Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 19

CHƯƠNG 2.

CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA QUẢN LÝ KINH TẾ

2.1. Khái niệm và phân loại chức năng của quản lý kinh tế
2.1.1. Khái niệm chức năng của quản lý kinh tế
Do sự phân công chuyên môn hóa các hoạt động quản lý nên mỗi cấp, mỗi ngành
và mỗi bộ phận quản lý sẽ đảm nhận các chức năng khác nhau. Đó là tập hợp những
nhiệm vụ quản lý mang tính độc lập tương đối, được hình thành trong quá trình chuyên
môn hóa hoạt động quản lý. Đối với ngành kinh tế, mục đích của quản lý là nhằm đạt tới
mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định đã đề ra. Và để đạt được những mục tiêu đó, các chủ
thể quản lý phải thực hiện hàng loạt hoạt động, tiến hành hàng loạt công việc khác nhau.
Toàn bộ khối lượng và trình tự các hoạt động hay công việc đó sẽ phản ánh chức năng
của quản lý kinh tế. Vì vậy có thể hiểu: Chức năng quản lý kinh tế là tập hợp các hoạt
động quản lý mang tính tất yếu của chủ thể quản lý, nảy sinh từ sự phân công chuyên
môn hóa các hoạt động quản lý kinh tế nhằm đạt tới mục tiêu.( Đoàn Phúc Thanh
(2000), Nguyên lý quản lý kinh tế, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc
gia.(tr39))
Do có sự khác biệt về mục tiêu nên ở các cấp độ và giai đoạn quản lý , các lĩnh
vực kinh tế khác nhau, biểu hiện chức năng của quản lý kinh tế là không giống nhau. Mặc
dù vậy, những chức năng tương ứng đó đều là căn cứ để chủ thể quản lý kinh tế tổ chức
bộ máy, xác định nội dung, công cụ và phương pháp quản lý phù hợp, trên cơ sở đó điều
hành hệ thống quản lý một cách hiệu quả.
2.1.2. Phân loại chức năng của quản lý kinh tế
Cũng như nhiều phạm trù khác, chức năng của quản lý kinh tế có nhiều cách phân
loại căn cứ vào các tiêu thức khác nhau tùy vào mục tiêu nghiên cứu. Có thể phân loại
các chức năng này theo cấp độ, lĩnh vực hay các giai đoạn quản lý.
2.1.2.1. Phân loại theo cấp độ quản lý

1
Căn cứ vào cấp độ quản lý, chức năng quản lý kinh tế được phân thành chức năng
quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng quản lý sản xuất kinh doanh.
- Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế:
Quản lý nhà nước về kinh tế là quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô. Đó là việc các cơ quan
quản lý nhà nước dùng sức mạnh của mình, kết hợp các công cụ, biện pháp để tạo khuôn
khổ cũng như môi trường thuận lợi cho các tổ chức sản xuất, kinh doanh hoạt động.
Thông qua đó điều tiết tổng thể các mối quan hệ của nền kinh tế nhằm đạt mục đích cuối
cùng là tăng trưởng kinh tế bền vững và bảo đảm công bằng xã hội. Quá trình đó, nhà
nước phải xác định mục tiêu quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô đồng thời lựa chọn phương thức
quản lý phù hợp với từng nội dung, giai đoạn cụ thể. Do đó, có thể hiểu chức năng của
quản lý nhà nước về kinh tế là hình thức biểu hiện phương pháp, nội dung và giai đoạn
tác động có chủ đích của nhà nước lên đối tượng và khách thể quản lý. Đó là tập hợp
những nhiệm vụ khác nhau mà nhà nước phải tiến hành trong quá trình quản lý. Chúng
được coi là những chức năng cụ thể bao gồm việc thực hiện các hoạt động dự báo, xác
định mục tiêu, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cấp, ngành tương ứng;
đồng thời tổ chức, phối hợp, kiểm tra, điều chỉnh hoạt động kinh tế trên cơ sở mục tiêu đã
được xác định. Công cụ hữu hiệu, riêng có được nhà nước sử dụng trong quá trình thực
hiện chức năng quản lý của mình chính là lực lượng kinh tế, luật pháp, kế hoạch, và
chính sách kinh tế.
Nội dung cụ thể của chức năng quản lý nhà nước về kinh tế bao gồm:
+ Định hướng sự phát triển của nền kinh tế: xác định phải làm gì, làm như thế nào,
khi nào làm và ai là người thực hiện.
+ Tạo lập môi trường cho sự phát triển kinh tế: duy trì sự ổn định về chính trị, tạo
lập và duy trì môi trường kinh tế thuận lợi, xây dựng hệ thống pháp luật và cơ
quan thi hành pháp luật đủ mạnh, thiết lập đồng bộ các loại thị trường, phát triển
hệ thống giáo dục - đào tạo.
+ Kiểm tra và giám sát các hoạt động kinh tế: Kiểm tra, giám sát sự phát triển
theo định hướng, kế hoạch của nền kinh tế; việc thực hiện chủ trương, chính sách

