Báo Cáo Sơ B

You might also like

Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 43

CHỦ ĐỀ

MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC. VẬN DỤNG
MỐI QUAN HỆ NÀY TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Một trong những nội dung quan trọng nhất của chủ nghĩa duy vật biện chứng là vật
chất. Đây được xem là một vấn đề cơ bản của phương diện triết học từ xa xưa cho đến
nay.

Tìm hiểu về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, nghiên cứu sâu xa hơn về mối
quan hệ này sẽ giúp cho con người chúng ta trở nên tích cực hơn, phát huy cách nhận thức
của mọi vấn đề trong cuộc sống thường nhật qua nhiều mặt khác nhau bằng phương diện
khách quan hay chủ quan, giải quyết công việc một cách tối ưu nhất.

Để dẫn đường, tìm hướng cho đất nước Việt Nam ngày càng đi lên thì triết học
Mác – Lênin và quan điểm về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức đóng vai trò hết sức
quan trọng. Đây là chỗ dựa lí tưởng để soi đường cho cách mạng đất nước.

Dù là có gần 35 năm phát triển, đổi mới thì Việt Nam tuy có nhiều thành tưu nhưng
những thách thức lớn để tạo một bước nhảy đưa Việt Nam đi lên một cách rõ ràng còn
khá là hạn chế. Vì thế việc làm rõ cơ sở sở lý luận quán triệt, vận dụng mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức vẫn là vấn đề cần thiết, có giá trị lý luận và thực tiễn cao.

Qua những vấn đề trên, nhóm 7 đã tập hợp ý kiến và quyết định chọn chủ đề “Mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Vận dụng mối quan hệ này trong sự nghiệp
đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay” làm bài tập lớn cho môn Triết học
Mác – Lênin.

2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của tiểu luận

Đối tượng nghiên cứu: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.

Phạm vi nghiên cứu: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức và việc vận dụng mối
quan hệ này trong sự nghiệp đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của tiểu luận

Đúc kết qua kết quả của việc tìm hiểu, nghiên cứu, học hỏi các quan điểm của triết
học Mác – Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, bài tiểu luận đã tóm tắt lại và
đưa ra những bài học cần thiết đối với sự nghiệp đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay.

Qua những điều đó, tiểu luận có các nhiệm vụ sau:

Trình bày quan điểm của triết học Mác – Lênin về vật chất, ý thức ; mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức; ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ này.

Khái quát về các thành tựu đã đạt được cũng như các mặt hạn chế của sự nghiệp
đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày nay.

Đưa ra những bài học từ việc nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức đối
với sự nghiệp đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay và trau dồi thêm để
hoàn thiện hơn.

4. Phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức.

Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích; Phương pháp tổng hợp; Phương
pháp so sánh; Phương pháp thống kê…

5. Kết cấu của tiểu luận

Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận được kết
cấu thành 2 chương, 4 tiết.

Chương 1: Quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức

Chương 2: Vận dụng quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức trong sự nghiệp đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1

QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN


VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC

1.1. Khái niệm và cấu trúc của hình thái kinh tế - xã hội

1.1.1. Phạm trù vật chất

Từ cổ chí kim, con người chúng ta luôn là một giống loài mang trong mình sự tò mò
và khát vọng khám phá thế giới xung quang. Một trong những vấn đề được đặt ra lúc bấy
giờ là “Thế giới được sinh ra từ đâu?”. Và để trả lời cho câu hỏi này, các triết gia duy tâm
từ cổ đại đến hiện đại “tuy buộc phải thừa nhận sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng của
thế giới nhưng lại phủ nhận đặc trưng “tự thân tồn tại” của chúng” 1. Họ cho rằng có một
lực lượng tinh thần nào đó đã kiến tạo, xây dựng nên thế giới vật chất xung quang chúng
ta (như là các vị thần linh, thần núi, thần sông, thượng đế,…). Có thể thấy hầu hết các nhà
triết học duy tâm đã phủ nhận đặc tính tồn tại khách quan của vật chất, thế giới quan duy
tâm rất gần với thế giới quan tôn giáo và nó đã dẫn họ đến với thần học. Trái ngược với
những quan điểm chủ quan của các triết gia duy tâm thì những nhà triết học duy vật lại
thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất và họ cố gắng tìm những yếu tố từ
chính thế giới để giải thích rằng đó là những yếu tố đầu tiên tạo ra thế giới “lấy bản thân
giới tự nhiên để giải thích tự nhiên” 2. Từ thời cổ đại, các triết gia duy vật đã cố gắng giải
thích từ những yếu tố cơ bản nhất. Ở phương Đông, các nhà triết học Ấn Độ cho rằng mọi
thứ trên thế giới đều do 4 yếu tố là đất, nước, lửa, không khí (Tứ đại) tạo thành, còn
Trung Quốc thì lại cho là vật chất được hình thành từ ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa,
thổ). Ở phương Tây cũng có rất nhiều những quan điểm khác nhau về nguồn gốc của vật
chất: nhà Triết học Thalet quan niệm toàn bộ thế giới vật chất đều khởi nguồn từ nước:

1
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia Hà
Nội – 2021, tr.55.

2
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.55
“Mọi vật đều sinh ra từ nước; thứ nhất bản nguyên của mọi động vật là tinh dịch, mà tinh
dịch thì ẩm ướt; thứ hai, mọi thực vật đều sống bằng nước và đâm hoa kết trái nhờ nước,
sẽ khô héo nếu thiếu nước; thứ ba, bản thân ánh sáng của mặt trời và các thiên thể cũng
tiêu thụ hơi nước, giống như bản thân vũ trụ” 3. Trái ngược với Thalet thì Heraclitus (một
triết gia Hy Lạp) lại cho rằng lửa mới là nguồn gốc sinh ra vật chất: “Thế giới này chỉ là
một đối với mọi cái. Không do một thần thánh hay một người nào đó sáng tạo ra nó,
nhưng nó mãi mãi đã, đang và sẽ là ngọn lửa vĩnh cửu, như là độ đo của những cái đang
rực cháy, và mức độ của những cái đang lụi tàn”. Đây là hai trong số rất nhiều quan niệm
của chủ nghĩa duy vật phương Tây, nhưng những quan niệm vẫn gặp rất nhiều khó khăn
trong việc giải thích tất cả sự vật, hiện tượng của thế giới và hầu hết chúng đều không thể
khái quát sự ra đời và tồn tại của vật chất. Về sau, hai nhà triết học Hy Lạp cổ đại là
Leucippus (khoảng 500-440 TCN) và Democritos (khoảng 460 – 370 TCN) đã đưa ra
định nghĩa vật chất là nguyên tử, theo họ “Nguyên tử là những hạt nhỏ nhất, không thể
phân chia, không khác nhau về chất, tồn tại vĩnh viễn và sự phong phú của chúng về hình
dạng, tư thế, trật tự sắp xếp quy định tính muôn vẻ của vạn vật.” 4. Định nghĩa này được
xem là bước tiến quan trọng nhất của sự phát triển về phạm trù vật chất, nó không lấy một
sự vật, hiện tượng này để giải thích sự vật hiện tượng khác, mà cho rằng bên trong mỗi sự
vật, hiện tượng đều do một thứ cơ bản nhất không thể phân chia và con người chúng ta
không thể nhìn thấy, cảm nhận được tạo thành. Song, các nhà triết học duy vật cận đại
vẫn không đưa ra được những khái quát triết học đúng đắn. “Họ thường đồng nhất vật
chất với khối lượng, coi những định luật cơ học như những chân lý không thể thêm bớt và
giải thích mọi hiện tượng của thế giới theo những chuẩn mực thuần túy cơ học; xem vật
chất, vận động, không gian, thời gian như những thực thể khác nhau, không có mối liên
hệ nội tại với nhau...”5. Theo dòng chảy của thời gian, với sự ra đời của nhiều phát minh
quan trọng như phát hiện ra tia X (Wilhenlm Conrad Rontgen), hiện tượng phóng xạ của

3
Thales, Wikipedia, https://vi.wikipedia.org/wiki/Thales .

4
Heraclitus, Wikipedia, https://vi.wikipedia.org/wiki/Heraclitus#cite_note-LSTHHL-1 .

5
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.57
nguyên tố uranium (Henri Becquerel), khám phá ra chất phóng xạ mạnh là pôlôni và
rađium (Marie Sklodowska và Pierre Curie). Từ những phát hiện đó, đã chứng tỏ rằng
nguyên tử có thể bị phân chia, chuyển hóa và không phải phần tử nhỏ nhất. Khoa học thế
kỉ XX, với sự ra đời của hai học thuyết vĩ đại là thuyết tương đối hẹp (1905) và thuyết
tương đối tổng quát (1916) của nhà vật lý thiên tài Albert Einstein đã chứng minh được
rằng “Không gian, thời gian, khối lượng luôn biến đổi với sự vận động của vật chất”. Với
những tiến bộ về khoa học nói trên đã làm lung lây, hoang mang, hoài nghi lập trường của
một số nhà duy vật tự phát, siêu hình về tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật và làm cho
nhiều nhà khoa học trược từ chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình sang chủ nghĩa tương
đối và từ đó rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Theo V.I. Lênin thời kì này là “một bước ngoặt
nhất thời”, là “thời kỳ ốm đau ngắn ngủi”, là “chứng bệnh của sự trưởng thành”, là “một
vài sản phẩm chết, một vài thứ cặn bã nào đó phải vứt vào sọt rác” ” 6. Thực chất cuộc
khủng hoảng này là cuộc khủng hoảng về Thế giới quan làm đảo lộn những quan niệm cũ
của khoa học tự nhiên về thế giới. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng là do sự phát triển
nhảy vọt của nhận thức con người khi chuyển từ nhận thức thế giới vĩ mô sang nhận thức
thế giới vi mô, mà yếu tố chính là do sự phát triển của khoa học đã mở rộng phạm vi
nghiên cứu từ thế giới vĩ mô sang thế giới vi mô. Với sự phát triển của khoa học con
người được cung cấp thêm nhiều tri thức mới về thế giới vật chất. Tuy nhiên đối với quan
niệm của các triết gia siêu hình những tri thức đó làm cho thế giới kì lạ và họ không thể
giải thích được thế giới là gì. Và để thoát khỏi tình trạng khủng hoảng này V.I. Lênin cho
rằng “Tinh thần duy vật cơ bản của vật lý học, cũng như của tất cả các khoa học tự nhiên
hiện đại, sẽ chiến thắng tất cả mọi thứ khủng hoảng, nhưng với điều kiện tất yếu là chủ
nghĩa duy vật biện chứng phải thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình”. 7

Trong quá trình đấu tranh chủ nghĩa duy tâm, thuyết bất khả tri và phê phán chủ
nghĩa duy vật siêu hình, máy móc, C. Mác (Karl Marx) và Ph. Ăngghen (Friedrich

6
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.58.

