biến mất cũng
nhanh như khi xuất hiện, vì không hề có các công cụ điều tiết.
Bài học thứ hai: Cần xây dựng hành lang pháp lý phù hợp.
Cũng giống như việc nối các thị trấn nhỏ với đường cao tốc mà trước đó
không trang bị cho chúng hệ thống đường xá và cảnh sát giao thông phù
hợp để giám sát việc tuân thủ luật lệ, sẽ thật liều lĩnh khi mở cửa nền kinh
tế của các nước đang phát triển với thị trường vốn quốc tế mà chưa xây
dựng hệ thống luật pháp phù hợp và đào tạo được đội ngũ cán bộ liêm
khiết.
Hệ thố ng ngân hàng vớ i sự giám sát lỏ ng lẻo vào nhữ ng nă m trướ c thờ i
điểm 1997 đã dẫ n đến sự phát triển quá mứ c củ a thị trườ ng tín dụ ng ở
nhiều nướ c châu Á, như Indonesia, Malaysia, Philippines, Hàn Quố c và
Thái Lan, kéo theo việc đầ u tư dư thừ a vào mộ t số ngành kinh tế.
Việc dư thừ a nguồ n tín dụ ng còn dẫ n đến tình trạ ng lãng phí, vớ i cuộ c
chạ y đua sở hữ u tòa nhà cao nhấ t thế giớ i ở các nướ c châu Á là mộ t ví dụ .
Tệ hơn, việc “thừ a tiền” còn châm ngòi cho sự phát triển bong bóng củ a
thị trườ ng bấ t độ ng sả n, từ đó lạ i quay lạ i tình trạ ng dư thừ a tín dụ ng, vì
các ngân hàng cho vay nhiều hơn giá trị thự c củ a tài sả n thế chấ p. Kết
quả là khi “bong bóng” vỡ , các ngân hàng phả i hứ ng chịu hậ u quả .
Hệ thố ng ngân hàng vớ i sự giám sát lỏ ng lẻo còn cho phép các ngân hàng
có tỷ lệ vố n lưu độ ng không phù hợ p. Theo số liệu nă m 1997 củ a Ngân
hàng Thanh toán Quố c tế (BIS), ở Philippines (17%), Hồ ng Kông (18%) và
Singapore (19%), tỷ lệ này cao hơn nhiều so vớ i tiêu chuẩ n tố i thiểu quố c
tế.
Bài học thứ ba: Nguy cơ dư thừa vốn.
Chính phủ củ a các nền kinh tế mớ i nổ i không thể làm gì nhiều để ngă n
“lũ ” vì nguồ n cơn củ a sự mấ t cân bằ ng trên thị trườ ng tài chính quố c tế
không nằ m trong tầ m kiểm soát trự c tiếp củ a họ .
Cuộ c khủ ng hoả ng tài chính châu Á không phả i chỉ do sự “tắ c trách” củ a
ngườ i châu Á gây ra. Ngân khố củ a hầ u hết các nền kinh tế châu Á đều ở
mứ c cân bằ ng hoặ c thặ ng dư, và không hề có lạ m phát. Cuộ c khủ ng hoả ng
xả y ra phầ n nhiều là do nhữ ng thay đổ i về mô hình củ a hoạ t độ ng trung
gian tài chính quố c tế.
Thứ nhấ t, sự mở rộ ng đáng kể củ a khả nă ng thanh khoả n quố c tế vào thậ p
niên 90 đã làm gia tă ng sự cạ nh tranh trong ngành dịch vụ tài chính trên
toàn thế giớ i. Vì thế, các giám đố c tài chính buộ c phả i tìm kiếm nhữ ng
khoả n lợ i nhuậ n cao hơn, thông qua các dự án đầ u tư mạ o hiểm.
Thứ hai là chính sách kinh tế vĩ mô củ a các cườ ng quố c kinh tế đóng vai
trò quan trọ ng trong sự mở rộ ng củ a khả nă ng thanh khoả n quố c tế. Ví dụ
như ở Mỹ, việc thâm hụ t ngân sách giả m xuố ng trong khi khả nă ng sả n
suấ t tă ng lên đã dẫ n đến tố c độ lạ m phạ t giả m và do đó lãi suấ t giả m.
Không có gì đáng ngạ c nhiên khi luồ ng vố n đổ vào châu Á tă ng lên, vì lãi
suấ t ở châu Á cao hơn, còn các nướ c châu Á nhậ n thấ y việc vay mượ n
quy đổ i bằ ng đồ ng đôla Mỹ hoặ c yên Nhậ t có lợ i hơn là bằ ng đồ ng nộ i tệ.