2
và pháp luật của nhà nước; việc sử dụng các nguồn lực của quốc gia; việc thực
hiện các chức năng của cơ quan nhà nước.
- Chức năng quản lý sản xuất kinh doanh
Sản xuất kinh doanh là chức năng của các đơn vị kinh tế cơ sở thuộc mọi thành
phần kinh tế. Họ có chức năng trực tiếp tổ chức và hoạt động sản xuất kinh doanh bằng
các biện pháp khác nhau nhằm tạo ra những giá trị vật chất đáp ứng nhu cầu xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, mục đích hầu hết các cơ sở này là nhằm tạo ra lợi nhuận,
nâng cao vị thế cạnh tranh và đứng vững trên thị trường. Vì vậy, quản lý sản xuất kinh
doanh chính là quản lý quá trình cạnh tranh, xác định chỗ đứng của doanh nghiệp trên thị
trường trên cơ sở các yếu tố nguồn lực sản xuất dinh doanh và sự nắm bắt nhu cầu thị
trường về hàng hóa dịch vụ. Do đó khác với chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, chức
năng quản lý sản xuất kinh doanh là chức năng quản lý vi mô, tức là quản lý trực tiếp các
hoạt động sản xuất, kinh doanh trong phạm vi nội bộ đơn vị kinh tế đó.
Nội dung cụ thể của chức năng quản lý sản xất kinh doanh bao gồm:
+ Hoạch định các chiến lược, kế hoạch hoat động theo khả năng của đơn vị và
định hướng của nhà nước
+ Thực hiện một cách hiệu quả các chiến lược, kế hoạch đã hoạch định và chịu
trách nhiệm về kết quả hoạt động của đơn vị.
Mặc dù hai loại chức năng trên là khác nhau song giữa chúng có quan hệ mật thiết,
không tách rời mà có sự kết hợp, thống nhất với nhau trong hệ thống quản lý kinh tế.
Chức năng quản lý sản xuất kinh doanh phải được thực hiên trên cơ sở các ràng buộc của
chức năng quản lý nhà nước về kinh tế. Và nếu phân định rõ đồng thời thực hiện tốt hai
loại chức năng này đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, qua đó nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh của chính các đơn vị cơ sở nói riêng và hiệu quả quản lý nền kinh tế
nói chung.
2.1.2.2. Phân loại theo lĩnh vực quản lý
Nền kinh tế được chia thành nhiều lĩnh vực khác nhau, các đơn vị cơ sở cũng phải
tiến hành nhiều loại hoạt động khác nhau nên để bao quát được các cấp quản lý trong

3
tổng thể nền kinh tế quốc dân, chức năng quản lý kinh tế được phân thành các lĩnh vực
sau:
- Chức năng quản lý tài chính: Tài chính là sự vận động của các dòng tiền tệ thuộc
các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong nền kinh tế hay chính là lượng vốn phục vụ cho sản
xuất, kinh doanh, cho phát triển nền kinh tế. Quản lý tài chính là thực hiện các hoạt động
khai thác, sử dụng quỹ tiền tệ hay lượng vốn đó.
- Chức năng quản lý khoa học và công nghệ: Khoa học công nghệ là nguồn lực rất
quan trọng trong phát triển kinh tế. Thực hiện chức năng quản lý khoa học công nghệ là
thực hiện các hoạt động nghiên cứu, phát minh và ứng dụng các thành tựu mới về khoa
học và công nghệ vào sản xuất để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và hạ
giá thành sản phẩm.
- Chức năng tổ chức bộ máy và công tác nhân sự: Nói đến quản lý không thể không
nói đến bộ máy quản lý và công tác nhân sự. Trong quản lý cần thực hiện việc xác định
số cấp, số khâu trong bộ máy quản lý kinh tế để từ đó bố trí, sắp xếp cán bộ vào các bộ
phận của bộ máy đó một cách phù hợp, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực.
- Chức năng điều hành sản xuất, kinh doanh: Đó là sự phối hợp các yếu tố tài chính
công nghệ, lao động, vật tư, nguyên liệu,... một cách hữu hiệu nhằm mục tiêu chế tạo ra
các sản phẩm hàng hóa dịch vụ phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng.
- Chức năng marketing: Đảm nhận chức năng này, các chủ thể quản lý kinh tế sẽ
thực hiện việc tổ chức các hoạt động tiếp cận nhu cầu của thị trường và thỏa mãn nhu
cầu thông qua các công việc quảng cáo, chào hàng và chiêu hàng.
2.1.2.3. Phân loại theo các giai đoạn của quá trình quản lý:
Theo giai đoạn hay trình tự của quá trình quản lý, quản lý kinh tế bao gồm các
chức năng sau:
- Chức năng dự báo: Là việc dựa trên những có sở khoa học nhất định để dự đoán về
những diễn biến của tương lai nhằm tạo sơ sở cho những kế hoạch hoành động trong
tương lai.

4
- Chức năng kế hoạch: Đưa ra những quyết định trong hiện tại về những vấn đề được
dự kiến thực hiện trong tương lai.
- Chức năng tổ chức: Là chức năng thực hiện việc tạo lập một bộ máy quản lý phù
hợp để thực hiện các nhiệm vụ được giao.
- Chức năng điều khiển: Là quá trình thực hiện các hoạt động chỉ huy, điều hòa, phối
hợp,… nhằm phát huy sức mạnh của tập thể và năng lực sang tạo của từng thành viên
trong tập thể đó.
- Chức năng kiểm tra và điều chỉnh: Dư báo, lập kế hoạch, tổ chức và điều khiển đều
có thể có sai sót, lệch lạc. Chức năng này sẽ tìm ra các yếu tố đó và phân tích nguyên
nhân để từ đó giúp nhà quản lý đưa ra các quyết định điều chỉnh, bổ sung nhằm sủa chữa
sai sót, uốn nắn lệch lạc.
- Chức năng hoạch toán: Để quá trình phát triển kinh tế tiết kiệm, hiệu quả, quá trình
quản lý sẽ thực hiện việc phân tích, tính toán chi phí trong các hoạt động của tổ chức
nhằm có được thông tin cho nhà quản lý, làm cơ sở cho việc hình thành quyết định quản
lý mới có luận cứ khoa học.
Cũng vẫn với cách tiếp cận theo giai đoạn, trình tự của quá trình, hiện nay quản lý
kinh tế thường được chia thành 4 chức năng bao gồm:
- Chức năng hoạch định: Bao gồm việc dự báo và lập kế hoạch
- Chức năng tổ chức: Bao gồm việc xây dựng cơ cấu tổ chức và thiết lập mối quan hệ
trong cơ cấu tổ chức.
- Chức năng lãnh đạo: Bao gồm việc ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định
- Chức năng kiểm soát: Bao gồm việc kiểm tra và điều chỉnh quyết định quản lý.
Đây là cách phân loại được sử dụng phổ biến khi xem xét nội dung, vai trò của
từng chức năng của quản lý kinh tế và là cách tiếp cận xuyên suốt nội dung học phần này.
2.2. Chức năng hoạch định
2.2.1. Bản chất của chức năng hoạch định