7
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.58.
Engels) tuy không đưa ra một định nghĩa, một quan niệm đầy đủ hoàn chỉnh về phạm trù
vật chất nhưng họ đã đưa ra những tư tưởng rất quý báu về phạm trù vật chất. Một là,
phân biệt thế nào là phạm trù vật chất và vật thể cụ thể. Vật chất là một phạm trù bao
quát các thuộc tính chung của mọi sự vật, hiện tượng đang tồn tại cảm tính, là sự thống
nhất hữu cơ giữa tính cụ thể và tính trù tượng. Cần phải phân biệt vật chất với tính cách là
một phạm trù triết học, một khái niệm lớn dùng để nhận thức về thế giới khách quan, nó
khác với những vật thể cụ thể ở điểm nó có tính khái quát hóa, trừu tượng hóa cao mà
thuộc tính chung của nó phải bao quát được mọi sự vật hiện tượng: “chúng ta rất có thể ăn
được trái anh đào và trái mận nhưng chúng ta không thể ăn được trái cây vì chưa có ai ăn
được trái cây với tính cách là trái cây” 8. Hai là, con người nhận thức thế giới vật chất
thông qua sự phản ánh của các giác quan về các sự vật hiện tượng cụ thể cảm tính. Từ
những quan điểm quý báu này cùng với những thành tựu rực rỡ của khoa học tự nhiên,
V.I. Lênin đã tổng hợp toàn diện, khái quát hóa và đưa ra một định nghĩa đầy đủ, hoàn
chỉnh về phạm trù vật chất: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” 9. Theo định nghĩa trên thì vật
chất chính là một sản phẩm của tư duy nhận thức, của quá trình trừu tượng hóa dùng để
chỉ tất cả nhưng gì tồn tại bên ngoài ý thức của con người, độc lập và không phụ thuộc
vào ý thức của con người, là thuộc tính cơ bản, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất và
chính thực tại khác quan đó tác động vào các giác quan của chúng ta giúp chúng ta nhận
thức được nó, cảm giác của chúng ta có thể chép lại, chụp lại. Từ đó cho thấy ý thức
chính là sự phản ánh đối với vật chất, con người có có khả năng nhận thức được vật chất
thông qua các giác quan. Với định nghĩa này, V.I. Lênin đã giải quyết được vấn đề cơ bản
của triết học trên lập trường duy vật biện chứng, khẳng định vật chất là cái có trước, ý
thức là cái có sau và vật chất quyết định ý thức, với khẳng định đó V.I. Lênin đã phê phán
các quan niệm duy tâm, tôn giáo, vì những quan niệm này cho rằng ý thức, cảm giác là

8
Biện chứng của tự nhiên, Nxb. Sự Thật – Hà Nội

9
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.59
cái có trước và nhờ cảm giác, ý thức đó mới cho ra các sự vật hiện tượng (duy tâm chủ
quan) hoặc cho rằng lực lượng tinh thần là có trước trong quá trình phát triển tha hóa
thành giới tự nhiên (duy tâm khách quan), đồng thời V.I. Lênin đã phê phán cả thuyết nhị
nguyên vốn cho rằng cả vật chất và ý thức tồn tại một cách độc lập, song song, không cái
nào quyết định cái nào. Và V.I. Lênin cũng khẳng định con người có khả năng nhận thức
được thế giới, và nhận thức này là một quá trình tích lũy từ chưa biết đến biết, từ biết ít
biết nhiều, từ không hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, khi con người nhận thức về thế giới
chúng ta bắt đầu từ việc quan sát những sự vật hiện tượng từ đó đi sâu vào tìm hiểu
nghiên cứu tìm ra bản chất thật của sự vật hiện tượng, và từ đó đưa ra nhận thức đúng
đắn về vấn đề, sự vật, hiện tượng. Và từ đây V.I. Lênin đã phê phán thuyến bất khả tri và
thuyết hoài nghi vốn phủ định khả năng nhận thức của con người. Định nghĩa vật chất của
V.I. Lênin đã giúp các nhà triết học và các nhà khoa học thoát khỏi sự khủng hoảng về
Thế giới quan, giúp củng cố tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật, và tạo động lực cho các
nhà khoa học (đặc biệt là khoa học tự nhiên) tiếp tục có niềm tin để nghiên cứu thế giới
giúp con người hiểu biết về thế giới một cách sâu sắc hơn.

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương thức tồn tại của vật chất
bao gồm cách thức tồn tạo và hình thức tồn tại. Với vận động là cách thức tồn tại, còn
không gian và thời gian là hình thức tồn tại. Vận động theo phạm trù Triết học có nghĩa là
“mọi sự biến đổi nói chung”. Ph. Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, -
tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật
chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự
thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”10. Vận động là thuộc tín vốn có của vật chất, vật
chất tồn tại bằng cách vận động, dù vật chất tồn tại ở bất kì hình dạng, trạng thái nào thì
nó cũng luôn luôn trong quá trình biến đổi không ngừng. Con người chỉ nhận thức được
sâu sắc, thấu đáo, toàn diện sự vật hiện tượng bằng cách xem xét chúng trong quá trình
vận động. Nhiệm vụ của mọi khoa học thực chất là tìm hiểu, “nghiên cứu sự vận động của

10
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.62
vật chất trong các phạm vi, lĩnh vực trình độ, kết cấu khác nhau” 11. Mọi sự vật hiện tượng
là một thể thống nhất, và trong thể thống nhất có kết cấu nhất định của các nhân tố, và
trong thể thống nhất đó chúng luôn tác động ảnh hưởng lẫn nhau và gây ra sự biến đổi nói
chung. từ đây có thể nhận thấy rằng sự vận động của vận chất là sự vận động tự thân do
chính những nhân tố, yếu tố bên trong vật chất biến đổi, để dễ dàng hiểu được yếu tố tự
thân vận động của vật chất chúng ta có thể liên hệ thực tế cụ thể như: nếu bạn muốn trở
nên giỏi hơn, muốn áp dụng những kiến thức trên giảng đường vào công việc thì bạn phải
“tự thân” tìm tòi học hỏi, nghiên cứu tạo ra nhận thức cho bản thân từ đó tích kũy kinh
nghiệm để phát triển bản thân. Vật động là thuộc tính tồn tại vĩnh viễn không thể tạo ra,
không thể mất đi, điều này đã được các nhà khoa học chứng minh bằng định luật bảo toàn
và chuyển hóa năng lượng. Theo định luật, vận động của vật chất “được bảo toàn về cả số
lượng và chất lượng”. Bảo toàn về lượng có nghĩa là số vận động là không thay đổi, nó
chỉ mất đi khi sự vật mất đi và số vận động của sự vật mất đi đó sẽ được một sự vật khác
nhận được. Bảo toàn về chất là bảo toàn về hình thức và khả năng chuyển hóa của cá hình
thức vận động. “Một hình thức vận động cụ thể thì có thể mất đi để chuyển hóa thành
hình thức vận động khác, còn vận động nói chung tồn tại vĩnh viễn gắn liền với bản thân
vật chất.” 12Thế giới vận chất có nhiều hình thức hoạt động, dựa vào những thành tựu
khoa học tự nhiên đương thời Ph. Ăngghen đã chia vận động thành 5 hình thức hoạt động
chính được xem là cơ bản: vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong
không gian), vận động vật lý (vận động của các phân tử, các hạt, của điện tử,….) vận
động hóa học (vận động của nguyên tử,các quá trình hóa hợp, phân giải của các chât,…),
vận động sinh học (quá trình trao đổi chất của cơ thể sống với môi trường), và vận động
xã hội (sự biến đổi thay thế của các hình thái kinh tế xã hôi, và là hình thức vận động cao
nhất). Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp hơn,
trong khi đó các hình thức vận động thấp hơn không có khả năng bao hàm các hình thức
vận động ở trình độ cao. Sự vận động không ngừng của vật chất đã bao hàm sự đứng im
11
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.63

12
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.63
tương đối của vật chất. Vật chất vận động một chắc tuyệt đối vĩnh viễn, còn đứng im chỉ
tồn tài một cách tương đối và tạm thời, chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định với
một hình thức vận động cụ thể nào đó, nói dễ hiểu thì vật chất tồn tại trong một hệ quy
chiếu nhất định. Ví dụ, nếu bạn xem xét giữa ngôi nhà và mặt đất, bạn có thể thấy ngôi
nhà đang đứng im so với mặt đất tuy nhiên nếu mở rộng phạm vi bạn có thể dễ dàng nhận
thấy ngôi nhà đang cùng với trái đất vận động xung quang mặt trời. Vì vậy đứng im chỉ là
một trạng thái vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Nói cách khác
“đứng im là một dạng của vận động, trong đó sự vật chưa thay đổi căn bản về chất, nó còn
là nó chứ chưa chuyển hóa thành cái khác”. Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại khách
quan, có vị trí, hình thức, kết cấu,… nhất định và tất cả những thuộc tính đó được gọi là
không gian. Không gian biểu hiện sự cùng tồn tại và tách biệt của sự vật với nhau biểu
hiện ở quảng tính, trật tự phân bố của chúng. “không gian là hình thức tồn tại của vật chất
xét về mặt quảng tính, sự cùng tồn tại, trật tự, kết cấu và sự tác động lẫn nhau”. Và mọi sự
vật tồn tại trong trạng thái không ngừng biến đổi nhanh, chậm, kế tiếp lẫn nhau,… những
thuộc tính đó được gọi là thời gian. Thời gian đặc trưng cho trình tự diễn biến của các quá
trình vật chất, tính tách biệt của những giai đoạn trong quá trình đó. “Thời gian là hình
thức tồn tại của vật chất vận động xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các quá
trình”13. Quan niệm về không gian và thời gian cũng có sự khác nhau qua các thời kì. Do
những hạn chế của chủ nghĩa duy vật siêu hình, Newton đã tin rằng không gian, thời gian
là tách biệt với nhau, và tách biệt với vật chất, và ông cho rằng không gian, thời gian, vận
động là những thực thể bên ngoài vật chất và không liên hệ với nhau. Chủ nghĩa duy vật
biến chứng đã phê phán quan niệm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm và khắc phục những sai
lầm của chủ nghĩa duy vật siêu hình. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng không gian
và thời gian có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và chúng gắn liền với vật chất. V.I. Lênin
viết “Trong thế giới, không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động

13
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.65
không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”. 14Không gian và thời gian là
hình thức tồn tại của vật chất và nó gắn liền với vật chất nên nó có một số tính chất sau:

Một là, do vật chất tồn tại khách quan, nên ta có thể nhận xét rằng không gian và
thời gian cũng có tính tồn tại khách quan.

