Professional Documents
Culture Documents
Chuong 5 CN Truy Nhap Quang
Chuong 5 CN Truy Nhap Quang
Các mạng PON vẫn tiếp tục phát triển để đáp ứng các yêu cầu về băng thông
và khoảng cách phục vụ. Chương này sẽ đề cập đến xu hướng phát triển tiếp theo
của PON. Một số kỹ thuật tiềm năng có thể được sử dụng trong các chuẩn PON
tương lai cũng sẽ đề cập ở chương này.
Hình 5-1 Các giai đoạn phát triển của mạng PON
Các yêu cầu đối chung với NG-PON1 bao gồm: dung lượng tổng của hệ
thống lớn hơn, băng thông cho mỗi thuê bao lớn hơn, vùng phục vụ rộng hơn và
phục vụ được nhiều thuê bao hơn. NG-PON1 phải sử dụng được ODN của mạng
GPON hiện tại để giảm thiểu chi phí. Bên cạnh đó, do trong một thời gian dài nữa,
nhu cầu về lưu lượng đường xuống vẫn lớn hơn rất nhiều so với nhu cầu lưu lượng
đường lên, nên FSAN đã định nghĩa NG-PON1 là một hệ thống 10 Gbit/s bất đối
xứng: 10 Gbit/s cho đường xuống và 2.5 Gbit/s cho đường lên. Công nghệ sử dụng
cho NG-PON1 về căn bản vẫn là TDM-PON được phát triển lên từ công nghệ đã sử
dụng cho GPON.
5.2.1 WDM-PON
a. Khái quát về WDMA-PON
Trong công nghệ WDMA-PON, OLT sẽ sử dụng riêng biệt từng cặp bước
sóng, trong đó một bước sóng cho truyền dẫn hướng lên và một bước sóng cho
truyền dẫn hướng xuống để kết nối với mỗi ONU về mặt logic giống như kết nối
điểm-điểm. Nói cách khác, công nghệ WDM được sử dụng thay cho công nghệ
TDMA để thực hiện ghép kênh tín hiệu của các thuê bao vào mạng PON. Với
Lưới bước sóng WDM đã được ITU-T chuẩn hóa đầu tiên là để sử dụng cho
mạng lõi và mạng metro quang. Sau này, mạng WDM-PON cũng sử dụng lưới bước
sóng này (minh họa trên hình 5-3). Lưới bước sóng CWDM có khoảng cách 20 nm
giữa các kênh bước sóng. Với DWDM, khoảng cách giữa các kênh thường được
tính theo tần số thay cho bước sóng. Trong khuyến nghị ITU-T G.694.1 qui định cả
khoảng cách kênh 50 GHz và 100 GHz cho DWDM. Nếu toàn bộ dải bước sóng
dùng các kênh có khoảng cách 50 GHz thì sẽ có 1000 kênh bước sóng. Tuy nhiên,
chỉ có vùng bước sóng 1539-1582 nm là vùng thích hợp nhất cho truyền dẫn hướng
lên vì vùng này có suy hao thấp, công nghệ nguồn quang ở vùng bước sóng này
cũng đã rất phát triển, và hơn nữa, vùng này thích hợp cho việc sử dụng EDFA.
Khi sử dụng công nghệ DWDM cần phải lưu ý rằng, bước sóng phát ra của
laser thay đổi theo nhiệt độ. Do đó, để duy trì bước sóng phát ra của laser nằm trong
giới hạn của kênh cần phải sử dụng các phần tử làm mát để ổn định nhiệt độ cho
laser. Ðối với các laser ở OLT, ổn định nhiệt độ không phải là vấn đề vì các OLT
thường được đặt tại trạm trung tâm nên mức độ dao động nhiệt độ tại đây không
nhiều. Hơn nữa, đường xuống cũng cần nhiều băng thông hơn nên công nghệ
DWDM sẽ được lựa chọn cho tín hiệu đường xuống. Với các thiết bị ONU, do các
thiết bị này nằm ở mạng ngoại vi nên các nguồn laser tại ONU sẽ chịu tác động của
thay đổi nhiệt độ khá lớn. Ổn nhiệt cho các nguồn laser này sẽ cần chi phí khá lớn.