5
Theo tác giả Nguyễn Đức Lợi, hoạch định là một quá trình ấn định các nhiệm vụ,
mục tiêu và các phương pháp tốt nhất để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đó. Từ đó có
thể hiểu Chức năng hoạch định của quản lý kinh tế là quá trình xác định nhiệm vụ, mục
tiêu, phương pháp và phương tiện nhằm đạt mục tiêu nhất định của toàn bộ nền kinh tế
hoặc của các cơ sở sản xuất kinh doanh.
Nếu xét về vị trí và vai trò thì hoạch định chính là chức năng đầu tiên, cơ bản nhất
trong chức năng quản lý theo giai đoạn, nó là tiền đề, là điều kiện của mọi quá trình quản
lý và là cơ sở của các chức năng còn lại. Đó là sự cụ thể hóa quá trình thực hiện đường
lối dài hạn của tổ chức, là cách tốt nhất để chuẩn bị cho tương lai. Quá trình quản lý được
tổ chức hợp lý hay không phụ thuộc rất nhiều vào chức năng quan trọng này. Để làm tốt
chức năng hoạch định, chủ thể quản lý nói chung và quản lý kinh tế nói riêng phải có kỹ
năng và trình độ để phân tích một cách logic, chính xác sự vật, hiện tượng kinh tế liên
quan để tạo ra các chỉ định hướng phát triển của hệ thống quản lý trong tương lai. Quá
trình đó, họ cũng phải tìm hiểu kỹ lưỡng môi trường diễn ra hoạt động kinh tế, trên cơ sở
đó xác định mục tiêu chương trình hành động trong tương lai đồng thời lựa chọn đúng
đắn phương tiện, bước đi cơ bản của tổ chức kinh tế trong thời gian cụ thể.
2.2.2. Nội dung của chức năng hoạch định
Nội dung chính của chức năng hoạch định bao gồm việc ấn định các mục đích,
mục tiêu, chiến lược, chính sách, chương trình, dự án và ngân sách mà tổ chức phải thực
hiện. Theo trình tự, để thực hiện các nội dung hoạch định trên, quá trình hoạch định sẽ
bao gồm việc dự báo (xác định mục tiêu, nhiệm vụ) phát triển kinh tế và việc lập kế
hoạch (lựa chọn phương thức, phương tiện sử dụng) để đạt được mục tiêu, nhiệm vụ đó.
2.2.2.1. Chức năng dự báo
Hoạt động kinh tế luôn diễn ra trong môi trường nhất định đồng thời chịu sự tác
động của môi trường đó theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực. Vốn dĩ môi trường luôn
thay đổi không ngừng nên cần dự báo hướng vận động của nền kinh tế và xu hướng tác
động của môi trường, trên cơ sở đó phát hiện và tận dụng những cơ hội, phát huy tác
động tích cực đồng thời nhận diện để vượt qua những thách thức và khắc phục tác động

6
tiêu cực từ môi trường bên ngoài. Đây là chức năng vô cùng quan trọng ở cả ba cấp độ:
nền kinh tế, ngành kinh tế và các đơn vị kinh tế cơ sở.
Thực hiện chức năng dự báo chính là nhận định, đoán trước các quy trình, hiện
tượng kinh tế có thể xảy ra trong tương lai, bao gồm dự báo về các yếu tố cần thiết như:
thị trường, tiến bộ kỹ thuật và công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, dân số, sự biến động
của nền kinh tế khu vực và thế giới,….
Muốn đảm nhận tốt chức năng hoạch định, những thông tin dự báo trên phải khoa
học, kịp thời, phản ánh đủ cả về lượng và chất, cả trước mắt và lâu dài,… sao cho chủ thể
quản lý kinh tế có thể căn cứ vào đó hoạch định chiến lược, kế hoạch và giải pháp phát
triển kinh tế cho giai đoạn tới. Quá trình này đòi hỏi nhà quản lý phải có chuyên môn,
kinh nghiệm và đầy đủ phương tiện phục vụ cho công tác dự báo. Những yêu cầu trên
luôn tỷ lệ thuận với mức độ thay đổi của môi trường và sự biến động của nền kinh tế.
Điều đó đòi hỏi nhà quản lý luôn cập nhật sự thay đổi và không ngừng nâng cao trình độ
chuyên môn cũng như trang bị đầy đủ những yếu tố cần thiết đối với công tác dự báo.
2.2.2.2. Chức năng kế hoạch
Sau khi đã nhận diện, tiên đoán được xu hướng phát triển kinh tế cũng như các
hiện tượng, diễn biến kinh tế có thể xảy ra trong tương lai nhờ chức năng dự báo, chủ thể
quản lý sẽ căn cứ vào đó để lập kế hoạch hoạt động. Đó là các quyết định của chủ thể
quản lý về mục tiêu, biện pháp và các đảm bảo vật chất cần thiết để thực hiện mục tiêu
trong một thời kỳ nhất định, bao gồm cả kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Trong
kế hoạch chỉ rõ phải làm gì và làm như thế nào để phát triển kinh tế của một đơn vị kinh
tế hoặc một ngành, một địa phương hoặc của quốc gia.
Thực hiện chức năng kế hoạch chính là tiến hành phân tích thời cơ và thách thức,
tác động tích cực và tiêu cực, thậm chí phân tích cả những thành công và thất bại của nền
kinh tế trước đó để xác định mục tiêu đồng thời xây dựng chương trình hành động với
phương án, phương tiện và lộ trình tương ứng nhằm thực hiện mục tiêu đó.
Chức năng lập kế hoạch kinh tế có vai trò vô cùng quan trọng. Nếu kế hoạch
không chính xác, thiếu cơ sở khoa học sẽ gây hậu quả xấu ở mức nghiêm trọng đối với sự