Hai là, không gian là thuộc tính có chiều dài, chiều rộng, chiều cao nên ta có thể nói
không gian có tính ba chiều. Thời gian thì chỉ có một chiều đó là chiều từ quá khứ đến
tương lai.

Ba là, tính vĩnh cửu vô tận. Do vật chất tồn tại vĩnh viễn và vô tận, nên ta có thể nói
rằng không gian có tính vô tận và thời gian có tính vĩnh cửu

1.1.2. Phạm trù ý thức

Ý thức và vật chất đều là những phạm trù cơ bản được các nhà triết học theo các
trường phái khác quan tâm nghiên cứu, nó được xem là “cơ sở để hình thành các trường
phái triết học khác nhau, hai đường lối cơ bản đối lập nhau là chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm”. Để lý giải nguồn gốc của ý thức, chủ nghĩa duy tâm cho rằng “ý thức là
nguyên thể đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn, là nguyên nhân sinh thành, chi phối sự tồn tại, biên
đổi của thế giới vật chất”. Trái ngược với chủ nghĩa duy tâm, các nhà triết học duy vật đã
phụ nhận tính chất siêu tự nhiên, tự sinh ra của ý thức, nhưng do trình độ tri thức, nhận
thức cũng như sự phát triển của khoa học lúc bấy giờ vẫn còn nhiều hạn chế, và bị chi
phối bởi phương pháp siêu hình nên mắc nhiêu sai lầm khi quan niệm về ý thức. Họ cho
rằng ý thức là một dạng vật chất đặc biệt nào đó và do vật chất sinh ra. Từ những sai lầm,
hạn chế này mà các giai cấp bóc lột, thống trị lấy đó làm “cơ sở lý luận, công cụ để nô
dịch tinh thần quần chúng lao động”. Khi khoa học tự nhiên phát triển, dựa vào những
thành tựu có được, các nhà triết học theo chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm rằng ý
thức xuật hiện là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên, của lịch sử, đồng
thời là kết quả trực tiếp của thực tiễn xã hội – lịch sử của con người. Theo quan niệm trên
cho ta thấy ý thức có nguồn gốc từ tự nhiên và xã hội. Xét nguồn gốc về tự nhiên, có thể

14
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.66
nói ý thức chính là thuộc tính của vật chất, tuy nhiên thuộc tính này không dành cho mọi
dạng vật và là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao nhất, và đó chính là
bộ óc người. Bộ óc con người có thể nói là một thứ vật chất có kết cấu phức tạp tinh vi
nhất trong các giống loài sống trên trái đất. Bộ óc của chúng ta bây giờ là kết quả, là sản
phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài, chúng có cấu tạo rất phức tạp bao gồm khoảng 100 tỷ
tế bào thân kinh hay còn được gọi là nơron, và mỗi tế bào thần kinh này lại liên kết với
hàng trăm ngàn tê bào thần kinh khác hình thành một mạng lưới thần kinh có chức năng
thu thập, xử lý, dẫn truyền điều khiển các hoạt động của cơ thể với thế giới bên ngoài
thông qua các phản xạ có điều kiện lẫn phản xạ không điều kiện. Tuy nhiên, nếu chỉ riêng
bộ não thì không thể hình thành nên ý thức. Theo triết học Mác – Lênin, ý thức là kết quả
của sự phản ánh khi bộ não và thế giới khách quan bên ngoài tác động lẫn nhau. Trong
quá trình hình thành và phát triển, năng lực phản ánh của mọi vật chất có chiều hướng
phát triển từ thấp đến cao. Phản ánh là “sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật
chất này ở một hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng” 15, do đó
sự phát triển của quá trình phản ánh phụ thuộc vào độ phức tạp của mối quan hệ giữa các
vật chất. Trình độ phản ánh thấp nhất trong hệ thống cấp bậc của phản ánh là phản ánh vật
lý, hóa học, đây là phản ánh của giới tự nhiên vô sinh vốn có kết cấu đơn giản nên trình
độ phản ánh này mang tính thụ động, chưa có sự định hướng, lựa chọn. Giới tự nhiên hữu
sinh ra đời mang trong mình kết cấu vật chất phức tạp hơn, nên sự phán ánh cũng phát
triển thành trình độ phản ánh sinh học, phản ánh này có tính định hướng,lựa chọn giúp
sinh vật thích nghi với những môi trường sống khác nhau. Phản ánh tâm lý được xem là
trình độ phản ánh cao nhât của các loài động vật tuy nhiên nó vẫn chưa là ý thức, đây là
trình độ phản ánh mang tính chất bản năng của động vật bật cao sinh ra từ như cầu sinh lí
tự nhiên do cơ thể động vật chi phối. Và hình thức cao nhất của phản ánh đó là trình độ
phản ánh ý thức, đây là hình thức đặc trung chỉ có ở con người, và nó giúp ta tách biệt và
khác hẳn với các loài động sống khác. Từ đó ta có thể nhận xét “sự xuất hiện con người
và hình thành bộ óc của con người có năng lực phản ánh hiện thực khách quan là nguồn

15
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.70
gốc tự nhiên của ý thức.”16 Tuy nhiên nguồn gốc tự nhiên chỉ là điều kiện cần, nguồn gốc
xã hội mới là yếu tố quyết định sự hình thành nên ý thức của con người. Nguồn gốc này
được thể hiện qua hai yếu tố là lao động và ngôn ngữ. Quá trình con người chúng ta dần
sử dụng các công cụ lao động tác động vào thế giới vật chất được gọi là lao động. Nhờ lao
động mà con người tiến hóa và tách biệt ra khỏi cách giống loài khác, lao động giúp cơ
thể người thay đổi từ dáng đi, dáng đứng cho đến bộ não. Khi chúng ta sử dụng công cụ
lao động tác động vào giới tự nhiên đã làm cho giới tự nhiên, làm cho thế giới bộc lộ ra
các thuộc tính, yếu tố, kết cấu và quy luật của nó giúp chúng ta càng lao động càng hiểu
rõ và hiểu một cách sâu sắc về thế giới làm chúng ta nhận thức về thế giới ngày một đầy
đủ và chính xác hơn. Và trên cơ sở của lao động, cùng với lao động và sau lao động đã
hình thành nên ngôn ngữ, trong quá trình lao động con người nảy sinh như cầu giao tiếp,
trao đổi thông tin với nhau và chính thông qua lao động mới nảy sinh ra ngôn ngữ. Ngôn
ngữ là phương tiện để chúng ta giao tiếp, để truyền tải tri thức, giao lưu, trao đổi tâm tư
tình cảm. Ngôn ngữ giúp tư duy trí tuệ con người ngày càng phát triển, nhờ có ngôn ngữ
con người dần dần tách khỏi, không còn bị lệ thuộc vào các đối tượng vật chất cụ thể.

Về bản chất, theo V.I. Lênin: “Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan, là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc
người”17. Ý thức là hình ảnh về hiện thực khách quan trong óc người nội dung phản ánh
của ý thức là khách quan nhưng hình thức phản ánh của nó là chủ quan , thực chất ý thức
là vật chất ở bên ngoài di chuyển vào bên trong đầu óc của con người và được cải biến
trong đó. Nói cách khác “ý thức không phải là sự vật, mà chỉ là “hình ảnh” của sự vật ở
trong óc người”18. “Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo, gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã
hội” 19nó biểu hiện ở sự trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh, trên cơ sở
đó con người tạo nên các học thuyết các lý luận, các lý thuyết khoa học. Và những thành
16
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.71

17
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.73

18
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.74
tựu đó được vận dụng vào thực tiễn để cải tạo hoạt động thực tiễn cho con người, giúp
con người cải tạo thế giới. Bên cạnh đó ý thức mang bản chất lịch sử xã hôi, qua từng giai
đoạn lịch sử khác nhau thì nhận thức, ý thức của con người là khác nhau gắn liền với điều
kiện lịch sử. Do ý thức là hình ảnh của quan của thế giới khác quan, nên với cùng một sự
vật hiện tượng mỗi người có điều kiện hoàn cảnh, nhu cầu, nguyện vọng, sở thích khác
nhau, trình độ, năng lực khác nhau khi thông qua nhận thực, sự phản ánh của mỗi người
sẽ khác nhau. Ph. Ăngghen đã từng chỉ rõ tính chất của phản ánh “Trên thực tế, bất kỳ
phản ánh nào của hệ thống thế giới vào trong tư tưởng cũng đến bị hạn chế về mặt khách
quan bởi những điều kiện lịch sử, và về mặt chủ quan bởi những đặc điểm về thể chất và
tinh thần của tác giả”20

1.2. Mối quan hệ giữa vật chất với ý thức và ý nghĩa phương pháp luận của mối
quan hệ này

1.2.1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất
là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:

Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi
có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì
con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế
giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa
học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có
trước, ý thức có sau.

Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc người,
thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn

19
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.74

20
Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội – 2021, tr.74
ngữ), hoặc là chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là những dạng
tồn tại của vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản ảnh, lao động, ngôn ngữ) đã khẳng định
vật chất là nguồn gốc của ý thức.

Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên
nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức,
hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động
của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất
không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự
biến đổi của ý thức.

Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người.

Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò
của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực.
Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi
hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực
tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại
khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương huớng, xây dựng kế
hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện, v.v. để thực hiện mục tiêu
của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với vật chất thông qua hoạt
động thực tiền của con người.

Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc
tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có
nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con
người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của
mình, thế giới được cải tạo - đó là sự tác động tích cực cúa ý thức. Còn nếu ý thức của
con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì
ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan,
hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đổi với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách
quan.

Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thế quyết
định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành
công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.

Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất, của
ý thức có thể thấy: vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng
sáng tạo ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác
động trở lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực
tiễn (hoạt động vật chất) của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ
thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người
hành động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật
chất, trong đó con người hành động theo định hướng của ý thức.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng xuất phát từ con người hiện thực, con người thực tiễn
để xem xét mối quan hệ này. Từ đó khẳng định, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất
quyết định ý thức và ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động của con người.

Từ đó, ta rút ra được:

Vật chất Quyết định nguồn gốc ý thức: Nghĩa là não người là dạng vật chất cao có
tính chất của vật chất là cơ quan phản ánh để hoàn thành ý thức. Ý thức phụ thuộc vào
hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách quan.