Ðể giảm bớt chi phí, công nghệ CWDM sẽ được dùng cho tín hiệu đường lên (vì
Hình 5-3 Lưới bước sóng của ITU-T qui định cho WDM
Ðể gửi tín hiệu đường lên, bộ điều chế cho phép tín hiệu sóng mang đi vào
RSOA, tại đây tín hiệu được khuếch đại khi phản xạ qua lại vùng tích cực của
RSOA. Các thử nghiệm gần đây cho thấy rằng có thể đạt được tốc độ truyền dẫn
đường lên là 2.5 Gbit/s với tỷ số phân biệt là 8 dB và độ thiệt thòi là 2 dB cho tuyến
truyền dẫn sợi quang dài 20 km tại bước sóng 1550 nm.
Giải pháp sử dụng tín hiệu đường xuống để điều khiển bước sóng phát ra của
laser ONU cũng tương tự như giải pháp phản xạ. Ví dụ như chèn tín hiệu đường
xuống vào laser VCSEL sẽ làm cho đầu ra của VCSEL bị khóa theo bước sóng
giống như bước sóng của tín hiệu đường xuống.
Ngoài các vấn đề liên quan đến ONU, một thách thức nữa đối với mạng
WDM-PON là phải tạo ra được các bộ lọc bước sóng có giá thành không cao. Công
nghệ cách tử mảng ống dẫn sóng (AWG) được lựa chọn để làm các bộ lọc này.
AWG là thiết bị thụ động, ít bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ nên phù hợp để sử dụng
trong môi trường mạng ngoại vi. Có thể thực hiện dựa trên công nghệ silica-on-
5.2.2 CDMA-PON
Công nghệ CDMA cũng có thể được sử dụng trong mạng PON. Một trong
các ưu điểm của CDMA-PON là mỗi ONU có thể sử dụng cho tín hiệu có tốc độ và
định dạng khác nhau tương ứng với tín hiệu client được gửi đến từ phía thuê bao.
CDMA quang cũng có thể sử dụng kết hợp với WDM để tăng băng tần cho mạng.
Trên hình 5-6 minh họa nguyên lý hoạt động của CDMA-PON. Bộ mã hóa
và bộ giải mã có thể sử dụng cùng một cách thực hiện. Tín hiệu được đưa vào một
đầu của bộ lọc. Khi tín hiệu truyền đi qua bộ lọc, cách tử sẽ tạo nên sự giao thoa
giữa các tín hiệu khi chúng bị phản xạ. Kết quả là khi tín hiệu phản xạ trở lại và đi
ra khỏi đầu ra của bộ lọc đã bị thay đổi cả về pha và biên độ so với tín hiệu ban đầu
với mức độ trải rộng của ký hiệu phụ thuộc vào thời gian tín hiệu đi qua bộ lọc. Tại
bộ mã hóa, ký hiệu đầu vào, vì vậy được chuyển đổi thành ký hiệu trải phổ. Tại bộ
5.2.3 OFDM-PON
Nguyên lý cơ bản của OFDM là chia băng tần sắn có thành nhiều khe tần số
có một phần chồng lên nhau. Tần số trung tâm của mỗi khe này được gọi là tần số
sóng mang phụ và bị chồng lên nhau được tính toán sao cho không có sự xuyên
nhiễu giữa các khe tần số. Thông thường, tần số trung tâm của các khe tần số (tức là
sóng mang phụ) được chọn như sau:
fn = n/T, (n = 1, 2, 3,….N)
trong đó T là chu kỳ ký tự của mỗi sóng mang phụ.
Sử dụng kỹ thuật ghép kênh OFDM sẽ làm giảm ảnh hưởng của tán sắc CD
và tán sắc PMD lên tín hiệu. Ưu điểm khác nữa của OFDM là có thể thực hiện tại
thiết bị phát dựa trên kỹ thuật FFT sử dụng DSP. Phương pháp FFT cho phép dạng
điều chế tín hiệu tương thích với từng thuê bao. Ví dụ, điều chế M-QAM có thể sử
dụng trên sóng mang phụ, trong đó giá trị M được chọn tùy theo yêu cầu về chất
lượng của khe tần số đó.