7
phát triển của doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế - đặc biệt là khi các yếu tố ngẫu nhiên,
yếu tố khách quan tác động làm đảo lộn trật tự mọi dự kiến ban đầu. Chính vì vậy, việc
xây dựng kế hoạch cần được thực hiện trên cơ sở đảm bảo các yêu cầu như: lấy kết quả
dự báo làm luận cứ khoa học, căn cứ và hướng vào thị trường, kế hoạch phải có khả năng
thích nghi với những biến đổi của môi trường và đóng góp vai trò trong việc tạo dựng
cũng như duy trì giá trị tinh thần và truyền thống của doanh nghiệp hoặc ngành kinh tế,
đảm bảo tính ổn định tương đối, phân định rõ ràng chức năng kế hoạch vĩ mô và vi mô,
hệ thống mục tiêu phải khoa học, chuẩn xác và gắn với mục tiêu xã hội.
2.3. Chức năng tổ chức
2.3.1. Bản chất của chức năng tổ chức
Xuất phát từ thực tiễn là việc phát triển kinh tế vi mô hay vĩ mô đều được thực
hiện bởi không chỉ một người, một bộ phận mà thông thường là do sự đóng góp vai trò
của nhiều người, nhiều bộ phận và mỗi người, mỗi bộ phận đó đảm nhận nhiệm vụ khác
nhau, thực hiện mục tiêu cụ thể khác nhau nhưng đều hướng đến một mục tiêu chung
nhất định nên cần phải có sự phân định công việc, quyền hạn, công cụ, thông tin,…cần
thiết để hoàn thành nhiệm vụ đơn lẻ cũng như phối hợp một cách ăn khớp, hữu hiệu giữa
các cá nhân và bộ phận để thực hiện nhiệm vụ tổng thể. Đó chính là chức năng tổ chức.
Như vậy, tổ chức là sự kết hợp hoạt động của các bộ phận riêng rẽ sao cho chúng liên kết
với nhau trong một cơ cấu chặt chẽ, hợp lý tạo thành một hệ thống thống nhất như một cơ
thể sống. Đó là sự liên kết những cá nhân, quá trình, những hoạt động trong hệ thống
nhằm thực hiện các mục tiêu của hệ thống trên cơ sở các nguyên tắc quản lý. Từ đó có
thể hiểu chức năng tổ chức của quản lý kinh tế là việc thiết lập bộ máy quản lý trong
đó gồm nhiều bộ phận được chuyên môn hóa, có liên hệ với nhau nhằm thực hiện các
nhiệm vụ quản lý kinh tế vì mục tiêu chung. Thực chất đó chính là chức năng hình
thành cơ cấu tổ chức và mối quan hệ giữa chúng.
Như vậy, tổ chức là một chức năng quan trọng, không thể thiếu trong quản lý kinh
tế. Các nhà quản lý phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của hoạt động kinh tế, năng lực

8
của cán bộ đồng thời tiếp thu kinh nghiệm của thế giới để không ngừng hoàn thiện bộ
máy quản lý từ các cơ sở kinh tế đến tổng thể nền kinh tế quốc dân.
2.3.2. Nội dung của chức năng tổ chức
Bản chất chức năng tổ chức của quản lý kinh tế cho thấy chức năng này bao gồm
việc việc xây dựng cơ cấu tổ chức các cấp, các ngành trong nền kinh tế đồng thời thiết
lập mối quan hệ giữa các cấp các ngành đó trong quá trình thực hiện mục tiêu chung của
quản lý kinh tế.
2.3.2.1. Chức năng xây dựng cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức quản lý kinh tế được hiểu là tổng hợp các bộ phận khác nhau có
mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hóa và có những trách nhiệm, quyền
hạn kinh tế nhất định, được bố trí theo những cấp, những khâu khác nhau, nhằm thực
hiện các chức năng quản lý và phục vụ mục đích chung của hệ thống kinh tế. Cơ cấu đó
được xây dựng trên cơ sở kế hoạch phát triển của các cấp các ngành. Chỉ khi đảm nhận
tốt chức năng xây dựng cơ cấu tổ chức mới có thể tạo ra lực lượng cần thiết để tiến hành
chức năng hoạch định trước đó cũng như chức năng lãnh đạo và kiểm soát trong các giai
đoạn, trình tự quản lý tiếp theo.
Việc xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý có thể áp dụng phương pháp thừa kế kinh
nghiệm thành công và gạt bỏ yếu tố bất hợp lý của các cơ cấu tổ chức đã có sẵn với điều
kiện cơ cấu cũ có những yếu tố tương tự cơ cấu tổ chức quản lý sắp hình thành (gọi là
phương pháp tương tự). Hoặc cũng có thể áp dụng phương pháp phân tích, đánh giá mặt
hợp lý và không hợp lý của cơ cấu hiện hành để dự thảo cơ cấu mới hoặc dựa vào
phương hướng, mục đích của hệ thống để xây dựng sơ đồ cơ cấu tổ chức quản lý tổng
quát và xác định đặc trưng cơ bản nhất của cơ cấu tổ chức này (gọi là phương pháp phân
tích theo yếu tố).
Tuy nhiên, cho dù áp dụng phương pháp nào, việc xây dựng cơ cấu tổ chức cũng
phải bảo đảm các yêu cầu cơ bản sau đây:
- Phải căn cứ vào mục tiêu và nhiệm vụ phát triển kinh tế mà kế hoạch đã đề ra (bao gồm
cả mục tiêu và nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài).