Vật chất quyết định bản chất, nội dung ý thức: Bản chất là hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan: nghĩa là ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất và thế giới vật chất
được dịch chuyển vào óc người, được cải biến trong đó. Vì thế, vật chất quyết định cả bản
chất và nội dung. Nội dung là phản ánh thế giới khách quan.

Vật chất quyết định Sự biến đổi ý thức: Ý thức là cái phản ánh, vật chất là cái được
phản ánh khi cái được phản ánh biến đổi thì cái phản ánh cũng phải biến đổi theo.
Nếu phản ánh đúng hiện thực khách quan thì nó sẽ thúc đẩy nó thúc đẩy ngược lại
thì nó cản trở sự phát triển của con người.

Ví dụ: Vào những năm 80 cuối thế kỷ 20, Đảng và nhà nước ta đã xác định được các
vấn đề khách quan làm cản trở sự phát triển của kinh tế nói riêng và toàn xã hội nói
chung. Để phán ánh đúng thực trạng ấy, Đảng và Nhà nước thực hiện chương trình Đổi
Mới. Đổi Mới là một chương trình cải cách toàn diện bao gồm kinh tế và nhiều khía cạnh
khác của đời sống xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào thập niên 1980.
Đổi mới về kinh tế được Nhà nước Việt Nam định nghĩa là: Quá trình chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt
động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Giúp phát triển nền kinh tế vững mạnh và người dân có cuộc sống ấm no hoặc sai
lầm trong cuộc Đại nhảy vọt của Chính phủ Trung Quốc từ năm 1958 tới 1962. Thấy sự
thành công của công cuộc công nghiệp hóa của Liên Xô, Nhà nước Trung Quốc muốn
chuyển hóa nền kinh tế công nông thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa một cách nhanh
chóng. Chủ tịch Mao đã đặt những mục tiêu không thực tế cho sự phát triển, chính quyền
địa phương do muốn đạt được mục tiêu đề ra đã vắt sạch toàn bộ lương thực và sức lao
động của nông dân, và để họ chết đói. Các quan chức cấp cao không dám đi ngược lại
chính sách này mà ngược lại đặt các lý do khách quan khác như khí hậu, mùa màng. Hàng
triệu người dân Trung Quốc không có lương thực và chết đói trong giai đoạn này. Tạo nên
cuộc khủng hoảng lương thực trầm trọng.

1.2.2. Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

Vì vật chất quyết định ý thức, sinh ra ý thức cho nên mọi chủ trương hoạt động nhận
thức, hoạt động con người đều phải xuất phát từ hiện thực khách quan và hoạt động tuân
theo quy luật khách quan, nghĩa là chúng ta phải có quan điểm khách quan trong nhận
thức hoạt động thực tiễn.

Xuất phát từ hiện thực khách quan, không phải từ những cái lẻ tẻ của hiện thực
khách quan, phải xuất phát từ cái chung nhất là quy luật khách quan.
Hoạt động tuân theo quy luật (quan điểm khách quan) là nhận thức sự vật phải
tôn trọng chính nó có, phải phản ánh đúng quy luật vận động phát triển của sự vật.

Vì ý thức có tính độc lập tương đối, có tính năng động sáng tạo có thể tác động trở
lại vật chất thông qua hoạt động con người, cho nên cùng với xuất phát từ cái hiện thực
khách quan thì phải phát huy tính năng động chủ quan, tức là phát huy mặt tích cực ý
thức, hạn chế mặt tiêu cực của ý thức.

Ví dụ: Sau những lần thất bại, không được nản lòng mà phải có trách nhiệm tự phê
bình bản thân, đánh giá và xem xét những sai lầm có thể tránh khỏi. Rút ra bài học kinh
nghiệm để từ đó cải thiện bản thân, khắc phục những mặt tiêu cực.

Tục ngữ: Thất bại là mẹ thành công.

Tiểu kết Chương 1

Ý thức và vật chất từ đầu đã được xác định là hai phạm trù cơ bản của Triết học. Tuy là
phạm trù cơ bản nhưng việc định nghĩa, đưa ra những quan niệm đúng đắn về nó lại lấy đi
rất nhiều thời gian của nhân loại, tạo ra những lập trường nhận thức trái ngược nhau, dẫn
đến sự “đấu tranh” lẫn nhau, và cũng nhờ sự “đấu tranh” qua lại đó, cùng với sự phát triển
về mặt khoa học vượt bậc của con người đã giúp chúng ta hiểu rõ được nguồn gốc, bản
chất của vật chất và ý thức. Đồng thời đưa ra nhận định đúng đắn về mối quan hệ giữa hai
phạm trù này. Đó là “Vật chất là thứ có trước, ý thức là thứ có sau, vật chất là nguồn gốc
của ý thức và quyết định ý thức và ý thức tác động lại vật chất qua hoạt động của con
người.
Chương 2

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐI LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Những thành tựu và hạn chế của sự nghiệp đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam hiện nay

2.1.1. Những thành tựu của sự nghiệp đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay

Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn
thiện và từng bước được hiện thực hoá. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới.
Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được
cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay….

Thành tựu nổi bật trước hết là về phát triển kinh tế, khi bắt đầu vào công cuộc đổi
mới, tại Hội nghị Trung ương 3 đã xác định “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây
dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt” 21, đổi mới tư duy kinh tế, từ đó đổi mới cơ chế chính
sách về kinh tế, chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung hành chính bao cấp
sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó, các hoạt động kinh tế giảm bớt
khó khăn và dần phát triển. Nếu như những năm đầu tiên của thời kỳ đổi mới (1986 -
1990) mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4.4% thì đến giai đoạn (1991 –
1995), GDP bình quân đã tăng gấp đôi đạt 8.2%/năm, giúp nước ta chấm dứt được khủng
hoảng kinh tế - xã hội. Các giai đoạn sau đó đều đạt được mức tăng trưởng khá cao và đến
năm 2008 thì nước ta thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, trở thành quốc gia

21
Văn kiện đại hội Đảng thời kì đổi mới phần I, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, tr.969
có thu nhập trung bình. “ Lần đầu tiên, mục tiêu đưa nước ta thoát khỏi nước kém phát
triển có thu nhập thấp được ấn định bằng mốc cụ thể: năm 2008. Đó là một mục tiêu
xuyên suốt trên 20 năm đổi mới, được vạch ra trong chiến lược phát triển kinh tế thập kỷ
đầu của thế kỷ XXI, nay ngưỡng lịch sử ấy đã cận kề”22. Năm 2020, hầu hết các nền kinh
tế trên thế giới đều tác động, ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch Covid – 19 và Việt Nam
chúng ta cũng không ngoại lệ, tuy nhiên do có sự chuẩn bị, kế hoạch đối phó với đại dịch
từ trước nên GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng tăng trưởng cao
nhất khu vực và thế giới. Không chỉ GDP bình quân hằng năm tăng cao mà quy mô và
trình độ nền kinh tế nước ta cũng được nâng lên đáng kể. “Năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ
USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/ năm”. 23Nổ lực đổi mới trong
35 năm qua của Đảng và Nhà nước đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục được cải thiện,
ngày càng thu hút nhiều vốn đầu tư cho phát triển. “Tính riêng năm 2019, vốn đầu tư phát
triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn tỷ đồng; tổng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 38,02 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm lại đây”24. Bên
cạnh đó cách ngành nghề kinh tế có sự chuyển dịch tích cực và phát triển vượt bật góp
phần phát triển vào nền kinh tế của đất nước. “tỉ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ
sản giảm, tỉ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng lên. Công nghiệp chế
biến, chế tạo phát triển nhanh; công nghiệp hỗ trợ có bước phát triển, góp phần nâng cao
tỉ lệ nội địa hoá và giá trị gia tăng của sản phẩm. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ tiếp tục tăng; du lịch phát triển nhanh. Nông nghiệp có bước chuyển mạnh sang
sản xuất hàng hoá, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tiếp tục là
trụ đỡ của nền kinh tế; kinh tế nông thôn tiếp tục phát triển”.25

22
Vượt “ải” nước nghèo thu nhập thấp, Công an nhân dân online, https://cand.com.vn/thoi-su/Vuot-ai-nuoc-
ngheo-thu-nhap-thap-i118089/.

23
Một số thành tựu nổi bật sau 35 năm đổi mới đất nước, Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Thọ,
https://phutho.gov.vn/vi/mot-so-thanh-tuu-noi-bat-sau-35-nam-doi-moi-dat-nuoc.

24
Một số thành tựu nổi bật sau 35 năm đổi mới đất nước, Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Thọ,
https://phutho.gov.vn/vi/mot-so-thanh-tuu-noi-bat-sau-35-nam-doi-moi-dat-nuoc

25
Văn kiện Đại hội Đảng lần XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, tr.24
Bên cạnh sự phát triển về kinh tế thì giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ tiếp
tục được đổi mới và có bước phát triển. Các chủ trương đổi mới về giáo dục bước đầu đều
có hiệu quả. Các cơ sở giáo dục và đào tạo được tiếp tục mở rộng quy mô. Chú trọng hơn
về giáo dục và đạo tạo ở những vùng sâu vùng xa, đồng bao dân tộc thiểu số. Các chương
trình giảng dạy, sách giáo khoa mới được ban hành và đẩy mạnh tích cực triển khai. Tiếp
tục mở rộng tăng cường hợp tác quốc tế vè giáo dục và đạo tạo, đồng thời nhân lực chất
lượng cao tăng cả về số lượng và chất lượng. Về khoa học và công nghệ đã từng bước
khẳng định vai trò động lực trong phát nền kinh tế và xã hội. Những thành tựu của khoa
học tự nhiên, cộng nghệ đã góp phần nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phầm,
bảo vệ môi trường,…Bên cạnh khoa học tự nhiên, thì khoa học xã hội và nhân văn, lý
luận chính trị đã góp phần trong sự phát triển của tư tưởng, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước.