Tuy nhiên, tình trạ ng mấ t cân đố i này không thể kéo dài. Việc tă ng nguồ n
vố n đã gia tă ng sứ c ép đố i vớ i việc tă ng tỷ giá hố i đoái, từ đó làm trầ m
trọ ng thêm tình hình thâm hụ t thương mạ i. Và khi thị trườ ng tạ o sứ c ép
giả m giá đồ ng tiền, tình hình càng trở nên xấ u đi do sự rút vố n độ t ngộ t
củ a các nhà đầ u tư nướ c ngoài. Thị trườ ng tài chính châu Á chao đả o.
Liệu điều tương tự có thể xả y ra lầ n nữ a? Câu trả lờ i là hoàn toàn có thể.
Trong suố t thờ i gian diễn ra khủ ng hoả ng, đã có khá nhiều thả o luậ n về
việc hình thành mộ t “kiến trúc tài chính toàn cầ u”. Tuy nhiên từ đó đến
nay, cái “kiến trúc” đó hầ u như không có gì thay đổ i. Vẫ n chưa có đượ c
nhữ ng công cụ điều tiết luồ ng vố n mộ t cách hiệu quả .
Về hành lang pháp lý, đã có nhiều cả i tiến kể từ nă m 1997. Giờ đây nhiều
ngân hàng củ a châu Á hoạ t độ ng bền vữ ng hơn, vớ i tỷ lệ vố n lưu độ ng
tă ng lên trong khi tỷ lệ nợ xấ u giả m xuố ng.
Tuy nhiên, trình độ quả n lý vẫ n chưa đượ c cả i thiện. Mộ t cuộ c điều tra
gầ n đây củ a Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho thấ y trên thự c tế,
chấ t lượ ng trình ở 4 trong 5 nướ c bị ả nh hưở ng nặ ng nhấ t củ a cuộ c khủ ng
hoả ng tài chính châu Á - Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan -
thậ m chí còn có chiều hướ ng kém đi so vớ i nă m 1997, ở 6 thướ c đo: trách
nhiệm quả n lý, sự ổ n định chính trị, hiệu quả củ a chính phủ , chấ t lượ ng
củ a hệ thố ng luậ t pháp, sự tuân thủ pháp luậ t và tình hình kiểm soát
tham nhũ ng.
Hiện nay lạ i đang xả y ra tình trạ ng tính thanh khoả n quố c tế lên quá cao.
Tuy nhiên, lầ n này nguyên nhân lạ i khác - dự trữ củ a các nướ c châu Á đã
tă ng từ mứ c 250 tỷ USD củ a nă m 1997 lên 2,5 nghìn tỷ USD trong nă m
nay, chủ yếu nhờ Trung Quố c.
Luồ ng vố n chả y vào các thị trườ ng châu Á mớ i nổ i trung bình chiếm 6-
7% GDP, cùng mứ c vớ i thờ i điểm trướ c cuộ c khủ ng hoả ng tài chính nă m
1997-98. Tuy nhiên, không như hồ i thậ p kỷ 90, hiện nay luồ ng vố n phầ n
lớ n là đầ u tư trự c tiếp và gián tiếp nướ c ngoài (FDI và FPI) chứ không
phả i là đầ u tư ngắ n hạ n.
Dù vậ y, giớ i lãnh đạ o tài chính châu Á đã chỉ ra rằ ng tỷ lệ lãi suấ t thấ p
trong suố t mộ t thờ i gian dài đã dẫ n đến sự phát triển bong bóng củ a thị
trườ ng chứ ng khoán, bấ t độ ng sả n, thị trườ ng hàng hóa và hoạ t độ ng đầ u
tư tư nhân. Và như Thủ tướ ng Singapore Lý Hiển Long đã cả nh báo, nếu
tình trạ ng mấ t cân đố i trên thị trườ ng tài chính quố c tế không đượ c giả i
quyết mộ t cách nhịp nhàng thì nền kinh tế toàn cầ u sẽ bị ả nh hưở ng.
Nói như nhà soạn kịch Eugene O'Neill, không có hiện tại hay tương lai,
mà chỉ có quá khứ cứ lặp đi lặp lại. Cách nói này có thể hơi cường điệu. Có
lẽ sẽ chính xác hơn khi nói rằng lịch sử luôn lặp lại, nhưng có một chút
thay đối. Nếu khôn ngoan và thận trọng, chính phủ các nước sẽ cố gắng
tìm ra sự khác biệt đó để có các biện pháp đề phòng.