9
- Phải đảm bảo tính kinh tế: cơ cấu bộ máy phải sử dụng chi phí quản lý hiệu quả cao
nhất. Tiêu chuẩn xem xét yêu cầu này là mối tương quan giữa chi phí dự định bỏ ra và kết
quả sẽ nhận được.
- Phải phối hợp cả hai yếu tố ổn định và biến đổi: bộ máy quản lý cần phải duy trì một số
lượng cần thiết các bộ phận chuyên môn hóa theo chức năng trong một thời gian nhất
định (cơ cấu phải được thiết kế và thực hiện cho một thời gian dài, chỉ nên thay đổi khi
nào thực sự cần thiết do đòi hởi từ mục tiêu quản lý). Tuy nhiên do sự thay đổi của nhiệm
vụ phát triển kinh tế và sản xuất kinh doanh, bộ máy quản lý kinh tế phải từng bước hoàn
thiện cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động. Yêu cầu này cũng chính là đòi hỏi về
tính linh hoạt (Cơ cấu tổ chức quản lý kinh tế phải có khả năng thích ứng với bất kỳ tình
huống nào xảy ra trong hệ thống và ngoài môi trường).
- Phải đảm bảo yêu cầu chuyên môn đối với người quản lý: thành phần tạo nên cơ cấu tổ
chức chính là con người nên chất lượng của cơ cấu tổ chức phụ thuộc vào trình độ
chuyên môn và kinh nghiệm của những người quản lý này. Vì thế phải lựa chọn để bố trí
sắp xếp các chuyên gia thành thạo trong các chuyên môn nhất định vào các bộ phận
tương ứng của bộ máy quản lý các cấp.
2.3.2.2. Chức năng thiết lập mối quan hệ trong cơ cấu tổ chức
Với tư cách là hình thức phân công nhiệm vụ trong quản lý kinh tế, cơ cấu tổ chức
quản lý tác động trực tiếp đến quá trình hoạt động của hệ thống. Một mặt nó phản ánh cơ
cấu trách nhiệm của mỗi người, mỗi bộ phận trong hệ thống, mặt khác cơ cấu này có tác
động trở lại đối với việc phát triển của hệ thống. Chính vì vậy, việc hoàn thiện cơ cấu tổ
chức quản lý kinh tế phải đảm bảo kết hợp chặt chẽ giữa các cá nhân, các cấp, các khâu
quản lý. Tức là kết hợp hữu hiệu hành động theo cả chiều dọc và chiều ngang với số
lượng khâu, cấp quản lý là ít nhất có thể.
Nếu chức năng xây dựng cơ cấu tổ chức bao gồm công tác chỉnh đốn các phân hệ
kỹ thuật, kinh tế và tổ chức của hệ thống bị quản lý ở các cấp thì chức năng thiết lập mối
quan hệ trong tổ chức sẽ bao gồm việc xác định những công việc quản lý cần được thực
hiện để hoàn thành những nhiệm vụ đề ra trong kế hoạch như: thiết kế quá trình quản lý,

10
phân chia công việc, quy định quyền hạn và nghĩa vụ của mỗi người, xác định tính chất
của các mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận và trong nội bộ từng bộ phận nhằm mục
đích đảm bảo một sự hợp tác có hiệu quả.
Yêu cầu đối với việc thực hiện chức năng thiết lập mối quan hệ trong cơ cấu tổ
chức là:
- Đảm bảo tốt sự phối hợp các hoạt động và nhiệm vụ của tất cả các bộ phận trong
hệ thống trên cơ sở bảo đảm tính chính xác của tất cả các thông tin được sử dụng trong hệ
thống.
- Mỗi cán bộ một cấp hoặc một khâu quản lý nào đó có thể độc lập giải quyết công
việc thuộc phạm vi chức năng của mình.
- Đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ giữa các bộ phận và với hệ thống bên ngoài.
- Bên cạnh việc phân phối và cụ thể hóa các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn phù
hợp với số lượng nhân sự của từng bộ phận, cần xây dựng điều lệ, thủ tục, quy tắc, lề lối
làm việc nhằm đảm bảo các bộ phận dễ dàng phối hợp để đạt hiệu quả cao.
Thực hiện tốt yêu cầu này sẽ giúp cơ cấu quản lý có tính năng động cao, luôn luôn
đi sát và phục vụ lợi ích của hệ thống kinh tế.
2.4. Chức năng lãnh đạo
2.4.1. Bản chất của chức năng lãnh đạo
Nếu chỉ dừng lại ở việc dự báo các quy trình, hiện tượng kinh tế có thể xảy ra
trong tương lai và lập kế hoạch phát triển kinh tế cùng việc hình thành cơ cấu tổ chức và
mối quan hệ giữa chúng mà không đưa các yếu tố này vào vận hành trong thực tiễn thì
không thể thực hiện được mục tiêu của quản lý kinh tế. Vì vậy, công việc tiếp theo phải
thực hiện sau chức năng hoạch định và tổ chức đó là thông qua các cách thức, nghệ thuật
khác nhau điều hành cơ cấu tổ chức nhằm hiện thực hóa chức năng hoạch định của quản
lý kinh tế. Đó chính là chức năng lãnh đạo. Từ đó có thể hiểu: lãnh đạo là cách thức,
nghệ thuật tác động của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý (tập thể và người lao
động). Nó bao gồm các hoạt động chỉ huy, phối hợp, liên kết các bộ phận và chủ thể sản

11
xuất, kinh doanh trong nền kinh tế cũng như nội bộ một doanh nghiệp để thực hiện kế
hoạch đã xây dựng.
Trong quản lý nói chung, dù chức năng họach định và tổ chức được thực hiện tốt
đến đâu nhưng không có sự lãnh đạo thì không thể chuyển biến được sự vật hiện tượng.
Xét riêng trong quản lý kinh tế, nếu đã xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và tổ
chức tốt bộ máy quản lý nhưng không có sự lãnh đạo thì mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền
vững gắn với bảo đảm công bằng xã hội cũng sẽ không thể trở thành hiện thực.
Như vậy nếu chức năng hoạch định là xác định nhiệm vụ, mục tiêu, phương pháp
và phương tiện nhằm đạt mục tiêu quản lý và chức năng phối hợp là thiết lập bộ máy
quản lý với nhiều bộ phận được chuyên môn hóa cùng những mối quan hệ với giữa các
bộ phận đó thì chức năng lãnh đạo là quá trình ra quyết định và tổ chức thực hiện các
quyết định quản lý kinh tế. Đó là quá trình chủ thể quản lý sử dụng quyền lực quản lý tác
động lên hành vi của các đối tượng quản lý một cách có chủ đích để họ tự nguyện và
nhiệt tình phấn đấu đạt được các mục tiêu đã đề ra của hệ thống. Chức năng này có vai
trò phối hợp, liên kết các chức năng khác của quản lý.