Về mặt phát triển văn hóa xã hội, con người đã đạt nhiều thành tựu, kết quả quan
trọng. Nhận thức ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn, sự đa dạng và phát triển về các lĩnh
vực, loại hình, sản phẩm văn hóa đã đáp ứng được những nhu cầu mới về nhiều mặt của
đời sống xã hội. Đi đôi với phát triển thì nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn
hóa được kế thừa và phát huy hiệu quả tích cực. Tích cực phê phán, đấu tranh và lên án
những quan điểm hành vi sai trái ảnh hưởng không tốt đến văn hóa, lối sống. “Việc phê
phán, đấu tranh, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái
gây hại đến văn hoá, lối sống con người được chú trọng.”26. Các chính sách về dân tộc,
tôn giáo dần được hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả. Một số mặt khác như an sinh xã
hội, bảo hiểm, hệ thống y tế ngày càng được chú trọng, quan tâm và phát triển. Đời sống
nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Về mặt quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu
được chú trọng, bước đầu đạt kết quả tích cực. Các chính sách, các luật được tiếp tục hoàn
thiện, tập trung chỉ đạo thực hiện hiệu quả.Kiểm soát chặt chẽ cách nguồn tài nguyên và
hạn chế xuất khẩu khoáng sản thô. Tập trung đầu tư nghiên cứu và phát triển các nguồn

26
Văn kiện Đại hội Đảng lần XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, tr.25
năng lượng tái tạo ít gây ô nhiễm môi trường. Các công tác ứng phó với biến đổi khí hậu
phòng và chống thiên tai được tăng cường và bước đầu có hiệu quả.
Về chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường;
quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật.
“Tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng;
sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh và lực lượng
vũ trang”27. Từng bước hiện đại hóa các lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân.
Kiên quyết đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đảm bảo
an ninh trật tự an toàn xã hội. “Vị thế, uy tín, vai trò của Việt Nam trong khu vực và trên
thế giới ngày càng được nâng cao”28.
Bên cạnh những thành tựu trên, sau 35 năm đổi mới toàn Đảng toàn dân ta đã đạt
được những thành tựu sau:
Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố; dân chủ xã hội chủ nghĩa
tiếp tục được phát huy.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức
bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm
thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh
toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt

2.1.2. Những hạn chế của sự nghiệp đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất
cập. Năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế; chất lượng luật pháp và chính sách trên một
số lĩnh vực còn thấp. Môi trường đầu tư, kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh
bạch. Chưa tạo được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực phát triển. Thể chế phát triển, điểu phổi kinh tế vùng chưa được quan tâm và chậm
được cụ thể hóa bằng pháp luật nên liên kết vùng còn lỏng lẻo.
27
Văn kiện Đại hội Đảng lần XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, tr.26

28
Văn kiện Đại hội Đảng lần XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, tr.27
Năng lực và trình độ công nghệ của nền kinh tế nhìn chung còn thấp. Công nghiệp
vẫn chủ yếu gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng không cao công nghiệp hỗ trợ phát triển
chạm, tỷ lệ nội địa hóa thấp, hiệu quả tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu còn hạn chế, tốc
độ tăng trưởng nông nghiệp chậm lại, chịu ảnh hưởng lớn của thiên tai, dịch bệnh, biến
đổi khí hạn; chất lượng nhiều loại hình địch vụ còn thấp
Nhiều doanh nghiệp nhà nước chậm thực hiện cơ cấu lại và đổi mới cơ chế quản
trị; thoái vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn gặp một số vướng mắc cả về thể
chế và tổ chức thực hiện; hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp; tình trạng nợ, thua lỗ,
lãng phí còn lớn; việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp còn hạn chế. Phần lớn doanh
nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ thấp, năng lực tài chính và quản trị
yếu. Nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài công nghệ trung bình, gia công, lắp
ráp, thiếu gắn kết, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy doanh nghiệp trong nước phát triển.
Đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác còn chậm, nhiều hợp tác xã chưa làm tốt vai trò liên
kết, hỗ trợ kinh tế hộ.
Thực hiện cơ chế giá thị trường đối với một số hàng hóa, dịch vụ công còn lúng
túng. Một số loại thị trường, phương thức giao dịch thị trường hiện đại chậm hình thành
và phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, chưa hiệu quả, nhất là thị trường các yếu tố
sản xuất. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển chưa đồng bộ.
Hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả có mặt chưa cao. Vốn vay nước ngoài giải ngân
chậm, sử dụng còn dàn trải lãng phí Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài còn thiếu chọn
lọc; sự kết nối và chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp
trong nước còn nhiều hạn chế. Xuất khẩu tăng nhanh nhưng giá trị gia tăng còn thấp; việc
bảo vệ thị trường trong nước, phòng ngừa, xử lý tranh chấp thương mại quốc tế còn bất
cập.

Đổi mới giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động
lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới từ duy, hoạt động giáo dục và
đào tạo còn chậm, chưa quyết liệt, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra; nứt số nhiệm vụ, giải
pháp đổi mới còn thiếu hệ thống, chưa ổn định. Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo
chưa cao. Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa bảo đảm tính đồng bộ và liên thông trưa các
trình độ, các phương thức giáo dục và đào tạo. Nội dung, chương trình giáo dục và đào
tạo còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo vẫn thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa
học, sản xuất kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động. Chưa chú trọng đúng mức
đến phát triển phẩm chất và kỹ năng người học. Giáo dục “làm người", đạo đức, lối sống
còn bị xem nhẹ. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển kinh tế, xã hội. Đội ngũ nhà giáo và căn bộ quản lý giáo dục, trên một số mặt vẫn
còn bất cập về chất lượng, số lượng, cơ cấu và chính sách đãi ngộ. Quản lý nhà nước và
quản lý - quản trị nhà trưởng còn nhiều hạn chế. Nguy cơ tái mù chữ có xu hướng tăng ở
miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính
sách về phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ còn hạn chế, thiếu thế chế về tài
chính, chuyển giao, ứng dụng, phát triển khoa học và công nghệ. nhất là công nghệ cao;
thiếu giải pháp đồng bộ và sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và địa phương. Cơ
chế và chính sách cán bộ trong hoạt động khoa học và công nghệ còn nặng về hành chính
hóa, chưa tạo được môi trường thuận lợi để phát huy sức sáng tạo, thu hút nhân tài Đầu tư
cho khoa học và công nghệ còn thấp, hiệu quả chưa cao, năng lực sáng tạo của các nhà
khoa học chưa được phát huy. Chưa có chính sách hợp lý và vay vốn, thuế, hỗ trợ phát
triển, tạo động lực để doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ. Hệ thống thông tin, thống
kê khoa học và công nghệ chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phục vụ việc xây dựng các chiến
lược, chính sách. Bảo hộ sở hữu trí tuệ chưa đạt yêu cầu: chưa gắn kết chặt chẽ giữa khoa
học tự nhiên, khoa học - công nghệ và khoa học xã hội – nhân văn, khoa học lý luận chính
trị để phục vụ phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Lĩnh vực văn hoá, xã hội chưa có nhiều đột phá, hiệu quả chưa cao. Văn hóa chưa
được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực,
động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hóa trong xây
dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng coi trọng chức năng
giải trí đơn thuần. Thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật lớn phản ảnh sinh
động tầm vóc công cuộc đổi mới, có tác dụng tích cực đối với con người. Mỗi trưởng văn
hóa, xã hội tiếp tục bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực. Chênh lệch về
hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền còn lớn; đời sống văn hóa ở vùng dóng bào dân
tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý
văn hóa còn nhiều lúng túng, chậm trễ trong việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương của
Đảng về văn hóa. Đầu tư cho văn hóa chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao.
Chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống cấp nghiêm trọng về một số
mặt văn hóa, đạo đức, lối sống, gây bức xúc xã hội. Hệ thống thông tin đại chúng còn
nhiều hạn chế, một số cơ quan báo chí xa rời tôn chỉ và có biểu hiện thương mại hóa;
quản lý mạng xã hội còn bất cập. Chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ văn hóa chưa
đáp ứng được nhu cầu phát triển văn hóa trong thời kỳ mới. Việc giới thiệu, quảng bá văn
hóa Việt Nam ra nước ngoài chưa mạnh; tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại có mặt còn
hạn chế.
Quản lý phát triển xã hội và giải quyết một số vấn đề xã hội chưa được quan tâm
đúng mức, chưa được kết hợp đồng bộ, chặt chế trong quá trình phát triển kinh tế, văn
hóa; thể chế quản lý xã hội còn nhiều hạn chế; tình trạng gia tăng tội phạm, tệ nạn, tiêu
cực, mâu thuẫn, xung đột xã hội.. ở một số nơi chậm được khắc phục, gây bức xúc trong
dữ luận nhân dân. Giảm nghèo chưa bền vững, chưa có giải pháp hữu hiệu để xử lý vấn
đề phân hóa giàu - nghèo, gia tăng bất bình đẳng về thu nhập, kiểm soát và xử lý các mâu
thuẫn, xung đột xã hội. Chất lượng dịch vụ y tế, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, có mặt còn bất cập. Chính sách tiền lương. thu
nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, phúc lợi xã hội có mặt còn hạn chế thụ hưởng của
người dân từ thành tựu phát triển của đất nước chưa hài hòa.

Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu
còn bất cập. Ý thức chấp hành pháp luật về quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu còn thấp. Vai trò,
trách nhiệm các cấp, các ngành, cộng dồng và doanh nghiệp chưa được phát huy đầy đủ.
Văn để xảy ra một số sự cố môi trường gây hậu quả nghiêm trọng. Các chế tài để ngăn
ngừa, xử lý các hành vi vi phạm chưa đủ sức răn đe và thiếu hiệu quả. Quản lý nhà nước
về tài nguyên, môi trường. thích ứng với biến đổi khí hậu trên một số mặt còn lỏng lẻo.
Chất lượng công tác quy hoạch, đánh giá. định giá tài nguyên còn hạn chế. Xu hướng
chạy theo lợi nhuận và lợi ích trước mắt trong khai thác tài nguyên chậm được khác phục.
Chậm chuyến đổi cơ cấu sử dụng năng lượng theo hướng tiết kiệm tăng tỷ lệ năng lượng
tái tạo, năng lượng mới.Chất lượng môi trường một số nơi tiếp tục xuống cấp; thích ứng
với biến đổi khí hậu còn bị động. lúng túng. Các hệ sinh thái tự nhiên, da dạng sinh học
tiếp tục suy giảm. Ngành công nghiệp và dịch vụ môi trường, tái chế chất thải, xử lý rác
chậm phát triển, còn lạc hậu. Tình trạng nhập khẩu công nghệ lạc hậu, máy móc, thiết bị,
nguyên, nhiên, vật liệu không đạt chuẩn về môi trường chậm được khắc phục.

Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt bất cập. Việc quán
triệt, tổ chức, triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc có lúc, ch nơi chưa nghiêm, hiệu quả chưa cao.
Công tác năm tình hình, dự báo chiến lược về quốc phòng, an minh có lúc chưa thật chủ
đồng tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp an hình trên một số địa bản, mình
vực chưa thật vững chắc, nhất là an ninh mạng, an ninh trong đấu từ nước ngoài nhiều yếu
tố ảnh hưởng đến an ninh, an toàn con người chưa được quan tâm giải quyết triệt để xử lý
khiếu kiện đồng người về đất đai và một số tình huống phức tạp nảy sinh ở một số địa bàn
cơ sở có lúc có nơi còn bị động, lúng túng. Công tác quản lý, bảo đảm an toàn thông tin,
an ninh mạng còn hạn chế. Việc kết hợp kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh
ở một số địa phương, đơn vị thiếu hiệu quả, còn biểu hiện chủ quan, mất cảnh giác, nặng
về lợi ích kinh tế đơn thuần, trước mắt. Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế có mặt,
có lúc chưa theo kịp diễn biến của tình hình, chưa lường hết những tác động bất lợi. Chưa
khai thúc tốt và phát huy hiệu quả các quan hệ lợi ích dan xen với các đối tác quan trọng.
Sự phối hợp giữa các ngành, các địa phương trong công tác đối ngoại chưa chặt chẽ,
thường xuyên.
Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có lúc, có nơi chưa
được quan tâm phát huy đầy đủ. Các nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chưa được phát huy tốt. Việc đổi mới nội dung và phương
thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có mặt chưa theo
kịp yêu cầu của tinh hình mới, chưa thật sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở; chất
lượng, hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội chưa đều. Một số tổ chức cơ sở
dảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa thực
sự tồn trọng ý kiến, kiến nghị của nhân dân và giải quyết kịp thời các quyền, lợi ích hợp
pháp. chính dáng của người dân. Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi
phạm: vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới. Vấn đề đổi mới đồng
bộ, phù hợp giữa kinh tế với chính trị, văn hóa, xã hội, giữa đổi mới kinh tế với dổi mới tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có một số mặt còn lúng túng. Ca the kiểm soát
quyền lực chưa hoàn thiện vai trò giám sát của nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ.
Hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu
thực tiền. Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiệm: kỷ cương pháp nước có nơi, có
lúc còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn
đó Cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất
nước.
Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương một số nơi chưa dổi mới mạnh
mẽ; chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa thật rõ ràng, hiệu lực, hiệu quả hoạt
động còn hạn chế. Số lượng cán bộ cấp xã và đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự
nghiệp công vẫn còn quá lớn; phẩm chất, năng lực, uy tín còn hạn chế, thiếu tính chuyên
nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn một số hạn chế. Việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức quán triệt và thực hiện một số nghi quyết còn chậm, chưa quyết liệt, chưa hiệu quả.
Thực hiện các nguyên tấc xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số
tổ chức đảng còn chưa nghiêm, thậm chí vi phạm.

Công tác tư tưởng có nơi có lúc chưa thực sự được cấp ủy coi trọng, chưa kịp thời, tính
thuyết phục chưa cao. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa được quan
tâm dùng mức, thiếu đóng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; một số vấn đề mới. khó, phức tạp
chưa được làm sáng tỏ. Công tác thông tin, tuyên truyền một số chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa phong phú, thường xuyên, kịp thời, chưa
đáp ứng được sự mong đợi của nhân dân. Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các
thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén,
tính chiến đấu chưa cao công tác năm bắt dư luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ
còn chưa kịp thời.
Việc thể chế hóa cụ thể hóa chủ trương của Đảng về một số nội dung trong công
tác cán bộ còn chậm, có nội dung chưa thống nhất giữa pháp luật của Nhà nước và quy
định của Đảng, chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tầm, toàn ý
với công việc.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức đảng còn thấp. Công tác
rèn luyện quản lý dạng viên ở một số nơi chưa được quan tâm dùng mức, còn thiếu chặt
chẽ, có nơi còn buông lỏng sinh hoạt dàng, chất lượng sinh hoạt chưa cao, sinh hoạt chi
bộ ở nhiều nơi vẫn còn hình thức tỉnh chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu.
"Một số tổ chức cơ sở đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa
gương mẫu. Công tác xây dựng, phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các doanh
nghiệp ngoài nhà nước còn lúng túng, hạn chế; công tác phát triển đảng viên ở vùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo, vùng nông
thôn còn nhiều khó khăn. Việc đánh giá, xếp loại tổ chức dảng và đảng viễn ở một số nơi
còn chưa thực chất. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí,
ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tự tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến", “tự
chuyển hóa".
Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng chuyển biến chưa đều; công tác phòng
ngừa chưa được quan tâm đúng mức. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ chưa chú trọng đầy
đủ đến vấn đề chính trị hiện nay. Công tác dân vận có nơi, có lúc còn hạn chế việc nắm
bắt, đánh giá, dự báo tình hình, nhất là những địa bàn phức tạp chưa kịp thời, sâu sát.

Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở một số địa phương, bộ, ngành chưa có
chuyển biến rõ rệt; công tác phòng ngừa tham nhũng ở một số nơi còn hình thức. Việc
phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí văn còn hạn chế, nhất là việc tự kiểm tra, tự phát
hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí trong nội bộ cơ quan, đơn vị còn yếu; tình trạng nhũng
nhiễu, tiêu cực trong một số cơ quan, đơn vị khu vực hành chính, dịch vụ công chưa được
đẩy lùi. Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức
tạp, với những biểu hiện ngày càng tỉnh vì, gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn là
một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có
mặt còn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ,
đồng bột hiệu lực, hiệu quả chưa cao.
Những hạn chế khuyết điểm trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội XII có
nguyên nhân khách quan, song trực tiếp và quyết định nhất là do nguyên nhân chủ quan.
Trước hết, nhận thức của một số cấp ủy, chính quyển, cán bộ, đảng viên về một số
chủ trương. đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước còn chưa sâu sao,
thiếu thống nhất, do vậy một số công việc triển khai thiếu kiên quyết, còn lúng túng.
Thứ hai, chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là khẩu yếu, chậm được khắc phục; năng
lực cụ thể hóa, thể chế hóa chủ trương, nghị quyết còn hạn chế, năng lực tổ chức thực
hiện của căn bộ chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, làm cho pháp luật, nghị quyết
chậm được thực hiện và hiệu quả thấp.
Thứ ba, nhiều hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản lý, điều hành của các cấp ủy,
chính quyền và đội ngũ cán bộ, đảng viên ở một số nơi chạm được khắc phục trách nhiệm
người đứng đầu thưa thực sự được đề cao. Tư tưởng trông chờ thụ động. y lại vào cấp
trên, tình trạng nói không di đối với làm, nói nhiều làm ít, kỷ cương phép nước không
nghiêm còn khá phổ biến; chưa tạo được nhiều cơ chế, chính sách, giải pháp có tính đột
phá, đồng bộ để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, huy động mọi
nguồn lực cho phát triển.

Thứ tư nhận thức, triển khai đổi mới tổ chức bộ máy một số cơ quan trung ương và
địa phương chưa đều, chưa thật đồng bộ. Công tác căn hộ còn có mặt hạn chế, việc thực
hiện một số nội dung trong các khâu của công tác cán bộ ở một số nơi còn hình thức. Tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích
nhóm”, bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị
đẩy lùi.

2.2. Những bài học từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức đối với sự nghiệp đổi
mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