Như đã đề cập đến ở trên, mỗi sóng mang phụ sẽ tạo ra một kênh truyền dẫn
độc lập giữa OLT và ONU. Khi kết hợp với TDMA, một sóng mang phụ có thể
được dùng chung cho nhiều ONU. Hơn nữa, hiệu quả băng tần cũng có thể được
tăng thông qua việc gán động các khe thời gian TDMA và các sóng mang OFDM
cho các ONU trong mạng PON. Ví dụ về việc phân bổ các khe thời gian và sóng
mang phụ được minh họa trên hình 5-8.
Hình 5-9 Phân bổ băng tần OFDMA cho các ONU trong khung OFDMA
Cũng giống như các giao thức PON khác, OLT sẽ phân bổ tần số và khe thời
gian cho ONU. Thông tin này được tải trong phần mào đầu của tín hiệu đường
xuống. Với truyền dẫn hướng lên, mỗi ONU sẽ tạo ra một tín hiệu OFDM dựa trên
các sóng mang được phân bổ cho nó.
Vì các tín hiệu OFDMA không bị ảnh hưởng của PMD nên có thể kết hợp
với các kỹ thuật trong miền quang khác như ghép kênh theo phân cực để tăng hiệu
quả sử dụng băng tần của sợi quang. Các hệ thống metro và các hệ thống đường trục
sử dụng bộ thu coherent để thu được tín hiệu phân cực. Tuy nhiên, các công nghệ
này quá đắt trong mạng PON nên ONU thường sử dụng thu trực tiếp với ưu điểm là
thực hiện đơn giản và chi phí thấp.
Một ưu điểm khác của OFDMA là các ONU có thể sử dụng cùng một bước
sóng do sử dụng các sóng mang hoặc các khe thời gian khác nhau. Sử dụng một
bước sóng sẽ giúp loại bỏ được các vấn đề của WDMA ONU “colorless”. Sử dụng
chung một bước sóng cho đường lên, tuy nhiên đòi hỏi OLT phải sử dụng kỹ thuật
thu coherent để tránh giao thoa giữa các tín hiệu hướng lên do các ONU gửi đến.
Cần lưu ý rằng, các bộ thu coherent yêu cầu nguồn quang phải phát ra bước sóng
chính xác. Ðiều này không thể thực hiện tại ONU vì ONU không được ổn định
nhiệt độ. Cũng có thể sử dụng OLT để gửi bước sóng cho ONU (như đề cập đến
trong phần 5.2.1.b), lúc đó trong ONU sẽ không cần phải có nguồn quang.
XG-PON tồn tại cùng với GPON trên cùng một ODN. Như chỉ ra trong các
tiêu chuẩn liên quan đến lớp vật lý của XG-PON, bước sóng dành cho đường xuống
và đường lên của XG-PON khác với GPON. Sự tương thích giữa XG-PON và
GPON đạt được bằng cách sử dụng WDM cho đường xuống và WDMA cho đường
lên, tức là WDM1r được sử dụng tại trạm trung tâm (CO) và WBF được sử dụng tại
phía thuê bao (có thể đặt ngay trong ONU, giữa ONU và bộ chia quang, hoặc đặt
ngay tại bộ chia quang) để thực hiện ghép và tách các kênh bước sóng của các tín
hiệu đường xuống và đường lên. Mạng XG-PON và GPON tồn tại trên cùng một
mạng được minh họa trên hình 5-11.
Hình 5-11 XG-PON và GPON tồn tại trên cùng một mạng nhờ sử dụng WDM1r
Hình 5-13 Mào đầu và cấu trúc khung XGTC đường xuống của XG-PON1
Hình 5-14 Mào đầu và cấu trúc khung XGTC đường lên của XG-PON
Tiếp theo phần mào đầu burst là tải tin XGTC. Lượng dữ liệu gửi đi được
xác định bởi băng tần mà OLT cấp cho đường lên. XGEM được sử dụng để đóng
gói dữ liệu đường lên.