2.4 2. Nội dung của chức năng lãnh đạo


Trong quản lý kinh tế, để thực hiện chức năng lãnh đạo, chủ thể quản lý phải thực
hiện hai nhiệm vụ chính là ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định đó”
2.4.2.1. Chức năng ra quyết định:
Nếu xét về mối quan hệ trong hệ thống quản lý nói chung cũng như quản lý kinh
tế nói riêng thì chủ thể quản lý là người điều khiển và đối tượng quản lý là người chịu sự
điều khiển. Muốn quản lý thì phải điều khiển và để điều khiển thì phải ra quyết định. Tùy
từng theo mức độ đơn giản hay phức tạp của vấn đề quyết định mà số lượng và trình tự
các bước là khác nhau nhưng thông thường thì chức năng này được được thực hiện thông
qua ba bước chính là phát hiện vấn đề, chuẩn bị quyết định và ra quyết định. Bên cạnh
đó, nội dung quyết định cũng có sự khác nhau giữa quản lý nhà nước và quản lý hoạt
12
động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở nhưng về cơ bản, nội dung của
quyết định tập trung vào việc trả lời những câu hỏi về:
- Các hoạt động kinh tế phải tiến hành
- Chủ thể thực hiện hoạt động kinh tế và nhiệm vụ, quyền hạn của họ
- Phương pháp, phương tiện, thời gian, địa điểm tiến hành các hoạt động kinh tế
- Triển vọng và hậu quả có thể có của quyết định
- Phương án xử lý các trường hợp cản phá, chống đối quyết định.
Ra quyết định là công việc thường xuyên, hàng ngày của nhà quản lý các cấp.
Chức năng này có vai trò quyết định đến sự tồn tại, phát triển của hệ thống kinh tế tương
ứng bởi nếu quyết định đúng sẽ đem lại hiệu quả, niềm tin, sự ổn định và phát triển,
ngược lại nếu quyết định sai sẽ gây tổn thất, giảm sút hoặc mất niềm tin, kìm hãm sự phát
triển của hệ thống kinh tế đó. Nói một cách cụ thể hơn: nếu ra quyết định đúng, đảm bảo
yêu cầu sẽ tạo ra tầm nhìn chiến lược cho các nhà quản lý kinh tế, giúp họ trả lời chính
xác nên đầu tư vào những lĩnh vực nào, sản xuất - kinh doanh sản phẩm gì, đâu là thị
trường nên tham gia,…để đạt được hiệu quả cao về kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó cũng sẽ
giảm những bất trắc và hạn chế các hoạt động trùng lắp, gây lãng phí cho các chủ thể
kinh tế do thiếu sự tính toán, sắp đặt từ trước.
Việc ra quyết định luôn gắn liền với quyền hạn và trách nhiệm của các cấp quản lý
và được thực hiện trực tiếp hoặc thông qua ủy quyền. Trường hợp trực tiếp ra quyết định
là người lãnh đạo căn cứ vào quyền hạn của mình để tự đưa ra các quyết định quản lý và
chịu trách nhiệm về quyết định đó. Trường hợp ủy quyền là việc người lãnh đạo cấp trên
cho phép cán bộ cấp dưới ra quyết định về những vấn đề thuộc quyền hạn quản lý của
mình trong khi lãnh đạo cấp trên vẫn phải chịu trách nhiệm về các quyết định đó. Lãnh
đạo cấp trên có thể ủy quyền theo một trong hai hình thức: ủy quyền chính thức (thể hiện
rõ ràng trong sơ đồ cơ cấu tổ chức quản lý) và ủy quyền không chính thức (thông qua sự
tín nhiệm cá nhân, người lãnh đạo tổ chức ký quyết định cho cấp dưới về quyền hạn và
trách nhiệm nào đó). Hiện nay, trường hợp ủy quyền đang trở nên ngày càng phổ biến bởi
nó được coi là một công cụ sắc bén của quản lý và là phong cách lãnh đạo dân chủ.

13
Để thực hiện tốt chức năng ra quyết định, nhà quản lý phải có quyền uy, phát huy
được quyền lực quản lý của mình. Tức là phải tận dụng được mức độ, phạm vi chi phối
và khống chế cho phép của các cán bộ quản lý và lãnh đạo đối với con người và phạm vi
nhất định trong hệ thống, tránh được tình trạng quyền lực quản lý giả tạo hoặc quyền lực
không tương xứng với trách nhiệm và nghĩa vụ quản lý cũng như tình trạng quyền lực
không gắn với lợi ích tương ứng.
2.4.2.2. Chức năng tổ chức thực hiện quyết định
Mỗi cấp trong hệ thống quản lý có quyền lực quản lý khác nhau và đóng góp vai
trò khác nhau song họ đều phải cùng hướng tới thực hiện các quyết định quản lý một
cách tốt nhất thông qua việc tổ chức, tập hợp, rèn luyện và lôi kéo mọi người trong hệ
thống liên kết chặt chẽ nhằm tạo sức mạnh và thực hiện thành công hoạch định của hệ
thống. Cũng như khi ra quyết định, tùy vào mức độ phức tạp của quyết định quản lý mà
việc tổ chức thực hiện nó sẽ trải qua số lượng và trình tự tiến hành tương ứng nhưng nhìn
chung chức năng này đều bắt đầu bằng việc truyền đạt quyết định. Tiếp đó là lập kế
hoạch và bố trí nguồn lực thực hiện quyết định; Và cuối cùng là kiểm tra, đánh giá, điều
chỉnh và tổng kết việc thực hiện quyết định quản lý kinh tế, Thực hiện tốt các công việc
trên nghĩa là đảm nhận tốt các nội dung của chức năng bao gồm:
- Phối hợp, liên kết các bộ phận cấu thành của doanh nghiệp cũng như nền kinh tế nói
chung nhằm tạo ra hoạt động ăn khớp, nhịp nhàng giữa các bộ phận đó.
- Phân công công việc, bố trí con người vào các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh; đồng thời
liên kết họ trong một chỉnh thể.
- Kết hợp các yếu tố tài chính, lao động, kỹ thuật, công nghệ, nguyên vât liệu,… để tiến
hành sản xuất, kinh doanh với hiệu quả cao nhất.
- Hướng dẫn các cơ quan quản lý và những người dưới quyền thực hiện các quyết định
quản lý kinh tế, đồng thời dẫn dắt các chủ thể kinh tế khai thác, thâm nhập thị trường và
các lĩnh vực kinh doanh mới.