2.1.1. Đổi mới phải tôn trọng các quy luật khách quan, đẩy mạnh phát triển kinh
tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân
dân hướng tới xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Ngày nay, để gia tăng sự đoàn kết toàn dân, lãnh đạo thực hiện mục tiêu phát triển
nền kinh tế - xã hội của đất nước theo xu hướng xã hội chủ nghĩa đặt ra trong tầm nhìn
năm 2030, Đảng ta phải tiếp tục phát huy trí tuệ của triết học Mác, ý thức hơn nữa trong
việc giữ vững và vận dụng thế giới quan và phương pháp luận của phép biện chứng, chủ
nghĩa duy vật. Đồng thời, trong quá trình công tác thực tiễn, Việt Nam phải cân đối tốt
hơn các mối quan hệ giữa hiện tượng và bản chất, hình thức và nội dung, nguyên nhân và
kết quả, tính ngẫu nhiên và tất yếu, khả năng và hiện thực, nguyên nhân bên trong và
nguyên nhân bên ngoài, tính tổng quát và cụ thể. Bằng cách đó, chúng ta sẽ có thể nâng
cao năng lực tư duy biện chứng và tư duy chiến lược, đồng thời thực hiện hiệu quả hơn
trong mọi lĩnh vực công việc của mình một cách khách quan nhất.
Theo đó, mỗi cá nhân, mỗi tập thể cũng như Chính phủ Việt Nam cần tìm hiểu hiện
tại, lập kế hoạch cho tương lai, hoạch định các sách chính và thúc đẩy chủ trương một
cách khách quan và rõ ràng để tránh mắc phải những sai sót trong quy trình phát triển một
quốc gia Việt Nam “dân giàu, nước mạnh” theo hướng xã hội Chủ nghĩa. Theo đó, vẫn
còn tồn đọng, nhiều cá nhân có xu hướng trở nên bốc đồng trong quá trình ra quyết định
và đưa ra ý kiến, mở rộng các ngành và khởi động dự án một cách mù quáng hoặc đặt ra
những mục tiêu lớn không thực tế. Điều này dẫn đến sự lãng phí nguồn lực và nỗ lực,
đồng thời dẫn đến nhiều thiệt hại đối với các cá nhân và nền kinh tế - xã hội của đất nước.
Dựa trên cơ sở lý thuyết của mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, hiện thực
khách quan không cố định, mà luôn phát triển và thay đổi. Thay đổi là điều tự nhiên nhất
trên thế giới. Để tiến hành trên cơ sở thực tế, Việt Nam không những phải nhận thức được
thực tế về các điều kiện phát triển của chủ nghĩa xã hội, mà còn phải nhận thức được
những đặc điểm mới nổi lên trong từng giai đoạn phát triển kinh tế và xã hội ở đất nước.
Khi lực lượng sản xuất, sức mạnh quốc gia và mức sống của người dân Việt Nam đã có
những bước phát triển nhảy vọt lịch sử, và khi bản chất của các điều kiện quốc gia cơ bản
của Việt Nam thay đổi liên tục đã làm xuất hiện những rủi ro trong nước và quốc tế cũng
như các vấn đề phức tạp mà Việt Nam phải đối mặt. Nếu chúng ta cứ bám vào nhận thức
của mình về thực tế của Việt Nam như trước đây mà không có sự điều chỉnh, chúng ta sẽ
khó tiến về phía trước. Chúng ta cần nắm bắt chính xác những thay đổi của môi trường
trong nước và quốc tế, phân tích biện chứng những đặc điểm cụ thể từng giai đoạn của sự
phát triển kinh tế Việt Nam một các khách quan, xác định đúng những thay đổi mới, đặc
điểm mới trong các giai đoạn phát triển khác nhau của đất nước, dung hòa thế giới chủ
quan với thực tế khách quan, và xác định nguyên tắc làm việc phù hợp với thực tế - đây là
những phương pháp làm việc mà chúng ta phải ghi nhớ.
Để chủ động đối mặt và giải quyết các vấn đề, Việt Nam cũng cần cân bằng các
mối quan hệ giữa các vấn đề chính và phụ của các vấn đề. Điều đầu tiên cần làm là nắm
bắt được bức tranh toàn cảnh và hiểu rõ về những mâu thuẫn khác nhau. Đồng thời, nên
ưu tiên giải quyết các việc chính trong nỗ lực tạo ra lợi ích cho người dân trong sự phát
triển của chủ nghĩa xã hội.
Việt Nam cũng cần phải học tập và nắm vững phương pháp cơ bản của biện pháp
chứng minh duy vật, không ngừng nâng cao năng lực vận dụng tư duy biện pháp chứng
minh, nâng cao năng lực giải quyết các tình huống, vấn đề. Theo đó, Việt Nam phải cân
bằng cách thức khéo léo các yêu cầu cục bộ và tổng thể, các cán cân ngắn hạn và dài hạn,
các mối quan tâm chính và chung để cố gắng đưa ra các chiến lược tốt nhất. ưu tiên cân
bằng và hạn chế nhược điểm. Khi thực hiện nhiệm vụ đổi mới và cải tiến đất nước, các
chính sách cải cách cần phải toàn diện, các nỗ lực nên mang hệ thống tính toán, tổng thể
và có sự phối hợp chứ không phải được thực hiện một cách ngẫu nhiên. Đồng thời, khi
tiến hành cải tiến, các cấp lãnh đạo tại Việt Nam cũng như các địa phương tại Việt Nam
nên xem xét toàn bộ lợi ích và yêu cầu của các khu vực, ngành và nhóm khác nhau để xác
định chính xác các điểm hội tụ và đồng thuận của các lợi ích khác nhau,
Ngoài ra, Việt Nam cũng cần nghiên cứu, phê duyệt nguyên tắc về hệ thống biện
pháp chứng minh giữa tri thức và thực thi, luôn thiết lập thực hiện trên hết, tiếp tục đẩy
mạnh thay đổi mới ý kiến trên cơ sở thực hiện.
Quan điểm về thực tiễn là cốt lõi của triết học Mác; thực hành quyết định tri thức,
vừa là nguồn gốc, vừa là động lực, vừa là mục tiêu, mục đích cuối cùng của tri thức. Kiến
thức tạo ra phản ứng về thực hành - kiến thức đúng tạo điều kiện cho thực hành đúng,
trong khi kiến thức sai dẫn đến thực hành sai.
Đảng ta luôn coi trọng công tác lý luận, nhấn mạnh lý luận phải phù hợp với thực
tiễn. Lý thuyết, một khi tách rời khỏi thực tiễn, sẽ trở thành giáo điều cứng nhắc, mất đi
giá trị và sức sống của nó. Thực hành, không có sự hướng dẫn của lý thuyết đúng, giống
như “người mù cưỡi ngựa mù đến gần hồ sâu lúc nửa đêm”. Lý thuyết càng bộc lộ sâu sắc
các quy luật khách quan thì vai trò chủ đạo của nó càng trở nên có ý nghĩa trong việc
hướng dẫn cải cách và phát triển xã hội. Để duy trì và phát triển chủ nghĩa xã hội tại Việt
Nam, chúng ta phải hết sức coi trọng vai trò của lý thuyết, nâng cao niềm tin vào lý thuyết
của mình và củng cố quyết tâm chiến lược của chúng ta. Đối với những lý thuyết đúng
đắn đã được tạo ra trên cơ sở thực hành và so sánh lặp đi lặp lại, chúng ta phải kiên quyết
giữ vững chúng mà không được do dự.
Đối với Chính phủ Việt Nam, cần hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa theo chuẩn mực chung của nền kinh tế thị trường hiện đại và
hội nhập quốc tế; bảo đảm đồng bộ giữa thể chế kinh tế và chính trị, giữa Nhà nước và thị
trường, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, con người, thực hiện tiến
bộ xã hội, bình đẳng xã hội, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và phát triển xã hội bền
vững; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ; bảo đảm tính minh bạch, khả thi trong xây dựng và thực hiện thể chế kinh tế, tạo
điều kiện cho kinh tế - xã hội phát triển ổn định và thuận lợi.
Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế
và các loại hình doanh nghiệp. Thể chế hóa quyền tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền
sử dụng, quyền quyết định và hưởng lợi từ việc sử dụng tài sản) của Nhà nước, tổ chức,
cá nhân theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Đảm bảo minh bạch các nghĩa vụ, trách
nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và các dịch vụ công để giao dịch quyền tài sản
diễn ra thuận lợi. Bảo đảm quyền quản lý, thụ hưởng tài sản công của Nhà nước và quyền
bình đẳng trong tiếp cận, sử dụng tài sản công của các bên liên quan trong nền kinh tế.
Nâng cao năng lực thể chế và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp dân sự, tranh chấp
kinh tế trong việc bảo vệ quyền tài sản.
Bên cạnh đó, cũng không ngừng nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài, chú trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và thị trường tiêu thụ
sản phẩm; chủ động lựa chọn, có chính sách ưu đãi đối với các dự án có vốn đầu tư nước
ngoài, có trình độ quản lý, công nghệ hiện đại, có vị thế hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn
cầu và liên kết với doanh nghiệp trong nước. Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ
quy mô lớn, chất lượng cao, công nghiệp quy mô lớn, gắn với chuỗi giá trị khu vực và
toàn cầu.
Trong quản lý và phát triển doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cần phát huy
những mặt tích cực vì lợi ích đất nước, đồng thời kiểm tra, giám sát, kiểm soát để đảm
bảo minh bạch, hạn chế tác động tiêu cực.

2.1.2. Phát huy yếu tố chủ quan, xây dựng và phát huy các giá trị văn hóa, sức
mạnh con người Việt Nam; kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Xây dựng và phát huy các giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam
Xây dựng, phát triển văn hóa, con người có vai trò vô cùng quan trọng đối với mục
tiêu phát triển và tiến bộ xã hội vì nó góp phần kiến tạo nền tảng tinh thần cho đất nước;
tạo động lực, nguồn lực nội sinh cho sự phát triển bền vững đất nước và khẳng định tính
ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Chính vì thế, Đảng ta luôn chú trọng công tác xây
dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc
tế, toàn cầu hóa hiện nay.
Những định hướng cơ bản trong đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển văn
hóa, con người Việt Nam có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến sự phát triển, phát huy
giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam nói riêng và sự thành công của sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế. Trong thời gian qua, các chủ trương, đường
lối của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã được cụ thể hóa
trong các chính sách, pháp luật của Nhà nước, ghi rõ trong Hiến pháp. Nhằm định hướng
xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong tình hình mới, Đảng ta nêu rõ các
quan điểm, mục tiêu và giải pháp thực hiện.
Nhìn một cách tổng quát, tư tưởng chỉ đạo vừa cơ bản, lâu dài, vừa cụ thể, cấp
bách của Đảng ta nhằm định hướng cho quá trình xây dựng, phát triển văn hóa, con người
Việt Nam. Các quan điểm này đã phản ánh một bước phát triển mới về tư duy lý luận văn
hóa của Đảng. Nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn những vấn đề lý luận thể hiện tập trung
ở các quan điểm này sẽ giúp cho hoạt động thực tiễn của chúng ta đạt hiệu quả tốt hơn.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực phát triển đất
nước. Văn hóa có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người và bản
sắc, cốt cách dân tộc. Con người là nguồn lực quan trọng nhất .giữ vai trò quyết định sự
phát triển kinh tế - xã hội Ngày nay, văn hóa, con người còn được xác định là một trong
những yếu tố có vai trò quyết định sức mạnh và vị thế của mỗi quốc gia, dân tộc trên
trường quốc tế. Vì thế, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam trước yêu cầu phát triển
bền vững đất nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt
Nam hiện nay.
Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh
Như chúng ta đã biết, chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa học và
cách mạng, được tổng kết, đúc rút từ sự phân tích toàn bộ lịch sử nhân loại và thực tiễn xã
hội thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản, kế thừa một cách có hệ thống những giá trị tư
tưởng và thành tựu khoa học quan trọng nhất của loài người. Nó cung cấp cho chúng ta
một thế giới quan khoa học và cách mạng, những quy luật phổ biến về sự vận động và
phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Đặc biệt, về mặt xã hội, chủ nghĩa
Mác - Lênin đã chỉ ra quy luật vận động của lịch sử nhân loại và con đường tất yếu tới
chủ nghĩa cộng sản - một hình thái phát triển cao của xã hội loài người, trong đó con
người được tự do, hạnh phúc, có đủ các điều kiện để phát triển và hoàn thiện một cách
toàn diện.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm, nhận thức, tư tưởng chỉ đạo
rất cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng và con đường đi lên của cách mạng
Việt Nam trong thời đại ngày nay. Đó là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa Mác-Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Lợi ích
của Đảng trước hết đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích của các tầng lớp
nhân dân lao động, lợi ích của toàn dân tộc. Có thể nói, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng
sản Việt Nam là do thời đại, giai cấp và dân tộc quyết định.Từ khi thành lập cho đến nay,
Đảng luôn thể hiện rõ là một đảng cách mạng chân chính, hội tụ sức mạnh của dân tộc,
của giai cấp, là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam.
Với sự hoàn thiện không ngừng trong thực tiễn, tư duy lý luận của Đảng ta được
nâng cao, nhận thức ngày càng đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lê-
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự vận dụng và
phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nguồn cảm hứng to
lớn, nguyên nhân cơ bản của thắng lợi vĩ đại trong 2 cuộc kháng chiến, cũng như những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới xây dựng và phát triển đất
nước.
Đảng ta từ khi ra đời đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng
lâu dài, gian khổ và giành được những thắng lợi vĩ đại: làm cuộc Cách mạng Tháng Tám
thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên
độc lập, tự do; đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, thắng lợi giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa đất nước
bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Những thành tựu to lớn của cách mạng Việt
Nam suốt 91 năm qua đã minh chứng cho tầm vóc bản lĩnh, trí tuệ của Đảng trên con
đường lãnh đạo xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, vững bước tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Trải qua 91 năm lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn ý thức được vị trí, vai
trò, trọng trách của mình trước vận mệnh dân tộc, tương lai của đất nước.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ là cơ sở lý luận,
phương pháp luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, là cơ sở và nền tảng cho chủ thuyết phát
triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đảng ta khẳng định chủ nghĩa
Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam
cho hành động cách mạng.
Hiện nay đất nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
vấn đề vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh ngày càng được đặt ra một cách cấp thiết và với tầm mức ngày càng lớn. Từ sự thất
bại của công cuộc cải tổ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây đến
sự thắng lợi ngày càng to lớn của sự nghiệp đổi mới chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay cho thấy vấn đề nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin có một ý nghĩa quyết định đối với thành, bại của công cuộc xây dựng xã hội mới.
Có thể khẳng định: cội nguồn sức mạnh của chủ nghĩa Mác-Lênin là nằm ở bản chất khoa
học và cách mạng của bản thân học thuyết.
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, khi thực tiễn đất nước nảy
sinh hàng loạt vấn đề cần được giải đáp về mặt lý luận, Đảng ta đã luôn luôn đứng trên
lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để tổng kết những kinh
nghiệm thực tiễn và đưa ra được đường lối, chủ trương, chính sách cùng với bước đi và
cách làm cụ thể phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta. Chẳng hạn, trong quá trình đổi
mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã coi đổi mới tư duy lý luận, tư
duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá, coi đổi mới kinh tế là trọng tâm và phải
đi trước một bước. Đảng ta cũng khẳng định, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải
gắn kết với nhau, nhưng đổi mới chính trị phải trên cơ sở thành tựu của đổi mới kinh tế và
phục vụ cho tiếp tục đổi mới kinh tế, ngược lại, đổi mới kinh tế phải đúng định hướng
chính trị, phải góp phần tăng cường ổn định chính trị. Thực tiễn những năm đổi mới đã
mang lại nhiều bằng chứng xác nhận tính đúng đắn của những quan điểm nêu trên.
Có thể khẳng định, chúng ta không thể đưa công cuộc đổi mới đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa đến thành công nếu xa rời lập trường quan điểm, phương pháp
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Mặt khác, việc tìm ra những giải pháp
để đưa công cuộc đổi mới đến thành công không thể không gắn liền vận dụng và phát
triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn theo phương pháp khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và phát triển lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một quá trình thống nhất. Đó là sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn, sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng của lý
luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tiểu kết Chương 2