Burst đường lên được kết thúc bởi trailer có độ dài 4 byte chỉ chị kiểm tra lỗi
BIP trên toàn bộ XGTC burst. Trong trường hợp không có FEC, OLT sử dụng
thông tin BIP để ước tính tỷ lệ lỗi đường lên. Khi có FEC, kết quả sau khi đã sửa lỗi
sẽ được sử dụng để ước tính lỗi bit.
b. PtP WDM
PtP WDM cho phép NG-PON2 có thể đáp ứng nhu cầu của các khách hàng
doanh nghiệp và các dịch vụ backhaul. Với PtP WDM, mỗi ONU sẽ được cung cấp
một kênh bước sóng riêng biệt. Trong cấu hình cơ bản sẽ có tối đa 8 kênh PtP
WDM. Tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, nhà mạng sẽ có thể dành thêm các
bước sóng không sử dụng để tăng thêm số lượng kênh PtP WDM. Các ONU sử
dụng trong PtP WDM yêu cầu cũng phải sử dụng các bộ phát quang và thu quang
có giá thành thấp tương tự như trong hệ thống TWDM-PON. Ðiểm khác biệt là các
phần tử này trong PtP WDM hoạt động ở chế độ liên tục còn trong TWDM-PON
hoạt động ở chế độ burst. Tốc độ bit qui định cho PtP WDM nằm trong phạm vi từ
1 đến 10 Gbit/s.
TWDM Băng bước sóng đường lên Băng bước sóng đường xuống
(nm) (nm)
Rộng 1524 - 1544
Rút gọn 1528 - 1540 1596 - 1603
Hẹp 1532 - 1540
PtP WDM Băng tần bước sóng đường xuống/đường lên
(nm)
Phổ dùng chung 1603 - 1625 nm
Phổ mở rộng 1524 - 1625 nm
Theo hướng xuống, các kênh bước sóng được cố định theo lưới bước sóng
100 GHz với tám kênh bước sóng với các tần số từ 187.1 đến 187.8 THz. Theo
hướng lên, khoảng cách kênh có thể là 50, 100, 200 GHz, tuy nhiên không có qui
hoạch kênh cố định được đề xuất cho hướng này vì thiết bị phát của ONU sử dụng
laser có thể điều chỉnh được bước sóng.
Với các kênh PtP WDM, có hai tùy chọn là “phổ dùng chung” và “phổ mở
rộng”. Tùy chọn “phổ dùng chung” được sử dụng trong trường hợp có tất cả các hệ
thống PON cũ (GPON, XG-PON1, và RF video) cùng dùng chung ODN đó. “Phổ
mở rộng” cho phép PtP WDM sử dụng tất cả các bước sóng còn lại trong băng đó.
Hình 5-19 Qui hoạch bước sóng cho NG-PON2 và các công nghệ PON cũ
Loại N1 N2 E1 E2
Suy hao tối thiểu (dB) 14 16 18 20
Suy hao cực đại (dB) 29 31 33 35
5-1 / Trình bày về công nghệ PON miền quang WDMA-PON. Phân tích ưu nhược
điểm của công nghệ này.
5-2 / Trình bày về công nghệ PON miền quang OFDM-PON. Phân tích ưu nhược
điểm của công nghệ này.
5-3 / Trình bày về công nghệ PON miền quang CDMA-PON. Phân tích ưu nhược
điểm của công nghệ này.
5-4 / Trình bày nguyên lý thực hiện colorless-ONU sử dụng nguồn sáng băng rộng.
5-5/ Trình bày nguyên lý thực hiện colorless-ONU sử dụng nguồn laser F-P.
5-6/ Trình bày nguyên lý tái điều chế sóng mang trong mạng WDM-PON?
5-7/ Trình bày yêu cầu chung đối với mạng NG-PON1 và NG-PON2
5-8/ Trình bày kiến trúc mạng và công nghệ sử dụng trong NG-PON1
5-9/ Trình bày kiến trúc mạng và công nghệ sử dụng trong NG-PON 2