14
- Tạo ra động lực để khuyến khích các cấp, các ngành và những người lao động phát huy
khả năng sáng tạo để tăng năng suất lao động, tiết kiệm và đạt hiệu quả cao trong hoạt
động kinh tế.
Để thực hiện tốt những nội dung trên, bên cạnh quyền uy của mình, nhà lãnh đạo
phải mạnh dạn phân cấp cho người dưới dưới quyền trên cơ sở phân định rõ ràng trách
nhiệm, quyền hạn và quyền lợi của mỗi người. Bên cạnh đó, họ phải thông đạt được
chính xác quyết định quản lý, bao gồm nội dung, mục tiêu, yêu cầu và các định mức cần
thiết; phải kết hợp các phương pháp hành chính, kinh tế và giáo dục, động viên trong hoạt
động điều khiển. Đối với các hoạt động điều khiển mang tính tác nghiệp thì ngoài những
kiến thức kinh tế và năng lực tổ chức, điều hành, nhà quản lý phải có tác phong linh hoạt,
nhạy bén trong việc phán đoán và xử lý tình huống để kịp thời đối phó với mọi tác động
từ môi trường bên ngoài làm cản trở sự phát triển của đơn vị kinh tế cơ sở.
2.5. Chức năng kiểm soát
2.5.1. Bản chất của chức năng kiểm soát
Trong quá trình phát triển kinh tế nói chung và hoạt động sản xuất kinh doanh của
từng đơn vị cơ sở nói riêng đều có thể xảy ra sai sót, nhầm lẫn hay sai phạm từ nhiều
khâu, nhiều yếu tố, nhiều người trong hệ thống hoặc gặp những vấn đề khác dẫn đến ách
tắc, gây ảnh hưởng đến việc hoàn thành kế hoạch, mục tiêu. Chính vì vậy, các chủ thể
quản lý kinh tế cần phải theo dõi, xem xét hướng, tiến độ và kết quả thực hiện kế hoạch
nhằm tránh những sai sót, nhầm lẫn để kịp thời ngăn chặn những sai phạm cũng như tìm
ra nguyên nhân để có biện pháp khắc phục tình trạng đó đồng thời điều chỉnh những yếu
tố bất hợp lý. Vậy, có thể hiểu: chức năng kiểm soát là việc căn cứ vào kế hoạch và
mục tiêu để theo dõi, xem xét và đánh giá công việc có được thực hiện đúng và tốt
không đồng thời chỉ ra ưu điểm để phát huy, khuyết điểm để khắc phục.
Rõ ràng cách hiểu trên không chỉ đề cập đến sự kiểm soát của nhà lãnh đạo mà
trong hệ thống phải luôn có sự kiểm soát lẫn nhau, giữa cấp trên với cấp dưới, thậm chí
cả việc tự kiểm soát. Kết quả của quá trình kiểm soát cho phép các chủ thể quản lý tự
đánh giá lại mình sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh, từ đó có phương án hoàn thiện

15
chất lượng trong quản lý để đạt chất lượng cao hơn. Như vậy, kiểm soát là yêu cầu khách
quan và là một chức năng không thể thiếu của quản lý kinh tế. Nếu làm tốt chức năng
này, toàn bộ đội ngũ mới có thể cùng tiến bộ và mục tiêu của hệ thống mới được thực
hiện. Hay nói khác, nhờ chức năng này mà các quá trình kinh tế được duy trì ổn định và
có cơ hội để phát triển.
2.4.2. Nội dung của chức năng kiểm soát
Mặc dù là cần thiết và mục đích hướng tới là đề phòng, ngăn chặn hậu quả do
nhầm lẫn, sai sót, sai lầm của hệ thống nhằm giảm thiểu những thiệt hại do bị chệch
hướng song ở một khía cạnh hay chừng mực nào đó, chức năng kiểm soát có gây tốn kém
về thời gian, công sức và tiền của của hệ thống. Thậm chí các công viêc này còn có thể
gây phiền hà, ảnh hưởng đến niềm tin của các thành viên trong hệ thống khi cho rằng
không tin tưởng nhau mới phải kiểm soát. Đặc biệt, nếu không đươc triển khai đồng bộ
cũng có thể dẫn đến tình trạng phản tác dụng. Bên cạnh đó, những phát hiện về sự lệch
lạc, chệch hướng hay không hợp lý nếu không được điều chỉnh phù hợp và hiệu quả cũng
sẽ để lại hậu quả khôn lường cho hệ thống. Chính vì vậy, Công việc kiểm tra phải bao
quát tất cả các cấp các ngành, các thành phần kinh tế và xuyên suốt từ khâu đầu đến khâu
cuối của quá trình tái sản xuất mở rộng trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế cũng như các
đơn vị kinh tế cơ sở và trong việc điều chỉnh phải ra các quyết định điều chỉnh phù hợp
sao cho không làm cản trở đến hoạt động kinh tế, nhất là đối với các đơn vị kinh tế cơ sở,
mặt khác, vẫn theo sát tình hình phát triển kinh tế của các địa phương, ngành kinh tế và
tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Để đáp ứng những yêu cầu trên, trong quản lý kinh tế phải lựa chọn kỹ lưỡng, cẩn
trọng các nội dung, phương pháp kiểm kiểm tra và điều chỉnh. Những nội dung đó bao
gồm:
2.4.2.1. Chức năng kiểm tra
Mục đích của việc kiểm tra là việc quan sát hệ thống nhằm phát hiện sự sai lệch
của thực tế so với kế hoạch, từ đó có giải pháp điều chỉnh sao cho có thể có quyết định và
bước đi đúng đắn nhất….Đặc biệt là trong quản lý kinh tế vĩ mô, việc sẽ giúp nhà nước