Các quy tắc của triết học Mác – Lê nin về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức đóng
vai trò quan trọng trong việc giúp nhận ra và giải quyết các vấn đề liên quan đến sự
nghiệp đổi mới đi lên của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Qua 35 năm tiến hành
công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước đã có những bước thành công quan trọng giúp cải
thiện rõ rệt cuộc sống của nhân dân. Về mặt kinh tế, Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng
nước nghèo, kém phát triển, trở thành quốc gia có thu nhập trung bình. Đặc biệt trong
trong đại dịch Covid – 19, do có sự nhận định và chuẩn bị đúng đắn, dù nền kinh tế thế
giới kể cả Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề, GDP của Việt nam vấn thuộc nhóm cac
snuocws tăng trưởn cao nhất khu vực và thế giới. Về mặt quản lí tài nguyên, bảo vệ môi
trường, thì các công tác ứng phó phòng chống biến đổi khí hậu bước đầu có hiệu quả.
Chính trị, an ninh quốc phòng được giữ vững. Bên cạnh đó, còn có những hạn chế, bất
cập trong các lĩnh vực khác như, giáo dục, bàn giao khoa học công nghệ, nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa chưa đáp ứng tốt với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong tình
hinh mới. Dù còn nhiều bất cập, hạn chế phải cải thiện, trong công cuộc đổi mới phải tôn
trong các quy luật khách quan, gắn liền với thực tiễn, nỗ lực tạo ra lợi ích cho người dân
trong sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Phát huy các yếu tố chủ quan, xây dựng và phát
huy các giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam.
PHẦN KẾT LUẬN
Quan điểm của triết học Mác – Lênin về vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa vật chất
với ý thức:
Về vật chất: là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý
thức và là cái quyết định ý thức; là cái tác động lại vật chất; và nó có quan hệ biện chứng
qua lại với nhau.
Về ý thức: là một phạm trù song song với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự
phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến và sáng tạo.
Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất.
Mối quan hệ giữa vật chất với ý thức: là mối quan hệ biện chứng mà trong đó vật
chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức nhưng
không thụ động mà có thể tác động trở lại vật chất qua hoạt động của con người.
Những thành tựu và hạn chế trong thời kỳ đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay và yêu cầu của việc quan triệt mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.

Những thành tựu trong thời kỳ đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay.Đổi mới tư duy kinh tế, từ đó đổi mới cơ chế chính sách về kinh tế, từ nền kinh tế kế
hoạch hóa, tập trung hành chính bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Các
cơ sở giáo dục và đào tạo được tiếp tục mở rộng quy mô. Các chương trình giảng dạy,
sách giáo khoa mới được ban hành và đẩy mạnh tích cực triển khai. Tăng cường hợp tác
quốc tế vè giáo dục và đạo tạo, đồng thời nhân lực chất lượng cao tăng cả về số lượng và
chất lượng. Những thành tựu của khoa học tự nhiên, cộng nghệ đã góp phần nâng cao
năng suất lao động, chất lượng sản phầm, bảo vệ môi trường. Khoa học xã hội và nhân
văn, lý luận chính trị đã góp phần trong sự phát triển của tư tưởng, đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước. Về mặt phát triển văn hóa xã hội, con người đạt nhiều thành tựu,
kết quả quan trọng giúp cho nhận thức toàn diện, sâu sắc, đa dạng hơn về các mặt trong
nhu cầu xã hội. Về mặt quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi
khí hậu được chú trọng, bước đầu đạt kết quả tích cực. Về chính trị - xã hội ổn định; quốc
phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật
Bên cạnh đó cũng có những hạn chế trong thời kỳ đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam hiện nay. Hoàn thiện thể chế; đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế; công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản về
mô hình tăng trưởng; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế
chưa cao. Đổi mới giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành
động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Lĩnh vực văn hoá, xã hội chưa có
nhiều đột phá, hiệu quả chưa cao. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và khả năng
thích ứng với biến đổi khí hậu còn bất cập. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại
còn một số mặt bất cập. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa
có lúc, có nơi chưa được quan tâm phát huy đầy đủ. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất
nước trong tình hình mới. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn một số hạn chế.
Những bài học khi vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong sự nghiệp đổi
mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Đảng ta phải tiếp tục phát huy trí tuệ
của triết học Mác, ý thức hơn nữa trong việc giữ vững và vận dụng thế giới quan và
phương pháp luận của phép biện chứng, chủ nghĩa duy vật. Cân đối tốt hơn các mối quan
hệ giữa hiện tượng và bản chất, hình thức và nội dung, nguyên nhân và kết quả, tính ngẫu
nhiên và tất yếu, khả năng và hiện thực, nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên
ngoài, tính tổng quát và cụ thể. Cần tìm hiểu hiện tại, lập kế hoạch cho tương lai, hoạch
định các sách chính và thúc đẩy chủ trương một cách khách quan và rõ ràng. Không
những phải nhận thức được thực tế về các điều kiện phát triển của chủ nghĩa xã hội, mà
còn phải nhận thức được những đặc điểm mới nổi lên trong từng giai đoạn phát triển kinh
tế và xã hội ở đất nước. Nắm bắt chính xác những thay đổi của môi trường trong nước và
quốc tế, phân tích biện chứng những đặc điểm cụ thể từng giai đoạn của sự phát triển kinh
tế Việt Nam. Xác định nguyên tắc làm việc phù hợp với thực tế. Cần cân bằng các mối
quan hệ giữa các vấn đề chính và phụ của các vấn đề. Ưu tiên giải quyết các việc chính
trong nỗ lực tạo ra lợi ích cho người dân Học tập và nắm vững phương pháp cơ bản của
biện pháp chứng minh duy vật. Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài và doanh nghiệp trong nước. Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài, chú trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý và thị trường.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tuyên giáo, tạp chí Đảng cộng sản

1. Ph.Ăngghen, Biện chứng của tự nhiên, Nxb. Sự Thật – Hà Nội.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương khóa XIII, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021

4. Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậ đại học hệ không chuyên lý luận
chính trị), Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội – 2021.

5. Văn kiện đại hội Đảng thời kì đổi mới phần I, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật.

6. Văn kiện Đại hội Đảng lần XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật

7. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Xây dựng và phát huy giá trị văn hóa sức
mạnh con người Việt Nam, https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/xay-dung-
va-phat-huy-gia-tri-van-hoa-suc-manh-con-nguoi-viet-nam-598200.html
8. Cổng thông tin điện tử sở nội vụ tỉnh Bắc Giang, Vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trước yêu cầu, nhiệm vụ mới,
https://snv.bacgiang.gov.vn/chi-tiet-tin-tuc/-/asset_publisher/aRIn3er4plGA/
content/van-dung-va-phat-trien-sang-tao-chu-nghia-mac-lenin-tu-tuong-ho-chi-
minh-truoc-yeu-cau-nhiem-vu-moi

Tài liệu tham khảo là ấn phẩm điện tử


1. Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Thọ, Một số thành tựu nổi bật sau 35 năm đổi mới
đất nước, https://phutho.gov.vn/vi/mot-so-thanh-tuu-noi-bat-sau-35-nam-doi-moi-
dat-nuoc

2. Công an nhân dân online, Vượt “ải” nước nghèo thu nhập thấp,
https://cand.com.vn/thoi-su/Vuot-ai-nuoc-ngheo-thu-nhap-thap-i118089/.

3. Cổng thông tin điện tử sở nội vụ tỉnh Bắc Giang, Vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trước yêu cầu, nhiệm vụ mới,
https://snv.bacgiang.gov.vn/chi-tiet-tin-tuc/-/asset_publisher/aRIn3er4plGA/
content/van-dung-va-phat-trien-sang-tao-chu-nghia-mac-lenin-tu-tuong-ho-chi-
minh-truoc-yeu-cau-nhiem-vu-moi

4. Heraclitus, Wikipedia, https://vi.wikipedia.org/wiki/Heraclitus#cite_note-LSTHHL-


1

5. Minh Khuê, Sự vận dụng ý nghĩa mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan trong
sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, https://luatminhkhue.vn/su-van-dung-y-
nghia-moi-quan-he-giua-khach-quan-va-chu-quan-trong-su-nghiep-doi-moi-o-nuoc-
ta-hien-nay.aspx

6. Thales, Wikipedia, https://vi.wikipedia.org/wiki/Thales .

You might also like