16
thực hiện được mục đích thiết lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế, phát hiên và
ngăn ngừa các hiện tượng vi phạm pháp luật hoặc các chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia
và lợi ích của nhân dân, góp phần tăng trưởng kinh tế và từng bước thực hiện công bằng
xã hội. Nội dung chức năng kiểm tra bao gồm:
- Kiểm tra việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước nhằm
hướng các hoạt động kinh tế theo đúng quỹ đạo, đồng thời đảm bảo quyền tự chủ
sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế sơ sở.
- Kiểm tra việc thực hiện nội quy, quy định do địa phương, đơn vị kinh tế đề ra,
nhằm phát hiện lệch lạc, qua đó lập lại kỷ cương đối với hoạt động của các bộ
phận, các tập thể và từng người lao động.
- Kiểm tra tiến độ thực hiện công việc trên cơ sở các định mức về thời gian và về
kinh tế - kỹ thuật đã đề ra.
- Kiểm tra hiệu quả của việc quản lý và sử dụng các nguồn tài nguyên, lao động,
tiền vốn, công nghệ trong phát triển kinh tế và sản xuất kinh doanh.
- Kiểm tra tình hình phân phối sản phẩm, quyền lợi của người lao động cũng như
chế độ an toàn lao động trong phạm vi doanh nghiệp.
- Kiểm tra tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước, các cam kết và
hợp đồng kinh tế đối với bên ngoài.
2.4.2.2. Chức năng điều chỉnh
Cũng như trong quản lý nói chung, kế hoạch, quyết định quản lý kinh tế và quá
trình thực hiện chúng không phải khi nào cũng chính xác và đem lại hiệu quả. Nghiêm
trọng hơn là khi có sự bất hợp lý hoặc sai lầm nhưng không được xử lý, khắc phục sẽ dẫn
đến hậu quả khó lường. Vì vậy không thể không thực hiện việc điều chỉnh. Điều chỉnh là
để khắc phục ách tắc, trì trệ của hệ thống, khơi thông môi trường hoạt động trong nội bộ
và đối ngoại, sử dụng các tiềm năng chưa được khai thác, nắm bắt thời cơ và tận dụng lợi
để thúc đẩy sự phát triển của hệ thống kinh tế. Đây là chức năng luôn gắn liền với chức
năng kiểm tra và phụ thuộc rất nhiều vào chức năng này. Nó bao gồm hai nội dung chính:

17
- Điều chỉnh, điều tiết và uốn nắn những sai sót, sai lầm, sự mâu thuẫn, vi phạm hay
rối loạn trong các quá trình hoạt động hoặc phát triển kinh tế để các quá trình đó
trở lai bình thường và có hiệu quả.
- Ra các quyết định bổ sung đối với những vấn đề mới nảy sinh mà bản thân kế
hoạch chưa lường hết được.
Để thực hiện tốt chức năng điều chỉnh này, đòi hỏi nhà quản lý các cấp
phải nhạy bén và không bảo thủ đồng thời thực hiện tốt các nguyên tắc như: Chỉ
điều chỉnh nếu thực sự thấy cần thiết, để đảm bảo tính ổn định cho hệ thống phát
triển, giữ gìn lòng tin của các cá nhân và tập thể; Điều chỉnh đúng mức độ, tránh
vội vã, nôn nóng hoặc tùy tiện, thiếu tổ chức đồng thời phải xem xét kỹ đến hậu
quả của điều chỉnh.
Nhìn chung, trong bốn chức năng trên, mỗi chức năng trên có bản chất, vai trò,
nội dung và yêu cầu thực hiện riêng, nhưng chúng cùng nhau tạo thành một chỉnh thể
thống nhất, trong đó từng chức năng vừa có tính độc lập tương đối, vừa có mối quan hệ
phụ thuộc vào các chức năng khác. Nghĩa là không những không độc lập hoàn toàn mà
ngược lại, cho dù phân loại theo tiêu thức nào, các chức năng tương ứng của quản lý kinh
tế đều có mối quan hệ chặt chẽ thông qua vai trò tạo tiền đề và tác động tương hỗ lẫn
nhau. Việc bỏ qua hoặc coi nhẹ bất cứ chức năng nào trong các chức năng trên đều ảnh
hưởng tiêu cực (thậm chí ở mức nghiêm trọng) tới thành công của công tác quản lý kinh
tế. Chính vì vậy trong thực tế quản lý nói chung và quản lý kinh tế nói riêng, các chức
năng đều được thực hiện một cách đồng thời, đan xen thông qua các cách thức phối kết
hợp nhằm đem lại hiệu lực và hiệu quả cao nhất.

18
Tài liệu tham khảo
- Bùi Hữu Đức, Phạm Trung Tiến (2013), Giáo trình Khoa học quản lý, NXB Giáo dục
Việt Nam
- Nguyễn Thị Ngọc Huyền, Đoàn Thị Thu Hà, Đỗ Thị Hải Hà (2016) Giáo trình Quản lý
học, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân
- Mai Hữu Khuê, (1998), Cơ sở khoa học của quản lý kinh tế (Tập 2), NXB THCN và
dạy nghề
- Nguyễn Đức Lợi (2008), Giáo trình Khoa học quản lý, Học viện Tài chính, NXB Tài
chính
- Nguyễn Văn Sáu (2011), Giáo trình Quản lý kinh tế, Học viện chính trj quốc gia HCM,
NXB Chính trị quốc gia
- Nguyễn Hồng Sơn, Phan Huy Đường (2013), Giáo trình Khoa học quản lý, NXB Đại
học Quốc Gia Hà Nội
-Đoàn Phúc Thanh (2000), Nguyên lý quản lý kinh tế, Học viện CTQG Hồ Chí Minh,
NXB Chính trị quốc gia.
- Đoàn Phúc Thanh (2000), Nguyên lý quản lý kinh tế, Học viện CTQG Hồ Chí Minh,
NXB Chính trị quốc gia.
- Đõ Hoàng Toàn (1997), Giáo trình Lý thuyết quản lý, Đại học Kinh tế quốc dân, NXB
Giáo dục

19

You might also like